GIỚI THIỆU TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Các nghiên cứu công bố ở nước ngoài liên quan
1.1.1 Nội dung các nghiên cứu trước
Các nghiên cứu về các nhân tố tạo ra sự minh bạch thông tin của các công ty niêm yết thường tập trung vào hai nhóm chính: minh bạch thông tin tài chính và minh bạch thông tin quản trị Một số nghiên cứu điển hình đã chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố này và sự minh bạch trong báo cáo của các công ty.
Nghiên cứu của Robert Bushman và cộng sự (2001) đã khảo sát sự khác biệt trong chế độ pháp luật và đặc điểm kinh tế chính trị giữa các quốc gia ảnh hưởng đến tính minh bạch của thông tin tài chính công ty (TTTC) thông qua việc phân tích 41 đến 46 quốc gia Tính minh bạch của TTTC được đo lường qua 5 yếu tố: (1) Mức độ công bố TTTC, (2) Mức độ công bố thông tin quản trị công ty (QTCT), (3) Các nguyên tắc kế toán, (4) Thời gian công bố báo cáo tài chính (BCTC), và (5) Chất lượng kiểm toán các BCTC Kết quả cho thấy cơ chế pháp lý có ảnh hưởng trực tiếp đến minh bạch trong QTCT, trong khi tính minh bạch TTTC chủ yếu liên quan đến chính sách kế toán và quy mô doanh nghiệp Mặc dù nghiên cứu đã xác định các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin và các thước đo để đo lường, nhưng chưa làm rõ mức độ tác động giữa các nhân tố này.
Nghiên cứu của Cheung và cộng sự (2005) đã phân tích tính minh bạch của các công ty niêm yết tại Thái Lan và Hồng Kông, chia thành hai nhóm yếu tố Nhóm yếu tố tài chính bao gồm năm biến: quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, kết quả tài chính, tài sản đảm bảo và hiệu quả sử dụng tài sản Nhóm yếu tố về quản trị công ty gồm ba biến: mức độ tập trung quyền sở hữu, cơ cấu của Hội đồng quản trị và quy mô của Hội đồng quản trị Mẫu khảo sát được thực hiện để thu thập dữ liệu cho nghiên cứu này.
Nghiên cứu đã phân tích 413 công ty niêm yết, trong đó có 265 công ty tại Thái Lan và 148 công ty tại Hồng Kông Kết quả cho thấy Thái Lan có mức độ công bố và tính minh bạch thông tin cao hơn so với Hồng Kông Các yếu tố tài chính như quy mô công ty, hiệu quả sử dụng tài sản, giá trị tài sản đảm bảo và khả năng sinh lợi dài hạn ảnh hưởng đến tính minh bạch tại Hồng Kông, nhưng không tác động đến các công ty ở Thái Lan Ngược lại, quy mô và cơ cấu Hội đồng Quản trị lại ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin ở Thái Lan nhưng không ở Hồng Kông Đặc biệt, tỷ lệ giám đốc điều hành không phải là thành viên của Hội đồng Quản trị có tác động tích cực đến tính minh bạch và mức độ công bố thông tin ở cả hai thị trường Nghiên cứu đã thành công trong việc so sánh mức độ ảnh hưởng của các yếu tố về minh bạch thông tin tài chính giữa hai thị trường này.
Nghiên cứu so sánh TTCK Thái Lan và Hồng Kông, đồng thời phân tích mức độ ảnh hưởng của các nhóm nhân tố đến tính minh bạch của thị trường tài chính Tuy nhiên, nghiên cứu vẫn còn hạn chế do chưa xác định được nguyên nhân giải thích cho các kết quả thu được từ thực nghiệm.
Nghiên cứu về ảnh hưởng của minh bạch thông tin đến hành vi ra quyết định của nhà đầu tư đã có nhiều công trình tiêu biểu trên thế giới theo trình tự thời gian.
Nghiên cứu của Carolyn Streuly (1994) nhằm khám phá mối liên hệ giữa thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) và quyết định đầu tư của nhà đầu tư Qua khảo sát 1.300 chuyên gia phân tích tài chính tại Mỹ, kết quả cho thấy 53% người tham gia đồng ý rằng thông tin trong báo cáo hàng năm đủ để họ đưa ra quyết định đầu tư Nghiên cứu cũng nhấn mạnh tính hữu dụng của BCTC thông qua việc đánh giá nội dung và tính rõ ràng, giúp nhà đầu tư đưa ra quyết định và cung cấp thông tin cho các bên liên quan như ngân hàng và chủ nợ.
Năm 2006, Hsiu JF đã thực hiện nghiên cứu “Effect of financial information transparency on investor behavior in Taiwan stock market” nhằm khám phá mối quan hệ giữa minh bạch thông tin và hành vi của nhà đầu tư tại thị trường chứng khoán Đài Loan Nghiên cứu dựa trên lý thuyết QTCT và xem xét các yếu tố như hiệu quả hoạt động và quyết định của nhà đầu tư, từ đó đề xuất giải pháp tăng cường niềm tin của nhà đầu tư Mô hình nghiên cứu gồm ba biến độc lập: minh bạch cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính và minh bạch cấu trúc hoạt động của Hội đồng quản trị, tác động đến hành vi nhà đầu tư Phương pháp nghiên cứu định lượng được áp dụng thông qua bảng khảo sát 20 câu hỏi với thang đo Likert 9 điểm để đánh giá nhận thức của nhà đầu tư về các yếu tố minh bạch tài chính và hành vi của họ Nghiên cứu sử dụng các kỹ thuật phân tích dữ liệu như thống kê mô tả, độ tin cậy Cronbach’s Alpha, hệ số tương quan, ANOVA và hồi quy đa biến.
Nghiên cứu trên 305 nhà đầu tư tại TTCK Đài Loan cho thấy rằng ba yếu tố minh bạch tài chính, bao gồm minh bạch cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính và minh bạch cấu trúc hoạt động của Hội đồng Quản trị (HĐQT) có mối tương quan tích cực với hành vi của nhà đầu tư, trong đó cấu trúc hoạt động HĐQT ảnh hưởng mạnh nhất Để thiết lập mối quan hệ dài hạn với nhà đầu tư, các công ty nên cung cấp thông tin chi tiết về cấu trúc HĐQT và quy trình họp hội đồng Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra sự khác biệt về nhận thức minh bạch tài chính giữa các nhóm nhân khẩu học, đặc biệt là giữa giới tính và thu nhập, trong khi không có sự khác biệt theo độ tuổi hay kinh nghiệm đầu tư Cụ thể, nhà đầu tư nữ quan tâm nhiều hơn đến minh bạch tài chính, đặc biệt là trong các yếu tố liên quan đến HĐQT và công bố thông tin tài chính.
Năm 2014, nghiên cứu của Torabi R và Aali A về "Tác động của tính minh bạch thông tin tài chính đến hành vi của nhà đầu tư trên sàn giao dịch chứng khoán Tehran" đã sử dụng bảng câu hỏi khảo sát gồm hai phần Phần đầu tiên gồm 14 câu hỏi theo thang đo Likert 7 cấp độ để đánh giá tính minh bạch và hành vi của nhà đầu tư, trong khi phần hai tập trung vào các yếu tố nhân khẩu học như giới tính, tuổi tác và trình độ học vấn Mô hình nghiên cứu được xây dựng dựa trên mô hình của Hsiu JF (2006) với ba biến độc lập: minh bạch cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính và minh bạch cấu trúc hoạt động của HĐQT, BGĐ, ảnh hưởng đến hành vi nhà đầu tư Kết quả cho thấy có sự liên quan giữa ba khía cạnh của tính minh bạch và hành vi nhà đầu tư, đặc biệt là mối quan hệ mạnh mẽ giữa công bố thông tin tài chính và hành vi của nhà đầu tư Nhận thức về tính minh bạch của nhà đầu tư thay đổi tùy theo các yếu tố nhân khẩu học, và nghiên cứu cũng đưa ra các kiến nghị hữu ích cho nhà đầu tư trong việc điều chỉnh hành vi của họ theo điều kiện thị trường chứng khoán.
1.1.2 Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện ở nước ngoài
Các nghiên cứu quốc tế ngày càng hoàn thiện về nội dung và ý nghĩa nhờ vào việc kế thừa và phát huy các nghiên cứu trước đó Thông qua các bằng chứng thực nghiệm, các kết luận đưa ra ngày càng có giá trị Nhìn chung, các nghiên cứu ở nước ngoài có những đặc điểm nổi bật.
Nghiên cứu của Robert Bushman đã mở rộng phạm vi ra nhiều quốc gia theo thời gian, cho thấy sự phát triển và đa dạng trong lĩnh vực nghiên cứu này.
(2001) hay xuyên quốc gia như nghiên cứu của Cheung (2005) thực hiện tại Hồng Kông và Thái Land
Đa số các nghiên cứu trước đây đã khởi xướng nhằm xác định các nhân tố đánh giá mức độ minh bạch và tác động của chúng đến hành vi của nhà đầu tư, tạo cơ sở cho các nghiên cứu tiếp theo Các nghiên cứu ban đầu, như của Carolyn Streuly (1994), chỉ ra rằng thông tin công bố trong báo cáo hàng năm ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư mà chưa phân nhóm các nhân tố Về sau, các nghiên cứu đã hệ thống hóa và làm rõ hơn các nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin và hành vi nhà đầu tư Cụ thể, nghiên cứu của Robert Bushman (2001) và Cheung cùng cộng sự (2005) xác định hai nhóm nhân tố ảnh hưởng đến tính minh bạch thông tin: nhóm tài chính và nhóm QTCT Đồng thời, nghiên cứu của Hsiu JF (2006) và Torabi R cùng Aali A (2014) đã chỉ ra ba khía cạnh của tính minh bạch, bao gồm cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính, và cấu trúc hoạt động của Hội đồng Quản trị, đều có mối tương quan tích cực với hành vi nhà đầu tư.
Phương pháp nghiên cứu chủ yếu được áp dụng trong các nghiên cứu là phương pháp định lượng, kế thừa các kết quả nghiên cứu trước đó Các nghiên cứu này có cỡ mẫu ngày càng mở rộng, như nghiên cứu của Hsiu JF (2006), Cheung và cộng sự (2005), cũng như Torabi R và Aali A (2014).
Mặc dù các nghiên cứu của Hsiu JF (2006) và Torabi R, Aali A (2014) sử dụng cùng một mô hình nghiên cứu, kết quả của chúng lại khác nhau Cả hai nghiên cứu đều chỉ ra rằng các khía cạnh của tính minh bạch thông tin như cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính, và cấu trúc hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc đều có mối tương quan tích cực với hành vi của nhà đầu tư Tuy nhiên, nghiên cứu của Hsiu JF lại đưa ra những điểm khác biệt trong kết quả.
Các nghiên cứu công bố ở trong nước liên quan
1.2.1 Nội dung các nghiên cứu trước có liên quan
Nghiên cứu về tính minh bạch trong thông tin tài chính (TTTC) tại Việt Nam chủ yếu tập trung vào việc xác định các nhân tố ảnh hưởng đến vấn đề này Nghiên cứu của Nguyễn Thị Minh Tâm (2009) đã chỉ ra bốn nguyên nhân chính khiến TTTC chưa đạt yêu cầu: (i) tính minh bạch trong báo cáo tài chính (BCTC) chưa được coi trọng, (ii) quy định về Chuẩn mực kế toán quốc tế chưa được thực hiện đầy đủ, (iii) thiếu quy định rõ ràng về
Nghiên cứu của Nguyễn Đình Hùng (2010) áp dụng phương pháp nghiên cứu suy luận kết hợp với thống kê mô tả để khảo sát các công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM Dữ liệu được thu thập từ các báo cáo tài chính năm 2007 và 2008, từ đó tác giả đã xác định được sáu yếu tố quan trọng.
Hệ thống kiểm soát tác động đến sự minh bạch thông tin tài chính (TTTC) của các công ty niêm yết (CTNY) bao gồm nhiều thành phần quan trọng như hệ thống chuẩn mực kế toán, quy định công bố báo cáo tài chính (BCTC), kiểm soát nội bộ, ban giám đốc, ban kiểm soát và kiểm toán độc lập Tác giả đã thành công trong việc xác định và thống kê các nhân tố ảnh hưởng đến sự minh bạch TTTC của CTNY Tuy nhiên, tác giả chưa làm rõ mức độ tác động và mối quan hệ giữa các nhân tố này, một phần do phương pháp nghiên cứu chủ yếu là định tính, dẫn đến thiếu bằng chứng cụ thể để hỗ trợ các kết luận.
Năm 2015, Lê Thị Mỹ Hạnh trong luận án tiến sĩ “Minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam” đã áp dụng phương pháp nghiên cứu kết hợp định tính và định lượng, khảo sát 178 CTNY trên sàn HOSE từ năm 2011-2012 Kết quả cho thấy tính minh bạch TTTC của các CTNY trên TTCK Việt Nam chỉ đạt mức trung bình khá, với các yếu tố tài chính và quản trị như đòn bẩy tài chính, lợi nhuận, công ty kiểm toán và cơ cấu HĐQT ảnh hưởng đến mức độ minh bạch Tuy nhiên, nghiên cứu chủ yếu tập trung vào các đặc điểm tài chính và quản trị, và mẫu nghiên cứu chỉ đại diện cho các CNTY trên SGDCK TP.HCM, do đó chưa phản ánh toàn diện tình hình minh bạch trên TTCK Việt Nam.
Nghiên cứu của Nguyễn Văn Dần (2012) tập trung vào mối quan hệ giữa sự minh bạch tài chính và hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán (TTCK) Tác giả đã khảo sát nhận thức của nhà đầu tư trên sàn HOSE về các yếu tố liên quan đến minh bạch tài chính, đồng thời xem xét nhân khẩu học và kinh nghiệm của nhà đầu tư Mặc dù nghiên cứu đã chỉ ra phương pháp và quy trình thực hiện, nhưng vẫn chưa làm rõ được mối quan hệ và mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến nhận thức của nhà đầu tư.
Nghiên cứu của Vi Thị Bích Vân (2014) trong luận văn thạc sĩ “Hành vi của nhà đầu tư đối với thông tin kế toán trên BCTC” đã đề xuất một mô hình nghiên cứu kết hợp giữa mô hình thấu kính Brunswik và mô hình hành vi tích hợp Thông qua khảo sát 209 nhà đầu tư cổ phiếu cá nhân tại SDGCK TP.HCM và sử dụng phương pháp nghiên cứu định lượng với phần mềm SPSS 22, kết quả cho thấy có bốn biến độc lập ảnh hưởng đến hành vi sử dụng BCTC: thái độ, môi trường xã hội, năng lực nhận thức và môi trường thông tin Trong đó, thái độ có tác động mạnh nhất, trong khi môi trường thông tin lại có quan hệ nghịch biến với hành vi này Tác giả cũng đề xuất các biện pháp hiệu quả nhằm điều chỉnh hành vi của nhà đầu tư theo hướng tích cực và cải thiện chất lượng thông tin công bố trên TTCK.
Năm 2015, Nguyễn Thị Linh Thu trong luận văn thạc sĩ đã nghiên cứu ảnh hưởng của minh bạch thông tin tài chính đến hành vi của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán TP.HCM Qua phương pháp nghiên cứu định tính kết hợp định lượng với 250 mẫu khảo sát, kết quả cho thấy hành vi của nhà đầu tư bị ảnh hưởng bởi ba nhóm nhân tố: minh bạch cấu trúc quyền sở hữu vốn, công bố thông tin tài chính và minh bạch hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, trong đó yếu tố minh bạch hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc có ảnh hưởng mạnh nhất Tuy nhiên, nghiên cứu cũng chỉ ra rằng không có sự khác biệt trong hành vi của nhà đầu tư theo giới tính, độ tuổi hay trình độ học vấn Mô hình nghiên cứu gặp hiện tượng tự tương quan do hệ số Durbin-Watson nhỏ hơn 1, nguyên nhân có thể do số lượng mẫu hạn chế và phạm vi nghiên cứu chỉ tập trung tại TP.HCM Những hạn chế này có thể ảnh hưởng đến độ tin cậy của kết quả, dẫn đến các kiến nghị và giải pháp chưa chính xác, không gia tăng được niềm tin của nhà đầu tư và không thu hút được vốn đầu tư cho sản xuất kinh doanh.
Năm 2016, Đặng Thị Thúy Hằng trong luận án tiến sĩ đã nghiên cứu "Ảnh hưởng của thông tin kế toán công bố đến quyết định của nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam" bằng phương pháp định tính kết hợp với định lượng Nghiên cứu khảo sát 527 nhà đầu tư và sử dụng phần mềm QSR NVivo 10 cùng SPSS 22 với các kỹ thuật như phỏng vấn sâu và phân tích thống kê Kết quả cho thấy ngoài những yếu tố đã được nghiên cứu trước đây, tác giả đã phát hiện ra các thông tin công bố cụ thể ảnh hưởng đến quyết định của nhà đầu tư, bao gồm kinh nghiệm bản thân, thông tin nội bộ, trang mạng uy tín, dòng tiền, tính thanh khoản, chính sách vĩ mô, sức khỏe doanh nghiệp, tỷ lệ chia cổ tức, ngành nghề kinh doanh và đội lái Nghiên cứu định lượng chỉ ra rằng 11 nhóm thông tin kế toán, đo lường bằng 82 thông tin cụ thể, có ảnh hưởng đến quyết định đầu tư trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
1.2.2 Đánh giá chung về những nghiên cứu đã thực hiện ở trong nước
(1) Các công trình nghiên cứu ở Việt Nam, phần lớn tập trung nghiên cứu ở khía cạnh các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch TTTC như (Nguyễn Đình Hùng,
Mặc dù nhiều tác giả đã nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng đến minh bạch thông tin, nhưng số lượng nhân tố được xem xét vẫn còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào nhóm nhân tố tài chính và quản trị Nhóm nhân tố tài chính bao gồm hiệu quả hoạt động, khả năng thanh toán và đòn bẫy tài chính (Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015) Trong khi đó, nhóm nhân tố quản trị liên quan đến cơ cấu Hội đồng Quản trị (Lê Thị Mỹ Hạnh, 2015).
Nghiên cứu về hành vi ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân dưới ảnh hưởng của minh bạch thông tin tài chính còn hạn chế Các nghiên cứu trước đây chủ yếu tập trung vào phương pháp nghiên cứu hoặc yếu tố hành vi con người mà chưa xem xét tác động của minh bạch thông tin trên báo cáo tài chính Mặc dù nghiên cứu của Nguyễn Thị Linh Thu đã chỉ ra các nhân tố ảnh hưởng của minh bạch thông tin tài chính đến hành vi của nhà đầu tư, nhưng phạm vi nghiên cứu chỉ giới hạn tại TTCK TP.HCM với mẫu nghiên cứu nhỏ, dẫn đến hiện tượng tự tương quan trong dữ liệu Hơn nữa, các yếu tố nhân khẩu học như giới tính, độ tuổi và trình độ học vấn cũng chưa được xem xét, gây hạn chế trong việc hiểu rõ hơn về hành vi của nhà đầu tư.
Ban đầu, các nghiên cứu về mức độ minh bạch thông tin doanh nghiệp ở Việt Nam chủ yếu sử dụng phương pháp nghiên cứu định tính, chỉ dừng lại ở nhận định chủ quan (Nguyễn Thị Minh Tâm, 2009; Nguyễn Đình Hùng, 2010) Tuy nhiên, sau này, nhiều nghiên cứu đã kết hợp thêm phương pháp định lượng, mang lại nhiều bằng chứng thuyết phục hơn về vấn đề này, như nghiên cứu của tác giả Lê Thị Mỹ Hạnh.
Nghiên cứu năm 2015 cho thấy rằng đòn bẫy tài chính, lợi nhuận, công ty kiểm toán và cơ cấu Hội đồng Quản trị (HĐQT) đều có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ minh bạch thông tin tài chính (TTTC) của các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Khe hổng trong nghiên cứu
Nghiên cứu cho thấy có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến mức độ minh bạch thông tin, tập trung chủ yếu vào hai nhóm: nhóm tài chính và nhóm quản trị Trên thế giới, nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng nhận thức của nhà đầu tư về tính minh bạch thông tin có tác động đến hành vi đầu tư (Hsiu JF, 2006; Torabi R và Aali A, 2014) Tuy nhiên, tại Việt Nam, nghiên cứu về nhận thức này còn hạn chế, với dữ liệu chưa hoàn thiện và chưa làm rõ ảnh hưởng của yếu tố nhân khẩu học đến hành vi nhà đầu tư, như nghiên cứu của Nguyễn Thị Linh Thu (2015) Điều này tạo ra khoảng trống cho các nghiên cứu tiếp theo nhằm nâng cao tính minh bạch thông tin tài chính và tác động của nó đến hành vi đầu tư tại thị trường chứng khoán Việt Nam.
Chương này của luận văn tổng hợp các nghiên cứu trước đây về minh bạch trong thị trường tài chính, đồng thời phân tích tác động của minh bạch này đến hành vi của nhà đầu tư.
Luận văn đã phân tích và tổng kết những ưu điểm và hạn chế của các nghiên cứu trước đây về minh bạch thông tin tài chính (TTTC) tại Việt Nam và nước ngoài, đồng thời đánh giá ảnh hưởng của minh bạch TTTC đến hành vi của nhà đầu tư Qua đó, luận văn kế thừa các kết quả nghiên cứu trước và điều chỉnh cho phù hợp với điều kiện kinh tế đang phát triển của Việt Nam, nơi có đặc điểm và văn hóa khác biệt Bên cạnh đó, luận văn cũng xác định các khe hổng nghiên cứu để tiếp tục phát triển đề tài.
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VỀ MINH BẠCH TTTC VÀ HÀNH VI
Một số vấn đề chung về minh bạch TTTC và hành vi ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân
BCTC là báo cáo tổng hợp phản ánh tình hình tài sản, vốn chủ sở hữu và nợ phải trả của doanh nghiệp, cùng với kết quả kinh doanh trong kỳ Đối với nhà đầu tư, BCTC cung cấp thông tin quan trọng về khả năng tài chính, hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh và mức độ rủi ro, từ đó giúp họ đưa ra quyết định đầu tư chính xác.
Trong bối cảnh nền kinh tế phát triển mạnh mẽ, sự xuất hiện của các mô hình tập đoàn kinh tế và tổng công ty đã làm cho BCTC riêng không còn đủ thông tin cần thiết cho nhà đầu tư Thay vào đó, BCTC hợp nhất trở thành lựa chọn ưu việt, cung cấp cái nhìn toàn diện về tình hình tài chính của tập đoàn, bao gồm tài sản, nợ phải trả và nguồn vốn chủ sở hữu Việc công bố BCTC hợp nhất giúp nhà đầu tư nắm bắt được các rủi ro tiềm ẩn từ các công ty con, tránh những bất ngờ không mong muốn vào cuối năm tài chính Bộ Tài chính cũng đã yêu cầu các công ty niêm yết công khai BCTC hợp nhất quý, khẳng định tầm quan trọng của tính minh bạch trong quyết định đầu tư Do đó, cả BCTC riêng và BCTC hợp nhất đều có vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin cho nhà đầu tư.
Khái niệm thông tin tài chính (TTTC) có thể được hiểu khác nhau tùy thuộc vào góc độ nghiên cứu Theo Trần Minh Tuấn và Bùi Thị Thanh (2014), TTTC được định nghĩa là toàn bộ thông tin phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một giai đoạn nhất định, thông qua các báo cáo tài chính (BCTC), bảng kê chi tiết tài sản, và báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh Từ góc độ kế toán, TTTC là thông tin được trình bày trên BCTC, kết quả của quá trình thu thập, xử lý và trình bày các nghiệp vụ kế toán Thông tin tài chính được thể hiện dưới nhiều hình thức như bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, và thuyết minh BCTC.
Thông tin tài chính (TTTC) là tập hợp các dữ liệu liên quan đến dòng tiền, kết quả kinh doanh và tình hình tài chính của doanh nghiệp tại một thời điểm hoặc trong một khoảng thời gian cụ thể, thường được thể hiện qua các mẫu biểu dự báo và bằng đơn vị tiền tệ TTTC thường xuất hiện trên các báo cáo tài chính (BCTC) của doanh nghiệp (Nivra, 2008), và đây cũng là quan điểm của tác giả trong nghiên cứu của luận văn này.
Minh bạch là một khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau tùy thuộc vào ngữ cảnh và góc nhìn Theo từ điển Oxford, "Minh Bạch" được định nghĩa là khả năng cho phép ánh sáng xuyên qua, giúp nhận diện rõ ràng các sự vật hoặc sự việc Nhiều người thường liên tưởng đến sự trong suốt của nước hay thủy tinh Tuy nhiên, trong bối cảnh quản trị doanh nghiệp, "Minh Bạch" được hiểu là sự tự do, chia sẻ thẳng thắn, cởi mở và rõ ràng trong triết lý tổ chức cũng như các quy trình hoạt động.
Theo Anonymous (1999), chất lượng thông tin kinh tế, xã hội và chính trị được đánh giá qua ba tiêu chuẩn: tính kịp thời, độ tin cậy và khả năng tiếp cận Thông tin càng kịp thời, đáng tin cậy và dễ tiếp cận thì càng thể hiện tính minh bạch cao Tính minh bạch này còn được phản ánh qua trách nhiệm giải trình của các bên cung cấp thông tin Hầu hết các nghiên cứu về minh bạch thông tin tài chính đều tập trung vào những khía cạnh này.
2 nội dung chính là chất lượng của thông tin và khả năng tiếp cận đối với thông tin đó Cụ thể như sau:
Theo nghiên cứu của Robert Bushman và cộng sự (2001), minh bạch thông tin tài chính công (TTTC) được đánh giá dựa trên khả năng cung cấp thông tin phù hợp với nhu cầu của các đối tượng liên quan, bao gồm nhà đầu tư và cổ đông bên ngoài Mức độ minh bạch TTTC được đo lường thông qua ba nhóm tiêu chí khác nhau.
Công ty cần tuân thủ các quy định về báo cáo tài chính (BCTC), bao gồm nguyên tắc kế toán, tính kịp thời và chất lượng kiểm toán Đặc biệt, mức độ công khai thông tin liên quan đến quản trị công ty (QTCT) như mức thù lao của các thành viên Hội đồng quản trị (HĐQT) và Ban Giám đốc (BGĐ), cũng như số lượng cổ phần do các cổ đông lớn nắm giữ, là rất quan trọng.
(2) Khả năng đáp ứng được các thông tin đặc thù riêng của doanh nghiệp;
(3) Khả năng tiếp cận thông tin đối với các đối tượng liên quan
Theo nghiên cứu của Blanchet (2002) và Prickett (2002) trích trong Kulzick (2004), chất lượng thông tin được đánh giá dựa trên quan điểm của người sử dụng, trong đó minh bạch thông tin được xác định khi thông tin đáp ứng bảy tiêu chí: tính chính xác, tính nhất quán, tính thích hợp, tính đầy đủ, tính rõ ràng, tính kịp thời và tính thuận tiện.
Theo OECD (2015), trong khuôn khổ quản trị công ty, công bố thông tin (CBTT) cần đảm bảo tính kịp thời và chính xác CBTT phải bao quát tất cả các vấn đề quan trọng liên quan đến công ty, bao gồm tình hình tài chính, hiệu quả hoạt động, sở hữu và quản trị công ty.
Theo Bert J Zarb (2006), để thông tin tài chính kế toán (TTTC) đạt tính hữu ích và kịp thời, cần đảm bảo tính đáng tin cậy, khả năng so sánh, tính nhất quán và minh bạch Để đạt được sự minh bạch trong báo cáo tài chính (BCTC), các thông tin này phải được lập và trình bày theo các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung (GAAP).
Trong nghiên cứu của luận văn, minh bạch thông tin tài chính (TTTC) được hiểu là sự rõ ràng của các thông tin trên báo cáo tài chính (BCTC) Tính minh bạch này được đánh giá qua hai khía cạnh: chất lượng thông tin, bao gồm việc lập và trình bày theo đúng quy định pháp lý, và việc đáp ứng 7 tiêu chí: chính xác, nhất quán, thích hợp, đầy đủ, rõ ràng, kịp thời và thuận tiện Bên cạnh đó, minh bạch TTTC còn được thể hiện qua mức độ sẵn có và khả năng tiếp cận thông tin của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Mặc dù hiện nay tại Việt Nam chưa có tiêu chuẩn chính thức nào để đo lường tính minh bạch của TTTC, tác giả sẽ áp dụng bộ chỉ số T&D năm 2002 của Standard trong nghiên cứu này.
Để đảm bảo tính chính xác và phù hợp với mô hình nghiên cứu, cần điều chỉnh các nội dung thang đo dựa trên điều kiện pháp lý tại Việt Nam.
2.1.1.2 Quy định hiện hành về CBTT trên TTCK Việt Nam hiện nay
Hiện nay, công bố thông tin (CBTT) trên thị trường chứng khoán (TTCK) được điều chỉnh bởi nhiều văn bản pháp quy, với Luật chứng khoán là văn bản cao nhất, kèm theo các thông tư hướng dẫn chi tiết Các văn bản pháp quy hiện hành quy định rõ ràng về việc CBTT trên TTCK.
Luật Chứng Khoán số 70/2006/QH11, được Quốc Hội thông qua vào ngày 29/06/2006 và có hiệu lực từ 1/1/2007, bao gồm 11 chương và 136 điều, quy định toàn bộ các hoạt động trên thị trường chứng khoán (TTCK) Việt Nam Luật này đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc quản lý và điều hành TTCK, được xem là văn bản pháp quy có giá trị pháp lý cao nhất, tạo cơ sở cho việc giải quyết tranh chấp và mâu thuẫn với các văn bản pháp quy khác Qua đó, Luật Chứng Khoán năm 2006 góp phần hoàn thiện cơ chế hoạt động của TTCK, đồng thời thúc đẩy sự phát triển ổn định và hiệu quả của thị trường này.
Các lý thuyết nền liên quan đến tính minh bạch TTTC và hành vi ra quyết định của nhà đầu tư
2.2.1 Lý thuyết thông tin bất cân xứng
Người đầu tiên giới thiệu về lý thuyết bất cân xứng thông tin là G.A Akerlot
Vào năm 1970, trong bài viết mang tiêu đề “Thị trường những quả chanh”, tác giả đã chỉ ra rằng thông tin bất cân xứng có thể dẫn đến hiện tượng lựa chọn đối nghịch trong thị trường.
Trong thị trường ô-tô cũ, Akerlot đã chỉ ra hiện tượng "Vỏ chanh" (Lemons), nơi người bán thường nắm giữ nhiều thông tin hơn người mua về chất lượng xe Người bán biết rõ tình trạng xe của mình và muốn bán với giá cao như xe chất lượng tốt, trong khi người mua lại dễ dàng mua phải xe kém chất lượng với giá cao Hệ quả là người mua có xu hướng trả giá thấp hơn cho xe cũ, khiến những người bán xe chất lượng tốt không thể bán được giá cao và dần rút lui khỏi thị trường Kết quả cuối cùng là thị trường chỉ còn lại những chiếc xe có chất lượng kém, do rủi ro lựa chọn ngược và bất cân xứng thông tin.
Theo Kyle (1985), thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán xảy ra khi một hoặc nhiều nhà đầu tư nắm giữ thông tin riêng hoặc có nhiều thông tin hơn về một công ty so với các nhà đầu tư khác Hiện tượng này xuất hiện khi người mua và người bán có các thông tin khác nhau, dẫn đến một bên trong mối quan hệ có nhiều thông tin hơn bên còn lại.
Trên thị trường chứng khoán, hiện tượng bất cân xứng thông tin xảy ra khi một hoặc nhiều nhà đầu tư có được thông tin riêng lẻ hoặc thông tin công khai nhiều hơn so với các nhà đầu tư khác, hoặc khi các nhà quản lý doanh nghiệp nắm giữ thông tin vượt trội so với nhà đầu tư Một số dấu hiệu của bất cân xứng thông tin bao gồm việc tung tin đồn sai sự thật về doanh nghiệp, rò rỉ thông tin nội bộ, tạo ra cung cầu ảo trên thị trường, và cung cấp thông tin không chính xác Những yếu tố này dẫn đến việc nhà đầu tư nhận được thông tin không đồng nhất, như thông tin không đầy đủ, không kịp thời hoặc không xác thực, từ đó tạo ra rủi ro cho những nhà đầu tư nắm giữ ít thông tin hơn.
Bất cân xứng thông tin ảnh hưởng lớn đến nhà đầu tư, khiến giá cổ phiếu không phản ánh đúng giá trị thực của nó Những nhà đầu tư có nhiều thông tin, như cổ đông chiến lược hay cổ đông lớn, thường thu lợi nhiều hơn so với cổ đông thiểu số Một ví dụ điển hình là việc rò rỉ thông tin trong đấu giá cổ phiếu Khi diễn ra đấu giá, Trung tâm giao dịch chứng khoán (TTGDCK) công bố các thông tin như tổng số nhà đầu tư tham gia và tổng số cổ phiếu đặt mua, nhưng không tiết lộ những thông tin quan trọng như số lượng nhà đầu tư tổ chức hay nhà đầu tư nước ngoài và số cổ phiếu họ đặt mua Những thông tin này, mặc dù không được công bố, lại bị rò rỉ cho một nhóm riêng lẻ, giúp họ tính toán và đưa ra mức giá hợp lý để bỏ thầu, từ đó hưởng lợi nhiều hơn so với các nhà đầu tư khác.
Bất cân xứng thông tin giữa nhà quản lý doanh nghiệp và nhà đầu tư ảnh hưởng tiêu cực đến niềm tin của nhà đầu tư Các công ty niêm yết thường che giấu thông tin quan trọng hoặc công bố sai lệch, khiến nhà đầu tư, đặc biệt là những người ít kinh nghiệm, dễ bị tác động tâm lý Ví dụ, sự chênh lệch lợi nhuận trước và sau kiểm toán là một minh chứng rõ ràng cho tình trạng này Khi nhà đầu tư thay đổi kênh đầu tư do mất niềm tin, doanh nghiệp sẽ gặp khó khăn về vốn, buộc phải vay ngân hàng và làm tăng chi phí lãi vay.
Thông tin bất cân xứng ảnh hưởng đến nhà đầu tư, trong khi các công ty niêm yết (CTNY) là yếu tố chính gây ra sự thiếu ổn định và bền vững của thị trường chứng khoán (TTCK).
Theo nghiên cứu của Theo Spence (1973), tình trạng thông tin bất cân xứng trên thị trường chứng khoán có thể được hạn chế thông qua cơ chế phát tín hiệu Cơ chế này cho phép bên nắm giữ nhiều thông tin truyền đạt tín hiệu một cách trung thực và đáng tin cậy đến các bên thiếu thông tin.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng giải thích việc phát tín hiệu ra thị trường và tăng cường công bố thông tin tốt, giúp nhà đầu tư phân biệt giữa chứng khoán tốt và xấu của các công ty niêm yết Nó cũng làm rõ ảnh hưởng của nhận thức nhà đầu tư về ba yếu tố: minh bạch thông tin cấu trúc quyền sở hữu vốn, minh bạch công bố thông tin tài chính, và minh bạch cấu trúc hoạt động của Hội đồng quản trị và Ban giám đốc, đến hành vi ra quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán.
2.2.2 Lý thuyết người đại diện
Lý thuyết người đại diện, được phát triển vào đầu những năm 1970, nghiên cứu mối quan hệ giữa người ủy quyền (chủ sở hữu) và người đại diện trong bối cảnh phân chia rủi ro do sự khác biệt về mục tiêu và phân công lao động Người ủy quyền giao phó công việc cho người đại diện thông qua hợp đồng, tuy nhiên, vấn đề phát sinh khi lợi ích của họ không đồng nhất, đặc biệt là trong trường hợp thông tin không hoàn hảo hoặc bất cân xứng, dẫn đến hành vi cơ hội từ phía người đại diện.
Lý thuyết này nhấn mạnh rằng trong mối quan hệ giữa người chủ và người quản lý, cả hai bên đều có xu hướng tối đa hóa lợi ích cá nhân, dẫn đến xung đột lợi ích khi có sự bất cân xứng thông tin Để giảm thiểu xung đột này, cần áp dụng các cơ chế kiểm soát như thiết lập chế độ đãi ngộ hợp lý cho nhà quản lý và xây dựng các biện pháp kiểm soát nhằm ngăn chặn hành vi bất thường Tuy nhiên, việc thiết lập các cơ chế này cũng phát sinh chi phí đại diện, bao gồm chi phí giám sát, chi phí ràng buộc và các chi phí khác.
Trên thị trường chứng khoán, các công ty niêm yết thường tách bạch quyền sở hữu và quản lý, với xu hướng chủ sở hữu thuê giám đốc để điều hành Cả hai bên đều mong muốn tối đa hóa lợi ích: chủ sở hữu muốn gia tăng giá trị tài sản và cổ tức, trong khi các nhà quản lý có tham vọng cá nhân có thể dẫn đến quyết định không tối ưu cho công ty Điều này có thể khiến chủ sở hữu không đầu tư vào các dự án có tỷ suất sinh lợi cao do lo ngại rủi ro, hoặc ủng hộ các dự án không mang lại lợi nhuận tối ưu nhưng có lợi cho bản thân họ Để hạn chế hành vi trục lợi này, chủ sở hữu cần tăng cường giám sát, dẫn đến gia tăng chi phí đại diện như báo cáo định kỳ và kiểm tra, giám sát.
Lý thuyết người đại diện giải thích sự minh bạch thông tin và thuyết minh tự nguyện của người điều hành công ty Hành vi của nhà quản lý trong việc gia tăng mức độ công bố thông tin (CBTT) phụ thuộc vào việc cân nhắc lợi ích và chi phí Khi hợp đồng giữa chủ sở hữu và nhà quản lý hiệu quả, lợi ích của nhà quản lý được đảm bảo, dẫn đến việc họ hành động vì lợi ích của chủ sở hữu và nâng cao sự minh bạch thông tin Thêm vào đó, lý thuyết này còn giúp giải thích ảnh hưởng của các yếu tố CBTT tài chính và cấu trúc hoạt động của Hội đồng Quản trị (HĐQT), Ban Giám đốc (BGĐ) đến quyết định của nhà đầu tư cá nhân trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
2.2.3 Lý thuyết tiết kiệm chi phí thông tin
Trong bối cảnh hiện nay, sự phát triển của khoa học công nghệ và việc mở rộng quy mô công ty đã làm gia tăng nhu cầu thu hút vốn đầu tư, trở thành một giải pháp thiết yếu cho sự sống còn của doanh nghiệp.
Để thu hút nguồn vốn từ bên ngoài, doanh nghiệp cần tăng cường công bố thông tin (CBTT) một cách minh bạch, điều này không chỉ thu hút sự quan tâm từ nhà đầu tư mà còn tạo niềm tin vững chắc Tuy nhiên, việc cung cấp thông tin minh bạch đòi hỏi doanh nghiệp phải đầu tư một khoản chi phí đáng kể để hoàn thiện hệ thống thông tin kế toán, từ việc thu thập, xử lý đến trình bày và công bố thông tin Do đó, doanh nghiệp cần cân nhắc mối quan hệ giữa lợi ích thu được và chi phí bỏ ra trong quá trình CBTT để đảm bảo lợi ích tối ưu cho mình.