1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam

74 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Tác Động Của Các Yếu Tố Đặc Trưng Tới Thanh Khoản Của Hệ Thống Ngân Hàng Thương Mại Tại Việt Nam
Tác giả Bùi Thị Ngọc Lan
Người hướng dẫn TS. Trần Thị Quế Giang
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Thành Phố Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Chính sách công
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2016
Thành phố Thành phố Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 74
Dung lượng 1,26 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1 GIỚI THIỆU (18)
    • 1.1 Bối cảnh nghiên cứu (14)
    • 1.2 Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu (16)
    • 1.3 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (17)
    • 1.4 Phương pháp nghiên cứu và các nguồn thông tin (17)
    • 1.5 Cấu trúc của luận văn (17)
  • CHƯƠNG 2 CƠ SỞ LÝ THUYẾT (30)
    • 2.1 Các khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản (18)
    • 2.2 Các phương pháp đo lường thanh khoản (19)
      • 2.2.1 Các nghiên cứu trước khủng hoảng tài chính 2007 – 2008 (19)
      • 2.2.2 Quy định của Basel (20)
      • 2.2.3 Các quy định của Việt Nam (21)
    • 2.3 Nguyên nhân của rủi ro thanh khoản (23)
    • 2.4 Các yếu tố tác động tới thanh khoản (25)
      • 2.4.1 Quy mô ngân hàng và thanh khoản (25)
      • 2.4.2 Vốn chủ sở hữu và thanh khoản (26)
      • 2.4.4 Tỷ lệ cho vay trung dài hạn và thanh khoản (28)
      • 2.4.5 Rủi ro tín dụng và thanh khoản (28)
  • CHƯƠNG 3 MÔ TẢ DỮ LIỆU (45)
    • 3.1 Nguồn dữ liệu (30)
    • 3.2 Mô tả dữ liệu (30)
      • 3.2.1 Thanh khoản của các ngân hàng (30)
      • 3.2.2 Quy mô ngân hàng (32)
      • 3.2.3 Vốn chủ sở hữu (33)
      • 3.2.4 Tăng trưởng cho vay (0)
      • 3.2.5 Tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng cho vay (37)
      • 3.2.6 Nợ xấu (39)
    • 3.3 Mô hình nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu (41)
      • 3.3.1 Mô hình nghiên cứu đề xuất (41)
      • 3.3.2 Phương pháp ước lượng mô hình (44)
  • CHƯƠNG 4 KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG VÀ KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH (59)
    • 4.1 Kết quả ước lượng và kiểm định mô hình (45)
    • 4.2 Phân tích và thảo luận kết quả (48)
      • 4.2.1 Tác động của tăng trưởng cho vay đến thanh khoản (48)
      • 4.2.2 Tác động của tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay đến thanh khoản (51)
      • 4.2.3 Tác động của quy mô ngân hàng, vốn chủ sở hữu, nợ xấu tới thanh khoản (0)
  • CHƯƠNG 5 KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH (0)
    • 5.1 Kết luận (59)
    • 5.2 Khuyến nghị chính sách (59)
      • 5.2.1 Đối với Ngân hàng nhà nước (59)
      • 5.2.2 Đối với Ngân hàng thương mại (0)
  • Hinh 3.11 Thống kê mô tả biến MLTD (0)

Nội dung

GIỚI THIỆU

Bối cảnh nghiên cứu

Ngân hàng hoạt động chủ yếu trong lĩnh vực nhận tiền gửi và cho vay, tuy nhiên, trong quá trình kinh doanh, họ phải đối mặt với nhiều loại rủi ro, trong đó rủi ro thanh khoản là một thách thức quan trọng.

Mất thanh khoản có thể gây ra những hệ lụy nghiêm trọng cho cả ngân hàng và xã hội Khi ngân hàng không thể đáp ứng nhu cầu rút tiền của người gửi, điều này sẽ khiến họ cảm thấy hoang mang và mất niềm tin Hơn nữa, việc ngân hàng không giải ngân được các khoản tín dụng sẽ làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, gây khó khăn trong việc duy trì và phát triển.

Thiếu thanh khoản khiến các ngân hàng phải tăng cường huy động vốn, dẫn đến lãi suất huy động và lãi suất cấp tín dụng gia tăng Khi lãi suất tiền gửi tăng, nguồn tiền chủ yếu được gửi vào ngân hàng thay vì được sử dụng cho tiêu dùng và đầu tư Lãi suất tín dụng cao làm tăng chi phí hoạt động của doanh nghiệp, từ đó đẩy giá thành sản phẩm và dịch vụ lên cao, gây ra lạm phát và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống người dân Mặc dù chi phí đầu vào tăng, nhưng tiêu dùng giảm khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm, dẫn đến việc giảm quy mô đầu tư và ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.

Rủi ro thanh khoản đã xảy ra cả ở Việt Nam và trên thế giới, đặc biệt là cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn tại Mỹ vào tháng 8 năm 2007 Cuộc khủng hoảng bắt nguồn từ sự bùng nổ tín dụng bất động sản, dẫn đến sự vỡ bong bóng bất động sản và gia tăng nợ xấu, khiến thị trường tài chính Mỹ rơi vào khủng hoảng thanh khoản Để ngăn chặn sự sụp đổ của hệ thống tài chính, chính phủ Mỹ đã phải thực hiện các biện pháp can thiệp quy mô lớn chưa từng có.

Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2015 đã chỉ ra rằng sự thiếu chú trọng đến thanh khoản là nguyên nhân chính dẫn đến sự sụp đổ của nhiều ngân hàng Tình huống này đã phơi bày những lỗ hổng trong công tác quản lý thanh khoản của hệ thống ngân hàng Mỹ và toàn cầu.

Sau khủng hoảng tài chính 2008, Uỷ ban giám sát ngân hàng Basel đã ban hành Basel III với mục tiêu nâng cao quản trị rủi ro cho ngân hàng Basel III không chỉ yêu cầu vốn chặt chẽ hơn mà còn thiết lập tiêu chuẩn về thanh khoản cho hệ thống ngân hàng thương mại Khuôn khổ quản lý rủi ro thanh khoản bao gồm chỉ số đảm bảo thanh khoản (liquidity coverage ratio) chính thức áp dụng từ năm 2015 và chỉ số tài trợ ổn định ròng (net stable funding ratio) dự kiến áp dụng từ năm 2018.

Trong giai đoạn 2008-2011, hệ thống ngân hàng thương mại tại Việt Nam đã phải đối mặt với tình trạng thiếu thanh khoản nghiêm trọng, dẫn đến các cuộc đua lãi suất Lãi suất qua đêm liên ngân hàng đã đạt mức kỷ lục 27%/năm, trong khi nhiều ngân hàng trả lãi suất huy động lên đến 23%/năm, vượt xa mức trần 14%/năm Sự gia tăng huy động vàng và ngoại tệ nhằm bù đắp thiếu hụt tiền đồng cho thấy áp lực thanh khoản trong hệ thống Nguyên nhân chủ yếu được cho là do tăng trưởng tín dụng quá nóng, đặc biệt trong các lĩnh vực chứng khoán và bất động sản, cùng với cơ cấu đầu tư không hợp lý và tỷ lệ nợ xấu gia tăng Hơn nữa, những yếu kém trong quản trị thanh khoản và công tác dự báo thị trường cũng góp phần vào tình trạng khó khăn này.

Giai đoạn căng thẳng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam đã qua, nhưng rủi ro thanh khoản vẫn có thể tái diễn Vào cuối năm 2014, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã ban hành Thông tư 36/2014/TT-NHNN nhằm thúc đẩy tăng trưởng tín dụng, quy định các giới hạn và tỷ lệ bảo đảm an toàn cho các tổ chức tín dụng và chi nhánh ngân hàng nước ngoài Thông tư 36 có hiệu lực từ ngày 1/2/2015, cho phép các ngân hàng thương mại sử dụng đến 60% vốn ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn, gấp đôi so với quy định trước đó.

Theo thống kê của NHNN, tính đến tháng 11/2015, tổng dư nợ tín dụng cả nước đạt 4.586 nghìn tỷ đồng, tăng 15,5% so với cùng kỳ năm 2014 Đặc biệt, tín dụng trung dài hạn ghi nhận mức tăng nhanh 29%, chiếm gần 50% tổng dư nợ tín dụng.

Đến cuối năm 2015, tổng dư nợ tín dụng tại TP Hồ Chí Minh đạt hơn 1,23 triệu tỉ đồng, tăng 15,6% so với năm 2014 Trong đó, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 57,6% tổng dư nợ, đạt khoảng 711 nghìn tỷ đồng, tăng 28,7% Tại Hà Nội, tổng dư nợ cho vay cũng ghi nhận con số 1.208 nghìn tỷ đồng, tăng 19,5% so với năm trước.

2014, trong đó dư nợ ngắn hạn tăng 17,9%, dư nợ trung dài hạn tăng 22,3% (Cục thống kê TP

Sự ra đời của Thông tư 36 và tình hình tín dụng gần đây đã khiến các chuyên gia lo ngại về rủi ro thanh khoản trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam, đặc biệt do sự tập trung vào cho vay trung dài hạn Chỉ sau hơn một năm, Ngân hàng Nhà nước đã phải sửa đổi Thông tư 36/2014/TT-NHNN bằng Thông tư 06/2016/TT-NHNN, trong đó giảm tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn từ 60% xuống 50% vào ngày 1/1/2017 và 40% vào ngày 1/1/2018.

Rủi ro thanh khoản có thể xảy ra bất cứ lúc nào, do đó cần thiết phải có cơ chế phòng ngừa hiệu quả Nghiên cứu này đặt ra câu hỏi về sự cần thiết của việc sửa đổi Thông tư 36 và những lo ngại của các chuyên gia Liệu tăng trưởng tín dụng, đặc biệt là tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng cho vay, có thực sự ảnh hưởng tiêu cực đến khả năng thanh khoản của các ngân hàng hay không?

Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu của đề tài là phân tích các yếu tố đặc trưng của ngân hàng ảnh hưởng đến thanh khoản, đặc biệt là các yếu tố liên quan đến hoạt động cho vay như tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng cho vay Nghiên cứu nhằm đánh giá tác động của Thông tư 36 về việc tăng tỷ lệ cho vay trung dài hạn từ nguồn vốn ngắn hạn đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Đồng thời, đề xuất các biện pháp chính sách cần thiết để hạn chế rủi ro thanh khoản.

Nghiên cứu "Tác động của các yếu tố đặc trưng tới rủi ro thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam" xuất phát từ bối cảnh và mục tiêu cụ thể, nhằm trả lời hai câu hỏi quan trọng về ảnh hưởng của các yếu tố này đối với rủi ro thanh khoản trong ngành ngân hàng.

Tăng trưởng tín dụng và tỷ trọng cho vay trung dài hạn trong tổng cho vay có ảnh hưởng đáng kể đến khả năng thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) Việt Nam Sự gia tăng tín dụng có thể cải thiện khả năng sinh lời của ngân hàng, nhưng cũng đặt ra thách thức về quản lý rủi ro thanh khoản Việc tăng tỷ trọng cho vay trung dài hạn có thể tạo ra áp lực lên nguồn vốn ngắn hạn, ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu rút tiền của khách hàng Do đó, việc cân bằng giữa tăng trưởng tín dụng và quản lý thanh khoản là rất quan trọng để đảm bảo sự ổn định và bền vững của hệ thống NHTM Việt Nam.

- Cần có những giải pháp chính sách gì để ngăn chặn rủi ro thanh khoản xảy ra?

Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của bài viết là các ngân hàng thương mại trong hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Do hạn chế về nguồn số liệu, đề tài sẽ chỉ tập trung phân tích trong khoảng thời gian từ năm 2008 đến nay.

2014 Khoảng thời gian này bao phủ cả giai đoạn căng thẳng thanh khoản 2008-2011 và giai đoạn thanh khoản ổn định sau đó.

Phương pháp nghiên cứu và các nguồn thông tin

Luận văn áp dụng phương pháp nghiên cứu hỗn hợp, kết hợp giữa định lượng và phân tích định tính, nhằm khảo sát ảnh hưởng của các yếu tố đặc trưng ngân hàng đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam Dữ liệu được thu thập theo dạng bảng và sử dụng phương pháp ước lượng mô hình ảnh hưởng cố định (FEM) Nghiên cứu cũng tiến hành kiểm định các vi phạm giả thuyết của mô hình hồi quy tuyến tính cổ điển và phân tích kết quả hồi quy trên mô hình cuối cùng, sau khi đã xử lý các vi phạm.

Nguồn dữ liệu sử dụng trong luận văn được thu thập từ báo cáo tài chính, báo cáo thường niên của các NHTM Việt Nam.

Cấu trúc của luận văn

Luận văn được cấu trúc thành năm phần chính Chương 1 giới thiệu vấn đề nghiên cứu Chương 2 trình bày cơ sở lý thuyết và tổng quan nghiên cứu trước đó về thanh khoản cũng như các yếu tố đặc trưng của ngân hàng ảnh hưởng đến thanh khoản, từ đó đề xuất mô hình và phương pháp nghiên cứu Chương 3 mô tả nguồn dữ liệu và cách thức thu thập Chương 4 trình bày kết quả ước lượng, kiểm định mô hình và phân tích hồi quy Cuối cùng, Chương 5 đưa ra kết luận và khuyến nghị chính sách nhằm cải thiện các yếu tố ảnh hưởng đến thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam.

Thanh khoản là khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền và ngược lại, trong khi ở góc độ doanh nghiệp, nó thể hiện khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn Đối với ngân hàng thương mại, thanh khoản được hiểu là khả năng đáp ứng ngay lập tức các nghĩa vụ tài chính phát sinh từ hoạt động kinh doanh, bao gồm nhu cầu rút tiền gửi, giải ngân tín dụng đã cam kết, thanh toán và các giao dịch tài chính khác (Nguyễn Văn Tiến, 2015).

Theo Duttweiler (2010), “do thực hiện bằng tiền mặt, thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ”

Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không đủ khả năng cung ứng tiền mặt cho các nghĩa vụ tài chính ngay lập tức, hoặc phải huy động vốn với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp Điều này xảy ra khi ngân hàng thiếu quỹ tiền mặt, không thể chuyển đổi tài sản thành tiền mặt kịp thời, hoặc phải chịu chi phí cao khi chuyển đổi, thậm chí không thể thực hiện để đáp ứng các hợp đồng thanh toán.

Basel đã đưa ra nhiều định nghĩa về rủi ro thanh khoản qua các thời kỳ, tập trung vào các khía cạnh khác nhau Vào năm 2000, Ủy ban Basel định nghĩa thanh khoản là khả năng huy động quỹ từ tài sản để đáp ứng nghĩa vụ tài chính đúng hạn Ủy ban cũng đã giới thiệu 14 nguyên tắc quản lý và giám sát thanh khoản, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc thiết kế các giải pháp quản lý thanh khoản hàng ngày Hơn nữa, Basel chỉ ra mối liên hệ giữa rủi ro thanh khoản và các rủi ro khác trong ngân hàng như rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

Năm 2006, Basel hợp nhất các nguyên tắc đề ra năm 2000 Theo cách phân loại của ECB

(2002), Basel phân biệt rủi ro thanh khoản thành rủi ro thanh khoản tài trợ (funding liquidity risk) và rủi ro thanh khoản thị trường (market liquidity risk)

Rủi ro thanh khoản tài trợ xảy ra khi ngân hàng không có đủ vốn để thanh toán các khoản nợ đến hạn Rủi ro này phụ thuộc vào khả năng tiếp cận các nguồn thanh khoản, bao gồm tiền gửi từ khách hàng, khả năng bán tài sản trên thị trường, hoặc tạo thanh khoản thông qua chứng khoán hóa Ngoài ra, ngân hàng thương mại cũng có thể tìm kiếm nguồn thanh khoản từ thị trường liên ngân hàng hoặc vay trực tiếp từ ngân hàng trung ương.

Rủi ro thanh khoản thị trường xảy ra khi ngân hàng không thể nhanh chóng bán tài sản của mình với chi phí thấp và ít ảnh hưởng đến giá cả Mức độ phát triển của thị trường là yếu tố quyết định đến rủi ro này.

Tháng 2 năm 2008, Basel xuất bản “Liquidity risk: Management and Supervisory Challenges”, trong đó định nghĩa thanh khoản là khả năng tăng quỹ tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ khi chúng đến hạn, và xem rủi ro thanh khoản là rủi ro mà nhu cầu thanh toán vượt quá khả năng tăng nợ phải trả mới hoặc thanh khoản hóa tài sản

Tháng 9 năm 2008, Basel tiếp tục xuất bản “Principles for sound liquidity risk management and supervision” (“Sound Principles”), trong đó định nghĩa thanh khoản là khả năng mà một ngân hàng tăng quỹ tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không xảy ra các thua lỗ không thể chấp nhận được “Sound Principles” cung cấp những hướng dẫn chi tiết về quản lý rủi ro và giám sát rủi ro thanh khoản tài trợ Basel nhấn mạnh: những nguyên tắc này sẽ giúp hoạt động quản lý rủi ro trở nên tốt hơn, nhưng chỉ khi nó được thực hiện đầy đủ bởi các ngân hàng và các nhà giám sát Để củng cố cho việc thực hiện các nguyên tắc trong “Sound Principles”, tháng 12 năm 2010, Basel xuất bản “Basel III: International framework for liquidity risk measurement, standards and monitoring”, trong đó phát triển hai tiêu chuẩn tối thiểu về thanh khoản tài trợ: chỉ số đảm bảo thanh khoản (LCR) và chỉ số tài trợ ổn định ròng (NSFR), với mục tiêu thúc đẩy khả năng phục hồi thanh khoản trong ngắn hạn và dài hạn cho hệ thống ngân hàng

2.2 Các phương pháp đo lường thanh khoản

2.2.1 Các nghiên cứu trước khủng hoảng tài chính 2007-2008

Trước cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007–2008, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về thanh khoản ngân hàng và rủi ro thanh khoản Dù có nhiều tỷ lệ đo lường thanh khoản được đề xuất, nhưng vẫn chưa đạt được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu.

Vodova (2011) đã chỉ ra hai phương pháp chính để đo lường thanh khoản: khe hở thanh khoản và các tỷ lệ thanh khoản Khe hở thanh khoản thể hiện sự chênh lệch giữa tài sản có và nợ phải trả trong hiện tại và tương lai, với khe hở dương cho thấy sự thiếu hụt thanh khoản Ngoài ra, Vodova đã xác định một số tỷ lệ đo lường rủi ro thanh khoản, bao gồm tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tiền gửi và vay mượn ngắn hạn, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, và tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi và tài trợ ngắn hạn Các tỷ lệ này giúp nhận diện các xu hướng thanh khoản quan trọng và đã được nhiều tác giả khác áp dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm.

Trong nghiên cứu của Federico (2012) về phát triển chỉ số đo lường rủi ro thanh khoản, tác giả đã chỉ ra một số tỷ lệ phổ biến như: tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ cho vay trên tài sản, và tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn trên tổng vốn huy động Các tỷ lệ này được tính toán từ số liệu trên bảng cân đối kế toán, với một số tỷ lệ tập trung vào tài sản và một số khác vào nợ phải trả, cũng như một số kết hợp cả hai Federico nhấn mạnh rằng những tỷ lệ phản ánh mối tương quan giữa thanh khoản của tài sản và nợ phải trả là phù hợp và tổng hợp hơn.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007–2008 đã chỉ ra rằng các ngân hàng cần cải thiện các mô hình dự báo để quản lý thanh khoản hiệu quả hơn Để khắc phục vấn đề này, vào tháng 12 năm 2010, Ủy ban Basel đã công bố các nguyên tắc và hướng dẫn mới trong khuôn khổ Basel III, nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý thanh khoản Hai tỷ lệ mới được định nghĩa để đo lường thanh khoản là tỷ lệ đảm bảo thanh khoản, đánh giá rủi ro thanh khoản ngắn hạn, và tỷ lệ tài trợ ổn định ròng, đo lường rủi ro thanh khoản dài hạn.

Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR) nhằm tăng cường khả năng phục hồi thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng, đảm bảo rằng ngân hàng giữ đủ tài sản có thanh khoản chất lượng cao Những tài sản này có khả năng chuyển đổi thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong vòng 30 ngày khi gặp phải tình trạng căng thẳng thanh khoản nghiêm trọng.

Tỷ lệ này phải lớn hơn hoặc bằng 100%

Tài sản có thanh khoản chất lượng cao được xác định bởi các đặc điểm như rủi ro tín dụng và thị trường thấp, dễ định giá, và hệ số tương quan thấp với các tài sản rủi ro Những tài sản này thường được niêm yết trên các thị trường giao dịch phát triển và được công nhận rộng rãi Thêm vào đó, để được coi là tài sản có thanh khoản chất lượng cao, thị trường phải có quy mô lớn và năng động, có sự hiện diện của các nhà tạo lập thị trường quyết tâm, cùng với mức độ tập trung thị trường thấp và định hướng đến chất lượng.

Tổng luồng tiền ra ròng được xác định bằng cách trừ tổng luồng tiền vào dự kiến (dưới 75% tổng luồng tiền ra dự kiến) từ tổng luồng tiền ra dự kiến.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Các khái niệm về thanh khoản và rủi ro thanh khoản

Thanh khoản là khả năng chuyển đổi tài sản thành tiền và ngược lại Đối với doanh nghiệp, thanh khoản thể hiện khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn Đặc biệt, đối với ngân hàng thương mại, thanh khoản là khả năng đáp ứng ngay lập tức các nghĩa vụ tài chính, bao gồm rút tiền gửi, giải ngân tín dụng đã cam kết, và thực hiện các giao dịch tài chính khác.

Theo Duttweiler (2010), “do thực hiện bằng tiền mặt, thanh khoản chỉ liên quan đến các dòng lưu chuyển tiền tệ”

Rủi ro thanh khoản là tình trạng ngân hàng không thể cung cấp đủ tiền mặt cho các nghĩa vụ tài chính ngay lập tức, hoặc phải huy động vốn với chi phí cao hoặc bán tài sản với giá thấp Điều này xảy ra khi ngân hàng thiếu khả năng chi trả do không có đủ quỹ tiền mặt, không thể chuyển đổi kịp thời các tài sản thành tiền mặt, hoặc phải chịu chi phí cao để thực hiện việc chuyển đổi, thậm chí có thể không đáp ứng được yêu cầu thanh toán theo hợp đồng.

Basel và các tác giả đã đưa ra nhiều định nghĩa khác nhau về rủi ro thanh khoản qua các thời kỳ Năm 2000, Ủy ban Basel xác định thanh khoản là khả năng tăng quỹ từ tài sản và đáp ứng nghĩa vụ khi đến hạn Ủy ban cũng đã giới thiệu 14 nguyên tắc quan trọng về quản lý và giám sát thanh khoản, nhấn mạnh việc thiết kế các giải pháp quản lý thanh khoản hàng ngày Hơn nữa, Basel chỉ ra mối liên hệ giữa rủi ro thanh khoản và các rủi ro khác trong ngân hàng, bao gồm rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường và rủi ro hoạt động.

Năm 2006, Basel hợp nhất các nguyên tắc đề ra năm 2000 Theo cách phân loại của ECB

(2002), Basel phân biệt rủi ro thanh khoản thành rủi ro thanh khoản tài trợ (funding liquidity risk) và rủi ro thanh khoản thị trường (market liquidity risk)

Rủi ro thanh khoản tài trợ xảy ra khi ngân hàng không có đủ vốn để thanh toán các khoản nợ đến hạn Rủi ro này phụ thuộc vào khả năng tiếp cận nguồn thanh khoản, bao gồm tiền gửi từ khách hàng, khả năng bán tài sản trên thị trường, chứng khoán hóa, vay mượn từ thị trường liên ngân hàng hoặc trực tiếp từ ngân hàng trung ương.

Rủi ro thanh khoản thị trường xảy ra khi ngân hàng không thể bán tài sản của mình nhanh chóng, với chi phí thấp và ít ảnh hưởng đến giá cả Mức độ phát triển của thị trường ảnh hưởng trực tiếp đến rủi ro này.

Tháng 2 năm 2008, Basel xuất bản “Liquidity risk: Management and Supervisory Challenges”, trong đó định nghĩa thanh khoản là khả năng tăng quỹ tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ khi chúng đến hạn, và xem rủi ro thanh khoản là rủi ro mà nhu cầu thanh toán vượt quá khả năng tăng nợ phải trả mới hoặc thanh khoản hóa tài sản

Tháng 9 năm 2008, Basel tiếp tục xuất bản “Principles for sound liquidity risk management and supervision” (“Sound Principles”), trong đó định nghĩa thanh khoản là khả năng mà một ngân hàng tăng quỹ tài sản và đáp ứng các nghĩa vụ đến hạn mà không xảy ra các thua lỗ không thể chấp nhận được “Sound Principles” cung cấp những hướng dẫn chi tiết về quản lý rủi ro và giám sát rủi ro thanh khoản tài trợ Basel nhấn mạnh: những nguyên tắc này sẽ giúp hoạt động quản lý rủi ro trở nên tốt hơn, nhưng chỉ khi nó được thực hiện đầy đủ bởi các ngân hàng và các nhà giám sát Để củng cố cho việc thực hiện các nguyên tắc trong “Sound Principles”, tháng 12 năm 2010, Basel xuất bản “Basel III: International framework for liquidity risk measurement, standards and monitoring”, trong đó phát triển hai tiêu chuẩn tối thiểu về thanh khoản tài trợ: chỉ số đảm bảo thanh khoản (LCR) và chỉ số tài trợ ổn định ròng (NSFR), với mục tiêu thúc đẩy khả năng phục hồi thanh khoản trong ngắn hạn và dài hạn cho hệ thống ngân hàng.

Các phương pháp đo lường thanh khoản

2.2.1 Các nghiên cứu trước khủng hoảng tài chính 2007-2008

Trước khi xảy ra khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007–2008, có nhiều nghiên cứu tập trung vào thanh khoản ngân hàng và rủi ro thanh khoản Mặc dù đã có nhiều tỷ lệ đo lường thanh khoản được đề xuất, nhưng vẫn chưa đạt được sự đồng thuận giữa các nhà nghiên cứu.

Vodova (2011) chỉ ra hai phương pháp chính để đo lường thanh khoản: khe hở thanh khoản và các tỷ lệ thanh khoản Khe hở thanh khoản là sự chênh lệch giữa tài sản có và nợ phải trả trong hiện tại và tương lai, trong đó khe hở thanh khoản dương cho thấy sự thiếu hụt thanh khoản Ngoài ra, Vodova cũng đề xuất một số tỷ lệ đo lường rủi ro thanh khoản như tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tiền gửi và vay mượn ngắn hạn, tỷ lệ cho vay trên tổng tài sản, và tỷ lệ cho vay trên tổng tiền gửi và tài trợ ngắn hạn Những tỷ lệ này giúp nhận diện các xu hướng thanh khoản quan trọng và đã được nhiều tác giả khác áp dụng trong các nghiên cứu thực nghiệm.

Trong nghiên cứu của Federico (2012) về phát triển chỉ số đo lường rủi ro thanh khoản, tác giả đã chỉ ra một số tỷ lệ phổ biến như tỷ lệ tài sản thanh khoản trên tổng tài sản, tỷ lệ cho vay trên tài sản, và tỷ lệ vốn huy động ngắn hạn trên tổng vốn huy động Những tỷ lệ này được tính toán từ số liệu bảng cân đối kế toán, với một số tập trung vào tài sản, một số vào nợ phải trả, và một số kết hợp cả hai Federico nhấn mạnh rằng các tỷ lệ phản ánh mối quan hệ giữa thanh khoản của tài sản và nợ phải trả là tổng hợp và phù hợp hơn để đánh giá rủi ro thanh khoản.

Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007–2008 đã chỉ ra sự thiếu hụt trong các mô hình dự báo của ngân hàng để quản lý thanh khoản Để khắc phục vấn đề này, vào tháng 12 năm 2010, Ủy ban Basel đã công bố các nguyên tắc và hướng dẫn mới về quản lý thanh khoản trong khuôn khổ Basel III Ủy ban nhấn mạnh tầm quan trọng của quản lý thanh khoản hiệu quả và giới thiệu hai tỷ lệ mới: tỷ lệ đảm bảo thanh khoản, đánh giá rủi ro thanh khoản ngắn hạn, và tỷ lệ tài trợ ổn định ròng, đo lường rủi ro thanh khoản dài hạn.

Tỷ lệ đảm bảo thanh khoản (LCR) nhằm tăng cường khả năng phục hồi thanh khoản ngắn hạn của ngân hàng, bằng cách yêu cầu ngân hàng giữ đủ tài sản có thanh khoản chất lượng cao Những tài sản này cần có khả năng chuyển đổi nhanh chóng thành tiền để đáp ứng nhu cầu thanh khoản trong vòng 30 ngày, đặc biệt trong tình huống căng thẳng thanh khoản nghiêm trọng.

Tỷ lệ này phải lớn hơn hoặc bằng 100%

Tài sản có thanh khoản chất lượng cao được xác định bởi các đặc điểm như rủi ro tín dụng và thị trường thấp, dễ định giá, và hệ số tương quan thấp với các tài sản rủi ro Những tài sản này thường được niêm yết trên các thị trường giao dịch phát triển và được công nhận rộng rãi Thêm vào đó, để được coi là tài sản có thanh khoản chất lượng cao, thị trường phải có quy mô lớn, tính năng động cao, sự hiện diện của các nhà tạo lập thị trường quyết tâm, và mức độ tập trung thị trường thấp, tất cả đều hướng đến chất lượng.

Tổng luồng tiền ra ròng được xác định bằng cách lấy tổng luồng tiền ra dự kiến trừ đi tổng luồng tiền vào dự kiến, với điều kiện tổng luồng tiền vào không vượt quá 75% tổng luồng tiền ra.

Tỷ lệ tài trợ ổn định ròng (NSFR) nhằm tăng cường khả năng phục hồi thanh khoản của ngân hàng trong thời gian dài hơn, cụ thể là từ một năm trở lên Mục tiêu của NSFR là tạo ra nguồn tài chính dài hạn và ổn định, phục vụ cho các hoạt động của ngân hàng.

Tỷ lệ này đảm bảo rằng các tài sản dài hạn được tài trợ bằng một số tài sản nợ ổn định về kỳ hạn, đồng thời liên quan đến danh mục rủi ro thanh khoản Quan trọng là tỷ lệ này phải lớn hơn 100%.

2.2.3 Các quy định của Việt Nam

Tại Việt Nam, việc đo lường thanh khoản được thực hiện dưới dạng quy định các tỷ lệ về khả năng chi trả

Những quy định đầu tiên về quản lý thanh khoản của NHNN được thể hiện qua Quyết định 107/QĐ-NH ngày 09/6/1992, yêu cầu các TCTD duy trì giá trị tài sản động tương đương với các khoản phải chi trả trong 3 ngày làm việc tiếp theo để đảm bảo khả năng chi trả.

Quyết định 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25/8/1999 quy định tỷ lệ khả năng chi trả là tỷ lệ giữa tài sản "Có" có thể thanh toán ngay và tài sản "Nợ" phải thanh toán ngay Tỷ lệ này cần duy trì tối thiểu bằng 1 và được kiểm tra hàng ngày.

Quyết định 457/2005/QĐ-NHNN ngày 19/4/2005 đã thiết lập các quy định chi tiết về quản lý thanh khoản, yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) phải xây dựng quy định nội bộ về khả năng chi trả và thành lập bộ phận chuyên trách Quyết định này quy định hai tỷ lệ khả năng chi trả: thứ nhất, tỷ lệ giữa tài sản "Có" có thể thanh toán ngay và tài sản "Nợ" đến hạn trong 1 tháng, tối thiểu 25%; thứ hai, tỷ lệ giữa tổng tài sản "Có" có thể thanh toán trong 7 ngày và tổng tài sản "Nợ" phải thanh toán trong 7 ngày, tối thiểu 1.

Thông tư 13/2010/TT-NHNN ngày 20/5/2010 quy định chi tiết về quản lý khả năng chi trả, giữ nguyên yêu cầu tỷ lệ tối thiểu 1 giữa tổng tài sản “Có” đến hạn thanh toán trong 7 ngày và tổng tài sản “Nợ” đến hạn thanh toán trong cùng thời gian Tuy nhiên, Thông tư này khác với quyết định 457 ở chỗ bỏ quy định về tỷ lệ đảm bảo khả năng chi trả trong 1 tháng, thay vào đó yêu cầu tỷ lệ khả năng chi trả ngay, được tính bằng tỷ lệ giữa tổng tài sản “Có” thanh toán ngay và tổng nợ phải trả, với tỷ lệ tối thiểu là 15%.

Thông tư 36/2014/TT-NHNN ban hành ngày 20/11/2014 là quy định mới nhất về quản lý thanh khoản, trong đó quy định hai tỷ lệ quan trọng: tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày và tỷ lệ dự trữ thanh khoản Tỷ lệ khả năng chi trả trong 30 ngày được tính bằng tài sản có tính thanh khoản cao chia cho dòng tiền ra ròng trong 30 ngày tiếp theo Mặc dù tỷ lệ này tương đương với LCR, yêu cầu cụ thể của nó thấp hơn, với mức tối thiểu là 50% đối với VND và 10% đối với ngoại tệ, trong khi LCR yêu cầu tối thiểu 100% mà không phân biệt loại tài sản.

Tỷ lệ khả năng chi trả 30 ngày được tính toán đơn giản hơn so với LCR, vì chưa có phân nhóm cho tài sản thanh khoản chất lượng cao và không sử dụng kỹ thuật chặn để giới hạn mức tối thiểu của dòng tiền ra dự tính.

Nguyên nhân của rủi ro thanh khoản

Nguyễn Văn Tiến (2015) phân chia nguyên nhân rủi ro thanh khoản thành hai nhóm: nguyên nhân tiền đề và nguyên nhân hoạt động Nguyên nhân tiền đề bắt nguồn từ bản chất hoạt động của ngân hàng, khi tiền gửi thường có kỳ hạn ngắn, trong khi khoản vay lại có kỳ hạn dài hơn, dẫn đến sự không trùng khớp về kỳ hạn Điều này khiến ngân hàng có thể không thực hiện được nghĩa vụ khi đến hạn hoặc phải trả chi phí cao Sự không trùng khớp này chỉ thực sự gây ra rủi ro thanh khoản khi có ảnh hưởng của các yếu tố như quy mô, vốn, và cơ cấu sản phẩm của ngân hàng, ảnh hưởng đến chiến lược quản lý thanh khoản (Giannotti, Gibilaro, Mattarocci, 2010) Nếu ngân hàng không dự trữ đủ tài sản thanh khoản cần thiết, rủi ro thanh khoản sẽ gia tăng Ngoài ra, các yếu tố bên ngoài như biến động lãi suất hoặc sự mất niềm tin của khách hàng cũng có thể gây ra rủi ro này Nguyên nhân hoạt động được xác định từ hai phía bảng cân đối kế toán: từ tài sản có khi khách hàng rút tiền theo hợp đồng tín dụng và từ tài sản nợ khi người gửi muốn rút tiền ngay lập tức.

Theo Rochet (2008), có ba nguồn gốc chính của rủi ro thanh khoản Đầu tiên, từ phía tài sản nợ, sự không chắc chắn về số lượng tiền gửi rút ra hoặc việc quay vòng các khoản vay liên ngân hàng có thể xảy ra, đặc biệt khi ngân hàng bị nghi ngờ về khả năng trả nợ hoặc gặp phải tình trạng thiếu hụt thanh khoản tạm thời Thứ hai, từ phía tài sản có, ngân hàng phải đối mặt với sự không chắc chắn về số lượng yêu cầu vay mới trong tương lai Cuối cùng, hoạt động ngoại bảng, bao gồm hạn mức tín dụng và các cam kết khác, cũng tạo ra trạng thái rủi ro cho ngân hàng trên thị trường phái sinh.

Khi nhu cầu rút tiền mặt tăng cao, ngân hàng sẽ đối mặt với khó khăn về thanh khoản, do phần lớn tài sản của họ nằm ở dạng không thanh khoản như các khoản vay và tài sản cố định Người vay thường không sẵn sàng trả nợ trước hạn, khiến ngân hàng buộc phải bán các tài sản không thanh khoản để thu hồi tiền mặt Tuy nhiên, việc bán tài sản với khối lượng lớn có thể dẫn đến tình trạng bị ép giá và thua lỗ Nếu nhiều ngân hàng cùng gặp khó khăn về thanh khoản, việc bán tài sản sẽ trở nên khó khăn hơn, làm giảm khả năng thu hồi tiền mặt.

Ngân hàng có thể tăng lãi suất huy động để thu hút tiền gửi hoặc vay mượn trên thị trường liên ngân hàng nhằm tìm kiếm nguồn thanh khoản Tuy nhiên, khi gặp khó khăn về thanh khoản, uy tín của ngân hàng sẽ giảm, buộc họ phải vay với lãi suất cao Ngân hàng có thể nhận hỗ trợ từ ngân hàng trung ương, nhưng nếu tình hình thanh khoản trở nên nghiêm trọng, quan hệ vay mượn trên thị trường liên ngân hàng có thể dẫn đến rủi ro thanh khoản hệ thống Trong trường hợp này, ngân hàng trung ương cũng không đủ dự trữ để hỗ trợ kịp thời cho tất cả ngân hàng, dẫn đến nguy cơ sụp đổ hệ thống ngân hàng.

Các yếu tố tác động tới thanh khoản

Nghiên cứu về các yếu tố ảnh hưởng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng hiện có hai xu hướng chính Xu hướng đầu tiên tập trung vào các yếu tố đặc trưng của ngân hàng, bao gồm quy mô, vốn, tỷ lệ cho vay, chất lượng tài sản, hiệu quả hoạt động và cấu trúc sở hữu Xu hướng thứ hai phân loại các yếu tố ảnh hưởng thành hai nhóm: nhóm yếu tố đặc trưng ngân hàng và nhóm yếu tố vĩ mô như tăng trưởng, lạm phát, thay đổi cung tiền và tỷ lệ thất nghiệp Nghiên cứu này sẽ chỉ tập trung vào các yếu tố đặc trưng của ngân hàng.

2.4.1 Quy mô ngân hàng và thanh khoản

Quy mô ngân hàng có ảnh hưởng đáng kể đến chiến lược quản lý thanh khoản và khả năng thanh khoản của ngân hàng Theo lý thuyết, ngân hàng lớn thường có thanh khoản tốt hơn nhờ vào tổng tài sản lớn, danh tiếng mạnh, mạng lưới rộng và khả năng tiếp cận thị trường liên ngân hàng hiệu quả Tuy nhiên, Vodova (2011) lại cho rằng ngân hàng lớn có thể có thanh khoản kém hơn do vấn đề rủi ro đạo đức và ít động cơ nắm giữ tài sản thanh khoản, dẫn đến việc chấp nhận rủi ro cao hơn.

Các nghiên cứu thực nghiệm về quy mô ngân hàng chủ yếu tập trung vào tổng tài sản Malik và Rafique (2013) cùng Melese và Laximikantham (2015) chỉ ra rằng tổng tài sản có tác động tích cực đến thanh khoản, trong khi Vodova (2011) cho rằng mối quan hệ này không rõ ràng Tại Việt Nam, Trương Quang Thông (2013) khẳng định tổng tài sản ảnh hưởng phi tuyến đến rủi ro thanh khoản Tuy nhiên, Vũ Đình Ánh (2011) và Trần Phan Huy Hiệu (2015) cho rằng rủi ro thanh khoản chủ yếu xuất phát từ các ngân hàng nhỏ và có khả năng lan truyền đến toàn bộ hệ thống.

Giả thuyết 1: Quy mô ngân hàng tác động cùng chiều với thanh khoản của các ngân hàng 2.4.2 Vốn chủ sở hữu và thanh khoản

Nhiều quy định hiện hành yêu cầu ngân hàng phải có vốn cao để giảm thiểu rủi ro tín dụng và thanh khoản Theo lý thuyết hấp thụ rủi ro, vốn cao giúp ngân hàng cải thiện khả năng tạo ra thanh khoản Vốn được xem là nguồn quỹ tự có, bao gồm vốn cổ phần và lợi nhuận để lại, khác với các khoản vay mượn Vốn đại diện cho khả năng của ngân hàng trong việc hấp thụ rủi ro Nếu ngân hàng chỉ dựa vào các khoản vay mượn mà không có vốn, nó sẽ không thể hoàn trả khi gặp thua lỗ Ngược lại, nếu ngân hàng có vốn, khi xảy ra thua lỗ, chỉ cần giảm cơ sở vốn mà vẫn duy trì khả năng trả nợ.

(2005) nhấn mạnh rằng vốn ngân hàng hấp thụ rủi ro và mở rộng khả năng chịu đựng rủi ro của ngân hàng

Yêu cầu về vốn chủ sở hữu không chỉ giảm rủi ro thanh khoản mà còn hạn chế rủi ro đạo đức Khi ngân hàng phụ thuộc nhiều vào vốn của cổ đông, họ sẽ phải chịu áp lực lớn hơn trong việc sử dụng vốn một cách hiệu quả và thận trọng hơn trong các quyết định liên quan đến rủi ro.

Nghiên cứu của Bunda và Desquilbet (2008) về 1107 ngân hàng thương mại tại các nền kinh tế mới nổi cho thấy chỉ số vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản có mối quan hệ tích cực với thanh khoản Kết quả này cũng được xác nhận bởi các nghiên cứu của Vodova (2011) và Cucinelli (2013).

Giả thuyết 2: Vốn chủ sở hữu có tác động cùng chiều với thanh khoản của các ngân hàng

2.4.3 Tăng trưởng cho vay và thanh khoản

Nhiều nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng danh mục cho vay trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng là tài sản lớn nhất và nguồn doanh thu chủ yếu Cho vay không chỉ là dịch vụ mang lại lợi nhuận cao mà còn chứa đựng nhiều rủi ro, vì các khoản vay là tài sản không thanh khoản Theo Eakins (2008), khối lượng thanh khoản của ngân hàng bị ảnh hưởng lớn bởi nhu cầu vay, quyết định sự tăng trưởng cho vay Khi nhu cầu vay yếu, ngân hàng thường giữ nhiều tài sản thanh khoản ngắn hạn, trong khi khi nhu cầu vay cao, họ có xu hướng cho vay trung dài hạn để tối đa hóa lợi nhuận.

Tăng trưởng cho vay có tác động tiêu cực đến thanh khoản ngân hàng, như đã chỉ ra bởi Weisel, Harm và Brandley (2003) Al-Khouri (2012) cũng đồng tình với quan điểm này, cho rằng nguyên nhân chính là sự gia tăng khoảng trống và sự không khớp về kỳ hạn giữa tiền gửi và tiền vay Điều này khiến ngân hàng dễ bị tổn thương trước các cú sốc thanh khoản từ tài sản nợ trên bảng cân đối kế toán Nếu một tỷ lệ lớn người gửi tiền đồng loạt rút tiền mặt, ngân hàng sẽ phải bán các tài sản không thanh khoản, dẫn đến việc tài sản mất giá và trong trường hợp nghiêm trọng, có thể dẫn đến tình trạng thiếu khả năng trả nợ.

Nghiên cứu của Bonfim và Kim (2011) chỉ ra rằng các ngân hàng chuyên cho vay với tỷ lệ cho vay ròng trên tổng tài sản cao thường có chỉ số vay mượn liên ngân hàng và chỉ số thanh khoản thấp hơn, khiến chúng dễ bị tổn thương trước rủi ro thanh khoản Tương tự, nghiên cứu của Aspachs, Nier, và Tiesset (2005) cho thấy các ngân hàng có sự tăng trưởng cho vay mạnh mẽ thường giảm nắm giữ tài sản thanh khoản, từ đó làm gia tăng rủi ro thanh khoản.

Giả thuyết 3: Tăng trưởng cho vay tác động nguọc chiều với thanh khoản của các ngân hàng

2.4.4 Tỷ lệ cho vay trung dài hạn và thanh khoản

Rủi ro thanh khoản xuất phát từ sự không khớp về kỳ hạn giữa tiền gửi và tiền vay, khi mà tiền gửi thường ngắn hạn trong khi các khoản vay lại dài hạn Các khoản vay trung và dài hạn được coi là tài sản kém thanh khoản, dẫn đến việc tỷ lệ cho vay trung và dài hạn tăng lên sẽ làm giảm khả năng thanh khoản và gia tăng rủi ro thanh khoản Hiện tại, chưa có nghiên cứu thực nghiệm nào sử dụng biến này làm biến độc lập Nghiên cứu của Giannotti, Gibilaro và Mattarocci đã chỉ ra những vấn đề này.

Năm 2010, nghiên cứu đánh giá khả năng nhiễm rủi ro thanh khoản của các ngân hàng chuyên cho vay bất động sản và không chuyên tại Italia, sử dụng biến cho vay trung dài hạn dưới dạng tổng giá trị các khoản vay Nghiên cứu của Gibilaro và Mattarocci (2013) đã phân tích tác động của hoạt động cho vay bất động sản tới rủi ro ngân hàng, với biến độc lập là tỷ lệ phần trăm cho vay bất động sản trên tổng cho vay Luận văn này nhằm đánh giá tác động của Thông tư 36 tới hoạt động cho vay, đặc biệt là sự gia tăng mạnh dư nợ trung dài hạn, và ảnh hưởng của nó đến thanh khoản hệ thống ngân hàng Do đó, biến tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay đã được đưa vào mô hình để xem xét khối lượng cho vay theo kỳ hạn.

Giả thuyết 4: Tỷ lệ cho vay trung dài hạn trên tổng cho vay tác động ngược chiều với thanh khoản

2.4.5 Rủi ro tín dụng và thanh khoản

Ericsson và Renault (2006) cho rằng cho vay là hoạt động rủi ro nhất của ngân hàng do khả năng rủi ro tín dụng có thể gây thiếu hụt thanh khoản Khi rủi ro tín dụng gia tăng, rủi ro thanh khoản cũng theo đó tăng lên, thể hiện mối quan hệ chặt chẽ giữa hai yếu tố này Mô hình trung gian tài chính, như Diamond và Dybvig (1983) chỉ ra, xem ngân hàng như một hồ chứa thanh khoản cho người gửi và người vay, từ đó củng cố sự giàu có của nền kinh tế Ngân hàng kiếm lợi từ việc nhận tiền gửi và cho vay, nhưng vấn đề phát sinh khi nhiều dự án không trả được nợ, dẫn đến rủi ro thanh khoản tăng do giảm luồng tiền mặt và giá trị tài sản Sự lo lắng của người gửi tiền khiến họ rút tiền, tạo ra một vòng luẩn quẩn: rủi ro tín dụng cao làm giảm thanh khoản, và nhu cầu rút tiền từ người gửi càng tăng lên (Ejoh, Okpa, Eniang, 2014).

Trong nghiên cứu thực nghiệm, rủi ro tín dụng được đo bằng tỷ lệ nợ xấu trên tổng dư nợ hoặc dự phòng rủi ro tín dụng Theo Thông tư 02/2013/TT-NHNN, nợ xấu bao gồm các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5, thường là các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày trở lên Nghiên cứu của Roman và Sargu (2013) sử dụng dữ liệu từ một loạt ngân hàng ở các nước CEE (Bulgaria, Czech, Hungary, Latvia, Lithuania, Romania, Poland) trong giai đoạn 2004-2011 cho thấy rằng nợ xấu có tác động cùng chiều với rủi ro thanh khoản trong đa số trường hợp.

Khi tỷ lệ nợ xấu gia tăng, ngân hàng thường thận trọng hơn trong việc cho vay, dẫn đến sự ổn định trong tăng trưởng tín dụng và tập trung vào việc gia tăng lợi nhuận từ huy động vốn và các dịch vụ khác, từ đó cải thiện thanh khoản Nghiên cứu của Vodova (2011), Malik và Rafique (2013), Sudirman (2014) chỉ ra mối quan hệ đồng biến giữa tỷ lệ nợ xấu và thanh khoản, trong khi một số nghiên cứu như của Melese và Laximikantham (2015) lại không nhận thấy tác động của nợ xấu đến thanh khoản, cho rằng tỷ lệ nợ xấu và khả năng thanh khoản có thể tương quan ngược chiều.

Giả thuyết 5: Nợ xấu tác động ngược chiều với thanh khoản của các ngân hàng

Nghiên cứu này sử dụng dữ liệu thứ cấp từ báo cáo tài chính hợp nhất và báo cáo thường niên của các ngân hàng thương mại Việt Nam trong giai đoạn từ 2007 đến 2014 Thời gian này bao gồm cả giai đoạn căng thẳng thanh khoản từ 2008 đến 2011 và giai đoạn ổn định thanh khoản sau đó.

MÔ TẢ DỮ LIỆU

KẾT QUẢ ƯỚC LƯỢNG VÀ KIỂM ĐỊNH MÔ HÌNH

Ngày đăng: 16/07/2022, 14:25

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Minh Anh (2016), “Ngân hàng có muốn lịch sử lặp lại?”, Báo đấu thầu, truy cập ngày 10/03/2016 tại địa chỉ: http://baodauthau.vn/tai-chinh/ngan-hang-co-muon-lich-su-lap-lai-19419.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngân hàng có muốn lịch sử lặp lại?”, "Báo đấu thầu
Tác giả: Minh Anh
Năm: 2016
2. Vũ Thành Tự Anh, Trần Thị Quế Giang, Đỗ Thiên Anh Tuấn (2013), “Báo cáo về thị trường nợ xấu và Công ty quản lý tài sản Việt Nam”. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo về thị trường nợ xấu và Công ty quản lý tài sản Việt Nam”
Tác giả: Vũ Thành Tự Anh, Trần Thị Quế Giang, Đỗ Thiên Anh Tuấn
Năm: 2013
3. Vũ Thành Tự Anh và đ.t.g (2013), “Sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam: đánh giá và các khuyến nghị thể chế”. Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sở hữu chồng chéo giữa các tổ chức tín dụng và tập đoàn kinh tế tại Việt Nam: đánh giá và các khuyến nghị thể chế”
Tác giả: Vũ Thành Tự Anh và đ.t.g
Năm: 2013
5. Lê Hà Diễm Chi (2014), “Vốn tín dụng ngân hàng và thị trường bất động sản Việt Nam”, Hiệp hội ngân hàng Việt Nam, truy cập ngày 20/5/2016 tại địa chỉ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vốn tín dụng ngân hàng và thị trường bất động sản Việt Nam”, "Hiệp hội ngân hàng Việt Nam
Tác giả: Lê Hà Diễm Chi
Năm: 2014
7. Lê Đạt Chí (2011), “Basel III – Xây dựng nền tảng ngân hàng vững mạnh”, Sài Gòn đầu tư, truy cập ngày 18/8/2015 tại địa chỉ:http://www.saigondautu.com.vn/Pages/20110818/BASEL-III-xay-dung-nen-tang-ngan-hang- Sách, tạp chí
Tiêu đề: Basel III – Xây dựng nền tảng ngân hàng vững mạnh”, "Sài Gòn đầu tư
Tác giả: Lê Đạt Chí
Năm: 2011
8. Chính phủ (2006), Nghị định số 141/2006/NĐ-CP “Nghị định về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghị định số 141/2006/NĐ-CP “Nghị định về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng
Tác giả: Chính phủ
Năm: 2006
9. Viết Chung (2012), “8 năm thăng trầm lãi suất”, VnEconomy, truy cập ngày 11/9/2015 tại địa chỉ:http://vneconomy.vn/tai-chinh/8-nam-thang-tram-lai-suat-20120611030953573.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: 8 năm thăng trầm lãi suất”, "VnEconomy
Tác giả: Viết Chung
Năm: 2012
10. Cục thống kê TP Hà Nội (2015), “Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng mười hai và năm 2015” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội tháng mười hai và năm 2015
Tác giả: Cục thống kê TP Hà Nội
Năm: 2015
11. Cục thống kê TP Hồ Chí Minh (2015), “Tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và năm 2015” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tình hình kinh tế xã hội tháng 12 và năm 2015
Tác giả: Cục thống kê TP Hồ Chí Minh
Năm: 2015
12. Duttweiler (2010), “Quản lý thanh khoản trong ngân hàng”, NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý thanh khoản trong ngân hàng”
Tác giả: Duttweiler
Nhà XB: NXB tổng hợp TP Hồ Chí Minh
Năm: 2010
13. Minh Đức (2008), “10 điểm nổi bật trên thị trường ngân hàng năm 2008”, VnEconomy, truy cập ngày 20/6/2016 tại địa chỉ: http://vneconomy.vn/tai-chinh/10-diem-noi-bat-tren-thi-truong-ngan-hang-nam-2008-2008122902048175.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: 10 điểm nổi bật trên thị trường ngân hàng năm 2008”, "VnEconomy
Tác giả: Minh Đức
Năm: 2008
14. Minh Đức (2009), “10 điểm nổi bật trong hoạt động ngân hàng năm 2009”, VnEconomy, truy cập ngày 20/6/2016 tại địa chỉ: http://vneconomy.vn/tai-chinh/10-diem-noi-bat-trong-hoat-dong-ngan-hang-nam-2009-20091223034224125.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: 10 điểm nổi bật trong hoạt động ngân hàng năm 2009”, "VnEconomy
Tác giả: Minh Đức
Năm: 2009
15. Trần Thị Quế Giang, Bùi Thị Phương Thảo (2013), “Kiểm soát lãi suất trong giai đoạn 2008-2011”, Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiểm soát lãi suất trong giai đoạn 2008-2011”
Tác giả: Trần Thị Quế Giang, Bùi Thị Phương Thảo
Năm: 2013
16. Gujarati (2007), Thục Đoan dịch, Cao Hào Thi hiệu đính, “Kinh tế lượng cơ sở”, bản dịch tiếng Việt của Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kinh tế lượng cơ sở”
Tác giả: Gujarati
Năm: 2007
17. Nguyễn Hiền (2008), “ Làm sao để ngăn chặn rủi ro tính thanh khoản?”, Dân trí, truy cập ngày 14/9/2015 tại địa chỉ: http://dantri.com.vn/kinh-doanh/lam-sao-de-ngan-chan-rui-ro-tinh-thanh-khoan-1216147765.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Làm sao để ngăn chặn rủi ro tính thanh khoản?”, "Dân trí
Tác giả: Nguyễn Hiền
Năm: 2008
18. Trần Phan Huy Hiệu (2015), “Đối phó khủng hoảng tài chính: Kinh nghiệm của Mỹ và đặc thù của Việt Nam”, cafef, truy cập ngày 14/9/2015 tại địa chi: http://cafef.vn/tai-chinh- ngan-hang/doi-pho-khung-hoang-tai-chinh-kinh-nghiem-cua-my-va-dac-thu-cua-viet-nam-20150308232822603.chn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đối phó khủng hoảng tài chính: Kinh nghiệm của Mỹ và đặc thù của Việt Nam”, "cafef
Tác giả: Trần Phan Huy Hiệu
Năm: 2015
19. Nguyên Hương (2007), “Tăng trưởng tín dụng nóng”, Sài Gòn giải phóng, truy cập ngày 09/6/2016 tại địa chi: http://www.sggp.org.vn/daututaichinh/2007/12/133827/ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng trưởng tín dụng nóng”, "Sài Gòn giải phóng
Tác giả: Nguyên Hương
Năm: 2007
22. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (1999), Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25 tháng 8 năm 1999 về việc ban hành “quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số 297/1999/QĐ-NHNN5 ngày 25 tháng 8 năm 1999 về việc ban hành “quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 1999
23. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (2005), Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, Quyết định thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quyết định số 457/2005/QĐ-NHNN, Quyết định thống đốc ngân hàng nhà nước về việc ban hành “Quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
Năm: 2005
24. Ngân hàng Nhà nước (2009), Thông tư 15/2009/TT-NHNN “Quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với tổ chức tín dụng” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông tư 15/2009/TT-NHNN “Quy định về tỷ lệ tối đa của nguồn vốn ngắn hạn được sử dụng để cho vay trung hạn và dài hạn đối với tổ chức tín dụng
Tác giả: Ngân hàng Nhà nước
Năm: 2009

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Mơ hình hồi quy tuyến tính cổ điển - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
h ình hồi quy tuyến tính cổ điển (Trang 10)
DANH MỤC CÁC CHỮ KÝ HIỆU, VIẾT TẮT - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
DANH MỤC CÁC CHỮ KÝ HIỆU, VIẾT TẮT (Trang 10)
Hình 3.1. Tỷ lệ dự trữ thanh khoản trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.1. Tỷ lệ dự trữ thanh khoản trung bình qua các năm (Trang 31)
Hình 3.3. Quy mơ tổng tài sản trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.3. Quy mơ tổng tài sản trung bình qua các năm (Trang 32)
Hình 3.2 Thống kê mơ tả biến LIQ - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.2 Thống kê mơ tả biến LIQ (Trang 32)
Hình 3.4 Thống kê mơ tả biến SIZE - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.4 Thống kê mơ tả biến SIZE (Trang 33)
Hình 3.5 Quy mơ vốn chủ sở hữu trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.5 Quy mơ vốn chủ sở hữu trung bình qua các năm (Trang 34)
Hình 3.6. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.6. Tỷ lệ vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản trung bình qua các năm (Trang 34)
Hình 3.7 Thống kê mơ tả biến CAP - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.7 Thống kê mơ tả biến CAP (Trang 35)
Hình 3.8 Tỷ lệ tăng trưởng cho vay trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.8 Tỷ lệ tăng trưởng cho vay trung bình qua các năm (Trang 36)
Hình 3.9 Thống kê mơ tả biến LG - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.9 Thống kê mơ tả biến LG (Trang 37)
Hình 3.10 Tỷ trọng cho vay trung dài hạn trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.10 Tỷ trọng cho vay trung dài hạn trung bình qua các năm (Trang 38)
Hình 3.12 Tỷ lệ nợ xấu trung bình qua các năm - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.12 Tỷ lệ nợ xấu trung bình qua các năm (Trang 39)
Hình 3.11 Thống kê mơ tả biến MLTD - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.11 Thống kê mơ tả biến MLTD (Trang 39)
Hình 3.13. Tỷ lệ nợ xấu và tài sản có khác trung bình qua các năm. - (LUẬN văn THẠC sĩ) tác động của các yếu tố đặc trưng tới thanh khoản của hệ thống ngân hàng thương mại tại việt nam
Hình 3.13. Tỷ lệ nợ xấu và tài sản có khác trung bình qua các năm (Trang 40)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN