GIỚI THIỆU
Lý do chọn đề tài
Hệ thống tài chính ở các nền kinh tế đã có sự phát triển ấn tượng trong hai thập kỷ qua, đóng góp vào sự tiến bộ trong phát triển kinh tế và thực hiện các chính sách Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng sự phát triển của hệ thống tài chính mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế, nhưng cũng gây ra một số mối lo ngại Đặc biệt, sự phát triển tài chính hiện nay có mối liên hệ chặt chẽ với chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương điều hành.
Ngân hàng Trung ương (NHTW) thực hiện chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô như tăng trưởng kinh tế và kiểm soát lạm phát Để thực thi chính sách này, NHTW sử dụng các công cụ tiền tệ, bao gồm cả công cụ trực tiếp và gián tiếp, nhằm tác động đến hệ thống tài chính Các cơ chế truyền dẫn tiền tệ, chủ yếu thông qua lãi suất, tỷ giá và tín dụng, đóng vai trò quan trọng trong việc ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động qua hệ thống tài chính, vì vậy mọi phát triển trong cấu trúc và hoạt động của hệ thống này có thể ảnh hưởng đến các cơ chế truyền dẫn tiền tệ Điều này có thể làm giảm hiệu quả của chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương (NHTW) thực hiện.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ là rất quan trọng, đặc biệt đối với các nền kinh tế đang phát triển nhanh chóng như Việt Nam Hiện tại, chưa có nghiên cứu nào tại Việt Nam chỉ ra mối liên hệ này, vì vậy bài nghiên cứu này hy vọng sẽ cung cấp bằng chứng thực nghiệm để đánh giá tác động của phát triển tài chính đối với hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Mục tiêu nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ, dựa trên các mô hình hồi quy từ các nghiên cứu trước Dữ liệu được sử dụng là dữ liệu bảng từ 16 quốc gia châu Á trong giai đoạn 2005-2015, nhằm làm rõ các kết luận khác nhau trong các nghiên cứu thực nghiệm trước đây.
Sau khi thực hiện hồi quy và thu thập các ước lượng cần thiết, bài nghiên cứu tập trung vào việc trả lời câu hỏi chính: Khi hệ thống tài chính phát triển hơn, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ ra sao?
Bài nghiên cứu này nhằm khám phá mối quan hệ giữa sự phát triển của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán, đồng thời phân tích ảnh hưởng của chúng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Đối tượng, phạm vi, phương pháp nghiên cứu
Bài nghiên cứu tập trung vào mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ Sau khi phân tích mối quan hệ này, nghiên cứu sẽ tiếp tục đánh giá sự khác biệt trong mối quan hệ giữa sự phát triển của các trung gian tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ.
Bài nghiên cứu này tập trung vào 16 nền kinh tế ở Châu Á, có sự khác biệt về mức độ phát triển tài chính tổng thể cũng như sự phát triển của trung gian tài chính và thị trường chứng khoán, trong giai đoạn từ 2005 đến 2015.
Bài nghiên cứu áp dụng phương pháp hồi quy định lượng, tham khảo từ các tác giả quốc tế, nhằm đánh giá mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả chính sách tiền tệ Nghiên cứu sử dụng hai mô hình hồi quy dựa trên dữ liệu bảng để đưa ra kết luận về kết quả nghiên cứu.
Những đóng góp mới của bài nghiên cứu
Nghiên cứu này đánh giá mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua kết quả thực nghiệm tại 16 quốc gia ở khu vực Châu Á Kết quả cho thấy sự phát triển tài chính có ảnh hưởng tích cực đến hiệu quả của các chính sách tiền tệ, góp phần vào sự ổn định và tăng trưởng kinh tế trong khu vực Việc hiểu rõ mối liên hệ này sẽ giúp các nhà hoạch định chính sách cải thiện chiến lược tiền tệ và thúc đẩy phát triển tài chính bền vững.
Kết cấu bài nghiên cứu
Ngoài phần danh mục các bảng biểu, tài liệu tham khảo,… nội dung chính của bài nghiên cứu bao gồm 05 phần như sau:
Phần 1: Giới thiệu: Trình bày lý do chọn đề tài; mục tiêu nghiên cứu; đối tương, pham vi, phương pháp nghiên cứu; những đóng góp mới và kết cấu của bài nghiên cứu
Phần 2: Tổng quan các lý thuyết và các nghiên cứu thực nghiệm: Trình bày những lý thuyết nghiên cứu trong và ngoài nước trước đây về mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ
Phần 3: Phương pháp và mô tả dữ liệu nghiên cứu: Trình bày cách chọn mẫu, mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu
Phần 4: Kết quả nghiên cứu: Trình bày kết quả của phương pháp nghiên cứu
Phần 5: Kết luận và phát triển nghiên cứu: Trình bày kết luận của bài nghiên cứu và đề xuất một số nội dung phát triển ở các bài nghiên cứu sau.
TỔNG QUAN CÁC LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM
Chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ là tổng hợp các phương thức mà Ngân hàng Trung ương (NHTW) sử dụng để điều chỉnh khối lượng tiền trong lưu thông, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế - xã hội trong một thời kỳ nhất định Đây là một phần quan trọng trong hệ thống chính sách kinh tế - tài chính vĩ mô của chính phủ.
Mục tiêu chính của chính sách tiền tệ là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, tạo ra việc làm và kiểm soát lạm phát Việc phối hợp ba mục tiêu này là rất quan trọng, vì không thể đồng thời thực hiện tất cả mà không xảy ra mâu thuẫn Do đó, cần có sự dung hoà trong việc xác định các mục tiêu cho chính sách tiền tệ, tùy thuộc vào thời điểm và điều kiện cụ thể để sắp xếp thứ tự ưu tiên Ngân hàng Trung ương cần theo dõi sát sao diễn biến thực tế để điều chỉnh các mục tiêu khi có sự thay đổi, áp dụng các giải pháp phù hợp.
Chính sách tiền tệ bao gồm hai loại chính: mở rộng và thắt chặt Chính sách mở rộng, hay còn gọi là nới lỏng tiền tệ, được áp dụng khi nền kinh tế suy thoái và thất nghiệp gia tăng, nhằm tăng cung tiền, mở rộng đầu tư và tạo việc làm Ngược lại, chính sách thắt chặt, hay đóng băng tiền tệ, được thực hiện khi nền kinh tế phát triển quá mức và lạm phát gia tăng, nhằm kiểm soát lạm phát.
Các kênh truyền dẫn của chính sách tiền tệ bao gồm kênh lãi suất và kênh giá cả tài sản Kênh lãi suất, được Keyness mô tả, cho thấy rằng khi chính sách tiền tệ mở rộng, cung tiền tăng, lãi suất thực giảm, dẫn đến tăng nhu cầu đầu tư và sản lượng Hiệu quả của kênh này phụ thuộc vào sự phát triển của thị trường tài chính Bên cạnh đó, kênh giá cả tài sản, bao gồm giá chứng khoán, giá bất động sản và tỷ giá hối đoái, cũng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ đến nền kinh tế Chính sách tiền tệ mở rộng hay thu hẹp ảnh hưởng đến lạm phát và đầu tư thông qua các kênh này Để thực hiện chính sách tiền tệ, Ngân hàng Trung ương sử dụng nhiều công cụ như tỷ lệ dự trữ bắt buộc, lãi suất, nghiệp vụ thị trường mở và tỷ giá hối đoái, mỗi công cụ có cơ chế vận hành và ưu nhược điểm riêng, cần được áp dụng phù hợp với điều kiện thực tế của nền kinh tế.
Phát triển tài chính
Hệ thống tài chính là một cấu trúc bao gồm thị trường và các chủ thể tài chính, có nhiệm vụ kết nối cung và cầu vốn Cơ cấu của hệ thống này bao gồm thị trường tài chính, các chủ thể tài chính và cơ sở hạ tầng tài chính Chức năng chính của hệ thống tài chính là tạo ra các kênh chuyển tải vốn từ những người thừa vốn đến những người cần vốn.
Thị trường tài chính là sự kết hợp của các mối quan hệ cung cầu về vốn, diễn ra qua vay mượn, mua bán tiền tệ và chứng từ có giá, nhằm chuyển giao vốn từ nơi cung cấp đến nơi có nhu cầu Một hệ thống thị trường tài chính hoàn chỉnh bao gồm thị trường tiền tệ, hoạt động chủ yếu qua hệ thống ngân hàng và các công ty tài chính, cùng với thị trường vốn, trong đó thị trường chứng khoán đóng vai trò quan trọng.
Các trung gian tài chính, đặc biệt là ngân hàng, đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng cung cầu vốn bằng cách chuyển giao nguồn vốn từ người gửi đến người vay Thị trường chứng khoán cũng góp phần huy động vốn cho nền kinh tế khi nhà đầu tư mua chứng khoán, giúp đưa tiền nhàn rỗi vào sản xuất kinh doanh, từ đó thúc đẩy mở rộng sản xuất xã hội Ngoài ra, thông qua thị trường chứng khoán, Chính phủ và chính quyền địa phương có thể huy động vốn để đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế, phục vụ nhu cầu chung của xã hội.
Để đánh giá sự phát triển của hệ thống tài chính, có thể xem xét sự phát triển của ngân hàng và thị trường chứng khoán Mức độ cung ứng vốn từ hai nguồn này trên thị trường tài chính sẽ phản ánh rõ rệt mức độ phát triển tài chính của một nền kinh tế cụ thể.
Bài nghiên cứu của Levine (2002) mang tên “Hệ thống tài chính dựa vào ngân hàng hay thị trường chứng khoán sẽ mang đến tăng trưởng kinh tế hơn?” phân tích cấu trúc tài chính và sự phát triển tài chính qua cách tiếp cận xuyên quốc gia, giúp đánh giá và so sánh cấu trúc tài chính của các quốc gia Tuy nhiên, phương pháp này gặp khó khăn trong việc tìm kiếm chỉ tiêu thể hiện cấu trúc tài chính với dữ liệu sẵn có cho nhiều quốc gia Để khắc phục điều này, nghiên cứu tập trung vào các chỉ số tổng hợp mô tả quy mô, hoạt động và hiệu quả của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán.
Tác giả Levine đã đề xuất các biện pháp đo lường tổng thể sự phát triển tài chính thông qua các chỉ số về hoạt động, quy mô và hiệu quả của hệ thống tài chính, đại diện cho mức độ dịch vụ tài chính được cung cấp Để đo lường hoạt động của hệ thống tài chính, tác giả sử dụng chỉ số Tổng giá trị giao dịch (Total value traded ratio) cho thị trường chứng khoán và tỷ lệ Tín dụng khu vực tư nhân (Private Credit ratio) cho các ngân hàng, được tính bằng giá trị các khoản tín dụng cấp cho khu vực tư nhân chia cho GDP Chỉ số hoạt động của hệ thống tài chính được tính bằng logarit của tích số Tổng giá trị giao dịch và Tín dụng khu vực tư nhân, cung cấp một cái nhìn tổng quan về hoạt động của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán.
Chỉ tiêu đo lường quy mô hệ thống tài chính bao gồm quy mô của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán Để đánh giá quy mô thị trường chứng khoán trong nước, tác giả sử dụng tỷ lệ Vốn hóa thị trường, cho rằng biện pháp đơn giản để đánh giá sự phát triển của thị trường là dựa vào quy mô này Đối với quy mô của các trung gian tài chính, tác giả áp dụng tỷ lệ Tín dụng khu vực tư nhân Chỉ số quy mô của hệ thống tài chính được tính bằng logarit của tích số Vốn hóa thị trường và Tín dụng khu vực tư nhân Để đo lường sự phát triển của hệ thống tài chính, tác giả Levine còn xem xét hiệu quả hoạt động của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán Hiệu quả của thị trường chứng khoán được đo bằng chỉ số Tổng giá trị giao dịch, trong khi hiệu quả của các ngân hàng được đánh giá qua chỉ tiêu Chi phí chung, phản ánh chi phí liên quan đến tài sản của hệ thống ngân hàng Cuối cùng, chỉ số hiệu quả của hệ thống tài chính được tính bằng logarit của Tổng giá trị giao dịch chia cho Chi phí chung.
Beck và các cộng sự (2006) trong nghiên cứu “Phát triển của trung gian tài chính và tăng trưởng kinh tế” đã đo lường mức độ phát triển của các trung gian tài chính thông qua Tín dụng khu vực tư nhân, được tính bằng tỷ lệ giữa giá trị Tín dụng khu vực tư nhân và GDP Tín dụng khu vực tư nhân phản ánh hoạt động chuyển giao vốn từ người gửi tiết kiệm đến các nhà đầu tư, đặc biệt là trong khu vực tư nhân Nghiên cứu này bao gồm cả tín dụng từ các trung gian tài chính tư nhân và nhà nước, nhưng Beck và các cộng sự cho rằng chỉ nên xem xét tín dụng từ các trung gian tài chính tư nhân do thiếu dữ liệu cho phần còn lại Họ cũng tham khảo các nghiên cứu trước đó của La Porta và cộng sự (2002) cùng Beck và Levine (2002), sử dụng dữ liệu Tín dụng khu vực tư nhân từ các trung gian tài chính tư nhân trong giai đoạn 1980-1990, với độ tương quan lên đến 90% so với dữ liệu ban đầu.
Nghiên cứu của Demirgüç-Kunt và cộng sự (2011) nhấn mạnh tầm quan trọng của cấu trúc tài chính, bao gồm các định chế tài chính và thị trường chứng khoán, đối với hoạt động của nền kinh tế Allen và Gale (2000) cho rằng ngân hàng và thị trường chứng khoán cung cấp các dịch vụ tài chính khác nhau, và các nền kinh tế phát triển khác nhau cần một "hỗn hợp" cấu trúc tài chính phù hợp để hoạt động hiệu quả Nếu cấu trúc tài chính thực tế không tương thích với cấu trúc tối ưu, hệ thống tài chính sẽ không cung cấp dịch vụ phù hợp, ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế Để đánh giá mối quan hệ này, tác giả sử dụng các chỉ tiêu tiêu chuẩn hoá như Tín dụng tư nhân và Giá trị chứng khoán giao dịch để đo lường sự phát triển của hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán Tín dụng tư nhân được tính bằng tỷ lệ khoản tín dụng cấp cho khu vực tư nhân trên GDP, trong khi Giá trị chứng khoán giao dịch được tính bằng giá trị giao dịch của thị trường chứng khoán chia cho GDP Các chỉ tiêu khác như Giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu và Giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán cũng được sử dụng để đánh giá sự phát triển của thị trường tài chính.
Trong nghiên cứu “Tác động của Phát triển tài chính đến phát triển kinh tế: Bằng chứng thực nghiệm cho các quốc gia tại khu Vực Châu Á” của Hoàng Thị Phương Anh và Đinh Tấn Danh (2015), tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa phát triển tài chính và phát triển kinh tế, nhấn mạnh rằng tác động này phụ thuộc vào sự cân đối giữa tốc độ phát triển tài chính và tăng trưởng kinh tế Nghiên cứu sử dụng mô hình hồi quy DOLS tổng quát của Stock và Watson (1993) để ước lượng tác động, trong đó biến phát triển tài chính được đo lường bằng tỷ lệ % của tín dụng khu vực trên GDP.
Các nghiên cứu trước đây về phát triển hệ thống tài chính chủ yếu tập trung vào sự phát triển của ngân hàng và thị trường chứng khoán Các biện pháp đo lường mức độ phát triển của hệ thống tài chính thường bao gồm sự phát triển của ngân hàng và thị trường tài chính Do đó, các phương pháp đo lường này, được kế thừa từ các nghiên cứu trước, phù hợp và đồng nhất Bài nghiên cứu này sẽ áp dụng ba phương pháp đo lường mức độ phát triển của hệ thống tài chính, bao gồm tổng thể sự phát triển của hệ thống tài chính, sự phát triển của ngân hàng và sự phát triển của thị trường chứng khoán, với nội dung chi tiết sẽ được trình bày trong phần phương pháp nghiên cứu.
Mối quan hệ giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ
Ngân hàng Trung ương (NHTW) thực hiện chính sách tiền tệ nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô thông qua các công cụ tiền tệ Những công cụ này tác động đến nền kinh tế chủ yếu qua hệ thống tài chính thông qua các kênh truyền dẫn như lãi suất, tỷ giá và tín dụng Do đó, chính sách tiền tệ chủ yếu hoạt động thông qua ảnh hưởng đến hệ thống tài chính Bất kỳ sự phát triển nào trong cấu trúc và hoạt động của hệ thống tài chính đều có khả năng tác động đến các cơ chế truyền dẫn tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến hiệu quả của chính sách tiền tệ mà NHTW điều hành.
2.3.1 Lý thuyết “Kênh tín dụng”
Nghiên cứu gần đây đã tập trung vào lý thuyết "Kênh tín dụng" do Bernanke và Gertler (1995) phát triển Theo quan điểm của họ, "Kênh tín dụng" bao gồm các yếu tố giúp khuếch đại và truyền dẫn tác động của chính sách tiền tệ đến các biến số kinh tế vĩ mô.
Theo lý thuyết “Kênh tín dụng”, tác động của chính sách tiền tệ lên lãi suất được khuếch tán qua sự thay đổi trong phần bù tài chính bên ngoài, được định nghĩa là sự chênh lệch giữa chi phí huy động vốn từ bên ngoài và chi phí huy động vốn từ bên trong Sự chênh lệch này xuất phát từ thị trường tín dụng không hoàn hảo và thông tin bất cân xứng Do đó, chính sách tiền tệ không chỉ ảnh hưởng đến lãi suất chung mà còn đến mức chênh lệch lãi suất khi huy động vốn từ bên ngoài Tác giả đề xuất hai cơ chế truyền dẫn của chính sách tiền tệ đến nền kinh tế: “Kênh truyền dẫn thông qua bảng cân đối tài sản” và “Kênh truyền dẫn thông qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng”.
Dựa trên lý thuyết “Kênh tín dụng” của Bernanke và Gertler (1995), Chu Khánh Lân (2012) đã làm rõ khái niệm “Kênh truyền dẫn thông qua bảng cân đối tài sản” và “Kênh truyền dẫn thông qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng” “Kênh truyền dẫn thông qua bảng cân đối tài sản” cho thấy phần bù tài chính bên ngoài tỷ lệ nghịch với tình hình tài chính của người đi vay; giá trị tài sản ròng và tài sản có tính thanh khoản càng lớn thì phần bù tài chính càng nhỏ Chính sách tiền tệ thắt chặt làm suy yếu tình hình tài chính của người đi vay qua hai ảnh hưởng: thứ nhất, lãi suất cao làm tăng chi phí vay, giảm lợi nhuận và giá trị tài sản ròng; thứ hai, lãi suất tăng làm giảm giá trị tài sản thế chấp Ảnh hưởng gián tiếp từ việc thắt chặt chính sách tiền tệ khiến doanh nghiệp gặp khó khăn do doanh thu giảm, dẫn đến giảm lợi nhuận và giá trị tài sản ròng Kết quả là, giá trị tài sản ròng và tài sản thế chấp giảm, làm tăng phần bù tài chính bên ngoài do rủi ro tiền ẩn gia tăng, từ đó hạn chế nhu cầu đầu tư và tiêu dùng, làm giảm tổng cầu của nền kinh tế.
Trong khái niệm “Kênh truyền dẫn thông qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng”, các tổ chức tín dụng (TCTD) đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp tín dụng cho nền kinh tế Khi khả năng cấp tín dụng suy giảm, doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, sẽ gặp khó khăn trong hoạt động do phụ thuộc vào tín dụng Theo Bernanke và Blinder (1988), việc NHTW thắt chặt chính sách tiền tệ bằng cách bán chứng khoán trên thị trường mở dẫn đến giảm dự trữ và tiền gửi của TCTD Do đó, khả năng cung ứng khoản vay giảm, kéo theo sự sụt giảm trong đầu tư và tiêu dùng của các chủ thể kinh tế Điều này cho thấy hai kênh truyền dẫn tín dụng có mối quan hệ chặt chẽ trong việc truyền dẫn chính sách tiền tệ đến nền kinh tế.
Lý thuyết “Kênh tín dụng” của Bernanke và Gertler chỉ ra rằng sự bất hoàn hảo của thị trường tài chính có mối liên hệ chặt chẽ với hiệu quả của chính sách tiền tệ Sự truyền dẫn mạnh mẽ của chính sách này phụ thuộc vào tình trạng của thị trường tài chính, cho thấy vai trò quan trọng của các kênh tín dụng trong việc điều tiết nền kinh tế.
Đến nay, đã có nhiều nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến lý thuyết "Kênh tín dụng", tuy nhiên, kết quả của các nghiên cứu này lại không đồng nhất.
Nghiên cứu của Kashyap và Stein (2000) chỉ ra rằng chính sách tiền tệ có ảnh hưởng mạnh mẽ đến hành vi cấp tín dụng, đặc biệt là ở các ngân hàng có tình trạng thanh khoản kém Kết luận này hỗ trợ cho giả thuyết về kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Gomez et al (2005) chỉ ra rằng trong ngắn hạn, hiệu quả của chính sách tiền tệ đối với các biến vĩ mô thực đã giảm sút Nguyên nhân là do sự phát triển của thị trường chứng khoán, khiến kênh truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng truyền thống trở nên kém quan trọng hơn.
Loutskina và Strahan (2009) đã chỉ ra rằng sự xuất hiện của thị trường chứng khoán làm suy yếu khả năng truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua việc cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng.
Mishra và các cộng sự (2010) cho rằng cơ chế truyền tải chính sách tiền tệ qua khả năng cấp tín dụng của hệ thống ngân hàng sẽ hiệu quả hơn khi hệ thống tài chính đang ở mức phát triển thấp.
Lê Việt Hùng và Wade Pfau (2012) đã sử dụng mô hình VAR để phân tích cơ chế truyền dẫn chính sách tiền tệ tại Việt Nam, tập trung vào mối quan hệ giữa cung tiền, sản lượng thực tế, mức giá, lãi suất thực, tỷ giá thực và tín dụng Nghiên cứu cho thấy chính sách tiền tệ có tác động đến sản lượng và giá cả, với mức độ ảnh hưởng mạnh nhất đối với sản lượng sau bốn quý, trong khi tác động đến giá cả kéo dài từ quý thứ 3 đến quý thứ 9 Tuy nhiên, mức ý nghĩa thống kê của các kênh truyền dẫn là yếu, chỉ có kênh tín dụng và kênh tỷ giá hối đoái thể hiện ý nghĩa thống kê cao hơn.
Nghiên cứu của Aysun và các cộng sự (2013) chỉ ra rằng chính sách tiền tệ được truyền tải hiệu quả hơn qua khả năng cấp tín dụng của ngân hàng trong các nền kinh tế có thị trường tài chính bất hoàn hảo Kết luận này phù hợp với lý thuyết "Kênh tín dụng".
Nghiên cứu của Ciccarelli và các cộng sự (2015) chỉ ra rằng "Kênh tín dụng" có vai trò quan trọng trong việc khuếch đại hiệu quả của chính sách tiền tệ đối với GDP và lạm phát Đặc biệt, tác động của chính sách tiền tệ đến doanh nghiệp thông qua khả năng cấp tín dụng của ngân hàng là mạnh mẽ hơn, trong khi đối với hộ cá nhân, chính sách này chủ yếu ảnh hưởng qua nhu cầu và tình hình tài chính.
Thị trường chứng khoán có thể làm giảm tác động của chính sách tiền tệ qua khả năng cấp tín dụng của ngân hàng, nhưng một số nghiên cứu chỉ ra rằng nó cũng có ảnh hưởng tích cực đến việc truyền dẫn chính sách tiền tệ thông qua bảng cân đối tài sản, như được thể hiện trong các nghiên cứu của Ashraft và Campello (2007) cũng như Aysun và Hepp (2011).
PHƯƠNG PHÁP VÀ MÔ TẢ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU
Mô hình hồi quy thực nghiệm
Bài nghiên cứu này thực hiện phân tích thực nghiệm nhằm khám phá mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ Để đạt được mục tiêu này, hai mô hình hồi quy được thiết lập dựa trên dữ liệu bảng, bao gồm thông tin từ các quốc gia và theo thời gian.
Mô hình hồi quy thực nghiệm được xây dựng bao gồm hai phần chính: đầu tiên, một mô hình đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ tại các nền kinh tế với mức độ phát triển tài chính khác nhau; thứ hai, mô hình còn lại phân tích mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ.
3.1.1 Mô hình hồi quy đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ:
Ngân hàng Trung ương (NHTW) sử dụng các công cụ tiền tệ để điều tiết cung tiền trên thị trường, thực hiện chính sách mở rộng hoặc thắt chặt tiền tệ phù hợp với điều kiện kinh tế cụ thể Khi áp dụng chính sách tiền tệ mở rộng, NHTW tăng cường cung tiền, khuyến khích đầu tư và tạo việc làm Ngược lại, trong trường hợp thắt chặt tiền tệ, NHTW giảm lượng tiền cung ứng nhằm hạn chế đầu tư và kiềm chế sự phát triển "quá nóng" của nền kinh tế, với mục tiêu chống lạm phát.
Dựa trên nghiên cứu của Karras (1999) và Ma và Lin (2016), bài viết này sử dụng mô hình hồi quy dữ liệu bảng để đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc kiểm soát phát triển kinh tế và lạm phát Cụ thể, tác giả đã chứng minh tác động của tốc độ tăng trưởng cung tiền đến tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và lạm phát thông qua hai phương trình hồi quy: Δy j,t = β 0 + ∑ 𝑄 𝑖=1 𝛽 𝑖 𝑦 Δy j,t-i + ∑ 𝑅 𝑖=0 𝛽 𝑗,𝑡−𝑖 𝑚 Δm j,t-i + à 𝑗,𝑡 𝑦 và Δp j,t = γ 0 + ∑ 𝑄 𝑖=1 𝛾 𝑖 𝑝 Δp j,t-i + ∑ 𝑅 𝑖=0 𝛾 𝑗,𝑡−𝑖 𝑚 Δm j,t-i + à 𝑗,𝑡 𝑝.
j, t lần lượt chỉ quốc gia và thời điểm trong chuỗi thời gian của dữ liệu
các β, γ là các hệ số hồi quy của các biến
Q và R thể hiện số độ trễ trong mô hình hồi quy
Δyj,t là tỷ lệ tăng trưởng GDP của quốc gia j tại thời điểm t
Δpj,t là tỷ lệ lạm phát của quốc gia j tại thời điểm t
Δmj,t là tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 của quốc gia j tại thời điểm t
à j,t y là sai số của mụ hỡnh hồi quy
So sánh với mô hình hồi quy của Karras (1999) và Ma và Lin (2016), phương trình hồi quy (1) và (2) là dạng giản lược cho biến phụ thuộc là tốc độ tăng trưởng GDP Sai số 𝑗,𝑡 𝑦 được mô hình hóa như sau: 𝑗,𝑡 𝑦 = 𝑗 𝑦 + 𝑤 𝑗,𝑡 𝑦 và 𝑗,𝑡 𝑝 = 𝑗 𝑝 + 𝑤 𝑗,𝑡 𝑝, trong đó 𝑗 𝑦 và 𝑗 𝑝 thể hiện hiệu ứng cố định của các quốc gia.
Theo phương trình hồi quy, sau khi ước lượng các hệ số hồi quy, chúng ta có thể đánh giá hiệu quả của chính sách tiền tệ thông qua hệ số hồi quy của biến cung tiền Nếu hệ số này dương, điều đó cho thấy sự gia tăng cung tiền có ảnh hưởng tích cực đến GDP và lạm phát Hơn nữa, giá trị lớn của hệ số này chỉ ra rằng tác động của cung tiền lên GDP và lạm phát càng mạnh, đồng nghĩa với việc chính sách tiền tệ đạt hiệu quả cao.
3.1.2 Mô hình hồi quy đánh giá tác động của phát triển tài chính lên hiệu quả của chính sách tiền tệ
Chính sách tiền tệ chủ yếu tác động đến thị trường tài chính thông qua các cơ chế truyền dẫn tiền tệ Do đó, bất kỳ sự phát triển nào trong thị trường tài chính đều có thể ảnh hưởng đến các cơ chế này, từ đó tác động đến hiệu quả của chính sách tiền tệ do Ngân hàng Trung ương điều hành.
Dựa trên các nghiên cứu trước đây của Karras (1999) và Berument cùng Dogan (2003), tác động của độ mở nền kinh tế đến hiệu quả chính sách tiền tệ đã được đánh giá Karras (1999) thực hiện nghiên cứu với dữ liệu từ 38 quốc gia trong giai đoạn 1953-1990, trong khi Berument và Dogan (2003) tập trung vào nền kinh tế Thổ Nhĩ Kỳ từ 1987 đến 2001 Nghiên cứu của họ tương đồng với bài viết này trong việc đánh giá ảnh hưởng của một yếu tố khác đến hiệu quả chính sách tiền tệ.
Ma và Lin (2016) trong nghiên cứu “Phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ” đã xây dựng mô hình hồi quy thực nghiệm sử dụng dữ liệu bảng để phân tích ảnh hưởng của phát triển tài chính đến hiệu quả của chính sách tiền tệ tại 41 nền kinh tế.
Bài nghiên cứu này sử dụng mô hình hồi quy để đánh giá tác động của sự phát triển tài chính đối với hiệu quả của chính sách tiền tệ trong việc ảnh hưởng đến GDP và lạm phát Phương trình tương tác được thiết lập nhằm thể hiện mức độ phát triển tài chính trong bối cảnh này.
fd thể hiện mức độ phát triển tài chính của quốc gia j tại thời điểm t
Các θ, ϕ là các tham số
Dựa theo bài nghiên cứu của Karras (1999), Berument và Dogan (2003) và
Ma và Lin (2016) đã kết hợp phương trình hồi quy để ước lượng biến phụ thuộc tỷ lệ tăng trưởng GDP, từ đó đánh giá tác động của phát triển tài chính lên mối quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP Phương trình hồi quy được trình bày như sau: Δy j,t = β 0 + ∑ 𝑄 𝑖=1 𝛽 𝑖 𝑦 Δy j,t-i + ∑ 𝑅 𝑖=0 ( 𝑖 𝑚 Δm j,t-i + 𝑖 𝑓 fd j,t-i + 𝑖 𝑓𝑚 fd j,t-i Δm j,t-i ) + à 𝑗,𝑡 𝑦.
j, t lần lượt chỉ quốc gia và thời điểm trong chuỗi thời gian của dữ liệu
các β, θ là các hệ số hồi quy của các biến
Q và R thể hiện số độ trễ trong mô hình hồi quy
Δyj,t là tỷ lệ tăng trưởng GDP của quốc gia j tại thời điểm t
Δmj,t là tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 của quốc gia j tại thời điểm t
fdj,t-i Δmj,t-i là biến tương tác giữa tác động của tỷ lệ tăng trưởng cung tiền Δmj và mức độ phát triển của hệ thống tài chính
à j,t y là sai số của mụ hỡnh hồi quy
Kết hợp phương trình (4) vào phương trình (2) cho phép chúng ta xây dựng phương trình hồi quy để ước lượng biến phụ thuộc tỷ lệ lạm phát Từ đó, chúng ta có thể đo lường tác động của phát triển tài chính đối với mối quan hệ giữa tăng trưởng cung tiền và lạm phát Phương trình hồi quy được biểu diễn như sau: Δp j,t = γ 0 + ∑ 𝑄 𝑖=1 𝛾 𝑖 𝑝 Δp j,t-i + ∑ 𝑅 𝑖=0 (𝜙 𝑖 𝑚 Δm j,t-i +𝜙 𝑖 𝑓 fd j,t-i +𝜙 𝑖 𝑓𝑚 fd j,t-i Δm j,t-i ) + à 𝑗,𝑡 𝑝.
j, t lần lượt chỉ quốc gia và thời điểm trong chuỗi thời gian của dữ liệu
các β, ϕ là các hệ số hồi quy của các biến
Q và R thể hiện số độ trễ trong mô hình hồi quy
Δpj,t là tỷ lệ lạm phát của quốc gia j tại thời điểm t
Δmj,t là tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 của quốc gia j tại thời điểm t
fdj,t-i Δmj,t-i là biến tương tác giữa tác động của tỷ lệ tăng trưởng cung tiền Δmj và mức độ phát triển của hệ thống tài chính
à j,t p là sai số của mụ hỡnh hồi quy
Giá trị các hệ số hồi quy của biến tương tác fd j,t-i Δm j,t-i cho thấy mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ Nếu hệ số hồi quy âm, điều này chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ và sự phát triển tài chính có mối quan hệ ngược chiều; tức là, khi hệ thống tài chính phát triển, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm và ngược lại.
Đo lường các biến số trong mô hình
Để thực hiện hồi quy thực nghiệm theo hai mô hình ước lượng đã nêu, bài nghiên cứu xác định các biến nghiên cứu và phương pháp đo lường các biến số này.
Mức độ phát triển tài chính:
Dựa trên các nghiên cứu của Demirgüç-Kunt và Levine (1996), Levine (2002), Beck và cộng sự (2006), Demirgüç-Kunt và cộng sự (2011), cùng với Ma và Lin (2016), bài nghiên cứu này áp dụng ba phương pháp đo lường mức độ phát triển của hệ thống tài chính Cụ thể, các chỉ số được sử dụng bao gồm: fd1 = (Giá trị tín dụng nội địa + Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán) / GDP, fd2 = Giá trị tín dụng nội địa / GDP, và fd3 = Giá trị vốn hóa thị trường chứng khoán / GDP.
Giá trị tín dụng nội địa thể hiện giá trị các khoản tín dụng được cấp bởi các trung gian tài chính
Giá trị vốn hoá thị trường chứng khoán là tổng giá trị cổ phiếu niêm yết trên thị trường chứng khoán
FD1 đánh giá sự phát triển tài chính tổng thể của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán, trong khi FD2 tập trung vào sự phát triển của các trung gian tài chính Đồng thời, FD3 chuyên đo lường sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Giá trị tính toán của biến fd có mối quan hệ tỷ lệ thuận với mức độ phát triển tài chính của nền kinh tế.
Tỷ lệ tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội (GDP)
Chỉ số đo lường tỷ lệ tăng trưởng GDP được tính toán như sau: Δy j,t = (GDP j,t - GDP j,t-1 )/GDP j,t-1
Δy j,t thểhiện tỷ lệ tăng trưởng GDP của quốc gia j tại thời điểm t
GDP j,t thể hiện tổng sản phẩm quốc nội của quốc gia j trong kỳ t
Tỷ lệ tăng trưởng GDP dương cho thấy sự gia tăng trong tổng sản phẩm quốc nội, phản ánh sự phát triển của nền kinh tế; giá trị dương càng lớn thể hiện mức độ tăng trưởng kinh tế càng cao Ngược lại, tỷ lệ tăng trưởng GDP âm chỉ ra rằng tổng sản phẩm quốc nội đang sụt giảm, cho thấy nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái.
Tỷ lệ lạm phát là tốc độ tăng của giá cả hàng hoá, tỷ lệ lạm phát được tính toán như sau: Δp j,t = (CPI j,t - CPI j,t-1 )/CPI ,t-1
Δp j,t thểhiện tỷ lệ lạm phát của quốc gia j tại thời điểm t
CPI j,t thể hiện chỉ số giá tiêu dùng của quốc gia j trong kỳ t
Tỷ lệ lạm phát dương cho thấy sự gia tăng giá cả hàng hóa trong nền kinh tế, với giá trị dương càng lớn thể hiện mức độ tăng trưởng giá càng cao.
Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2
Giá trị cung tiền là lượng tiền tệ được cung cấp trong nền kinh tế để đáp ứng nhu cầu mua sắm của cá nhân và doanh nghiệp Mức cung tiền cần phải tương ứng với cầu về tiền tệ; nếu có sự thiếu hụt hoặc dư thừa, nền kinh tế sẽ gặp phải những tác động tiêu cực Các chỉ số phổ biến để đo lường lượng tiền cung ứng bao gồm M0, M1, M2, M3 và L.
Giá trị cung tiền M2 được tính bằng tổng lượng tiền M1, bao gồm tiền mặt (M0) và tiền gửi không kỳ hạn, cộng với tiền gửi có kỳ hạn Mặc dù M2 kém linh hoạt hơn M1, nhưng việc kiểm soát M2 là rất quan trọng vì nó bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi có kỳ hạn tại ngân hàng, tạo ra lượng tiền giao dịch tiềm năng Hơn nữa, giữa M2 và M1 thường xảy ra sự chuyển hoá lẫn nhau.
Chỉ số đo lường tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 được tính toán như sau: Δm j,t = (M2 j,t –M2 j,t-1 )/M2 j,t-1
Δm j,t thểhiện tỷ lệ tăng trưởng cung tiền M2 của quốc gia j tại thời điểm t
M2 j,t thể hiện lượng cung tiền M2 của quốc gia j trong kỳ t
Tỷ lệ tăng trưởng cung tiền dương cho thấy Ngân hàng Trung ương (NHTW) đang thực hiện chính sách tiền tệ mở rộng, nhằm tăng cường cung tiền ra thị trường để đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô Ngược lại, tỷ lệ tăng trưởng cung tiền âm chỉ ra rằng NHTW đang áp dụng chính sách tiền tệ thắt chặt, giảm lượng cung tiền trên thị trường.
Dữ liệu nghiên cứu
3.3.1 Chọn mẫu và nguồn dữ liệu Để thực hiện đánh giá tác động của sự phát triển tài chính lên hiệu quả của chính sách tiền tệ ở các nền kinh tế Châu Á, bài nghiên cứu chọn mẫu nghiên cứu gồm 16 quốc gia ở Châu Á trong giai đoạn từ năm 2005-2015 16 nền kinh tế này bao gồm Hàn Quốc, Trung Quốc, Việt Nam, Thái Lan, Singapore, Malaysia, Indonexia, Philippin, Ấn Độ, Bangladesh, Nepal, Pakistan, Srilanca, Bahrain, Oman và Jordan Đây là các quốc gia có mức độ phát triển tài chính khác nhau trong khu vực Châu Á, đồng thời các quốc gia này có mức độ phát triển của ngân hàng và thị trường tài chính khác nhau
Research data was gathered from publicly available databases provided by the World Bank, including the World Development Indicators (WDI), the International Monetary Fund (IMF), and International Financial Statistics (IFS).
3.3.2 Thống kê mô tả các biến
Giá trị trung bình các biến độc lập và phụ thuộc của mô hình nghiên cứu được thể hiện ở Bảng 3.1 - Giá trị trung bình các biến:
Bảng 3.1 – Giá trị trung bình các biến
QG Δy Δp Δm fd1 fd2 fd3 Ấn Độ 0.01937 0.00621 0.02853 3.96410 0.66606 3.29805 Bahrain 0.02275 0.01917 0.02697 4.01468 0.69972 3.31497 Bangladesh 0.02835 0.20588 0.03779 0.97690 0.55511 0.42179 Hàn Quốc 0.01435 0.00616 0.01964 6.23590 1.54518 4.69072 Indonesia 0.02888 0.01565 0.02874 2.48207 0.39861 2.08346 Jordan 0.02677 0.20382 0.02588 7.00098 1.09895 5.90203 Malaysia 0.01984 0.00580 0.02222 6.94117 1.24485 5.69632 Nepal 0.02293 0.02050 0.03575 1.78178 0.64368 1.13809 Oman 0.02265 0.00941 0.03433 1.81602 0.38701 1.42901 Pakistan 0.02362 0.02386 0.02516 1.48479 0.48149 1.00330 Philippin 0.02610 0.00948 0.03342 3.83433 0.51430 3.32003 Singapore 0.02141 0.00633 0.02764 7.70085 0.90795 6.79289 Skilanca 0.03110 0.02063 0.03022 1.52003 0.49783 1.02220 Thái Lan 0.01874 0.00572 0.02397 4.69992 1.43864 3.26128
Thống kê mô tả các biến số của 16 quốc gia ở Châu Á trong giai đoạn 2005-
Bảng 3.2 năm 2015 cung cấp thống kê mô tả với các chỉ số quan trọng như số trung bình, số trung vị, giá trị nhỏ nhất, giá trị lớn nhất và độ lệch chuẩn, giúp tóm tắt và phân tích dữ liệu một cách hiệu quả.
Bảng 3.2 – Thống kê mô tả
Biến Mean Median Min Max St.dev Δy 0.0273 0.0160 -0.3792 0.4276 0.0794 Δp 0.0366 0.0093 -0.9008 9.3467 0.4957 Δm 0.0311 0.0289 -0.2966 0.4283 0.0563 fd1 3.9908 3.5846 0.6724 17.6476 2.5422 fd2 1.0533 0.7111 0.2893 6.6948 0.9593 fd3 2.9375 2.1639 0.0250 17.2776 2.3724
Bảng 3.1 cho thấy giá trị trung bình của biến fd1, đại diện cho mức độ phát triển chung của hệ thống tài chính, khác nhau rõ rệt giữa các nền kinh tế, với giá trị dao động từ 0,97 ở Bangladesh đến 7,70 ở Singapore Điều này phản ánh sự khác biệt trong mức độ phát triển tài chính của các quốc gia.
Singapore, Jordan, Malaysia và Hàn Quốc sở hữu hệ thống tài chính phát triển vượt trội hơn so với các nền kinh tế như Bangladesh, Pakistan, Skilanca và Nepal.
Khi so sánh giá trị fd2 (đo lường mức độ phát triển của các trung gian tài chính) và fd3 (đo lường mức độ phát triển của thị trường chứng khoán) giữa các nền kinh tế, chúng ta nhận thấy rằng một số quốc gia như Việt Nam và Thái Lan có giá trị fd2 cao nhưng giá trị fd3 lại chỉ ở mức trung bình hoặc thấp, cho thấy hệ thống tài chính của họ chủ yếu dựa vào ngân hàng Ngược lại, các quốc gia như Singapore và Malaysia, với hệ thống tài chính dựa vào thị trường chứng khoán, cho thấy sự phụ thuộc lớn vào thị trường chứng khoán để cung cấp vốn cho nền kinh tế thông qua cổ phiếu, trái phiếu và các sản phẩm tài chính khác.
Giá trị trung bình của các biến số fd1, fd2, fd3 cho thấy mỗi biến số trong nghiên cứu đều có giá trị riêng, góp phần cung cấp cái nhìn toàn diện về sự phát triển của hệ thống tài chính ở từng nền kinh tế.
Quy mô và sự khác biệt của các biến số trong Bảng 3.1 chỉ ra rằng phát triển tài chính có thể ảnh hưởng đáng kể đến hiệu quả của chính sách tiền tệ Sự khác biệt về mức độ phát triển tài chính giữa các nền kinh tế có thể là nguyên nhân dẫn đến sự khác nhau trong tác động của chính sách tiền tệ đối với tỷ lệ tăng trưởng GDP.
Hai phương pháp phân tích hồi quy thực nghiệm
Nghiên cứu này nhằm kiểm tra tác động của sự phát triển tài chính đối với hiệu quả của chính sách tiền tệ tại 16 nền kinh tế Châu Á trong giai đoạn 2005 - 2015 Sau khi thiết lập các mô hình hồi quy thực nghiệm, bài nghiên cứu áp dụng hai phương pháp để phân tích dữ liệu.
3.4.1 Phương pháp phân tích hồi quy thứ nhất
Bài nghiên cứu dựa trên phương pháp của Ma và Lin (2016) đã phân chia 16 nền kinh tế thành hai nhóm dựa trên mức độ phát triển tài chính, sử dụng chỉ số phát triển tài chính tổng thể fd1 trong giai đoạn 2005-2015 Nhóm “HFD” bao gồm 8 nền kinh tế có mức độ phát triển tài chính cao, trong khi nhóm “LFD” bao gồm 8 nền kinh tế có mức độ phát triển tài chính thấp hơn.
Bài nghiên cứu thực hiện hồi quy theo hai phương trình để đánh giá tác động của chính sách tiền tệ đến tăng trưởng tổng sản lượng quốc nội và tỷ lệ lạm phát Kết quả so sánh hệ số hồi quy của tỷ lệ tăng trưởng cung tiền giữa các nhóm với mức độ phát triển tài chính khác nhau cho thấy rằng nhóm các nước có phát triển tài chính cao hơn thường có hệ số hồi quy nhỏ hơn Điều này chỉ ra rằng có mối quan hệ ngược chiều giữa phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ, nghĩa là khi hệ thống tài chính phát triển, hiệu quả của chính sách tiền tệ sẽ giảm.
Nghiên cứu của Ma và Lin (2016) đã chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa sự phát triển của hệ thống tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ Theo đó, nghiên cứu kỳ vọng giá trị hệ số hồi quy của biến tỷ lệ tăng trưởng cung tiền sẽ cao hơn ở nhóm các nước có mức độ phát triển tài chính thấp hơn (LFD) so với nhóm các nước có mức độ phát triển tài chính cao hơn (HFD).
3.4.2 Phương pháp phân tích hồi quy thứ hai
Bài nghiên cứu này nhằm đánh giá tác động của sự phát triển tài chính đối với hiệu quả chính sách tiền tệ bằng cách thiết lập phương pháp đánh giá thứ hai, nâng cao tính vững mạnh so với phương pháp đầu tiên Dựa trên nghiên cứu của Ma và Lin (2016), tác giả đưa biến phát triển tài chính vào mô hình hồi quy để cụ thể hóa tác động này Phân tích được thực hiện thông qua các phương trình hồi quy (5), (6) với dữ liệu bảng của 16 quốc gia ở Châu Á trong giai đoạn 2005-2015.
Kết quả hồi quy từ phương trình (5) và (6) cho thấy giá trị hệ số hồi quy của biến tương tác fd j,t-i Δm j,t-i, phản ánh mối quan hệ giữa sự phát triển tài chính và hiệu quả của chính sách tiền tệ Nếu hệ số hồi quy âm, điều này chỉ ra rằng hiệu quả của chính sách tiền tệ và sự phát triển tài chính có mối quan hệ ngược chiều Ngược lại, nếu hệ số hồi quy dương, điều này cho thấy hiệu quả của chính sách tiền tệ và sự phát triển tài chính có mối quan hệ cùng chiều.
Theo nghiên cứu của Ma và Lin (2016), sự phát triển của hệ thống tài chính có ảnh hưởng ngược lại đến hiệu quả của chính sách tiền tệ Do đó, nghiên cứu kỳ vọng rằng kết quả hồi quy của biến tương tác fd j,t-i Δm j,t-i sẽ có dấu âm.
Bài nghiên cứu sẽ thực hiện hồi quy thực nghiệm các phương trình (5), (6) theo ba phương trình (i), (ii), (iii), sử dụng các biến đại diện cho mức độ phát triển tài chính là fd1, fd2, fd3 Qua đó, nghiên cứu sẽ so sánh mối quan hệ giữa sự phát triển của các trung gian tài chính và thị trường chứng khoán với hiệu quả của chính sách tiền tệ Để đánh giá định lượng mối quan hệ này, các mô hình hồi quy sẽ được ước lượng bằng cách sử dụng các biến đã được chuẩn hoá, nhằm đảm bảo tính chính xác trong phân tích.