1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam

310 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Đo Lường Mức Độ Công Bố Thông Tin Phi Tài Chính Và Các Nhân Tố Tác Động Đến Mức Độ Công Bố Thông Tin Phi Tài Chính Của Các Doanh Nghiệp Niêm Yết Tại Việt Nam
Tác giả Dương Hoàng Ngọc Khuê
Người hướng dẫn PGS. TS Hà Xuân Thạch
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế TP. Hồ Chí Minh
Chuyên ngành Kế Toán
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2019
Thành phố TP. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 310
Dung lượng 21,13 MB

Cấu trúc

  • 1. LATS. DUONG HOANG NGOC KHUE. UEH HCM

  • 2. Tom tat (E) - Duong HN Khue

  • 2. Tom tat (V) - Duong HN Khue

  • 3. Trang thong tin moi (V-E) - DUONG HOANG NGOC KHUE

Nội dung

Mục tiêu và câu hỏi nghiên cứu

Mục tiêu nghiên cứu

Luận án đƣợc thực hiện nhằm đạt đƣợc các mục tiêu nhƣ sau:

Mục tiêu chính của nghiên cứu là đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường chứng khoán Việt Nam, so sánh với các quy định quốc tế Đồng thời, nghiên cứu cũng sẽ phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin phi tài chính này.

- Mục tiêu cụ thể của luận án là:

+ Thứ nhất, đo lường mức độ CBTT phi tài chính của các DNNY Việt Nam theo quy định của Việt Nam, và theo quy định GRI4 của thế giới

+ Thứ hai, xác định các nhân tố và đo lường tác động của từng nhân tố đến mức độ CBTT phi tài chính của các DNNY tại Việt Nam.

Câu hỏi nghiên cứu

Luận án xác định hai câu hỏi nghiên cứu tương ứng với hai mục tiêu nghiên cứu, nhƣ sau:

Mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết (DNNY) tại Việt Nam hiện nay đang trong quá trình phát triển, tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế so với quy định quốc tế Theo quy định của Việt Nam, các DNNY cần tuân thủ các tiêu chuẩn công bố thông tin, nhưng thực tế cho thấy sự thiếu minh bạch và đồng nhất trong việc công bố các thông tin phi tài chính Trong khi đó, các quy định toàn cầu yêu cầu doanh nghiệp phải cung cấp thông tin chi tiết hơn về các yếu tố môi trường, xã hội và quản trị (ESG), nhằm nâng cao trách nhiệm và tính bền vững Do đó, việc cải thiện mức độ công bố thông tin phi tài chính là cần thiết để các DNNY Việt Nam có thể hội nhập tốt hơn vào thị trường toàn cầu.

Mức độ công bố thông tin phi tài chính chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khác nhau Đầu tiên, yếu tố quy định pháp lý đóng vai trò quan trọng, yêu cầu các doanh nghiệp phải minh bạch trong việc cung cấp thông tin Thứ hai, áp lực từ các bên liên quan, bao gồm nhà đầu tư, khách hàng và cộng đồng, thúc đẩy doanh nghiệp nâng cao chất lượng công bố Cuối cùng, sự phát triển của công nghệ thông tin cũng tạo điều kiện thuận lợi cho việc thu thập và chia sẻ thông tin một cách hiệu quả hơn Tất cả những yếu tố này cùng nhau tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các tổ chức.

Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu: Mức độ CBTT phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính

Phạm vi nghiên cứu của luận án:

- Các doanh nghiệp có cổ phiếu niêm yết chính thức tại thị trường chứng khoán Việt Nam

- Dữ liệu CBTT phi tài chính trên BCTN năm 2016, BC PTBV năm 2016

- Nghiên cứu các DNNY có niên độ kế toán từ 1/1 đến 31/12 hàng năm

Giới hạn nghiên cứu của luận án:

Luận án không tập trung vào nghiên cứu các doanh nghiệp tài chính do những tiêu chuẩn công bố thông tin phi tài chính của chúng khác biệt so với các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh.

- Luận án không nghiên cứu về chất lƣợng CBTT phi tài chính, chỉ nghiên cứu về số lƣợng thông tin phi tài chính đƣợc công bố

Luận án không xem xét các doanh nghiệp niêm yết chính thức trên thị trường chứng khoán Việt Nam sau ngày 1/1/2016 do dữ liệu công bố thông tin phi tài chính của những doanh nghiệp này trong năm 2016 không đầy đủ.

Phương pháp nghiên cứu

Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, tác giả sử dụng phương pháp hỗn hợp, gồm phương pháp định tính và phương pháp định lượng

Phương pháp định tính được áp dụng trong nghiên cứu này, cụ thể là phương pháp chuyên gia, nhằm giải quyết mục tiêu nghiên cứu thứ hai Thông qua thảo luận với các chuyên gia thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm đại diện cơ quan giám sát CBTT, đại diện cơ quan soạn thảo chuẩn mực, đại diện hội nghề nghiệp, kiểm toán viên, kế toán trưởng và các chuyên gia nghiên cứu về kế toán, kiểm toán, tác giả xác định và khám phá các nhân tố cũng như xây dựng thang đo cho mô hình nghiên cứu.

Tác giả áp dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số để đánh giá điểm số của công bố thông tin phi tài chính, đồng thời sử dụng các phương pháp thống kê để đo lường mức độ của những công bố này.

Với mục tiêu 2: Tác giả sử dụng mô hình hồi quy tuyến tính để kiểm định tác động của các nhân tố đến mức độ CBTT phi tài chính.

Các đóng góp mới của luận án

Về phương diện lý thuyết:

Luận án đã tiến hành kiểm định và cải thiện phương pháp đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính, với trọng tâm là ứng dụng tại Việt Nam - một quốc gia đang phát triển.

- Luận án đã kiểm định và bổ sung nhân tố mới là nhân tố vay vốn nước ngoài vào mô hình nghiên cứu các nhân tố

Luận án đã tiến hành đo lường các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin phi tài chính, đặc biệt trong bối cảnh thị trường đang phát triển như Việt Nam.

Về phương diện thực tiễn:

- Luận án đã đo lường mức độ CBTT phi tài chính của các DNNY Việt Nam năm 2016 theo quy định tại Việt Nam và theo hướng dẫn G4 của GRI

- Luận án đã đánh giá mức độ CBTT phi tài chính theo quy định của các DNNY Việt Nam mức độ nào so với tiêu chuẩn quốc tế

Luận án đã đưa ra những hàm ý chính sách quan trọng cho các cơ quan quản lý nhà nước cũng như những khuyến nghị về quản trị công ty, dựa trên các kết quả nghiên cứu của đề tài.

Đối với doanh nghiệp, luận án này đề xuất các hàm ý quản trị nhằm tác động tích cực đến các yếu tố nội bộ, từ đó nâng cao khả năng công bố thông tin phi tài chính một cách thuận lợi và minh bạch hơn.

Đối với cơ quan quản lý nhà nước, cần rà soát và điều chỉnh các văn bản, chính sách về công bố thông tin phi tài chính, đặc biệt là thông tư 155/BTC, để phù hợp với thực tiễn Các tổ chức nghiên cứu như hiệp hội nghề nghiệp VAA, VACPA, và các nhà nghiên cứu khoa học chuyên về kế toán coi đây là tài liệu nghiên cứu quan trọng, nghiêm túc, phục vụ cho việc so sánh và giảng dạy về mức độ công bố thông tin phi tài chính cùng các yếu tố ảnh hưởng đến nó.

Kết cấu của Luận án

Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của luận án gồm có 5 chương:

Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu đã công bố Chương này trình bày các nghiên cứu trước đây liên quan đến mức độ công bố thông tin phi tài chính (CBTT) trên thế giới và tại Việt Nam, cùng với các yếu tố tác động đến mức độ CBTT này Từ đó, tác giả xác định các khoảng trống nghiên cứu cho luận án.

Chương 2: Cơ sở lý thuyết trình bày các khái niệm và hình thức công bố thông tin phi tài chính Nội dung chương cũng đề cập đến các hướng dẫn về công bố thông tin phi tài chính trên thế giới và tại Việt Nam, đồng thời cung cấp hệ thống lý thuyết nền về công bố thông tin nói chung và công bố thông tin phi tài chính nói riêng.

Chương 3: Phương pháp nghiên cứu tập trung vào việc trình bày các phương pháp nghiên cứu phù hợp, lựa chọn phương pháp nghiên cứu thích hợp và mô tả chi tiết từng bước trong quy trình nghiên cứu định tính và định lượng.

Chương 4 trình bày kết quả nghiên cứu định tính và định lượng, bao gồm thống kê mô tả dữ liệu và kết quả chấm điểm CBTT phi tài chính Nội dung chương cũng kiểm tra khiếm khuyết mô hình, kiểm định các giả thuyết nghiên cứu, và thảo luận về mức độ CBTT phi tài chính cũng như tác động của các nhân tố đến mức độ này tại các DNNY ở Việt Nam, theo quy định trong nước và tiêu chuẩn GRI4.

Chương 5 tổng kết những nhận xét chung về tình hình công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam, đồng thời đưa ra các hàm ý chính sách cho cơ quan quản lý nhà nước và các biện pháp quản trị công ty nhằm nâng cao mức độ công khai thông tin này.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU ĐÃ CÔNG BỐ

Các nghiên cứu về công bố bắt buộc thông tin phi tài chính

Nghiên cứu về công bố bắt buộc thông tin phi tài chính đã được nhiều tác giả quan tâm, tiêu biểu như Mobus (2005), Levine và Smith (2011), BaBaLoo (2012), Ioannou và Serafeim (2014), Grewal và cộng sự (2015), Christensen và cộng sự (2015), Kaya (2016), Manes-Rossi và cộng sự (2018), Gulin và cộng sự (2018), cùng với Sierra-Garcia và cộng sự Những nghiên cứu này đóng góp vào việc hiểu rõ hơn về tầm quan trọng của việc công bố thông tin phi tài chính trong quản trị doanh nghiệp và trách nhiệm xã hội.

Nghiên cứu của Szadziewska và cộng sự (2018) tập trung vào việc đo lường mức độ công bố bắt buộc thông tin phi tài chính Các tác giả đã thiết lập chỉ mục CBTT phi tài chính dựa trên hệ thống văn bản quy định của quốc gia, từ đó áp dụng phương pháp thống kê để mô tả kết quả mức độ công bố so với quy định Nghiên cứu này nhằm đánh giá sự tuân thủ về công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu, đồng thời cung cấp cái nhìn tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến công bố bắt buộc thông tin phi tài chính.

1.1.1 Các nghiên cứu về công bố bắt buộc thông tin phi tài chính trên thế giới

Nghiên cứu của Mobus (2005) tại Mỹ về công bố bắt buộc thông tin phi tài chính liên quan đến môi trường đã phân tích 17 công ty với 44 nhà máy lọc dầu Mức độ công bố thông tin môi trường được đánh giá thông qua việc tuân thủ luật pháp về môi trường của các công ty Kết quả nghiên cứu cho thấy quy định bắt buộc công bố thông tin môi trường đã tạo ra áp lực buộc các công ty phải tuân thủ các quy định về sử dụng định mức môi trường Phương pháp phân tích hồi quy được áp dụng, sử dụng dữ liệu thử nghiệm Hausman và ước lượng các hệ số hồi quy bằng phương pháp OLS để xác định mức độ công bố thông tin môi trường của các công ty dầu mỏ.

Kết quả nghiên cứu cho thấy, trung bình mức độ CBTT phi tài chính của các công ty trong mẫu nghiên cứu là 32,58%

Nghiên cứu của Levine và Smith (2011) chỉ ra rằng việc công bố thông tin phi tài chính là một yếu tố quan trọng trong các chính sách kế toán, bao gồm 25 chính sách như khoản phải thu, sửa chữa tài sản, khấu hao, ghi nhận doanh thu, và chính sách thuế Mẫu nghiên cứu được thực hiện trên các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại sở GDCK Mỹ, sử dụng phương pháp thống kê mô tả để đánh giá mức độ công bố từng chính sách kế toán Kết quả cho thấy chính sách đầu tư chứng khoán có mức độ công bố cao nhất, đạt 67,1%, trong khi chính sách công bố cho các công ty phục vụ mục đích đặc biệt chỉ đạt 0,85% Từ đó, tác giả đề xuất các định hướng nhằm nâng cao mức độ công bố các chính sách kế toán quan trọng.

Nghiên cứu của BaBaLoo (2012) tập trung vào việc tuân thủ các chính sách kế toán trong báo cáo tài chính theo CMKT số 01 của Ấn Độ (Ind AS 01), so sánh với CMKT số 01 trước đó và chuẩn mực quốc tế IAS/IFRS 01 Dữ liệu được thu thập từ các nguồn thứ cấp như sách, trang web và tài liệu nghiên cứu khác Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là so sánh sự tuân thủ giữa Ind AS 01 hiện hành và các chuẩn mực trước đây, cũng như với IAS/IFRS 01 Kết quả cho thấy sự khác biệt giữa Ind AS 01 và IAS/IFRS 01, từ đó tác giả đề xuất cần có sự hội tụ giữa CMKT Ấn Độ và chuẩn mực lập BCTC quốc tế, tuy nhiên quá trình hội tụ này diễn ra dần dần và từng phần.

Nghiên cứu của Ioannou và Serafeim (2014) phân tích quy định bắt buộc công bố thông tin phi tài chính về môi trường, xã hội và quản trị công ty tại Trung Quốc, Đan Mạch, Malaysia và Nam Phi, thông qua việc ước tính sự khác biệt trong công bố của các công ty ở các quốc gia này Dữ liệu được thu thập từ Bloomberg, bao gồm thông tin về phát thải, nước, chất thải, năng lượng và chính sách môi trường, cũng như các yếu tố xã hội liên quan đến nhân viên và cộng đồng, và quản trị liên quan đến cấu trúc hội đồng và lương thưởng của ban điều hành Nghiên cứu sử dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số với mẫu gồm 144 công ty Trung Quốc, 29 công ty Đan Mạch, 43 công ty Malaysia và 101 công ty Nam Phi, với đơn vị tiền tệ là USD Kết quả cho thấy mức độ công bố thông tin phi tài chính khác nhau giữa các quốc gia, trong đó các công ty Trung Quốc và Nam Phi đã tăng cường công bố thông tin này đáng kể sau khi có quy định bắt buộc, đồng thời áp dụng các hướng dẫn GRI4 để nâng cao độ tin cậy và tính so sánh của thông tin.

Các công ty Đan Mạch đã cam kết thực hiện Hiệp ƣớc Toàn cầu Liên hợp quốc (UNGC) và đáp ứng yêu cầu công bố thông tin theo tiêu chuẩn này Nghiên cứu cho thấy rằng các công ty này tích hợp các tiêu chí xã hội và môi trường vào quản lý chuỗi cung ứng của họ.

Nghiên cứu về các công ty Malaysia cho thấy rằng báo cáo trách nhiệm xã hội của họ, bao gồm các hoạt động thiện nguyện và cộng đồng, phù hợp với thực tế nhưng mức độ thực hiện còn hạn chế Bên cạnh việc công bố thông tin phi tài chính theo quy định của nhà nước, các công ty Malaysia thường áp dụng hướng dẫn của GRI trong việc công bố thông tin.

Nghiên cứu của Grewal và cộng sự (2015) đã phân tích phản ứng của thị trường vốn đối với chỉ thị của Liên minh Châu Âu (EU) về việc tăng cường công bố bắt buộc thông tin phi tài chính liên quan đến môi trường, xã hội và quản trị công ty (ESG) Mẫu nghiên cứu gồm 1.249 công ty từ các quốc gia EU, sử dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số để đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính, kết hợp với các phương pháp thống kê mô tả, hồi quy đơn biến và phân tích dữ liệu chéo Kết quả cho thấy các doanh nghiệp trong ngành sản xuất có tỷ lệ công bố phi tài chính cao hơn (33,39%) so với các ngành khác (21,24%).

Nghiên cứu của Christensen và cộng sự (2015) cho thấy quy định công bố bắt buộc thông tin phi tài chính, đặc biệt là thông tin an toàn mỏ, có ảnh hưởng tích cực đến BCTC của các DNNY tại sở GDCK Mỹ Sử dụng phương pháp bình phương bé nhất OLS và hồi quy poisson, nghiên cứu đã phân tích dữ liệu từ 151 DNNY, mỗi công ty sở hữu trung bình 24 mỏ Kết quả cho thấy rằng việc công bố thông tin an toàn mỏ không chỉ khuyến khích các nhà quản lý thực hiện các biện pháp cải thiện an toàn mà còn góp phần gia tăng giá trị công ty và nâng cao nhận thức của nhà đầu tư về vấn đề này Điều này chứng tỏ rằng thông tin phi tài chính trong BCTC có tác động quan trọng, ngay cả khi được công bố ở nơi khác.

Nghiên cứu của Kaya (2016) phân tích các yêu cầu công bố thông tin phi tài chính theo đạo luật Code Grenelle II tại Pháp, áp dụng cho các công ty có trên 500 nhân viên Các công ty này phải lập báo cáo môi trường xã hội hàng năm và báo cáo phải được kiểm toán xác nhận Quy định yêu cầu 42 mục thông tin, bao gồm các vấn đề xã hội như việc làm và quan hệ lao động, các vấn đề môi trường như ô nhiễm và quản lý chất thải, cùng với các hoạt động cộng đồng liên quan đến tác động xã hội và nhân quyền Quy định này tương thích với các hướng dẫn quốc tế về báo cáo bền vững, như ISO.

Nghiên cứu cho thấy rằng việc tuân thủ các nguyên tắc như UNGC, OECD và GRI là cần thiết để các tập đoàn đa quốc gia lập báo cáo về hiệu quả xã hội, môi trường và quản trị công ty, nhằm hướng tới sự phát triển bền vững Điều này không chỉ giúp nhà đầu tư và đối tác đánh giá hoạt động bền vững của công ty mà còn thúc đẩy trách nhiệm xã hội Mặc dù báo cáo về môi trường, xã hội và quản trị thường được công bố tự nguyện, nhưng tại Pháp, việc này đã trở thành quy định bắt buộc.

Nghiên cứu của Gulin và cộng sự (2018) về công bố bắt buộc thông tin phi tài chính theo quy định của luật kế toán và các văn bản liên quan đã được thực hiện trên 10 doanh nghiệp niêm yết có tính thanh khoản và vốn hóa cao nhất tại sở GDCK Zagreb trong giai đoạn 2013 – 2015 Phương pháp nghiên cứu bao gồm chỉ số công bố không trọng số với 52 mục thông tin phi tài chính, kết hợp với phân tích nội dung và thống kê mô tả để đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính Kết quả cho thấy mức độ công bố thông tin phi tài chính còn thấp, nhưng có xu hướng gia tăng trong giai đoạn 2013 – 2015.

Nghiên cứu của Manes-Rossi và cộng sự (2018) đã phân tích công bố thông tin phi tài chính theo hướng dẫn 2014/95/EU (EUG) và so sánh với các hướng dẫn của IIRF và GRI4 Mẫu nghiên cứu bao gồm báo cáo thường niên và báo cáo tích hợp của 50 công ty lớn nhất Châu Âu Phương pháp phân tích nội dung được sử dụng để đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu Kết quả cho thấy các công ty đã nhận thức rõ ràng về sự cần thiết phải tăng cường công bố thông tin phi tài chính liên quan đến môi trường và xã hội để duy trì tính hợp pháp.

Ngoài ra còn có nghiên cứu của Szadziewska và cộng sự (2018), Siera-Garcia và cộng sự (2018) được thực hiện khi liên minh Châu Âu ban hành hướng dẫn

Nghị định 2014/95/EU có hiệu lực từ ngày 1/1/2017, yêu cầu các doanh nghiệp tại Châu Âu phải công bố thông tin phi tài chính, nhằm nâng cao trách nhiệm giải trình của họ đối với các bên liên quan.

Bảng 1.1: Tổng hợp các nghiên cứu công bố bắt buộc thông tin phi tài chính trên thế giới

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

1 Mobus 2005 Mỹ Lý thuyết hợp pháp

17 công ty với 44 nhà máy lọc dầu

Mức độ CBTT phi tài chính trung bình là 32,58%

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

2011 Mỹ Thống kê mô tả,

BCTC của các DNNY tại UBCK

Mức độ CBTT phi tài chính cao nhất là 67,1%, thấp nhất là 0,85%

3 Babaloo 2012 Ấn Độ So sánh, đối chiếu

Có sự khác biệt giữa Ind AS 01 và IAS/IFRS 01

Quốc, Đan mạch, Malaysia, Nam Phi

Thu thập điểm công bố từ Bloomberg

Các quốc gia có mức độ CBTT khác nhau

Các công ty có mức công bố tăng lên sau khi có quy định bắt buộc

2015 Châu Âu Phương pháp chỉ số không trọng số Phương pháp thống kê mô tả, phương pháp hồi quy

Mức công bố phi tài chính của ngành sản xuất cao hơn các ngành khác

Công bố bắt buộc làm gia tăng nhận thức của nhà đầu tƣ về vấn đề an toàn mỏ

7 Kaya 2016 Pháp Các bên liên quan

Phương pháp chỉ số công bố

Các công ty ở Pháp có số lƣợng 500 nhân viên trở lên

Các nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính

Trong nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính, một số tác giả đáng chú ý như Karim và cộng sự (2013), Khan và cộng sự (2014), cùng với Ghasempour và Yusof đã đóng góp quan trọng vào lĩnh vực này.

Nghiên cứu của Mihajlov và Spasic (2016) cùng Rezaee và Tuo (2017) tập trung vào thông tin phi tài chính, sử dụng phương pháp chấm điểm mức độ công bố tự nguyện qua chỉ số công bố không trọng số hoặc có trọng số Các tác giả áp dụng phân tích nội dung và thống kê mô tả để đo lường mức độ công bố tự nguyện, phân chia mức độ công bố theo khoảng mà không theo khuôn mẫu, từ đó đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính của doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu.

1.2.1 Các nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính trên thế giới

Nghiên cứu của Karim và cộng sự (2013) về việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính trong các công ty tư nhân và công ty công tại Mỹ đã khảo sát 136 người quản lý về 24 mục thông tin phi tài chính liên quan đến hoạt động của công ty Các mục này bao gồm mức độ hài lòng của công ty, việc chấm dứt hợp đồng với đối tác lâu năm, ra mắt sản phẩm mới, và các vấn đề như bồi thường thiệt hại hay cắt giảm nhân viên Nghiên cứu áp dụng phương pháp định lượng kết hợp với định tính và sử dụng thống kê mô tả dữ liệu Kết quả cho thấy rằng các công ty tư nhân thường hạn chế việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính.

Nghiên cứu của Khan và cộng sự (2014) về mức độ công bố tự nguyện của các

Nghiên cứu về DNNY tại sàn GDCK Nam Thái Bình Dương (SPSE) ở Fiji cho thấy mức độ công bố tự nguyện thông tin phi tài chính rất thấp Trong số 14/16 DNNY được khảo sát, chỉ có tối đa 6 doanh nghiệp cung cấp thông tin về chiến lược và trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) Cụ thể, chỉ 46% doanh nghiệp công bố thông tin chiến lược và 15% công bố thông tin về CSR trong báo cáo tài chính Ngoài ra, các doanh nghiệp cũng ít công bố thông tin liên quan đến hoạt động của hội đồng quản trị và ban giám đốc.

Ghasempour và Yusof (2014) đã tiến hành nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính của 65 doanh nghiệp niêm yết tại Sở GDCK Tehran trong giai đoạn 2005 – 2012, tập trung vào các khía cạnh như giá trị cổ đông, khách hàng và sản phẩm, vốn tri thức, nguồn nhân lực, môi trường và xã hội, cũng như quản trị công ty Nghiên cứu áp dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số để đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính, với kết quả cho thấy mức độ công bố dao động từ 13 đến 646, cho thấy sự không đồng nhất trong việc công bố thông tin phi tài chính giữa các doanh nghiệp Đặc biệt, nghiên cứu chỉ ra rằng các công ty thường ít công bố thông tin phi tài chính, đặc biệt là trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp và môi trường.

Nghiên cứu của Mihajlov và Spasic (2016) đã xem xét việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính, bao gồm thông tin chung về công ty, mô tả môi trường kinh doanh, quản trị công ty, công bố môi trường xã hội và thông tin dự báo tương lai Mẫu nghiên cứu bao gồm 63 doanh nghiệp niêm yết tại sở GDCK Belgrade, sử dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số (0 và 1), với ba mục thông tin có trọng số (0, 1 và 2).

Chỉ mục thông tin mô tả doanh nghiệp và kế hoạch đầu tư tương lai được phân loại như sau: 0 nếu không công bố, 1 nếu công bố thông tin cơ bản, và 2 nếu công bố thông tin đầy đủ, chi tiết.

Mục thông tin trình bày internet được phân loại thành ba mức độ: 0 nếu không công bố, 1 nếu công bố tại Serbia, và 2 nếu có công bố bằng ngôn ngữ nước ngoài Kết quả nghiên cứu chỉ ra rằng, trung bình tỷ lệ công bố tự nguyện thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa trong mẫu nghiên cứu đạt 48,41% Cụ thể, mức công bố từng nhóm thông tin phi tài chính bao gồm: thông tin phi tài chính chung 64,85%, thông tin mô tả môi trường kinh doanh 56,75%, thông tin quản trị công ty 39,86%, thông tin môi trường xã hội 29,59%, và thông tin dự báo tương lai cũng 29,59%.

Nghiên cứu của Rezaee và Tuo (2017) tập trung vào việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính liên quan đến hoạt động bền vững về môi trường, xã hội và quản trị (ESG) của 580 doanh nghiệp tại Mỹ, dựa trên báo cáo tài chính năm 2010 Thông tin phi tài chính bao gồm các yếu tố như sản phẩm, cạnh tranh, ngành công nghiệp, khách hàng, xu hướng và dữ liệu công nghệ Nghiên cứu áp dụng phương pháp chỉ số công bố trọng số để đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính, kết hợp với phân tích nội dung để đánh giá chất lượng thông tin qua độ dài câu và số lượng từ Kết quả cho thấy mức độ công bố phi tài chính trung bình đạt 51,34%.

Bảng 1.2: Tổng hợp các nghiên cứu công bố tự nguyện thông tin phi tài chính trên thế giới

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

2013 Mỹ Bằng phương pháp phỏng vấn với 24 mục thông tin phi tài chính Phương pháp thống kê mô tả

Nhà quản lý của 136 công ty tƣ và công tại Mỹ

Công ty tƣ nhân hạn chế công bố tự nguyện thông tin phi tài chính

2014 phương pháp phân tích nội dung

14/16 DNNY tại sàn GDCK Nam Thái Bình

Kết quả cũng cho thấy chỉ có 46% các DNNY cung cấp thông tin chiến lƣợc

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

Dương (SPSE) ở Fuji và chỉ có 15% DNNY CBTT về CSR trong BCTN

2014 Iran Phương pháp chỉ số công bố không trọng số

Sở GDCK Tehran giai đoạn 2005 –

Mức độ công bố thông tin giữa các công ty rất không đồng đều, với khoảng cách lớn giữa chúng Đặc biệt, thông tin về quản trị doanh nghiệp và thông tin môi trường thường có mức công bố thấp.

Phương pháp chỉ số công bố trọng số và không trọng số

63 DNNY tại sở GDCK Belgrade

Mức trung bình của chỉ số công bố thông tin phi tài chính đạt 48,41% Cụ thể, thông tin phi tài chính chung chiếm 64,85%, thông tin mô tả môi trường kinh doanh đạt 56,75%, thông tin về quản trị công ty là 39,86%, thông tin môi trường xã hội là 29,59%, và thông tin dự báo tương lai cũng là 29,59%.

2017 Mỹ Phương pháp chỉ số công bố trọng số, kết hợp với phương pháp phân tích nội dung

Kết quả nghiên cứu cho thấy trung bình mức độ CBTT phi tài chính 51,34%

Nguồn: Tác giả tổng hợp

1.2.2 Các nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính tại Việt Nam

Tại Việt Nam, nghiên cứu về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính vẫn còn hạn chế, với một số tác giả tiêu biểu như Tạ Quang Bình vào các năm 2012 và 2014.

Phạm Đức Hiếu và Đỗ Thị Hương Lan (2015) đã áp dụng phương pháp chấm điểm mức độ công bố tự nguyện thông qua chỉ số công bố không trọng số Các tác giả sử dụng thống kê mô tả để đo lường mức độ công bố tự nguyện, phân chia mức độ công bố theo khoảng mà không theo khuôn mẫu, nhằm đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu.

Nghiên cứu của Tạ Quang Bình (2012) về mức độ công bố tự nguyện thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp phi tài chính tại Việt Nam đã phân tích các thông tin như kế hoạch phát triển tương lai, thông tin chung về công ty, ủy ban kiểm toán, quản trị công ty, thông tin về nhân viên, trách nhiệm xã hội và chính sách môi trường Mẫu nghiên cứu bao gồm 199 doanh nghiệp niêm yết trên hai sàn HOSE và HNX, sử dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số để đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính và phương pháp thống kê để mô tả dữ liệu Kết quả cho thấy mức độ công bố trung bình của các thông tin phi tài chính là 61,64% cho kế hoạch phát triển tương lai, 70,17% cho thông tin chung về công ty, 10,84% cho ủy ban kiểm toán, 42,45% cho quản trị công ty, và 18,77% cho thông tin về nhân viên, trách nhiệm xã hội và các chính sách về môi trường.

Nghiên cứu của Tạ Quang Bình (2014) tập trung vào việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính, bao gồm các thông tin chung về công ty với 14 mục khác nhau, thông tin về ủy ban kiểm toán với 7 mục, và các thông tin dự báo quan trọng.

Các nghiên cứu liên quan đến nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính

Nghiên cứu của Meek và cộng sự đã chỉ ra các yếu tố ảnh hưởng đến thông tin phi tài chính, không phân biệt giữa công bố bắt buộc và công bố tự nguyện.

(1995), Robb và cộng sự (2001), Skouloudis và cộng sự (2013), Karim và cộng sự

(2013), Arif và Tuhin (2013), Behbahani và cộng sự (2013a, 2013b), Zare và cộng sự

(2013), Mohammed và Islam (2014), Ghasempour và Yusof (2014), Tạ Quang Bình

(2014), Phạm Đức Hiếu và Đỗ Thị Lan Hương (2015), Rezaee và Tuo (2017), Sierra-

Garcia và cộng sự (2018), và nghiên cứu của Szadziewska và cộng sự (2018), cụ thể:

1.3.1 Các nghiên cứu liên quan đến nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính trên thế giới

Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995) tập trung vào các nhân tố tác động đến việc công bố thông tin phi tài chính tại các công ty đa quốc gia ở Mỹ, Anh và Châu Âu Các yếu tố được phân tích bao gồm quy mô công ty, quốc gia/vùng, ngành nghề, đòn bẩy tài chính, hoạt động đa quốc gia, lợi nhuận và tình trạng niêm yết Phương pháp hồi quy được áp dụng để kiểm định các giả thuyết, và kết quả cho thấy quy mô công ty là yếu tố chính giải thích cho việc công bố tự nguyện thông tin phi tài chính.

Nghiên cứu của Robb và cộng sự (2001) chỉ ra mối liên hệ giữa các yếu tố như ngành nghề, đa quốc gia, vị trí địa lý, niêm yết chéo và quy mô công ty đối với việc công bố thông tin phi tài chính tại Mỹ, Úc và Canada Sử dụng phương pháp hồi quy bội, nghiên cứu đã phân tích 53 công ty Úc, 69 công ty Canada và 70 công ty Mỹ trong các lĩnh vực như ô tô, hóa chất, xây dựng, thiết bị điện tử, máy móc và dược phẩm Kết quả cho thấy các công ty đa quốc gia và có quy mô lớn thường cung cấp nhiều thông tin phi tài chính hơn.

Skouloudis và cộng sự (2013) nghiên cứu về xu hướng và nhân tố tác động đến

Nghiên cứu về CBTT phi tài chính tại Hy Lạp đã phân tích các yếu tố như quy mô công ty, ngành nghề, lợi nhuận, quốc tế hóa, thành viên của tổ chức CSR Hellenic, sở hữu nhà nước và sở hữu nước ngoài Mẫu nghiên cứu bao gồm 100 công ty lớn đa dạng ngành nghề, được chọn dựa trên doanh thu Phương pháp phân tích nội dung được sử dụng để đo lường mức độ CBTT phi tài chính, trong khi phương pháp phân tích hồi quy giúp khám phá các xu hướng và yếu tố ảnh hưởng Kết quả cho thấy quy mô công ty và quốc tế hóa có tác động tích cực đến CBTT phi tài chính, trong khi sở hữu nhà nước lại có tác động tiêu cực.

Nghiên cứu của Karim và cộng sự (2013) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công bố thông tin phi tài chính, bao gồm quy mô công ty và đặc điểm của người quản lý như tuổi, giới tính, trình độ và kinh nghiệm Nghiên cứu khảo sát 136 người quản lý từ 74 công ty tư nhân và 62 công ty nhà nước với 24 chỉ tiêu thông tin phi tài chính Phương pháp nghiên cứu kết hợp định lượng và định tính, sử dụng thống kê mô tả, phân tích ANOVA và hồi quy để kiểm định giả thuyết Kết quả cho thấy quy mô công ty có tác động tích cực đến mức độ công bố thông tin phi tài chính, trong khi đặc điểm của người quản lý không ảnh hưởng đến mức độ này.

Nghiên cứu của Behbahani và cộng sự (2013a) đã chỉ ra rằng chất lượng công ty kiểm toán có ảnh hưởng đáng kể đến việc công bố thông tin phi tài chính Mẫu nghiên cứu bao gồm 102 doanh nghiệp niêm yết tại Sở GDCK Tehran trong giai đoạn 2008-2012 Phương pháp hồi quy được sử dụng để kiểm định giả thuyết, và kết quả cho thấy quy mô của công ty kiểm toán có tác động tích cực đến chất lượng công bố thông tin phi tài chính.

Nghiên cứu của Behbahani và cộng sự (2013b) chỉ ra rằng các đặc tính công ty như quy mô, tính thanh khoản và sự phức tạp về cấu trúc ảnh hưởng đến chất lượng công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Sở GDCK Tehran Nghiên cứu áp dụng chỉ số công bố thông tin phi tài chính với 50 mục tiêu dựa trên chuẩn mực kế toán Iran và các quy định liên quan, đồng thời sử dụng phương pháp hồi quy để kiểm định giả thuyết với mẫu gồm 102 công ty trong giai đoạn 2008-2012 Kết quả cho thấy quy mô công ty và sự phức tạp có tác động tích cực đến chất lượng công bố thông tin phi tài chính, trong khi tính thanh khoản lại có tác động tiêu cực.

Nghiên cứu của Zare và cộng sự (2013) đã phân tích tác động của các yếu tố như đòn bẩy tài chính, lợi nhuận và thời gian niêm yết đến chất lượng công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại sở GDCK Tehran Sử dụng phương pháp chỉ số công bố thông tin với 50 mục tiêu chuẩn dựa trên quy định kế toán Iran, nghiên cứu đã thu thập dữ liệu từ 102 doanh nghiệp trong giai đoạn 2008-2012 Kết quả cho thấy thời gian niêm yết và lợi nhuận có ảnh hưởng tích cực đến chất lượng công bố thông tin phi tài chính, trong khi đòn bẩy tài chính lại có tác động tiêu cực.

Nghiên cứu của Mohammed và Islam (2014) đã chỉ ra rằng quy mô công ty và tuổi công ty là những nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến công bố thông tin phi tài chính Sử dụng phương pháp chỉ số công bố không trọng số với 63 mục công bố tự nguyện và hồi quy bội, nghiên cứu phân tích báo cáo tài chính năm 2011 - 2012 của 20 trong số 26 công ty hóa dược niêm yết tại sở GDCK Dhaka (DSE) và sở GDCK Chittagong (CSE) ở Bangladesh Kết quả cho thấy quy mô và tuổi công ty có tác động đáng kể đến mức độ công bố thông tin phi tài chính.

Nghiên cứu của Ghasempour và Yusof (2014) đã phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công bố thông tin phi tài chính, bao gồm giá trị công ty, quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, sự phức tạp trong kinh doanh, lợi nhuận và biến động doanh thu, với mẫu nghiên cứu là 65 công ty niêm yết tại Sở GDCK Tehran từ năm 2005 đến 2012 Kết quả cho thấy quy mô công ty, sự phức tạp trong kinh doanh, biến động doanh thu và giá trị công ty có tác động tích cực đến công bố phi tài chính, trong khi đòn bẩy tài chính lại có ảnh hưởng tiêu cực đáng kể Đặc biệt, nghiên cứu không tìm thấy mối liên hệ giữa công bố phi tài chính và lợi nhuận công ty.

Nghiên cứu của Rezaee và Tuo (2017) về công bố tự nguyện thông tin phi tài chính đã phân tích 580 báo cáo tài chính năm 2010 của các công ty tại Mỹ Sử dụng các phương pháp như chỉ số công bố trọng số, phân tích nội dung và hồi quy, nghiên cứu kiểm soát các biến như quy mô công ty, sở hữu tổ chức, lợi nhuận, đòn bẩy tài chính và vị trí địa lý Kết quả cho thấy rằng quy mô công ty, sở hữu tổ chức, lợi nhuận, vị trí địa lý và đòn bẩy tài chính có tác động đáng kể và tích cực đến mức độ công bố tự nguyện thông tin phi tài chính.

Nghiên cứu của Sierra-Garcia và cộng sự (2018) tập trung vào việc công bố thông tin phi tài chính tại Tây Ban Nha, với mẫu nghiên cứu là báo cáo tài chính, báo cáo bền vững và báo cáo quản trị của các công ty thuộc IBEX35 Nghiên cứu áp dụng các phương pháp chỉ số công bố, phân tích nội dung và hồi quy để xác định mối liên hệ giữa mức độ công bố thông tin phi tài chính và các yếu tố như quy mô công ty và ngành nghề kinh doanh Kết quả cho thấy mức độ công bố thông tin phi tài chính có mối liên hệ đáng kể với ngành nghề kinh doanh của công ty.

Nghiên cứu của Szadziewska và cộng sự (2018) đã phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến việc công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNY) tại Ba Lan Các yếu tố được xem xét bao gồm lợi nhuận trên tài sản (ROA), lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE), hệ số TOBINQi, đòn bẩy tài chính, quy mô công ty và ngành nghề kinh doanh Mẫu nghiên cứu bao gồm 53 DNNY tại Ba Lan.

Nghiên cứu tại Ba Lan sử dụng phương pháp phân tích nội dung và mô hình hồi quy Tobit đã chỉ ra rằng giá trị thị trường, quy mô công ty và ngành nghề kinh doanh có ảnh hưởng đáng kể đến mức độ công bố thông tin phi tài chính.

Bảng 1.4: Tổng hợp các nghiên cứu nhân tố tác động đến CBTT phi tài chính trên thế giới

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

Mẫu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu

PP chỉ số công bố không trọng số

BCTN năm 1989 của 116 công ty

Mỹ, 64 công ty Anh, 46 công ty Châu Âu (trong đó: 16 công ty Pháp, 12 công ty Đức, và 18 công ty Hà Lan)

Hoạt động đa quốc gia 0

Lợi nhuận 0 Đòn bẩy tài chính 0 Ngành nghề kinh doanh 0 Niêm yết nước ngoài 0

53 công ty Úc, 69 công ty Canada,

2013 Hy Lạp Phương pháp phân tích nội dung Phương pháp hồi quy

100 công ty lớn Quy mô công ty +

Thành viên của tổ chức CSR Hellenic

4 Karim và 2013 PP hỗn hợp 136 nhà quản lý Quy mô công ty +

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

Mẫu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu cộng sự PP hồi quy

PP thống kê mô tả của 74 công ty tƣ nhân, và 62 công ty nhà nước Đặc điểm của người quản lý (tuổi, giới tính, trình độ, kinh nghiệm)

2013a Iran Lý thuyết tín hiệu phương pháp hồi quy

102 DNNY ở Sở GDCK Tehran giai đoạn 2008-

Quy mô công ty kiểm toán

2013b Iran PP chỉ số công bố không trọng số

102 DNNY ở Sở GDCK Tehran giai đoạn 2008-

Sự phức tạp của công ty + Tính thanh khoản -

2013 Iran Lý thuyết đại diện

PP chỉ số công bố không trọng số

102 DNNY ở Sở GDCK Tehran giai đoạn 2008-

Thời gian niêm yết + Lợi nhuận công ty + Đòn bẩy tài chính -

2014 Bangladesh phương pháp chỉ số công bố không trọng số

- 2012 của 20/26 công ty hóa dƣợc niêm yết tại sở

2014 Iran PP hồi quy 65 DNNY tại Sở

Phức tạp trong kinh doanh,

Sự biến động của doanh +

Tác giả Năm Địa điểm Lý thuyết sử dụng

Mẫu nghiên cứu Kết quả nghiên cứu thu

Giá trị công ty + Đòn bẩy tài chính -

2017 Mỹ PP chỉ số công bố trọng số, PP phân tích nội dung và PP hồi quy

BCTN năm 2010 của 580 công ty tại Mỹ

Vị trí địa lý + Đòn bẩy tài chính +

11 Sierra-Garcia và cộng sự

PP chỉ số công bố,

BCTN, BC bền vững của các công ty thuộc IBEX35

2018 Ba Lan PP phân tích nội dung

BCTN của 53 DNNY tại Ba Lan

Lợi nhuận công ty 0 Giá trị thị trường + Đòn bẩy tài chính 0

Nguồn: Tác giả tổng hợp

1.3.2 Các nghiên cứu liên quan đến nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính tại Việt Nam

Nghiên cứu của Tạ Quang Bình (2014) chỉ ra rằng các nhân tố như đặc tính công ty (quy mô và lợi nhuận), cấu trúc sở hữu (sở hữu nhà nước, tổ chức và nước ngoài) và đặc tính quản trị công ty (ủy ban kiểm toán nội bộ, công ty kiểm toán Big4, cấu trúc lãnh đạo kép) ảnh hưởng đến mức độ công bố phi tài chính Phương pháp chỉ số công bố không trọng số được sử dụng để đánh giá các thông tin như thông tin chung về công ty, ủy ban kiểm toán, dự báo, trách nhiệm công ty và cấu trúc HĐQT Qua phân tích hồi quy, nghiên cứu xác định rằng lợi nhuận và quy mô công ty có tác động tích cực đến mức độ công bố, trong khi cấu trúc quản lý kép cũng thể hiện ảnh hưởng đáng kể đến việc này.

Đánh giá các nghiên cứu trước và xác định khe trống trong nghiên cứu

1.4.1 Đánh giá các nghiên cứu trước Đối với thế giới, đây là dòng nghiên cứu đầy đủ, đƣợc nhiều nhà nghiên cứu thực hiện với ba dòng nghiên cứu: (1) nghiên cứu về mức độ CBTT phi tài chính bắt buộc, (2) nghiên cứu về mức độ CBTT phi tài chính tự nguyện, và (3) nghiên cứu về nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính Các nghiên cứu đƣợc thực hiện bằng phương pháp chỉ số công bố, có trọng số hoặc không có trọng số, hoặc sử dụng phương pháp phân tích nội dung, hoặc kết hợp phương pháp chỉ số công bố và phương pháp phân tích nội dung để chấm điểm mức độ CBTT phi tài chính Ngoài ra, các nghiên cứu còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp hồi quy để kiểm định tác động của các nhân tố đến mức độ CBTT phi tài chính Đối với các nghiên cứu trong nước, dòng nghiên cứu (1) công bố bắt buộc thông tin phi tài chính theo các quy định chƣa đƣợc thực hiện riêng trong một nghiên cứu, dòng nghiên cứu (2) về công bố tự nguyện đã đƣợc thực hiện nhƣng còn khiêm tốn và nghiên cứu không đầy đủ về CBTT phi tài chính, còn dòng nghiên cứu (3) về nhân tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính, vẫn còn ít và nghiên cứu không đầy đủ về CBTT phi tài chính Các nghiên cứu sử dụng phương pháp chỉ số công bố không có trọng số để chấm điểm CBTT phi tài chính và sử dụng phương pháp thống kê để đo lường mức độ CBTT phi tài chính Ngoài ra, các nghiên cứu còn sử dụng phương pháp mô hình hồi quy tuyến tính để kiểm định tác động của các nhân tố đến mức độ CBTT phi tài chính

1.4.2 Xác định khe trống trong nghiên cứu

Năm 2016 đánh dấu sự ra đời của thông tư 155/BTC, quy định về việc công bố thông tin (CBTT) phi tài chính bắt buộc cho các doanh nghiệp niêm yết tại Sở GDCK Việt Nam Luận án này được thực hiện nhằm đo lường mức độ CBTT phi tài chính theo quy định của Việt Nam, đồng thời so sánh với hướng dẫn G4 của Tổ chức Sáng kiến Toàn cầu GRI, một tiêu chuẩn phổ biến trên thế giới.

Nghiên cứu về các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính (CBTT) tại Việt Nam còn rất hạn chế, chủ yếu tập trung vào CBTT tự nguyện và khía cạnh thông tin phi tài chính Hiện tại, chưa có nghiên cứu toàn diện về CBTT phi tài chính, và các dữ liệu nghiên cứu chủ yếu được thực hiện trước khi ban hành Thông tư 200/BTC và Thông tư 155/BTC.

Từ phân tích trên, luận án sẽ phát hiện khe trống chƣa nghiên cứu về CBTT phi tài chính nhƣ sau:

Đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại Việt Nam theo quy định trong nước và hướng dẫn G4 của Tổ chức Sáng kiến Toàn cầu GRI Bài viết đánh giá tình hình công bố thông tin phi tài chính của doanh nghiệp Việt Nam hiện nay và so sánh với các tiêu chuẩn quốc tế trong lĩnh vực này.

Xác định các yếu tố từ nghiên cứu tổng quan và khám phá các yếu tố mới ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin phi tài chính, đồng thời đo lường mức độ tác động của từng yếu tố đến công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa tại Việt Nam.

Chương 1 của bài viết trình bày tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến công bố thông tin phi tài chính (CBTT phi tài chính) tại Việt Nam và thế giới, chia thành ba dòng nghiên cứu chính: (1) mức độ CBTT phi tài chính bắt buộc, (2) mức độ CBTT phi tài chính tự nguyện, và (3) các yếu tố tác động đến mức độ CBTT phi tài chính Các nghiên cứu trước đây chủ yếu sử dụng chỉ số công bố để đánh giá mức độ CBTT phi tài chính, kết hợp với phương pháp thống kê và hồi quy để kiểm định giả thuyết Mặc dù trên thế giới, các nghiên cứu này đã được thực hiện đầy đủ, nhưng tại Việt Nam, lĩnh vực này vẫn còn hạn chế Từ đó, tác giả nhận thấy có khoảng trống nghiên cứu cần được khai thác, và nội dung tổng quan trong chương 1 sẽ là cơ sở để đề xuất mô hình nghiên cứu trong chương 3.

CƠ SỞ LÝ THUYẾT

Những vấn đề chung về thông tin phi tài chính

2.1.1 Khái niệm thông tin phi tài chính

Thông tin phi tài chính là một khái niệm rộng, được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau bởi các nhà nghiên cứu và các tổ chức nghề nghiệp Các định nghĩa này đã được tổng hợp và trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.1 Tổng hợp các định nghĩa về thông tin phi tài chính

Meek và cộng sự (1995) đã chỉ ra rằng thông tin phi tài chính liên quan đến trách nhiệm xã hội của một công ty không chỉ hướng đến các chủ sở hữu hay nhà đầu tư, mà còn mở rộng đến tất cả các bên liên quan Khái niệm này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc cung cấp thông tin cho nhóm người sử dụng đa dạng, nhằm tăng cường tính minh bạch và trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp.

Theo nghiên cứu của Robb và cộng sự (2001), thông tin định tính được công bố trong báo cáo thường niên không thuộc bốn báo cáo tài chính và các chú thích liên quan Bên cạnh đó, Flostrand và Strom (2006) cho rằng thông tin bổ sung có thể được xem là phi tài chính nếu không nằm trong bốn báo cáo tài chính.

ICAEW 2008 Tùy thuộc vào từng loại báo cáo mà

Các tác giả định nghĩa thông tin phi tài chính theo nhiều cách khác nhau Trong báo cáo thường niên, thông tin phi tài chính bao gồm các yếu tố về môi trường, xã hội và quản trị công ty Ngược lại, trong báo cáo trách nhiệm xã hội, thông tin phi tài chính được mở rộng để bao gồm các khía cạnh về môi trường, xã hội, kinh tế và đạo đức.

Thông tin phi tài chính, theo Admiraal, Nivra và Turksema (2009), là những dữ liệu không thể đo lường bằng đơn vị tiền tệ Nó bao gồm tất cả các thông tin định lượng và định tính liên quan đến chính sách mà một tổ chức theo đuổi, cùng với kết quả đạt được từ các chính sách đó về sản lượng hoặc kết quả, mà không có mối liên hệ trực tiếp với hệ thống tài chính của tổ chức.

Theo Dominique (2009), bên cạnh chất lượng sản phẩm, các yếu tố như khách hàng, nhân viên, rủi ro khí hậu và trách nhiệm công ty, tiêu chí phân bổ như số lượng nhân viên, số sản phẩm sản xuất và số giờ huấn luyện cũng được xem là thông tin phi tài chính quan trọng.

Eccles và Krzus 2010 một thuật ngữ rộng áp dụng cho tất cả thông tin báo cáo cho các cổ đông và các bên liên quan khác

Fraser 2012 Thông tin nằm ngoài phạm vi BCTC

Thông tin phi tài chính theo INTOSAI 2013 là loại thông tin không được thể hiện bằng đơn vị tiền tệ và không dựa vào chuẩn mực kế toán Thông tin này có thể mang tính định lượng hoặc định tính.

Theo Ủy ban Châu Âu năm 2013, thông tin phi tài chính thường liên quan đến các vấn đề môi trường, xã hội và quản trị công ty, bao gồm cả thông tin về sự đa dạng sinh học.

Skouloudis và cộng sự 2013 Sử dụng thuật ngữ ―CBTT phi tài chính‖ để đề cập về các thông tin môi trường, xã hội, quản trị công ty

Thông tin phi tài chính, theo Financial Times Lexicon 2015, là các chỉ số định lượng về hiệu suất của cá nhân hoặc tổ chức mà không sử dụng đơn vị tiền tệ để thể hiện.

E&Y 2015 đã cung cấp thông tin phi tài chính quan trọng liên quan đến các vấn đề như tính bền vững, trách nhiệm công ty, tiêu chí môi trường, xã hội và quản trị (ESG), đạo đức, nguồn lực con người, cũng như các yếu tố về môi trường, sức khỏe và an toàn (EH&S).

Nguồn: Tác giả tổng hợp

Thông tin phi tài chính là khái niệm rộng, bao gồm dữ liệu định tính và định lượng, không được đo lường bằng tiền tệ Tùy thuộc vào loại báo cáo, thông tin phi tài chính có thể khác nhau Trong các báo cáo thường niên, thông tin phi tài chính thường bao gồm các khía cạnh chung về công ty, môi trường, xã hội, quản trị công ty và các thông tin phi tài chính khác.

2.1.2 Vai trò của thông tin phi tài chính

Trong bối cảnh thị trường cạnh tranh khốc liệt hiện nay, việc chỉ dựa vào thông tin tài chính để ra quyết định không đủ để tạo lợi thế cạnh tranh cho các công ty Do đó, bên cạnh việc công bố thông tin tài chính, các doanh nghiệp cần tăng cường công bố thông tin phi tài chính Sự kết hợp giữa thông tin tài chính và phi tài chính mang lại cái nhìn tổng quan về chất lượng quản lý, khiến thông tin phi tài chính trở thành yếu tố quan trọng trong việc đánh giá triển vọng tài chính của công ty Trong khi thông tin tài chính là nền tảng cần thiết mà doanh nghiệp phải cung cấp, thông tin phi tài chính lại tạo ra sự khác biệt giữa các doanh nghiệp.

Thông tin phi tài chính thường được sử dụng để đánh giá thành quả hoạt động

Thông tin phi tài chính đóng vai trò trung tâm trong bảng điểm cân bằng, tập trung vào chiến lược dài hạn của công ty, trong khi thông tin tài chính chủ yếu liên quan đến các chỉ tiêu kế toán ngắn hạn Điều này dẫn đến việc không chú trọng đến các yếu tố như chất lượng, thương hiệu, danh tiếng, sự hài lòng của khách hàng, cũng như các động thái của đối thủ cạnh tranh và vấn đề nhân sự Để đảm bảo sự bền vững lâu dài trong môi trường cạnh tranh và đạt được các mục tiêu chiến lược, việc xem xét thông tin phi tài chính trong quá trình ra quyết định là vô cùng quan trọng.

Thông tin phi tài chính là công cụ quan trọng giúp doanh nghiệp đánh giá hiệu quả hoạt động, bao gồm sự hài lòng của nhân viên và khách hàng Sự hài lòng của nhân viên thúc đẩy động lực làm việc, từ đó đảm bảo sản phẩm được giao đúng hạn, nâng cao sự hài lòng của khách hàng Khi khách hàng hài lòng, họ có xu hướng đặt hàng nhiều hơn trong tương lai, điều này sẽ tác động tích cực đến lợi nhuận và giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả trên thị trường, đồng thời cải thiện tình hình tài chính của công ty (Dominique, 2009).

2.1.3 Đối tƣợng sử dụng thông tin phi tài chính

Trong nghiên cứu của Adina và Ion (2008) về công bố bắt buộc và tự nguyện, các tác giả đã chia đối tƣợng sử dụng thông tin thành hai nhóm:

Nhóm đầu tiên bao gồm những người có chuyên môn như môi giới, phân tích tài chính và các quỹ đầu tư Nhóm này cần thông tin để tư vấn cho những khách hàng và người sử dụng không có kiến thức chuyên môn.

Các hướng dẫn CBTT phi tài chính

Để đánh giá mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNY) tại Việt Nam so với tiêu chuẩn quốc tế, phần này sẽ trình bày các hướng dẫn về công bố thông tin phi tài chính hiện có trên thế giới và tại Việt Nam.

2.2.1 Hướng dẫn CBTT phi tài chính trên thế giới

Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp thường gây tác động tiêu cực đến môi trường và xã hội, do đó việc công bố thông tin phi tài chính là cần thiết để giải trình về vấn đề này Thông tin phi tài chính được trình bày trong các báo cáo phát triển bền vững (BC PTBV) và có nhiều hướng dẫn lập báo cáo từ các tổ chức như Sáng kiến toàn cầu (GRI), Dự án công bố Cac-bon (CDP), Hiệp ước toàn cầu Liên hợp quốc (UNGC), Khung phát triển bền vững của IFC, Hội đồng báo cáo tích hợp quốc tế, Trách nhiệm giải trình đối với phát triển bền vững, và tiêu chuẩn ISO 26000:2010, cùng với Hệ thống xếp hạng tác động đầu tư toàn cầu (GIIRS).

Mặc dù có nhiều hướng dẫn về báo cáo phát triển bền vững (BC PTBV), một số quốc gia đã ban hành yêu cầu pháp lý riêng, việc lựa chọn khuôn khổ vẫn phụ thuộc vào từng doanh nghiệp Theo nghiên cứu của CSES (2011), 47 trong số 71 doanh nghiệp khảo sát đã áp dụng hướng dẫn BC PTBV của Tổ chức Sáng kiến Toàn cầu (GRI) và Hiệp ước Toàn cầu Liên hợp quốc (UNGC) Vì vậy, luận án này sẽ trình bày hướng dẫn lập BC PTBV theo tiêu chuẩn GRI, tiêu chuẩn được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu hiện nay.

Hướng dẫn CBTT phi tài chính của Tổ chức sáng kiến toàn cầu (GRI)

Tổ chức Sáng kiến Toàn cầu (GRI) là một tổ chức phi lợi nhuận, được thành lập với mục tiêu phát triển hướng dẫn và tiêu chuẩn thực hành chung cho việc lập báo cáo phát triển bền vững (BC PTBV) Sứ mệnh của GRI là hỗ trợ các doanh nghiệp và tổ chức trong việc báo cáo hiệu quả hoạt động cũng như các tác động về kinh tế, môi trường, xã hội và quản trị.

Hướng dẫn GRI, được thành lập tại Boston vào năm 1997, đã phát hành phiên bản mới nhất G4 vào tháng 5/2013, cung cấp các nguyên tắc báo cáo và hướng dẫn thực hiện cho các báo cáo phát triển bền vững (BC PTBV) của mọi tổ chức, bất kể quy mô hay lĩnh vực Hướng dẫn G4 cung cấp tham chiếu quốc tế cho các bên quan tâm về quản trị, hiệu suất và tác động của tổ chức đối với môi trường, xã hội và kinh tế Các báo cáo theo hướng dẫn G4 cần tuân thủ các nguyên tắc như tính trọng yếu, tính đầy đủ, tính cân bằng, khả năng so sánh, tính hữu ích, tính kịp thời, tính rõ ràng và tính đáng tin cậy.

Hướng dẫn G4, được công nhận toàn cầu, là tiêu chuẩn hàng đầu trong việc lập báo cáo phát triển bền vững (BC PTBV) Các doanh nghiệp áp dụng hướng dẫn này nhằm nâng cao hình ảnh và tăng cường tính minh bạch trong thông tin Nội dung báo cáo theo G4 bao gồm nhiều nhóm thông tin quan trọng.

Bảng 2.3 Danh mục CBTT phi tài chính theo GRI4

QUẢN TRỊ CÔNG TY Gov1 Các quy tắc quản trị công ty

Gov2 Các quy trình quản trị công ty Gov3 Vấn đề chống tham nhũng và Đạo đức trong công ty KINH TẾ Econ1 Giá trị kinh tế chung

Chuỗi cung ứng sản phẩm là yếu tố quan trọng trong kinh tế, ảnh hưởng đến hiệu quả kinh doanh Biến đổi khí hậu mang lại nhiều tác động, rủi ro cũng như cơ hội cho các doanh nghiệp Đầu tư vào cơ sở hạ tầng kinh doanh không cốt lõi có thể tạo ra lợi thế cạnh tranh Quản trị rủi ro là cần thiết để đảm bảo sự bền vững và phát triển lâu dài trong môi trường kinh doanh hiện nay.

MÔI TRƯỜNG Env1 Năng lượng

Env2 Nước Env3 Quản lý sự lãng phí Env4 Quyền phát thải Env5 Đa dạng sinh học Env6 Tuân thủ

Env7 Quản lý sản phẩm và dịch vụ

XÃ HỘI Soc1 Sự đa dạng và cơ hội bình đẳng

Soc2 Lao động và mối quan hệ với lao động Soc3 An toàn và sức khỏe lao động

Soc4 Giáo dục và đào tạo Soc5 Quyền con người Soc6 Hoạt động cộng đồng Soc7 Trách nhiệm sản phẩm

Nguồn: Từ hướng dẫn G4 của GRI

2.2.2 Hướng dẫn CBTT phi tài chính tại Việt Nam

2.2.2.1 Quy định về CBTT phi tài chính trong hệ thống CMKT và chế độ kế toán Việt Nam

Mỗi quốc gia đều có quy định riêng về cách trình bày thông tin, và Việt Nam cũng vậy Việc công bố thông tin phi tài chính là bắt buộc và được quy định trong hệ thống Chuẩn mực Kế toán Việt Nam (VAS) cùng với chế độ kế toán hiện hành.

Bảng 2.4 Tổng hợp mục CBTT phi tài chính theo CMKT và chế độ kế toán Việt Nam

Chuẩn mực Tên chuẩn mực Mô tả

VAS 21 Trình bày BCTC Trụ sở và loại hình pháp lý của doanh nghiệp

Chuẩn mực Tên chuẩn mực Mô tả

Quốc gia đã chứng nhận tƣ cách pháp nhân của doanh nghiệp Địa chỉ của trụ sở doanh nghiệp

Cơ sở kinh doanh chính (nếu khác với trụ sở)

Mô tả về tính chất của các nghiệp vụ và các hoạt động chính của doanh nghiệp

Tên của doanh nghiệp mẹ và doanh nghiệp mẹ của cả tập đoàn

Số lƣợng công nhân viên tại thời điểm cuối niên độ hoặc số lƣợng công nhân viên bình quân trong niên độ kế toán

VAS 23 Các sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc kỳ kế toán năm

Việc hợp nhất kinh doanh

Việc công bố kế hoạch ngừng hoạt động, việc thanh lý tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ liên quan đến ngừng hoạt động

Tham gia vào một hợp đồng ràng buộc để bán tài sản hoặc thanh toán các khoản nợ là một quyết định quan trọng Những thiệt hại do hỏa hoạn hoặc bão lụt có thể khiến nhà xưởng sản xuất bị phá hủy, dẫn đến nhiều hệ lụy cho doanh nghiệp.

Thực hiện tái cơ cấu chủ yếu Các giao dịch chủ yếu và tiềm năng của cổ phiếu thường

Tham gia những cam kết, thỏa thuận quan trọng

Xuất hiện những vụ kiện tụng lớn VAS 25 BCTC hợp nhất và kế toán khoản đầu tƣ vào doanh nghiệp con

Danh sách các doanh nghiệp con cần được trình bày, bao gồm thông tin về phần sở hữu và tỷ lệ (%) quyền biểu quyết Theo tiêu chuẩn VAS 07, các khoản đầu tư vào doanh nghiệp liên kết cũng cần được kế toán một cách rõ ràng và chính xác.

Danh sách các doanh nghiệp liên kết cần được trình bày kèm theo thông tin về phần sở hữu và tỷ lệ (%) quyền biểu quyết Theo VAS 26, thông tin về các bên có liên quan và các giao dịch chủ yếu giữa các bên liên quan phải được nêu rõ trong báo cáo tài chính, đặc biệt là những giao dịch có ảnh hưởng đáng kể Trong đó, giao dịch đại lý cũng là một yếu tố cần được lưu ý.

Giao dịch thuê tài sản Chuyển giao về nghiên cứu và phát triển Thỏa thuận về giấy phép; Bảo lãnh và thế

Chuẩn mực Tên chuẩn mực Mô tả chấp Các hợp đồng quản lý VAS 28 Báo cáo bộ phận Thuyết minh về sự sụt giảm nhu cầu

Thuyết minh về sự thay đổi khu vực địa lý báo cáo

TT200/BTC Thuyết minh BCTC

Trình bày thông tin bảo lãnh Thông tin cam kết

Những sự kiện phát sinh sau ngày kết thúc niên kỳ kế toán năm: vụ hỏa hoạn, thông tin phá sản của khách hàng…

Thông tin về các bên liên quan Thông tin về hoạt động liên tục

2.2.2.2 Quy định về CBTT phi tài chính theo hướng dẫn CBTT trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán Việt Nam, theo thông tư 155/2015/TT-BTC, quy định các mục thông tin phi tài chính cần công bố định kỳ, được trình bày trong bảng dưới đây.

Bảng 2.5 Tổng hợp mục CBTT phi tài chính theo Hướng dẫn CBTT trên thị trường chứng khoán Việt Nam

Thông tin chung về công ty Tên giao dịch, mã chứng khoán

Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh là tài liệu quan trọng thể hiện thông tin về địa chỉ, điện thoại, fax và website của công ty Quá trình hình thành và phát triển của doanh nghiệp được ghi nhận rõ ràng, cùng với các ngành nghề kinh doanh mà công ty hoạt động Thêm vào đó, địa bàn kinh doanh cũng được xác định cụ thể, giúp khách hàng và đối tác dễ dàng nắm bắt thông tin.

Cơ cấu bộ máy quản lý của công ty bao gồm các công ty con và công ty liên kết, nhằm định hướng phát triển bền vững Mục tiêu chủ yếu là xây dựng chiến lược phát triển trung và dài hạn, tập trung vào các mục tiêu phát triển bền vững liên quan đến môi trường, xã hội và cộng đồng.

Các loại rủi ro về hoạt động kinh doanh Rủi ro về môi trường

Danh sách ban điều hành

Những thay đổi trong ban điều hành

Số lƣợng cán bộ, nhân viên (tóm tắt chính sách và thay đổi chính sách)

Năng lƣợng Nước Tuân thủ

Xã hội Số lƣợng lao động (cuối niên độ)

Số lƣợng lao động bình quân trong niên độ Mức lương trung bình đối với người lao động Việc làm, an toàn sức khỏe lao động

Giáo dục và đào tạo đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nguồn nhân lực, trong khi các hoạt động cộng đồng góp phần nâng cao sự gắn kết xã hội Quản trị công ty cần có sự minh bạch thông qua báo cáo và đánh giá của ban giám đốc, cùng với những đánh giá từ Hội đồng Quản trị để đảm bảo hiệu quả và trách nhiệm trong quản lý doanh nghiệp.

Phương pháp đo lường mức độ CBTT phi tài chính

Hassan và Marston (2010) đã thực hiện nghiên cứu tổng quan về các phương pháp đo lường mức độ CBTT, khảo sát 40 nghiên cứu liên quan Kết quả cho thấy có hai hướng tiếp cận trong đo lường CBTT: thứ nhất, đo lường thông tin không dựa vào phương tiện CBTT truyền thống thông qua khảo sát, phỏng vấn, và việc doanh nghiệp sở hữu chứng chỉ tín thác; thứ hai, đo lường thông tin dựa vào các phương tiện CBTT truyền thống như báo cáo thường niên và website công ty Ngoài ra, nghiên cứu cũng chỉ ra tần suất sử dụng các phương pháp để đo lường số lượng và chất lượng CBTT, bao gồm phân tích nội dung và các chỉ số CBTT khác.

Nghiên cứu của Hassan và Marston (2010) chỉ ra rằng một nghiên cứu có thể áp dụng nhiều phương pháp đo lường khác nhau Bảng kết quả dưới đây trình bày tần suất sử dụng các phương pháp đo lường trong 40 nghiên cứu mà các tác giả đã khảo sát.

Bảng 2.6 Thống kê tần suất các phương pháp đánh giá mức độ CBTT sử dụng trong nghiên cứu

6 Sự kiện (thay đổi theo GAAP) 2 4

7 Đo lường khác không liên quan đến BCTN 2 4

8 Sự tồn tại của chứng chỉ tín thác 1 2

9 Dự báo của nhà phân tích 1 2

10 Số lƣợng nhà phân tích theo dõi công ty 1 2

11 Dự báo của nhà quản lý 1 2

12 Sự chính xác của dự báo nhà quản lý 1 2

13 CBTT xấu (tốt) trong dự báo quản lý 1 2

14 Đo lường khác trong BCTN 1 2

Theo thống kê, phương pháp phổ biến nhất để đo lường mức độ công bố thông tin (CBTT) là phương pháp chỉ số công bố, chiếm 32% Do đó, tác giả sẽ tập trung trình bày chi tiết về phương pháp này.

PHƯƠNG PHÁP CHỈ SỐ CÔNG BỐ THÔNG TIN

Các chỉ số công bố là danh sách các mục thông tin được lựa chọn để công bố trong báo cáo của công ty, bao gồm thông tin công bố tự nguyện và bắt buộc, cả thông tin tài chính và phi tài chính Những thông tin này có thể được trình bày qua các phương tiện công bố thông tin như báo cáo thường niên, báo cáo tạm thời, và các tài liệu liên quan đến quan hệ với nhà đầu tư, cũng như trong các báo cáo của nhà phân tích.

Phương pháp chỉ số CBTT là công cụ nghiên cứu hiệu quả để đánh giá mức độ công bố thông tin của công ty qua các phương tiện cụ thể, dựa trên danh sách thông tin đã được lựa chọn.

Có một sự khác biệt lớn trong việc xây dựng chỉ số CBTT vì phụ thuộc vào mục đích nghiên cứu, thiết kế và bối cảnh CBTT

Nhà nghiên cứu có thể tham gia vào việc xây dựng danh mục chỉ số CBTT ở hai mức độ: tham gia đầy đủ và không tham gia Ở mức độ tham gia đầy đủ, nhà nghiên cứu kiểm soát toàn bộ quá trình xây dựng danh mục, lựa chọn các mục thông tin cần thiết để đo lường Trong khi đó, ở mức độ không tham gia, nhà nghiên cứu dựa vào các danh mục chỉ số đã được công bố từ các nghiên cứu trước hoặc từ các tổ chức chuyên môn.

Không tồn tại một lý thuyết thống nhất nào cho việc xây dựng các chỉ số CBTT, dẫn đến sự đa dạng trong các mục thông tin, loại thông tin và số lượng thông tin được đưa vào các nghiên cứu.

Trong danh mục chỉ số CBTT, các thông tin thường được tính trọng số, với trọng số có thể do nhà nghiên cứu gán cho các mục thông tin khác nhau Việc phân bổ trọng lượng này có thể dựa trên loại thông tin (định lượng hoặc định tính) hoặc thông qua kết quả khảo sát chuyên gia.

Phương pháp chỉ số công bố là một công cụ linh hoạt cho phép nhà nghiên cứu tự xây dựng danh mục chỉ số công bố phù hợp với mục tiêu nghiên cứu Tuy nhiên, giá trị của kết quả chỉ có hiệu lực trong phạm vi mà các chỉ số được sử dụng là phù hợp (Hassan và Marston, 2009).

Lý thuyết nền

Trong luận án, các lý thuyết nền được áp dụng để giải thích việc công bố thông tin phi tài chính bao gồm lý thuyết các bên liên quan, lý thuyết đại diện, lý thuyết tín hiệu, lý thuyết bất cân xứng và lý thuyết hợp pháp Những lý thuyết này cung cấp cái nhìn sâu sắc về động lực và ảnh hưởng của việc công bố thông tin đối với các bên liên quan và sự minh bạch trong tổ chức.

2.4.1 Lý thuyết các bên liên quan (Stakeholder theory)

R Edward Freeman đƣợc xem là cha đẻ của lý thuyết các bên liên quan Các bên liên quan của một doanh nghiệp bao gồm những người bên trong như chủ sở hữu, nhà quản lý, nhân viên, và những người bên ngoài gồm: chính phủ, cộng đồng xã hội, nhà cung cấp, các chủ nợ, cổ đông, khách hàng Nội dung lý thuyết cho rằng, các bên liên quan rất quan trọng cho sự sống còn và thành công của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các bên liên quan và doanh nghiệp cho phép các bên liên quan được hưởng lợi từ hành động và hoạt động của doanh nghiệp, mối quan hệ này cũng làm cho doanh nghiệp có thể làm hại các bên liên quan hoặc vi phạm các quyền của các bên liên quan

Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh rằng mục tiêu của doanh nghiệp là tối đa hóa giá trị cho tất cả các bên liên quan Để đạt được sự thành công và bền vững, giám đốc điều hành cần phải hài hòa lợi ích của các bên liên quan với lợi ích của doanh nghiệp Khi đưa ra quyết định, doanh nghiệp phải cân nhắc lợi ích của mọi bên liên quan để đảm bảo sự phát triển lâu dài.

Lý thuyết các bên liên quan nhấn mạnh rằng sự tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự hỗ trợ và chấp thuận từ các bên liên quan Do đó, các hoạt động của doanh nghiệp cần được điều chỉnh để đảm bảo đạt được sự đồng thuận này Công bố thông tin (CBTT) được coi là một hình thức đối thoại giữa doanh nghiệp và các bên liên quan Khi doanh nghiệp chú trọng đến các bên liên quan, mức độ CBTT sẽ cao, trong khi thiếu sự tham gia của họ sẽ dẫn đến mức độ CBTT thấp.

Nghiên cứu của Kaya (2016) chỉ ra rằng các nhà quản lý trong các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực nhạy cảm với môi trường thường chú trọng đến mong đợi của các bên liên quan và cung cấp thông tin phi tài chính cho họ Những ngành nghề này chịu sự quản lý chặt chẽ từ chính phủ và sự giám sát của xã hội, do đó yêu cầu các doanh nghiệp công bố nhiều thông tin liên quan đến môi trường, xã hội và cộng đồng.

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng lý thuyết các bên liên quan để phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến đòn bẩy tài chính và vay vốn nước ngoài Lý thuyết này nhấn mạnh rằng sự tồn tại của doanh nghiệp phụ thuộc vào sự hỗ trợ và chấp thuận từ các bên liên quan Do đó, các hoạt động của doanh nghiệp cần được điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu của họ Cung cấp thông tin công khai (CBTT) được coi là một hình thức đối thoại giữa doanh nghiệp và các bên liên quan Khi doanh nghiệp có tỷ lệ nợ cao hoặc vay vốn từ đối tác nước ngoài, họ có trách nhiệm cung cấp nhiều thông tin phi tài chính hơn trong các báo cáo của mình.

2.4.2 Lý thuyết bất cân xứng (Asymmetric theory)

Lý thuyết thông tin bất cân xứng, được Akerlof giới thiệu vào năm 1970, mô tả tình trạng khi một bên giao dịch, như cổ đông, sở hữu ít thông tin hơn so với bên còn lại, như người quản lý, hoặc có thông tin không chính xác Tình trạng này dẫn đến việc bên ít thông tin có thể đưa ra quyết định sai lầm trong giao dịch, trong khi bên nắm giữ nhiều thông tin có thể thực hiện các hành vi bất lợi đối với bên kia.

Theo lý thuyết thông tin bất cân xứng, các công ty trên thị trường vốn nên công bố nhiều thông tin phi tài chính để giảm thiểu sự bất cân xứng thông tin Việc công bố này có thể diễn ra theo hai hướng: tự nguyện và bắt buộc Nhờ đó, các công ty có thể giảm chi phí tài chính bên ngoài và giảm rủi ro thông tin.

Trong nghiên cứu này, tác giả áp dụng lý thuyết bất cân xứng thông tin để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của công ty Khi công ty gặp khó khăn trong kinh doanh, nhà quản trị thường có xu hướng giữ kín thông tin, dẫn đến việc cổ đông thiếu thông tin và tạo ra tình trạng bất cân xứng Vấn đề này tồn tại trong mọi mối quan hệ do sự mâu thuẫn về lợi ích kinh tế giữa các bên liên quan (Akerlof).

Sự bất cân xứng thông tin giữa người quản lý và các bên liên quan dẫn đến việc cần công bố thêm thông tin, phản ánh đặc điểm của người quản lý doanh nghiệp (Jensen và Meckling, 1976) Do đó, lý thuyết này cũng được áp dụng để giải thích vai trò của đặc điểm CEO trong quản trị doanh nghiệp.

2.4.3 Lý thuyết đại diện (Agency theory)

Lý thuyết đại diện, được phát triển bởi Jensen và Meckling (1976), là công cụ chính để giải thích các yếu tố ảnh hưởng đến mức độ công bố thông tin phi tài chính Lý thuyết này mô tả mối quan hệ giữa người quản lý (agent) và cổ đông (principal), trong đó cổ đông ủy quyền cho người quản lý quyền điều hành doanh nghiệp với kỳ vọng rằng nhà quản lý sẽ thực hiện tốt nhiệm vụ của mình nhằm gia tăng giá trị cổ phần.

Lý thuyết đại diện chỉ ra rằng cả người quản lý và cổ đông đều có mục tiêu tối đa hóa lợi ích cá nhân Cổ đông kỳ vọng người quản lý sẽ hành động vì lợi ích của họ, trong khi người quản lý thường có xu hướng ưu tiên lợi ích riêng của mình.

Theo lý thuyết đại diện, có sự phân tách giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong doanh nghiệp lớn, dẫn đến mâu thuẫn lợi ích giữa cổ đông và người quản lý Người quản lý, mặc dù nắm bắt thông tin và điều hành doanh nghiệp, có thể tối đa hóa lợi ích cá nhân mà không chú ý đến lợi ích của cổ đông Ngược lại, cổ đông không trực tiếp quản lý và ít có cơ hội tiếp cận thông tin, ảnh hưởng đến quyết định đầu tư của họ Mối quan hệ này tạo ra chi phí đại diện, bao gồm chi phí đầu tư vào hệ thống kiểm soát để giảm thiểu thiếu thông tin và chi phí giảm thiểu rủi ro thông qua các biện pháp kích thích dựa trên kết quả Chi phí đại diện thường cao hơn ở các công ty có tỷ lệ nợ cao trong cấu trúc vốn (Jensen và Meckling, 1976).

Nghiên cứu của Meek và cộng sự (1995), Zare và cộng sự (2013), Tạ Quang Bình (2014), cùng Phạm Đức Hiếu và Đỗ Thị Hương Lan (2015) đã áp dụng lý thuyết để phân tích các yếu tố như quy mô công ty, đòn bẩy tài chính, công ty kiểm toán, tuổi thọ của công ty, tỷ lệ sở hữu nước ngoài và cấu trúc lãnh đạo kép.

Lý thuyết đại diện giải thích sự tách biệt giữa quyền sở hữu và quyền quản lý trong doanh nghiệp lớn, nơi cổ đông khó tiếp cận thông tin Điều này dẫn đến áp lực từ cổ đông yêu cầu doanh nghiệp công bố nhiều thông tin hơn Trong các doanh nghiệp quy mô lớn, người quản lý nắm bắt thông tin và có khả năng tối đa hóa lợi ích cá nhân, nhưng điều này có thể gây hại cho lợi ích cổ đông Do đó, cần có cơ chế giám sát từ hội đồng quản trị để đảm bảo công bố thông tin minh bạch Cấu trúc lãnh đạo kép, với sự tách biệt giữa chủ tịch hội đồng quản trị và giám đốc điều hành, tăng cường khả năng giám sát và buộc giám đốc điều hành tuân thủ công bố thông tin phi tài chính.

PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ BÀN LUẬN

Ngày đăng: 15/07/2022, 08:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
9. Global Reporting Initiative, (2013). Hướng dẫn báo cáo phát triển bền vững - Các nguyên tắc báo cáo và công bố thông tin theo tiêu chuẩn. Phần 1. Phiên bản tiếng Việt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn báo cáo phát triển bền vững - Các nguyên tắc báo cáo và công bố thông tin theo tiêu chuẩn
Tác giả: Global Reporting Initiative
Năm: 2013
10. Global Reporting Initiative, (2013). Hướng dẫn báo cáo phát triển bền vững - Sách Hướng dẫn thực hiện. Phần 2. Phiên bản tiếng Việt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hướng dẫn báo cáo phát triển bền vững - Sách Hướng dẫn thực hiện
Tác giả: Global Reporting Initiative
Năm: 2013
11. Nguyễn Đình Thọ, (2014). Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh. Nhà xuất bản Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Phương pháp nghiên cứu khoa học trong kinh doanh
Tác giả: Nguyễn Đình Thọ
Nhà XB: Nhà xuất bản Tài chính
Năm: 2014
12. Tổ chức Tài chính quốc tế IFC, (2004). Các nguyên tắc Quản trị công ty của OECD. Phiên bản Tiếng Việt Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các nguyên tắc Quản trị công ty của OECD
Tác giả: Tổ chức Tài chính quốc tế IFC
Năm: 2004
15. Admiraal, M., Nivra, R., & Turksema, R. (2009). Reporting on nonfinancial information. International Journal of Government Auditing. July 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Government Auditing
Tác giả: Admiraal, M., Nivra, R., & Turksema, R
Năm: 2009
16. Akerlof G.A. (1970). The market for "lemons": Quality uncertainty and the market mechanism. The Quarterly Journal of Economics 84(3):488–500 Sách, tạp chí
Tiêu đề: lemons
Tác giả: Akerlof G.A
Năm: 1970
17. Babaloo, Robab Sarvari Ali (2012). Disclosure of accounting policies: an indian perspective. Indian Streams Research Journal. Vol 2(10), 1-9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Indian Streams Research Journal
Tác giả: Babaloo, Robab Sarvari Ali
Năm: 2012
18. Behbahani, Sadegh, (2013). Examining the Firm Features Influencing Nonfinancial Information Disclosure Quality. 361–69 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Examining the Firm Features Influencing Nonfinancial Information Disclosure Quality
Tác giả: Behbahani, Sadegh
Năm: 2013
19. Behbahani, Sadegh, Reza Zare, and Farzad Farzanfar, (2013). Examining the Effect of Auditing Quality on Nonfinancial Information Disclosure Quality.Interdisciplinary Journal of Contemporary Research In Business 4(12): 802–10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Interdisciplinary Journal of Contemporary Research In Business
Tác giả: Behbahani, Sadegh, Reza Zare, and Farzad Farzanfar
Năm: 2013
23. Dominique Romila, (2009). The importance of nonfinancial information in decision making and drive for narrative reporting. Retrieved from https://www.slideshare.net/bquteam/the-importance-of-non-financial-information-in-decision-making Sách, tạp chí
Tiêu đề: The importance of nonfinancial information in decision making and drive for narrative reporting
Tác giả: Dominique Romila
Năm: 2009
24. Eccles. R., & Krzus. M, (2010). One report: Integrated reporting for a sustainable strategy. Hoboken. NJ: John Wiley & Sons Sách, tạp chí
Tiêu đề: One report: Integrated reporting for a sustainable
Tác giả: Eccles. R., & Krzus. M
Năm: 2010
25. E&Y (2016). The road to reliable nonfinancial reporting. Retrieved from http://www.ey.com/Publication/vwLUAssets/EY-ccass-road-to-reliable-nonfinancial-reporting/$FILE/EY-ccass-road-to-reliable-nonfinancial-reporting.pdf Sách, tạp chí
Tiêu đề: The road to reliable nonfinancial reporting
Tác giả: E&Y
Năm: 2016
28. Flostrand. P., & Strom. N, (2006). The valuation relevance of non-financial information. Management Research News. 29. 580–597 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Management Research News
Tác giả: Flostrand. P., & Strom. N
Năm: 2006
29. Fraser. M, (2012). The management accountant and non-financial information. http://www.nzica.com/News/Archive/2012/March/The-management-accountant-and-non-financial-information.aspx. accessed date 20/10/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: The management accountant and non-financial information
Tác giả: Fraser. M
Năm: 2012
30. Freeman Edward R. Stakeholder Theory of the Modern Corporation. https://businessethics.qwriting.qc.cuny.edu/files/2012/01/Freeman.pdf. Accessed on dated 17/5/2017 Sách, tạp chí
Tiêu đề: https://businessethics.qwriting.qc.cuny.edu/files/2012/01/Freeman.pdf
31. Ghasempour A., and Yusof M.a.B.M., (2014). The Effect of Fundamental Determinants on Voluntary Disclosure of Financial and Nonfinancial Information: The Case of Internet Reporting on the Tehran Stock Exchange.International Journal of Digital Accounting Research 14(March): 37–56 Sách, tạp chí
Tiêu đề: International Journal of Digital Accounting Research
Tác giả: Ghasempour A., and Yusof M.a.B.M
Năm: 2014
32. Grewal Jody, Edward J, Riedl, and George Serafeim, (2015). Market Reaction to Mandatory Nonfinancial Disclosure. Harvard Business School Accounting and Management Unit Working Paper: 1–54 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Harvard Business School Accounting and Management Unit Working Paper
Tác giả: Grewal Jody, Edward J, Riedl, and George Serafeim
Năm: 2015
33. Gulin D., Hladika M., Micin M., (2018). Disclosure of non-financial information: The case of Croatian Listed Companies. Proceeding of 21 st Eurasia Business and Economics Society Conference. ISSN2364-5067 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Proceeding of 21"st" Eurasia Business and Economics Society Conference
Tác giả: Gulin D., Hladika M., Micin M
Năm: 2018
13. Vietnam Annual Report Awards, (2017). http://www.aravietnam.vn/khong-phan-loai/thong-cao-bao-chi-khoi-dong-cuoc-binh-chon-bctn-2017/Thông cáo báo Link
14. Adina, P & Ion, P, (2008). Aspects regarding corporate mandatory and voluntary disclosure. http://steconomice.uoradea.ro/anale/volume/2008/v3-finances-banks-ccountancy/256.pdf Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình 1.1: Tổng quan về nghiên cứu liên quan đến CBTT phi tài chính - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Hình 1.1 Tổng quan về nghiên cứu liên quan đến CBTT phi tài chính (Trang 21)
Bảng 1.2: Tổng hợp các nghiên cứu công bố tự nguyện thông tin phi tài chính trên - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 1.2 Tổng hợp các nghiên cứu công bố tự nguyện thông tin phi tài chính trên (Trang 31)
Bảng 1.3: Tổng hợp các nghiên cứu công bố tự nguyện thông tin phi tài chính tại - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 1.3 Tổng hợp các nghiên cứu công bố tự nguyện thông tin phi tài chính tại (Trang 34)
Bảng 1.5: Tổng hợp các nghiên cứu nhân tố tác động đến CBTT phi tài chính tại Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 1.5 Tổng hợp các nghiên cứu nhân tố tác động đến CBTT phi tài chính tại Việt Nam (Trang 43)
Bảng 2.3. Danh mục CBTT phi tài chính theo GRI4 - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 2.3. Danh mục CBTT phi tài chính theo GRI4 (Trang 54)
Bảng 2.5. Tổng hợp mục CBTT phi tài chính theo Hướng dẫn CBTT trên thị - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 2.5. Tổng hợp mục CBTT phi tài chính theo Hướng dẫn CBTT trên thị (Trang 56)
Hình 3.1 Khung nghiên cứu của luận án - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Hình 3.1 Khung nghiên cứu của luận án (Trang 68)
Hình 3.4. Mô hình nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Hình 3.4. Mô hình nghiên cứu (Trang 86)
Bảng 4.1 thể hiện kết quả thống kê mức độ CBTT phi tài chính của các DNNY  trong mẫu nghiên cứu - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.1 thể hiện kết quả thống kê mức độ CBTT phi tài chính của các DNNY trong mẫu nghiên cứu (Trang 94)
Bảng 4.2. Phân loại mức độ CBTT phi tài chính theo quy định Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.2. Phân loại mức độ CBTT phi tài chính theo quy định Việt Nam (Trang 95)
Bảng 4.4 Thống kê tần suất CBTT chung theo quy định Việt Nam - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.4 Thống kê tần suất CBTT chung theo quy định Việt Nam (Trang 96)
Bảng 4.1, 4.2 và bảng 4.7 cho thấy, thông tin phi tài chính về quản trị công ty có  mức công bố trung bình là 10,86 điểm (trên tổng 18 điểm), tương ứng 60,4%, đạt mức  công  bố  trung  bình - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.1 4.2 và bảng 4.7 cho thấy, thông tin phi tài chính về quản trị công ty có mức công bố trung bình là 10,86 điểm (trên tổng 18 điểm), tương ứng 60,4%, đạt mức công bố trung bình (Trang 97)
Bảng 4.1, 4.2 và bảng 4.8 cho thấy, thông tin phi tài chính khác có mức công bố - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.1 4.2 và bảng 4.8 cho thấy, thông tin phi tài chính khác có mức công bố (Trang 98)
Bảng dữ liệu 4.10 trình bày thông tin phân loại mức độ CBTT phi tài chính đƣợc - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng d ữ liệu 4.10 trình bày thông tin phân loại mức độ CBTT phi tài chính đƣợc (Trang 99)
Bảng 4.9, 4.10 cho thấy, thông tin phi tài chính chung có mức độ công bố trung  bình  là  18,76/33  điểm,  tương  ứng  mức  độ  công  bố  là  56,9% - (LUẬN văn THẠC sĩ) đo lường mức độ công bố thông tin phi tài chính và các nhân tố tác động đến mức độ công bố thông tin phi tài chính của các doanh nghiệp niêm yết tại việt nam
Bảng 4.9 4.10 cho thấy, thông tin phi tài chính chung có mức độ công bố trung bình là 18,76/33 điểm, tương ứng mức độ công bố là 56,9% (Trang 100)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w