9
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG CẤP TỈNH
1.1.1 Khái niệm, đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
1.1.1.1 Khái niệm văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
Hiện nay, hệ thống pháp luật Việt Nam chưa có quy định cụ thể về khái niệm văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của cơ quan nhà nước cấp tỉnh Mặc dù Luật năm 2004 đã đề cập đến khái niệm này trong bối cảnh Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân, nhưng sau khi Luật năm 2015 được ban hành, khái niệm đó đã không còn được sử dụng Do vậy, để hiểu rõ nội dung văn bản QPPL của cơ quan nhà nước cấp tỉnh theo quy định của Luật năm 2015, cần tìm hiểu một số nội dung liên quan.
Văn bản QPPL là công cụ thiết yếu giúp cơ quan nhà nước cấp tỉnh quản lý hiệu quả, truyền tải các chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước đến người dân Ngoài ra, văn bản QPPL còn đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức và thực hiện các quy định tại địa phương, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh Do đó, việc hiểu rõ khái niệm văn bản QPPL là rất cần thiết để xác định thẩm quyền và nội dung ban hành văn bản này của cơ quan nhà nước cấp tỉnh.
Luật năm 2015 đã phân biệt rõ ràng giữa khái niệm "Văn bản quy phạm pháp luật" (QPPL) và "Quy phạm pháp luật" nhằm khắc phục những hạn chế trong việc triển khai thực tiễn Theo đó, văn bản QPPL được định nghĩa là văn bản chứa đựng các quy phạm pháp luật, được ban hành theo đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự và thủ tục quy định trong luật Văn bản QPPL là tập hợp của nhiều quy phạm pháp luật, góp phần tạo ra khung pháp lý rõ ràng và hiệu quả.
Quy phạm pháp luật (QPPL) là những quy tắc xử sự chung, có tính bắt buộc và được áp dụng lặp đi lặp lại cho các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi toàn quốc hoặc trong các đơn vị hành chính cụ thể Những quy phạm này được quy định bởi cơ quan nhà nước hoặc người có thẩm quyền và được Nhà nước đảm bảo thực hiện Tuy nhiên, nếu một văn bản chứa QPPL nhưng không được ban hành đúng thẩm quyền, hình thức, trình tự và thủ tục theo quy định của Luật năm 2015, thì văn bản đó không được coi là QPPL.
Hai là, về “Chính quyền địa phương” Theo quy định tại khoản 2 Điều 111
Theo Hiến pháp năm 2013 và Điều 4 Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, cấp CQĐP bao gồm HĐND và UBND, được tổ chức tại các đơn vị hành chính như tỉnh, huyện, xã, và một cấp đặc biệt là đơn vị hành chính - kinh tế Nhiệm vụ của CQĐP là tổ chức và đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật tại địa phương, đồng thời quyết định các vấn đề theo quy định của luật pháp Hiến pháp năm 2013 đã tăng cường tính tự quản cho CQĐP, nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương.
Theo quy định hiện hành, CQĐP cấp tỉnh cần ban hành các văn bản QPPL để cụ thể hóa các quy định của Trung ương, phù hợp với điều kiện địa phương Việc này đảm bảo pháp luật được thực thi đúng đắn và hiệu quả Ban hành văn bản QPPL là hình thức pháp lý quan trọng nhất trong hoạt động quản lý nhà nước của CQĐP cấp tỉnh, nhằm thực hiện chức năng và nhiệm vụ của mình.
Trần Minh Hương (2008) trong giáo trình "Luật Hành chính Việt Nam" nhấn mạnh rằng các cấp tỉnh cần ban hành các chính sách đặc thù nhằm thu hút và hỗ trợ doanh nghiệp, phù hợp với tình hình thực tế của địa phương.
Văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh là tài liệu pháp lý được ban hành bởi HĐND và UBND cấp tỉnh, nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội tại địa phương Những văn bản này tuân thủ các hình thức, trình tự và thủ tục pháp luật quy định, đồng thời có hiệu lực trong phạm vi địa phương Nhà nước cam kết bảo đảm việc thi hành các văn bản này bằng các biện pháp theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2 Đặc điểm văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
Từ khái niệm về văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh có thể nhận thấy văn bản QPPL có những dấu hiệu đặc điểm sau:
Hoạt động ban hành văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh là một phần quan trọng của quyền lực nhà nước địa phương, xuất phát từ vai trò và nhiệm vụ của CQĐP Theo Hiến pháp năm 2013 và Luật Tổ chức CQĐP năm 2015, HĐND vừa là cơ quan quyền lực nhà nước vừa là đại diện cho nhân dân địa phương, có quyền quyết định các vấn đề theo luật định UBND, là cơ quan chấp hành của HĐND và cơ quan hành chính địa phương, có trách nhiệm tổ chức thi hành Hiến pháp, pháp luật, cũng như thực hiện nghị quyết của HĐND.
Trong khuôn khổ thẩm quyền, CQĐP cấp tỉnh ban hành văn bản QPPL nhằm thực hiện nhiệm vụ và quyền hạn của mình HĐND cấp tỉnh quy định chính sách và biện pháp để đảm bảo thi hành Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan cấp trên, đồng thời phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội địa phương UBND cấp tỉnh cũng ban hành văn bản QPPL để quy định biện pháp thực hiện Hiến pháp, luật và các lĩnh vực như kinh tế - xã hội, ngân sách, quốc phòng, an ninh Tất cả cá nhân và tổ chức địa phương phải tuân thủ những văn bản này, khẳng định rằng hoạt động ban hành văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh là một phần quan trọng trong việc thực hiện quyền lực nhà nước tại địa phương.
Văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh là sự cụ thể hóa các quy định pháp luật từ Trung ương, phản ánh bản chất và đặc thù của từng địa phương Các cơ quan Trung ương không thể ban hành văn bản QPPL phù hợp với mọi điều kiện và đặc điểm riêng của từng địa phương Do đó, việc cụ thể hóa văn bản Trung ương là cần thiết để phù hợp với tình hình thực tế tại địa phương, nơi có những khác biệt về tự nhiên, đất đai và văn hóa Điều này dẫn đến việc cần thiết phải ban hành các văn bản QPPL tại địa phương để điều chỉnh những vấn đề đặc thù mà Trung ương không thể bao quát Ví dụ, Nghị định số 149/2016/NĐ-CP đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 177/2013/NĐ-CP để đáp ứng nhu cầu thực tiễn của địa phương.
Ngày 14 tháng 11 năm 2013, Chính phủ đã ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Giá, giao thẩm quyền cho UBND tỉnh quy định giá tối đa cho dịch vụ thu gom và vận chuyển rác thải sinh hoạt sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước Dựa trên quy định này, các địa phương sẽ xác định mức giá tối đa phù hợp với tình hình thu nhập của người dân tại địa phương.
Thứ ba, văn bản QPPL của CQĐP cấp tỉnh được ban hành để điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong phạm vi do mình quản lý
CQĐP cấp tỉnh, với vai trò là cơ quan quản lý nhà nước tại địa phương, có trách nhiệm tổ chức và đảm bảo việc thi hành Hiến pháp và pháp luật trong mọi lĩnh vực Cơ quan này quyết định các vấn đề địa phương theo quy định pháp luật, trong đó việc ban hành văn bản QPPL là công cụ quan trọng để thực hiện chức năng quản lý xã hội Bên cạnh đó, CQĐP cấp tỉnh cũng có thể ban hành văn bản QPPL nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội đặc thù phát sinh tại địa phương trong phạm vi thẩm quyền của mình.
Để quản lý hệ thống cửa hàng kinh doanh xăng dầu tại tỉnh Tây Ninh, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Quyết định số 08/2018/QĐ-UBND ngày 16 tháng 4 năm 2018, quy định về quản lý đầu tư xây dựng hệ thống cửa hàng và kho xăng dầu Mặc dù không có văn bản nào trực tiếp giao thẩm quyền cho UBND tỉnh trong việc này, nhưng căn cứ vào tình hình thực tế địa phương, UBND tỉnh có quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật Quyết định này nhằm điều chỉnh hoạt động quản lý đầu tư xây dựng các cửa hàng và kho xăng dầu trên địa bàn tỉnh Tây Ninh.
Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của cơ quan địa phương cấp tỉnh chỉ có hiệu lực trong phạm vi địa giới hành chính của địa phương đó, thể hiện tính hiệu lực không gian của văn bản Cụ thể, văn bản QPPL của Hội đồng Nhân dân (HĐND) và Ủy ban Nhân dân (UBND) ở cấp hành chính nào sẽ có hiệu lực trong phạm vi đơn vị hành chính cấp đó, và cần được quy định rõ trong văn bản Nếu có sự thay đổi về địa giới hành chính, hiệu lực của văn bản QPPL sẽ được xác định theo quy định tại khoản 2 Điều 155 của Luật năm 2015.
1.1.2 Thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
1.2.1 Sự cần thiết của việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp trong hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương cấp tỉnh
Một là, xuất phát từ vai trò đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế của doanh nghiệp
Sự đóng góp của các doanh nghiệp tại Tây Ninh rất quan trọng, với tổng doanh thu thuần năm 2017 đạt 176.232.476 triệu đồng, tăng 23.963.360 triệu đồng so với năm 2016 Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và thương mại điện tử, các doanh nghiệp sẽ đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương và toàn quốc.
Hai là, tạo động lực cho việc thúc đẩy các hoạt động tạo công ăn việc làm cho người lao động
Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cơ hội việc làm và giảm tỷ lệ thất nghiệp, từ đó góp phần giải quyết các vấn đề xã hội và mang lại lợi ích cho cộng đồng Theo Niên giám thống kê tỉnh Tây Ninh năm 2018, số lao động làm việc trong các doanh nghiệp ngoài nhà nước trên địa bàn tỉnh Tây Ninh đạt 187.125 người vào năm 2017, tăng 6.489 người so với năm 2016.
Ba là, góp phần tăng hiệu quả hoạt động và năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp
9 Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh, năm 2019 Niên giám thống kê tỉnh Tây Ninh năm
10 Cục Thống kê tỉnh Tây Ninh, năm 2019 Niên giám thống kê tỉnh Tây Ninh năm
Cạnh tranh kinh tế là một quy luật tự nhiên trong thị trường, buộc các doanh nghiệp phải năng động và nhạy bén để đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng nhằm tối đa hóa lợi nhuận Sự cạnh tranh không chỉ giúp nâng cao năng lực cạnh tranh và hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, mà còn ngăn chặn tình trạng độc quyền và thúc đẩy sự phát triển Khi nhiều doanh nghiệp cùng hoạt động trong một lĩnh vực, tính cạnh tranh sẽ gia tăng, buộc các doanh nghiệp phải chấp nhận cạnh tranh và liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển.
Doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc tăng tốc áp dụng công nghệ mới để tồn tại và phát triển trong thời đại cách mạng công nghệ 4.0 Sự linh hoạt và nhanh nhạy trong việc ứng dụng công nghệ vào quản lý, sản xuất và kinh doanh là cần thiết Đổi mới công nghệ không chỉ giúp nâng cao chất lượng sản phẩm mà còn tạo ra nhiều sản phẩm mới, đa dạng hóa danh mục sản phẩm, tăng sản lượng và năng suất lao động, đồng thời sử dụng nguyên vật liệu một cách hợp lý và tiết kiệm.
…Nhờ vậy sẽ tăng khả năng cạnh tranh, mở rộng thị trường, thúc đẩy tăng trưởng nhanh và nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh
Các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy nền kinh tế địa phương, giúp khai thác và huy động các nguồn lực tài chính tiềm năng từ cộng đồng dân cư.
Mặc dù doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế địa phương, họ vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn như thiếu vốn, mặt bằng và công nghệ Do đó, việc các cơ quan nhà nước cấp tỉnh cụ thể hóa các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp là cần thiết để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi, thúc đẩy phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế cho Việt Nam.
1.2.2 Một số nội dung hỗ trợ doanh nghiệp theo quy định pháp luật hiện hành
Một là, hỗ trợ tiếp cận tín dụng
Vốn tín dụng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ sự phát triển của doanh nghiệp, nhưng nhiều doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ thường gặp khó khăn do năng lực tài chính yếu kém Điều này ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng các điều kiện vay vốn từ ngân hàng, dẫn đến việc tiếp cận các gói tín dụng thương mại trở nên khó khăn hơn.
Hiện nay, Trung ương đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng thông qua các văn bản QPPL khác nhau Một số chính sách đáng chú ý bao gồm việc hỗ trợ lãi suất vay thương mại cho các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn sau khi dự án hoàn thành Ngoài ra, các doanh nghiệp ký hợp đồng cung cấp, tiêu thụ với tổ chức, cá nhân sản xuất nông nghiệp có thể được xem xét vay tối đa 70% giá trị dự án mà không cần tài sản bảo đảm Các doanh nghiệp nhỏ và vừa khởi nghiệp sáng tạo cũng được hỗ trợ vay vốn từ Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng với bảo lãnh tín dụng từ Quỹ Bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ.
Nhiều doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn từ các tổ chức tín dụng, ngay cả khi có khả năng tiếp cận, lãi suất thường quá cao Nguyên nhân chính là do doanh nghiệp không đáp ứng đủ các điều kiện yêu cầu, đặc biệt là vấn đề thiếu minh bạch trong thông tin tài chính.
11 Xin xem chi tiết tại Nghị định số 57/2018/NĐ-CP
Nghị định số 116/2018/NĐ-CP ngày 07/9/2018 của Chính phủ đã sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 55/2015/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn Việc lập báo cáo tài chính và kế hoạch kinh doanh gặp khó khăn đã khiến nhiều doanh nghiệp không thể vay vốn từ ngân hàng do thiếu tài sản bảo đảm Do đó, việc các cơ quan địa phương cấp tỉnh ban hành cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận tín dụng một cách dễ dàng sẽ thu hút đầu tư từ các nhà doanh nghiệp trong và ngoài tỉnh.
Hai là, hỗ trợ về công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Trong bối cảnh cách mạng công nghệ 4.0, doanh nghiệp cần áp dụng giải pháp công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả trong tất cả các khâu từ cung ứng, sản xuất đến phân phối Tuy nhiên, hoạt động đổi mới công nghệ hiện nay còn chậm do hạn chế về tài chính Vì vậy, cải thiện các chính sách hỗ trợ công nghệ cho doanh nghiệp là vấn đề cấp thiết để đảm bảo sự phát triển bền vững.
Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về công nghệ tập trung vào việc thúc đẩy nghiên cứu và thương mại hóa kết quả khoa học, khuyến khích ứng dụng và đổi mới công nghệ Những chính sách này cung cấp kinh phí cho các đề tài nghiên cứu, hỗ trợ mua bản quyền công nghệ, cũng như kết quả nghiên cứu và phát triển công nghệ để tạo ra sản phẩm mới và cải tiến công nghệ Ngoài ra, các chính sách còn hướng đến công nghệ giảm thiểu ô nhiễm môi trường, tiết kiệm nguyên liệu và năng lượng, đồng thời hỗ trợ thực hiện các dự án sản xuất thử nghiệm nhằm áp dụng công nghệ mới và sản xuất sản phẩm tiên tiến.
Ba là, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành và chuỗi giá trị là hình thức hợp tác kinh doanh hiệu quả trong bối cảnh Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng Cơ chế này giúp doanh nghiệp nâng cao năng lực và hưởng lợi nhiều hơn từ chuỗi giá trị Nhà nước cũng hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao và chế biến, nhằm tạo ra sản phẩm chất lượng cao với giá thành hợp lý, đồng thời khuyến khích áp dụng các giải pháp công nghệ, vật liệu và thiết bị sáng tạo.
Bốn là, hỗ trợ tiếp cận đất đai, mặt bằng sản suất
Mặt bằng sản xuất là yếu tố quan trọng không kém vốn, có thể đóng góp đến 50% vào thành công của doanh nghiệp Doanh nghiệp thuê mặt bằng thường phải đối mặt với rủi ro và sự bất ổn trong hoạt động sản xuất, điều này khiến họ ngần ngại mở rộng quy mô Việc ban hành cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận mặt bằng ổn định là cần thiết, giúp họ yên tâm sản xuất và mở rộng hoạt động Khi có mặt bằng ổn định, doanh nghiệp sẽ có cơ hội tăng trưởng, từ đó đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế và xã hội của tỉnh.
Năm là, hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế địa phương và toàn quốc nhờ vào sự đóng góp ngày càng tăng vào GDP Với tính sáng tạo vượt trội, các doanh nghiệp này không chỉ dẫn đầu trong công nghệ mà còn tạo ra những giá trị mới cho xã hội.
Từ việc nghiên cứu nội dung của Chương 1 đã cho phép tác giả đi đến một số kết luận sau:
28
TÌNH HÌNH BAN HÀNH VĂN BẢN QUY PHẠM PHÁP LUẬT LĨNH VỰC HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP CỦA CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG TỈNH TÂY NINH
2.1.1 Kết quả ban hành và thực thi chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
Trong những năm gần đây, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của cơ quan địa phương cấp tỉnh đã trở nên có hệ thống hơn, góp phần đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước tại địa phương và thực tiễn cuộc sống Điều này đặc biệt quan trọng trong việc hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động trên địa bàn tỉnh.
Từ năm 2016 đến tháng 12/2019, tỉnh Tây Ninh đã ban hành 13 văn bản quy phạm pháp luật nhằm hỗ trợ doanh nghiệp, bên cạnh các chính sách chung từ Trung ương Trong số này, có 5 văn bản đã hết hiệu lực.
01 văn bản đang được sửa đổi, bổ sung; 07 văn bản đang triển khai thực hiện (gồm
Bốn nghị quyết của HĐND tỉnh và ba quyết định của UBND tỉnh đã được ban hành, tập trung vào việc hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, sở hữu trí tuệ, mở rộng thị trường và hỗ trợ liên kết sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Công tác triển khai các chính sách này đã được thực hiện kịp thời bởi các sở, ban, ngành tỉnh và Ủy ban nhân dân các huyện, thị xã, thành phố.
Thứ nhất là hỗ trợ tiếp cận tín dụng Từ năm 2016 đến năm 2019, CQĐP tỉnh
Tây Ninh đã triển khai nhiều chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn tín dụng, chủ yếu tập trung vào lĩnh vực nông nghiệp Điều này cho thấy chính quyền tỉnh đang khuyến khích đầu tư vào sản xuất nông nghiệp cao, phát huy thế mạnh nông nghiệp tiềm năng của tỉnh Nhờ các chính sách này, số dư nợ của các tổ chức tín dụng cho doanh nghiệp vay đã liên tục tăng từ năm 2016 đến 2018.
Bảng 1.1: Số dư nợ cho doanh nghiệp vay tăng từ năm 2016 đến 2018 14
Dư nợ cho vay lĩnh vực ưu tiên
Cho vay nông nghiệp, nông thôn 4.756.558 6.480.734 8.632.637 Cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa 4.084.778 5.052.131 5.339.537
Cho vay doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao 0 0 2.000
Thứ hai là hỗ trợ về công nghệ để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp
Từ năm 2016 đến 2019, tỉnh Tây Ninh đã triển khai 03 chính sách hỗ trợ doanh nghiệp về công nghệ, bao gồm: hỗ trợ ứng dụng và chuyển giao công nghệ, phát triển thị trường trí tuệ, và phát triển tài sản trí tuệ Những chính sách này đã mang lại hiệu quả nhất định, với 22 doanh nghiệp được hỗ trợ trong giai đoạn 2016-2018, tổng cộng 30 lượt hỗ trợ Trong đó, 03 doanh nghiệp đã ngừng nhận hỗ trợ, còn lại 19 doanh nghiệp nhận 25 lượt hỗ trợ, bao gồm 19 hệ thống quản lý, 02 công cụ và 04 sản phẩm được chứng nhận hợp quy.
13 Xin xem chi tiết tại Phụ lục 2, Các chính sách hỗ trợ tiếp cận tín dụng trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Tín dụng ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong việc hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa tại tỉnh Tây Ninh Các chương trình tín dụng này giúp cung cấp nguồn vốn cần thiết, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh và nâng cao khả năng cạnh tranh cho các doanh nghiệp Đặc biệt, ngân hàng đã triển khai nhiều chính sách ưu đãi và thủ tục đơn giản hóa nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn Việc này không chỉ giúp doanh nghiệp vượt qua khó khăn mà còn góp phần vào sự phát triển kinh tế địa phương.
Trong năm 2019, tổng kinh phí hỗ trợ là 1.170.000.000 đồng cho 15 bộ hợp chuẩn Đã hướng dẫn 23 hồ sơ đăng ký tham gia, tập trung vào việc hỗ trợ đăng ký nhãn hiệu hàng hóa và phát triển sản phẩm đặc thù Bên cạnh đó, tiếp nhận 07 hồ sơ đăng ký tham gia và 04 hồ sơ doanh nghiệp để hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao và đổi mới công nghệ Đặc biệt, năm 2019 cũng đã hỗ trợ 02 doanh nghiệp xây dựng hệ thống “Thực hành nông nghiệp tốt”.
Thứ ba là hỗ trợ doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị
Tỉnh Tây Ninh đang tập trung phát triển các hình thức liên kết trong lĩnh vực nông nghiệp, bao gồm trồng trọt, chăn nuôi, thuỷ sản và lâm nghiệp, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng cho sản phẩm nông nghiệp Mục tiêu là hình thành các vùng sản xuất tập trung, khắc phục tình trạng sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu Các doanh nghiệp tham gia liên kết sẽ nhận được hỗ trợ về chi phí tư vấn, đầu tư hạ tầng, khuyến nông, đào tạo, và cung cấp giống vật tư, bao bì, nhãn mác hàng hóa.
Trong thời gian qua, dưới sự chỉ đạo của CQĐP tỉnh Tây Ninh, việc xây dựng và triển khai các chính sách liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm đã đạt nhiều kết quả tích cực Kể từ năm 2016, tỉnh đã có những bước tiến đáng kể trong việc cải thiện hiệu quả sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã công bố Báo cáo số 13/BC-UBND vào ngày 14/01/2019, trình bày kết quả cải thiện môi trường kinh doanh và đầu tư, nhằm tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong giai đoạn 2016-2018 trên địa bàn tỉnh.
Vào ngày 27 tháng 12 năm 2019, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành báo cáo số 488/BC-UBND, trình bày tình hình thực hiện Nghị quyết số 35/NQ-CP của Chính phủ về hỗ trợ và phát triển doanh nghiệp Nghị quyết này, được ban hành vào ngày 16 tháng 5 năm 2016, cùng với Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 06 tháng 6 năm 2017 của Thủ tướng Chính phủ, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc triển khai hiệu quả các chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của doanh nghiệp đến năm 2020.
Tỉnh Tây Ninh đã triển khai chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm, với 05 dự án được hỗ trợ 30% chi phí mua giống cây, bao gồm cây dứa, chanh dây và chuối già Nam Mỹ Tổng diện tích của các dự án lên tới 349 ha, với tổng kinh phí hỗ trợ là 3.725 triệu đồng Hiện tại, hồ sơ thẩm định dự án xây dựng cánh đồng lớn liên kết sản xuất và tiêu thụ bưởi da xanh của Công ty TNHH Sau Như Một cùng một số nông dân cũng đã được tiếp nhận.
2.1.2 Tác động của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đối với doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh Tây Ninh
Sau hơn 03 năm thực hiện, các chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp tại tỉnh Tây Ninh đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp địa phương.
Sự gia tăng đáng kể trong số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp sạch đã thu hút nhiều nhà đầu tư trong những năm gần đây Số lượng doanh nghiệp mới thành lập trong lĩnh vực nông nghiệp không ngừng tăng lên, dẫn đến sự phát triển liên tục của các doanh nghiệp hoạt động trong ngành này.
Bảng 2.1 Tình hình đăng ký doanh nghiệp lĩnh vực nông nghiệp 20
STT TIÊU CHÍ NĂM 2016 NĂM 2017 NĂM 2018
Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã ban hành Tờ trình số 380/TTt-UBND vào ngày 04/3/2019, nhằm đề xuất hỗ trợ liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp trong giai đoạn 2019-2025.
NHỮNG HẠN CHẾ, BẤT CẬP TRONG THỂ CHẾ HÓA NỘI DUNG HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN DOANH NGHIỆP KHI THỰC HIỆN CHỨC NĂNG
Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, nhưng hoạt động ban hành văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước tỉnh Tây Ninh vẫn gặp phải một số hạn chế và bất cập cần khắc phục.
2.2.1 Những hạn chế, bất cập xuất phát từ quy định pháp luật
Luật năm 2015 đã định nghĩa rõ ràng về "Văn bản quy phạm pháp luật" và "Quy phạm pháp luật", trong khi Nghị định số 34/2016/NĐ-CP cũng xác định những nội dung không thuộc VBQPPL Tuy nhiên, thực tế tại địa phương cho thấy, một số nội dung không mang tính quy phạm vẫn phải ban hành dưới hình thức văn bản QPPL Ví dụ, nghị quyết về thu hồi đất cho các dự án phát triển kinh tế - xã hội tại Tây Ninh hàng năm chủ yếu chỉ áp dụng cho một hoặc một số dự án cụ thể, nhưng vẫn được coi là văn bản QPPL do không được quy định tại Điều 3 của Nghị định Tương tự, nghị quyết cho phép chuyển mục đích sử dụng đất trồng lúa và đất rừng đặc dụng cũng chỉ áp dụng một lần cho các dự án nhất định, nhưng vẫn phải ban hành theo hình thức văn bản QPPL.
Hai là, thẩm quyền ban hành nghị quyết của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
Theo quy định tại khoản 4 Điều 27 Luật năm 2015, Hội đồng nhân dân cấp tỉnh có quyền ban hành nghị quyết để quy định biện pháp đặc thù phù hợp với điều kiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương Tuy nhiên, do thiếu hướng dẫn cụ thể từ Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP, việc xác định tính chất và nội dung đặc thù của các biện pháp này chưa được thống nhất Có hai quan điểm chính: Quan điểm thứ nhất cho rằng HĐND cấp tỉnh chỉ được quy định biện pháp đặc thù khi được phân cấp từ cơ quan nhà nước cấp trên, dựa trên tình hình kinh tế - xã hội và khả năng ngân sách địa phương Quan điểm thứ hai cho rằng HĐND cấp tỉnh có quyền quy định biện pháp đặc thù mà không cần văn bản phân cấp, miễn là không trái với chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật chung Nội dung biện pháp đặc thù sẽ không bao gồm các quy định tại khoản 1, 2, 3 Điều 27 Luật năm 2015 và phụ thuộc vào tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của từng địa phương.
Từ những phân tích trên cho thấy mỗi quan điểm đều có những cơ sở riêng 25
Cơ quan soạn thảo thường gặp khó khăn khi tham mưu HĐND cấp tỉnh ban hành các biện pháp đặc thù do thiếu sự thống nhất trong cách hiểu và nội dung của các biện pháp này Tác giả đồng ý với quan điểm cho rằng sự không đồng nhất này gây trở ngại lớn trong quá trình thực thi.
Bộ Tư pháp đã thảo luận về nghị quyết quy định các biện pháp đặc thù của địa phương, nhấn mạnh rằng các văn bản do HĐND cấp tỉnh ban hành thường phản ánh tính đặc thù, phù hợp với điều kiện kinh tế, chính trị và xã hội của từng địa phương Điều này cho thấy sự linh hoạt trong việc áp dụng pháp luật nhằm đáp ứng nhu cầu cụ thể của cộng đồng.
27 trùng với nội hàm của khoản 1 Điều 27 Luật năm 2015
Việc lấy ý kiến đối với dự thảo văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) của chính quyền địa phương cấp tỉnh chủ yếu được thực hiện với các cơ quan nhà nước, trong khi ý kiến từ chuyên gia, doanh nghiệp và tổ chức xã hội rất hạn chế Các cơ quan soạn thảo thường lấy ý kiến cho toàn bộ dự thảo thay vì tập trung vào những nội dung chính, điều này gây khó khăn cho người dân và doanh nghiệp trong việc tham gia góp ý do họ thiếu thời gian và kiến thức cần thiết.
Một hạn chế khác là nội dung tờ trình và bản thuyết minh thường không đầy đủ theo quy định, dẫn đến việc không giải trình hết các nội dung cần thiết trong dự thảo Điều này gây khó khăn cho đối tượng được xin ý kiến trong việc hiểu rõ nội dung chính của dự thảo văn bản QPPL cần lấy ý kiến.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 113 và khoản 1 Điều 120, tỉnh yêu cầu việc lấy ý kiến từ các đối tượng chịu tác động được thực hiện trên cổng Thông tin điện tử.
Theo Luật năm 2015, các dự thảo nghị quyết của HĐND cấp tỉnh và quyết định của UBND cấp tỉnh phải được đăng tải trên cổng thông tin điện tử của tỉnh trong ít nhất 30 ngày để thu thập ý kiến đóng góp từ cộng đồng, đặc biệt là doanh nghiệp, nhằm đảm bảo tính công khai và minh bạch Tuy nhiên, thực tế cho thấy quy định này chưa khả thi và thường chỉ mang tính hình thức, dẫn đến việc ít có ý kiến đóng góp từ công chúng Nguyên nhân chủ yếu là do các dự thảo thường chỉ được đăng toàn văn mà không nêu rõ những vấn đề cần xin ý kiến, cùng với việc không bắt buộc đăng tải các sửa đổi sau khi tổng hợp ý kiến Hơn nữa, thời gian đăng tải thường không được thực hiện nghiêm túc, khiến cho việc lấy ý kiến diễn ra không đúng quy trình và chỉ vài ngày trước khi có sự chấp thuận từ HĐND Điều này ảnh hưởng đến tính minh bạch của quá trình soạn thảo và ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Trong quá trình lập đề nghị xây dựng nghị quyết quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, cần lấy ý kiến từ các bộ, cơ quan ngang bộ quản lý ngành có liên quan, theo quy định tại Khoản 3 Điều 10 Nghị định số 34/2016/NĐ-CP Tuy nhiên, việc lấy ý kiến này hiện không khả thi, gây khó khăn cho địa phương trong việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hỗ trợ doanh nghiệp, do sự chậm trễ hoặc thiếu sót trong việc gửi văn bản góp ý từ các bộ, cơ quan ngang bộ.
Luật năm 2015 và Nghị định số 34/2016/NĐ-CP hiện hành quy định nội dung và mẫu các loại văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) do cơ quan địa phương (CQĐP) ban hành, nhưng không hướng dẫn rõ ràng về việc khi nào CQĐP nên ban hành văn bản quy định trực tiếp hoặc gián tiếp Điều này gây khó khăn cho CQĐP cấp tỉnh trong việc lựa chọn hình thức văn bản phù hợp, dẫn đến sự không thống nhất trong hệ thống pháp luật Ví dụ, trong việc quy định bộ đơn giá sản phẩm đo đạc bản đồ địa chính, trong khi Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa ban hành văn bản QPPL theo hình thức gián tiếp, thì UBND tỉnh Tây Ninh lại chọn hình thức trực tiếp Do đó, cần phải phân biệt rõ ràng giữa các trường hợp ban hành văn bản quy định trực tiếp và gián tiếp, xác định cách sử dụng văn bản chính - phụ, và quy định cụ thể cho các loại văn bản có tên gọi khác nhau.
2.2.2 Những hạn chế, bất cập xuất phát từ tình hình thực tế tỉnh Tây Ninh
2.2.2.1 Nhiều văn bản sao chép, quy định lại nội dung đã quy định tại văn bản quy phạm pháp luật được quy định chi tiết
Theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Luật năm 2015, văn bản quy định chi tiết chỉ được phép nêu nội dung được giao mà không được lặp lại nội dung của văn bản đã được quy định chi tiết Tuy nhiên, nhiều quyết định của UBND tỉnh trong lĩnh vực hỗ trợ doanh nghiệp lại sao chép một số quy định từ nghị định của Chính phủ và nghị quyết của HĐND cấp tỉnh, đồng thời bổ sung thêm một số tiêu chí Hành động này, mặc dù có vẻ nhằm làm rõ nội dung, nhưng thực chất lại vi phạm quy định và tinh thần của Luật năm 2015.
Quyết định số 53/2017/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã điều chỉnh một số nội dung quan trọng của Nghị quyết số 25/2017/NQ-HĐND, bao gồm điều kiện hỗ trợ, các lĩnh vực đổi mới công nghệ, loại hình nghiên cứu và ứng dụng công nghệ được hỗ trợ, mức hỗ trợ, nội dung hỗ trợ, xác lập quyền sở hữu công nghiệp, hỗ trợ doanh nghiệp đạt giải thưởng thương hiệu, cũng như hỗ trợ cho sản phẩm đặc thù và sản phẩm làng nghề mang địa danh của tỉnh.
Quyết định số 21/2019/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã điều chỉnh một số nội dung quan trọng của Nghị quyết số 01/2019/NQ-HĐND, bao gồm nguyên tắc và điều kiện hỗ trợ, mức trần vốn vay được hỗ trợ, nội dung và mức hỗ trợ, cũng như nguồn vốn thực hiện.
26 Lê Thị Ngọc Mai, 2019, Văn bản pháp quy đính kèm - Một số khía cạnh cần làm rõ Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số tháng 6 (327), trang 48-53;
Quyết định số 23/2019/QĐ-UBND của Ủy ban nhân dân tỉnh Tây Ninh đã điều chỉnh toàn bộ nội dung Chương II của Nghị định số 98/2018/NĐ-CP ngày 5/7/2018 của Chính phủ, liên quan đến chính sách khuyến khích phát triển hợp tác và liên kết trong sản xuất cũng như tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp Quyết định này bao gồm các hình thức liên kết, hợp đồng liên kết và dự án liên kết, đồng thời cũng điều chỉnh lại các Điều 5 và 6.
7 Nghị quyết số 02/2019/NQ-HĐND
2.2.2.2 Chất lượng văn bản QPPL lĩnh vực hỗ trợ phát triển doanh nghiệp của