GIỚI THIỆU
Lý do chọn đề tài
Thị trường chứng khoán là một phần quan trọng của thị trường vốn dài hạn, giúp chuyển vốn từ nhà đầu tư sang nhà phát hành và cung cấp nguồn vốn trung dài hạn cho nền kinh tế Sự ảnh hưởng của thị trường chứng khoán đối với môi trường đầu tư và nền kinh tế là rất lớn Các nhà đầu tư và chuyên gia quản lý quỹ cho rằng phân tích cơ bản chiếm hơn 60% trong các quyết định đầu tư, trong khi phân tích kỹ thuật và phân tích dòng tiền của doanh nghiệp chỉ chiếm lần lượt 30% và dưới 10% Tỷ lệ này càng cao hơn khi phân tích dài hạn, bởi vì phân tích cơ bản có ý nghĩa kinh tế sâu sắc Trên toàn cầu, cũng như tại Việt Nam và các quốc gia ASEAN, phân tích các yếu tố kinh tế vĩ mô đóng vai trò quan trọng trong việc định hình chiến lược đầu tư.
Thị trường chứng khoán ASEAN, bao gồm Việt Nam, chưa phát huy đầy đủ vai trò trong nền kinh tế, chủ yếu chỉ mang lại lợi nhuận ngắn hạn cho nhà đầu tư, dẫn đến sự thiếu bền vững và tình hình kinh tế bất ổn Sự điều chỉnh chính sách và các yếu tố vĩ mô tại Việt Nam thường diễn ra bất ngờ, ảnh hưởng lớn đến tâm lý nhà đầu tư Việc kiểm định thực tế qua các mô hình kinh tế lượng là cần thiết để đánh giá rủi ro và biến động của thị trường chứng khoán Việt Nam cũng như các quốc gia ASEAN, từ đó đưa ra dự báo và biện pháp phòng ngừa trong đầu tư Do đó, tác giả quyết định nghiên cứu đề tài “Phân tích tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam”.
Mục tiêu nghiên cứu
Bài nghiên cứu có hai mục tiêu chính sau:
- Xem xét các yếu tố vĩ mô ảnh hưởng đến chỉ số thị trường chứng khoán
Phân tích tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam là rất quan trọng Nghiên cứu này nhằm kiểm định mối tương quan giữa các yếu tố kinh tế vĩ mô và chỉ số thị trường chứng khoán, từ đó giúp hiểu rõ hơn về sự ảnh hưởng của các yếu tố này đến sự phát triển của thị trường tài chính Việt Nam.
Phạm vi nghiên cứu
Nghiên cứu này phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số thị trường chứng khoán Việt Nam, cụ thể là chỉ số VN-Index, trong giai đoạn từ năm 2001 đến 2016.
Câu hỏi nghiên cứu
Để làm rõ mục tiêu nghiên cứu, bài nghiên cứu xác định một số câu hỏi sau:
- Chỉ số giá CPI có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì ảnh hưởng đó là như thế nào?
- Lãi suất huy động có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì ảnh hưởng đó là như thế nào?
- Tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì ảnh hưởng đó là như thế nào?
- Chỉ số sản xuất công nghiệp có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì ảnh hưởng đó là như thế nào?
- Cung tiền M2 có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán hay không? Nếu có thì ảnh hưởng đó là như thế nào?
- Biến số kinh tế vĩ mô nào có thể giải thích tốt nhất sự biến động của thị trường chứng khoán?
Phương pháp nghiên cứu
Trong bài nghiên cứu này, tác giả áp dụng mô hình vector tự hồi quy (VAR) để phân tích ảnh hưởng của các yếu tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam Phương pháp nghiên cứu này tương tự với các nghiên cứu trước đây của Naik và Padhi (2012), Bùi Kim Yến và Nguyễn Thái Sơn (2014), cũng như Thân Thị Thu Thủy và Võ Thị Thùy Dương (2015).
Nội dung nghiên cứu
Luận văn được phân bổ như sau:
Chương 1: Giới thiệu đề tài Trong chương này bài nghiên cứu trình bày tổng quan về luận văn: lý do chọn đề tài, mục tiêu nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, nội dung nghiên cứu
Chương 2: Tổng quan về tác động của nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá cổ phiếu trên thị trường chứng khoán Ở chương này, tác giả trình bày cơ sở lý thuyết liên quan đến thị trường chứng khoán cũng như các tác động của các nhân tố vĩ mô đến thị trường chứng khoán
Chương 3: Thực trạng tác động của nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số VN- Index trên thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả trình bày thực trạng thị trường chứng khoán của Việt Nam và các tác động của các nhân tố vĩ mô đến thị trường chứng khoán
Chương 4: Mô hình tác động của các nhân tố kinh tế vĩ mô đến thị trường chứng khoán Việt Nam Tác giả trình bày dữ liệu nghiên cứu, mô hình nghiên cứu và các kết quả đạt được từ việc nghiên cứu định lượng
Chương 5: Một số kiến nghị, giải pháp và kết luận Trình bày tổng quát lại kết quả, đồng thời nêu lên một số kiến nghị và giải pháp.
LÝ LUẬN TỔNG QUAN
Tác động của những nhân tố kinh tế vĩ mô đến chỉ số giá cổ phiếu
Lạm phát là hiện tượng mức giá của hàng hóa và dịch vụ tăng lên theo thời gian so với một thời điểm trước đó Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) là chỉ tiêu cơ bản để đo lường lạm phát Lạm phát chủ yếu được gây ra bởi hai nguyên nhân chính: lạm phát do chi phí đẩy và lạm phát do cầu kéo.
Mối liên kết giữa thị trường chứng khoán và lạm phát đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà nghiên cứu, bắt đầu từ nghiên cứu của Fisher (1930) Theo giả thuyết của ông, chứng khoán có thể là công cụ phòng ngừa lạm phát Nếu đúng, nhà đầu tư sẽ chuyển đổi tài sản tài chính sang tài sản thực khi có sự gia tăng lạm phát kỳ vọng Trong nhiều trường hợp, giá chứng khoán phản ánh đầy đủ lạm phát kỳ vọng, cho thấy mối tương quan tích cực giữa hai yếu tố này (Ioannides và các cộng sự, 2005) Lập luận này cho thấy thị trường chứng khoán có thể bù đắp cho sự gia tăng chỉ số giá chung của nền kinh tế, mang lại lợi ích cho nhà đầu tư.
Giả thuyết Modigliani và Cohn
Giả thuyết về ảo giác lạm phát của Modigliani và Cohn (1979) cho rằng ảnh hưởng thực của lạm phát xuất phát từ sự ảo giác về tiền tệ Bekaert và Engstrom (2007) chỉ ra rằng khi kỳ vọng lạm phát gia tăng, tỷ suất sinh lợi của trái phiếu cũng sẽ tăng theo Tuy nhiên, do nhà đầu tư chiết khấu dòng tiền dựa vào lãi suất danh nghĩa, sự gia tăng trong tỷ suất sinh lợi danh nghĩa có thể dẫn đến việc chứng khoán bị định giá dưới giá trị thực, và điều này có thể xảy ra theo chiều ngược lại.
Các nghiên cứu về mối quan hệ giữa lạm phát và thị trường chứng khoán vẫn chưa đồng nhất Một số nghiên cứu như của Floros (2004), Ugru (2005), Pesaran và các cộng sự (2001), Crosby (2001), và Spyros (2001) cho thấy mối quan hệ đối nghịch giữa lạm phát và thị trường chứng khoán Ngược lại, Patra và Posshakwale (2006) cùng Lee và Wong (2000) lại khẳng định rằng lạm phát có ảnh hưởng tích cực đến thị trường chứng khoán.
Nghiên cứu của Yeh và Chi (2009) sử dụng mô hình phân phối trễ tự hồi quy để kiểm tra mối quan hệ giữa lạm phát và thị trường chứng khoán ở 12 quốc gia OECD Kết quả cho thấy có mối quan hệ ngắn hạn và ngược chiều giữa hai biến số này, trong khi các quốc gia như Úc, Pháp, Ireland và Hà Lan không có mối quan hệ dài hạn Phát hiện này phù hợp với giả thuyết của Fama (1981), cho thấy lạm phát gia tăng làm giảm chỉ số giá thị trường chứng khoán, tương tự như phát hiện của Rapach (2002), người lập luận rằng lạm phát có ảnh hưởng tiêu cực đến chỉ số giá thị trường chứng khoán sau khi kiểm soát các cú sốc sản lượng.
Spyros (2002) đã áp dụng mô hình vector tự hồi quy để kiểm tra giả thuyết Fisher, phát hiện ra mối quan hệ ngược chiều nhưng không có ý nghĩa thống kê giữa lạm phát và thị trường chứng khoán ở Hy Lạp giai đoạn 1990-2000 Tương tự, Floros (2002) sử dụng kiểm định nhân quả và kết luận rằng lạm phát và thị trường chứng khoán ở Hy Lạp là độc lập, không có mối liên hệ rõ ràng Trong khi đó, Crosby (2001) nghiên cứu mối tương quan giữa lạm phát và thị trường chứng khoán tại Úc từ năm 1875 đến 1996, cho thấy có mối quan hệ ngược chiều trong ngắn hạn, nhưng mối quan hệ này thay đổi theo từng giai đoạn khác nhau.
Lee và các cộng sự (2000) đã áp dụng mô hình ARIMA để phân tích tác động của siêu lạm phát tại Đức đối với thị trường chứng khoán trong những năm 1920, cho thấy sự đồng liên kết giữa siêu lạm phát và thị trường chứng khoán Nghiên cứu chỉ ra rằng mối quan hệ giữa thị trường chứng khoán với lạm phát thực và lạm phát kỳ vọng đều cùng chiều, cho thấy chứng khoán được coi là kênh phòng ngừa lạm phát trong giai đoạn này Tương tự, Choudhry (2001) cũng sử dụng mô hình ARIMA để nghiên cứu tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán ở Argentina, Chile, Mexico và Venezuela từ năm 1981 đến 1996, phát hiện mối quan hệ giữa lạm phát và thị trường chứng khoán tại Argentina và Chile Kết quả cho thấy giá trị trễ của lạm phát ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán, khẳng định vai trò của chứng khoán như một kênh phòng ngừa lạm phát.
Patra và Poshakwale (2006) đã áp dụng mô hình hiệu chỉnh sai số để nghiên cứu ảnh hưởng của các biến kinh tế đối với thị trường chứng khoán Hy Lạp từ năm.
Kết quả nghiên cứu từ năm 1990 cho thấy các biến kinh tế vĩ mô như cung tiền và lạm phát có mối quan hệ cả ngắn hạn lẫn dài hạn với giá chứng khoán ở Hy Lạp Tuy nhiên, không tìm thấy mối liên hệ nào giữa tỷ giá và giá chứng khoán trong cả hai khoảng thời gian này.
Nghiên cứu của Urgur (2005) về tác động của lạm phát đến thị trường chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ trong giai đoạn 1986 – 2000 cho thấy lạm phát kỳ vọng và thị trường chứng khoán không có mối tương quan, với kết quả chỉ ra mối quan hệ ngược chiều giữa hai yếu tố này Tương tự, Aperigis và Eleftheriou (2002) cũng phát hiện rằng mối liên kết giữa lạm phát và thị trường chứng khoán Hy Lạp là ngược chiều, một quan điểm cũng được Adrangi và các cộng sự đồng tình.
(1999) và Sellin (2005) cũng ủng hộ giả thuyết này
Quan điểm truyền thống cho rằng tỷ giá hối đoái điều chỉnh sự cân bằng trong giao dịch hàng hóa quốc tế, nhưng gần đây, mô hình này đã chuyển trọng tâm sang thị trường tài chính Theo đó, giá hàng hóa điều chỉnh chậm hơn so với giá tài sản tài chính, trong khi tài sản tài chính được giao dịch liên tục Do đó, tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng đáng kể đến thị trường tài chính của mỗi quốc gia.
Mô hình tỷ giá hối đoái hiện đại nhấn mạnh vai trò của thị trường tài chính, giả định rằng dòng vốn có thể tự do dịch chuyển giữa các quốc gia mà không có chi phí giao dịch đáng kể Trong mô hình này, có hai phương pháp tiếp cận chính: tiếp cận theo chính sách tiền tệ và tiếp cận theo sự cân bằng danh mục Theo phương pháp tiếp cận chính sách tiền tệ, tỷ giá hối đoái được xác định bởi nhu cầu và cung tiền giữa hai quốc gia, trong khi trái phiếu trong và ngoài nước không quan trọng Ngược lại, phương pháp tiếp cận theo sự cân bằng danh mục coi nhu cầu và cung trái phiếu là yếu tố quyết định tỷ giá hối đoái Sự khác biệt giữa hai phương pháp này nằm ở giả định về tính thay thế của trái phiếu; nếu trái phiếu trong và ngoài nước có tính thay thế hoàn hảo, nhà đầu tư sẽ không quan tâm đến đồng tiền của trái phiếu miễn là hiệu quả kỳ vọng giống nhau, dẫn đến không có phần bù rủi ro khi nắm giữ trái phiếu nước ngoài.
Nghiên cứu thực nghiệm đã chỉ ra rằng tỷ giá hối đoái ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán qua nhiều hình thức khác nhau Kutty (2010) đã phân tích mối quan hệ giữa giá chứng khoán và tỷ giá tại Mexico, sử dụng dữ liệu từ tháng 1 năm 1989 đến tháng 12 năm 2006 Kết quả từ các kiểm định nhân quả Granger cho thấy giá chứng khoán tác động đến tỷ giá hối đoái trong ngắn hạn, nhưng không có mối quan hệ dài hạn giữa hai biến này Phát hiện này tương đồng với nghiên cứu của Bahmani – Oskooee và Sohrabian (1992), nhưng trái ngược với các nghiên cứu trước đó cho thấy mối quan hệ dài hạn giữa tỷ giá hối đoái và giá chứng khoán.
Một nghiên cứu của Aydemir và Demirhan (2009) đã phân tích mối quan hệ nhân quả giữa giá chứng khoán và tỷ giá hối đoái tại Thổ Nhĩ Kỳ, sử dụng dữ liệu từ 23 tháng 2 năm 2001 đến 11 tháng 1 năm 2008.
Trong giai đoạn tỷ giá thả nổi, các tác giả cho rằng có sự tồn tại mối quan hệ nhân quả hai chiều giữa tỷ giá và thị trường chứng khoán Thổ Nhĩ Kỳ Nghiên cứu chỉ ra rằng ngành dịch vụ và tài chính có mối quan hệ nhân quả ngược chiều với tỷ giá hối đoái, trong khi ngành công nghệ lại có mối quan hệ nhân quả trực tiếp với tỷ giá Đồng thời, cũng đã phát hiện mối quan hệ nhân quả ngược từ tỷ giá hối đoái đến các chỉ số chứng khoán.