1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) pháp luật áp dụng mô hình hợp đồng BT để thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông – thực tiễn tại thành phố hồ chí minh

83 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Pháp Luật Áp Dụng Mô Hình Hợp Đồng BT Để Thu Hút Vốn Đầu Tư Tư Nhân Vào Hạ Tầng Giao Thông – Thực Tiễn Tại Thành Phố Hồ Chí Minh
Tác giả Trần Hoàng Luân
Người hướng dẫn PGS.TS. Võ Trí Hảo
Trường học Trường Đại Học Kinh Tế Tp. HCM
Chuyên ngành Luật Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2020
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 83
Dung lượng 0,92 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (13)
  • 2. Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu (14)
    • 2.1. Giả thuyết nghiên cứu (14)
    • 2.2. Câu hỏi nghiên cứu (15)
  • 3. Tình hình nghiên cứu (15)
  • 4. Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu (20)
    • 4.1. Mục đích nghiên cứu (20)
    • 4.2. Đối tượng nghiên cứu (21)
    • 4.3. Phạm vi nghiên cứu (21)
  • 5. Các phương pháp tiến hành nghiên cứu, khung lý thuyết (21)
    • 5.1. Phương pháp nghiên cứu (21)
    • 5.2. Khung lý thuyết (22)
  • 6. Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài (23)
    • 6.1. Ý nghĩa khoa học (23)
    • 6.2. Giá trị ứng dụng của đề tài (23)
  • 7. Kết cấu luận văn (23)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BT ĐẦU TƯ VÀO HẠ TẦNG GIAO THÔNG (25)
    • 1.1 Khái niệm hạ tầng giao thông (25)
    • 1.2 Khái niệm huy động vốn vào đầu tư công (27)
      • 1.2.1 Vốn (27)
      • 1.2.2 Huy động vốn (28)
      • 1.2.3 Huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông (29)
    • 1.3 Khái niệm hợp đồng xây dựng – chuyển giao (31)
    • 1.4 Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư vào hạ tầng giao thông tại các quốc gia trên thế giới (32)
  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT PPP VÀ MÔ HÌNH HỢP ĐỒNG BT VÀO ĐẦU TƯ HẠ TẦNG GIAO THÔNG (37)
    • 2.1. Nhu cầu thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông tại Việt Nam (37)
    • 2.2 Tình hình thực hiện quy định pháp luật về phát triển hạ tầng giao thông thông qua mô hình PPP nói chung và hợp đồng BT nói riêng 27 (39)
      • 2.2.1 Giai đoạn từ 1997 đến 2014 (39)
      • 2.2.2 Từ năm 2014 đến nay (39)
    • 2.3 Đánh giá về việc thực hiện quy định pháp luật về phát triển hạ tầng giao thông thông qua mô hình PPP nói chung và hợp đồng BT nói riêng (42)
      • 2.3.1 Đánh giá chung (42)
      • 2.3.2 Đánh giá chi tiết (43)
  • CHƯƠNG 3: THỰC TIỄN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO HẠ TẦNG GIAO THÔNG QUA MÔ HÌNH HỢP ĐỒNG BT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (0)
    • 3.1.1. Thực trạng phát triển hạ tầng gia thông tại Thành phố Hồ Chí (53)
    • 3.1.2. Thực tiễn áp dụng pháp luật về thu hút vốn đầu tư và các vướng mắc trong khi thực hiện thực hiện dự án BT của Thành phố Hồ Chí Minh.46 3.2. Giải pháp nâng cao hiệu quả về thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình hợp đồng BT (58)
    • 3.2.1. Các nguyên tắc của việc hoàn thiện pháp luật đầu tư theo hợp đồng BT (67)
    • 3.2.2. Các giải pháp cụ thể hoàn thiện pháp luật về đầu tư theo hợp đồng (72)
  • KẾT LUẬN (79)

Nội dung

Giả thuyết, câu hỏi nghiên cứu

Giả thuyết nghiên cứu

Thực trạng thi hành pháp luật về mô hình hợp đồng BT nhằm thu hút đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông tại Thành phố Hồ Chí Minh và trên toàn quốc vẫn còn nhiều hạn chế và kẽ hở, dẫn đến hiệu quả chưa đạt như mong đợi Điều này có thể xuất phát từ việc pháp luật liên quan đến mô hình BT vẫn tồn tại những bất cập và mâu thuẫn cần được khắc phục.

Câu hỏi nghiên cứu

Để giải quyết các nhiệm vụ và đạt được mục đích đặt ra, các câu hỏi cần phải giải quyết là:

- Tại sao nhà nước phải thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình BT mà không qua mô hình hợp tác khác?

- Nội dung điều chỉnh của pháp luật áp dụng mô hình hợp đồng BT để thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư vào hạ tầng giao thông?

- Những bất cập, hạn chế trong việc thực hiện mô hình BT thời gian qua là gì ?

Thực tiễn áp dụng pháp luật theo mô hình hợp đồng BT đã chứng minh hiệu quả trong việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông Mô hình này không chỉ giúp giảm gánh nặng ngân sách nhà nước mà còn tạo ra động lực cho các nhà đầu tư tư nhân tham gia vào các dự án giao thông quan trọng Qua đó, việc cải thiện hạ tầng giao thông được thực hiện nhanh chóng và hiệu quả hơn, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân.

Để nâng cao hiệu quả thực thi hành pháp luật trong việc áp dụng mô hình hợp đồng BT, cần tập trung vào việc cải thiện quy trình pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân Cần có những chính sách minh bạch và nhất quán để thu hút vốn đầu tư vào hạ tầng giao thông, đồng thời tăng cường công tác giám sát và đánh giá dự án Việc đào tạo nâng cao năng lực cho cán bộ thực thi pháp luật cũng là yếu tố quan trọng, giúp đảm bảo rằng các quy định được thực hiện một cách hiệu quả và công bằng.

Tình hình nghiên cứu

Trong lĩnh vực khoa học pháp lý tại Việt Nam, chưa có nghiên cứu sâu về pháp luật thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình BT, đặc biệt là trong bối cảnh Thành phố Hồ Chí Minh Mặc dù có một số công trình nghiên cứu quốc tế liên quan đến đầu tư cơ sở hạ tầng và huy động vốn phát triển, nhưng vấn đề pháp luật về thu hút vốn đầu tư tư nhân cho hạ tầng giao thông tại Việt Nam vẫn chưa được khai thác đầy đủ.

Báo cáo của Ngân hàng Phát triển Châu Á (2012) đã đánh giá về các mối quan hệ đối tác công-tư (PPP) tại Việt Nam, chỉ ra những khó khăn và cơ hội trong lĩnh vực này Đặc biệt, báo cáo nhấn mạnh rằng đầu tư cơ sở hạ tầng qua các doanh nghiệp nhà nước và nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) không đủ để đáp ứng nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng lớn của Việt Nam Do đó, việc thu hút đầu tư từ khu vực tư nhân thông qua PPP là cần thiết Tuy nhiên, để huy động vốn hiệu quả theo phương thức PPP, cần có một khung pháp lý vững chắc, hệ thống quản lý nhà nước hiệu quả và các hỗ trợ ngân sách thích hợp, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh và quy trình minh bạch trong các dự án.

Asian Development Bank (2008), Public - Private - Partnership Hand book, Published 2008, Printed in the Philippines Cuốn sổ tay “Hợp tác công tư

Cuốn sổ tay về "PPP" được thiết kế dành cho nhân viên của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) và khách hàng từ các nước thành viên đang phát triển, nhằm cung cấp cái nhìn tổng quan về vai trò, thiết kế, cấu trúc và thực hiện PPP trong phát triển cơ sở hạ tầng Sổ tay này, với sự đóng góp từ chính sách và các chuyên gia giao dịch, đề cập đến nhiều vấn đề liên quan đến PPP, từ các cân nhắc chính sách đến thực hiện Nó cũng nhằm giới thiệu cách thiết kế và thực hiện các chiến lược, dự án PPP trong bối cảnh tài chính phát triển.

Jon Valentine, Intern (2008), Public-Private Partnerships in Infrastructure: Best-Practices from the International Experience and Applications for Thailand, National Economic and Social Development Board (NESDB), Thailand, August

Năm 2008, việc phân tích quan hệ đối tác công - tư trong phát triển cơ sở hạ tầng (CSHT) từ kinh nghiệm quốc tế đã góp phần thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế bền vững tại Thái Lan Các quy định về đối tác công - tư đã khuyến khích sự hợp tác giữa nhà đầu tư tư nhân và nhà nước trong các dự án hạ tầng lớn, đồng thời nâng cao tính minh bạch và lòng tin của nhà đầu tư thông qua việc thẩm định các dự án Tại Việt Nam, nhiều nghiên cứu khoa học, bài báo và luận án đã được thực hiện trong những năm qua để tìm hiểu về nguồn lực tài chính cho phát triển CSHT, đặc biệt là trong lĩnh vực giao thông đường bộ.

Phạm Văn Liên (2005), Các giải pháp huy động và sử dụng VĐT phát triển

Luận án tiến sĩ kinh tế tại Học viện Tài chính đã nghiên cứu sâu về cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ (CSHT GTĐB) ở Việt Nam, làm rõ bản chất và đặc điểm của nó, cũng như tác động đến công tác huy động và quản lý sử dụng vốn Nghiên cứu đã hệ thống hóa và phân tích các khái niệm về vốn đầu tư (VĐT), nguồn vốn và vai trò của chúng trong phát triển CSHT GTĐB Đặc biệt, luận án cũng đánh giá tình hình huy động và quản lý VĐT cho CSHT GTĐB ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 đến nay.

Năm 2003, tác giả đã tổng kết những thành công và hạn chế trong việc huy động và sử dụng vốn cho cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) của Việt Nam Qua việc học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia khác, bài viết đề xuất các định hướng và giải pháp thiết thực nhằm nâng cao hiệu quả khai thác và quản lý vốn đầu tư cho GTĐB trong tương lai.

Trần Xuân Hà (2008) trong luận án tiến sĩ kinh tế của mình đã hệ thống hoá và làm rõ các vấn đề lý luận liên quan đến công cụ trái phiếu Chính phủ, từ tổng quan về hình thức huy động vốn đến vai trò của nó trong phát triển kinh tế Việt Nam Luận án đã đánh giá kết quả đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình huy động vốn qua phát hành trái phiếu Chính phủ, đồng thời đưa ra nguyên nhân gây ra những bất cập Từ đó, tác giả đề xuất hai nhóm giải pháp vĩ mô và vi mô với nhiều biện pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng trái phiếu Chính phủ để huy động vốn cho đầu tư phát triển ở Việt Nam đến năm 2020.

Phạm Thị Túy (2006) trong luận án tiến sĩ kinh tế của mình đã hệ thống hóa lý luận về thu hút và sử dụng vốn ODA, đồng thời đánh giá thực trạng tại Việt Nam Luận án cũng đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong việc thu hút và sử dụng vốn ODA cho phát triển kết cấu hạ tầng ở Việt Nam.

Thân Thanh Sơn (2015) trong luận án tiến sĩ của mình tại Đại học Giao thông Vận tải đã nghiên cứu về phân bổ rủi ro trong hình thức hợp tác công tư (PPP) nhằm phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ Việt Nam Luận án này không chỉ hệ thống hóa cơ sở lý luận về PPP mà còn lựa chọn và bổ sung các khái niệm cần thiết để xác định và phân bổ các yếu tố rủi ro trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ theo hình thức PPP.

Luận án nhận diện các yếu tố rủi ro trong các dự án phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ (GTĐB) theo hình thức đối tác công tư (PPP) phù hợp với điều kiện chính trị, luật pháp và kinh tế xã hội tại Việt Nam Tác giả xác định các yếu tố rủi ro cụ thể và thực hiện phân bổ chúng đến các bên đối tác Dựa trên đó, luận án đề xuất các biện pháp kiểm soát một số yếu tố rủi ro cơ bản nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững của cơ sở hạ tầng GTĐB ở Việt Nam.

Trần Minh Phương (2012) đã nghiên cứu về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa tại Việt Nam trong luận án tiến sĩ kinh tế của mình tại Viện Nghiên cứu này nhấn mạnh tầm quan trọng của hạ tầng giao thông trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế và hiện đại hóa đất nước.

Chiến lược phát triển KCHT giao thông đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội Luận án nêu rõ các lý luận cơ bản về KCHT, KCHT giao thông và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển của nó Để đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) đến năm 2020 và định hướng đến 2030, cần đề xuất các chỉ tiêu phát triển cụ thể Bên cạnh đó, cần thực hiện các giải pháp quy hoạch hợp lý, phân bổ vốn đầu tư hiệu quả, huy động nguồn vốn ngoài ngân sách, quản lý nhà nước chặt chẽ và ứng dụng khoa học công nghệ trong phát triển KCHT giao thông.

Luận án tiến sĩ của Dương Văn Thái (2015) tại Học viện Tài chính đã nghiên cứu về việc huy động vốn đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ tại tỉnh Bắc Giang Nghiên cứu này đã hệ thống hóa các lý luận cơ bản về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, bao gồm khái niệm, đặc điểm và phân loại Bên cạnh đó, luận án cũng đánh giá thực trạng huy động vốn đầu tư trong giai đoạn 2001 - 2013 và đề xuất các giải pháp huy động vốn từ cả trong nước và nước ngoài cho giai đoạn đến năm 2020, với tầm nhìn đến năm 2030.

Vũ Đức Bảo (2013) trong bài viết "Hà Nội thu hút VĐT vào CSHT: Đột phá từ hình thức hợp tác công - tư" trên Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toán đã phân tích những ưu điểm và nhược điểm của mô hình hợp tác công - tư Bài báo nhấn mạnh tầm quan trọng của hình thức này trong việc thu hút vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại Hà Nội, đồng thời chỉ ra những thách thức cần khắc phục để tối ưu hóa hiệu quả hợp tác.

Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng (CSHT) của Hà Nội đang được chú trọng Tác giả đề xuất một số giải pháp nhằm thu hút vốn hiệu quả để phát triển CSHT cho thành phố Các giải pháp này sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của hệ thống cơ sở hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển bền vững của Hà Nội.

Mục đích, đối tượng và phạm vi nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu

Bài viết xây dựng khung lý thuyết về cơ sở pháp lý trong việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng xây dựng – chuyển giao (BT), đồng thời chỉ ra các hạn chế và vướng mắc trong quá trình thực hiện các dự án đã được phê duyệt Nghiên cứu này cung cấp căn cứ khoa học để khảo sát và đánh giá thực tiễn về cơ sở pháp lý liên quan đến thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông trong thời gian qua Ngoài ra, bài viết cũng đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông tại Thành phố Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao hiệu quả đầu tư trên toàn quốc.

Đối tượng nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu tập trung vào tổng hợp các yếu tố cấu thành nội dung thu hút vốn đầu tư vào hạ tầng giao thông, đặc biệt là cơ sở pháp lý liên quan đến mô hình hợp đồng BT Các nội dung nghiên cứu được xem xét trong mối quan hệ tương tác lẫn nhau, bao gồm mục tiêu, quy trình, nhân tố ảnh hưởng và tiêu chí đánh giá, nhằm hoàn thiện công tác quản lý và đạt được kết quả tối ưu trong việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông.

Phạm vi nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu cơ sở pháp lý về việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng BT Nghiên cứu này được thực hiện từ góc độ quản lý vĩ mô tại Việt Nam và thành phố Hồ Chí Minh, nhằm đánh giá hiệu quả và tiềm năng phát triển của mô hình này trong bối cảnh hiện tại.

Nghiên cứu này tập trung vào việc khảo sát, phân tích và đánh giá cơ sở pháp lý liên quan đến thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng BT tại Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn 2010-2018, với việc bổ sung số liệu năm 2019 Bài viết cũng đề xuất các phương hướng và giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả thu hút đầu tư trong lĩnh vực này.

Các phương pháp tiến hành nghiên cứu, khung lý thuyết

Phương pháp nghiên cứu

Một số phương pháp nghiên cứu được tác giả sử dụng trong luận văn gồm:

Tác giả áp dụng một loạt các phương pháp nghiên cứu như hệ thống, phân tích, tổng hợp, so sánh, đánh giá và dự báo Bên cạnh đó, việc thu thập tài liệu thứ cấp cũng được thực hiện nhằm chứng minh kết quả của quá trình phân tích và đánh giá.

Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp bao gồm việc sử dụng các báo cáo thống kê và tổng hợp liên quan đến thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình hợp đồng BT tại Thành phố Hồ Chí Minh Các nguồn tài liệu quan trọng bao gồm Cục Thống kê, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở Giao thông vận tải, Thanh tra Thành phố, các Ban quản lý dự án đầu tư xây dựng, và Sở Tài chính.

Các phương pháp được sử dụng một cách linh hoạt, phù hợp với các chương, tiết để đạt được kết quả nghiên cứu

Chương 1: Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp quy nạp, diễn dịch, phân tích luận chứng làm rõ căn cứ lý luận, chỉ ra tính quy luật của pháp luật về thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông Từ đó, xây dựng khung lý thuyết phù hợp với cấp độ nghiên cứu cơ sở pháp lý về thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình hợp đồng BT Đồng thời sử dụng linh hoạt các phương pháp thống kê, so sánh, phân tích kinh nghiệm thực tiễn của một số nước nằm trong khu vực Đông Nam Á và Trung Quốc,

Chương 2: Chủ yếu sử dụng phương pháp mô tả khái quát, thu thập và xử lý các tài liệu cả sơ cấp và thứ cấp, kết hợp với sử dụng các phương pháp đồ thị từ thực tế của Thành phố Hồ Chí Minh để đánh giá khách quan, khoa học tình hình thực tiễn thực hiện các dự án BT tại Thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian gần đây

Chương 3: Chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp kết hợp với dự báo để rút ra phương hướng và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung, quy trình cơ sở pháp lý về thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình hợp đồng BT.

Khung lý thuyết

Luận văn áp dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, kết hợp với các quan điểm và chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là hạ tầng giao thông Bên cạnh đó, luận văn cũng sử dụng kiến thức kinh tế tổng hợp để phân tích cơ sở pháp lý thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng BT.

Luận văn này kế thừa và áp dụng có chọn lọc các quan điểm lý luận cùng khung lý thuyết về quản lý kinh tế từ các nhà khoa học trong và ngoài nước, liên quan đến nội dung của đề tài.

Ý nghĩa khoa học và giá trị ứng dụng của đề tài

Ý nghĩa khoa học

Nghiên cứu này làm rõ các khái niệm, nội dung và nhân tố ảnh hưởng đến việc đánh giá cơ sở pháp lý thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua hợp đồng BT.

Nghiên cứu trong luận văn đã chỉ ra những bài học kinh nghiệm quý giá từ cả thành công và thất bại trong việc áp dụng pháp luật và cơ sở pháp lý tại Tp HCM liên quan đến các dự án BT.

Bài viết phân tích và đánh giá các vấn đề liên quan đến dự án BT, từ đó đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý Mục tiêu là khắc phục những hạn chế và tiêu cực phát sinh trong quá trình áp dụng dự án này.

Giá trị ứng dụng của đề tài

Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo hữu ích cho việc đào tạo, giảng dạy, học tập và nghiên cứu các chuyên đề thực tiễn liên quan đến cơ sở pháp lý trong việc thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng BT.

Bài viết này cung cấp tài liệu quan trọng cho các cơ quan quản lý cấp tỉnh, đặc biệt là Thành phố Hồ Chí Minh, nhằm đề xuất các giải pháp hoàn thiện cơ sở pháp lý để thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông thông qua mô hình hợp đồng BT.

Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung chính của luận văn được trình bày trong 3 chương

Chương 1 trình bày cơ sở lý luận về pháp luật áp dụng mô hình hợp đồng BT nhằm thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông Mô hình hợp đồng BT không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững cho hệ thống giao thông Việc áp dụng pháp luật hiệu quả trong mô hình này sẽ góp phần nâng cao chất lượng hạ tầng và thúc đẩy kinh tế địa phương.

Chương 2 phân tích thực trạng pháp luật liên quan đến mô hình đối tác công tư (PPP), đặc biệt là hợp đồng BT, nhằm thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông Nội dung này nhấn mạnh vai trò quan trọng của các quy định pháp lý trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân, đồng thời chỉ ra những thách thức hiện tại trong việc áp dụng mô hình này Việc cải thiện khung pháp lý sẽ góp phần nâng cao hiệu quả và sức hấp dẫn của các dự án hạ tầng giao thông, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế bền vững.

- Chương 3: Thực tiễn áp dụng mô hình hợp đồng BT tại Thành phố

Hồ Chí Minh đang triển khai giải pháp nâng cao hiệu quả pháp luật liên quan đến mô hình hợp đồng BT nhằm thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông Việc áp dụng mô hình hợp đồng BT không chỉ giúp cải thiện cơ sở hạ tầng mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tư nhân, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế địa phương Chính quyền thành phố cần hoàn thiện khung pháp lý và chính sách ưu đãi để khuyến khích sự tham gia của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG BT ĐẦU TƯ VÀO HẠ TẦNG GIAO THÔNG

Khái niệm hạ tầng giao thông

Thuật ngữ "cơ sở hạ tầng" lần đầu tiên xuất hiện trong lĩnh vực quân sự và sau chiến tranh thế giới thứ hai, đã được áp dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực như giao thông, kiến trúc và xây dựng Cơ sở hạ tầng bao gồm các cơ sở vật chất kỹ thuật được tổ chức theo một cấu trúc nhất định, đóng vai trò nền tảng cho các hoạt động diễn ra trong xã hội Thuật ngữ này còn được mở rộng để chỉ các cơ sở phục vụ cho các hoạt động giáo dục, y tế và văn hóa, như trường học, bệnh viện, và rạp hát.

Hoạt động sản xuất vật chất kết hợp sức lao động con người với tư liệu sản xuất theo công nghệ nhất định, nhằm tạo ra sản phẩm phục vụ nhu cầu tiêu dùng Với công nghệ tiên tiến, sức lao động trực tiếp được giảm thiểu, nhường chỗ cho kỹ năng quản lý, vận hành và giám sát Tư liệu sản xuất cũng đóng vai trò quan trọng trong quá trình này, tạo nền tảng cho hoạt động sản xuất, dịch vụ và thương mại, được gọi là cơ sở hạ tầng (CSHT) Dưới đây là một số khái niệm về CSHT.

Theo quan điểm triết học, cơ sở hạ tầng (CSHT) là tổng thể các quan hệ sản xuất tạo thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định, bao gồm quan hệ sản xuất thống trị, tàn dư của xã hội cũ và mầm mống của xã hội tương lai Quan hệ sản xuất thống trị đóng vai trò chủ đạo, định hình xu hướng chung của đời sống kinh tế xã hội CSHT của một xã hội cụ thể được đặc trưng bởi quan hệ sản xuất thống trị, mặc dù các quan hệ sản xuất tàn dư và mầm mống cũng có vai trò nhất định Theo từ điển Oxford, CSHT là thuật ngữ chỉ những bộ phận kết cấu, nền tảng cho phát triển kinh tế Ngân hàng Thế giới định nghĩa CSHT thông qua các lĩnh vực liên quan, coi tài sản hình thành các lĩnh vực này là CSHT EPAC (Hội đồng Kế hoạch và Tư vấn kinh tế) cũng xác định CSHT bao gồm.

Tài sản cố định cung cấp dịch vụ cơ bản trong thời gian dài, với vai trò quan trọng của Chính phủ trong việc lập kế hoạch, thiết kế, cấp vốn, xây dựng, vận hành và quản lý Theo các chuyên gia Nhật Bản, cơ sở hạ tầng là nền tảng hệ thống duy trì đời sống kinh tế quốc dân và hoạt động sản xuất, đồng thời là tài sản công cộng không thể được cung cấp đầy đủ chỉ bằng cơ chế thị trường.

Dựa trên các quan điểm của các nhà kinh tế về cơ sở hạ tầng (CSHT), có thể rút ra một số nhận xét quan trọng Thứ nhất, CSHT được thể hiện qua các tài sản hữu hình như hệ thống đường xá, cầu cống, bến cảng, và các công trình y tế, giáo dục, viễn thông, góp phần duy trì và phát triển các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội Thứ hai, từ góc độ kinh tế hàng hóa, dịch vụ CSHT được xem như một loại hàng hóa công cộng, phục vụ lợi ích chung của toàn xã hội Cuối cùng, CSHT là kết quả của quá trình đầu tư tích lũy qua nhiều thế hệ, đóng vai trò là bộ phận giá trị tiết kiệm quốc gia, đáp ứng các yêu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội của đất nước.

Cơ sở hạ tầng (CSHT) được định nghĩa là tổng thể các yếu tố vật chất, kỹ thuật, cơ chế hoạt động và các thiết chế xã hội cần thiết để đảm bảo sự phát triển và vận hành hiệu quả của một hệ thống.

Giáo trình triết học Mác - Lênin (NXB Chính trị Quốc gia, tháng 8 năm 2006) nhấn mạnh rằng cơ sở hạ tầng (CSHT) bao gồm các yếu tố vật chất và phi vật chất, đóng vai trò quan trọng trong việc phục vụ cho hoạt động sản xuất và đời sống con người CSHT không chỉ là sản phẩm của quá trình đầu tư mà còn là nền tảng thiết yếu cho sự phát triển toàn diện của xã hội.

Cơ sở hạ tầng giao thông (CSHT GT) bao gồm tất cả các điều kiện vật chất kỹ thuật như hệ thống cầu, đường bộ, các công trình và thiết bị phụ trợ, cũng như các trạm nghỉ đường bộ Nó còn bao gồm cả thể chế chính sách quản lý và môi trường hoạt động liên quan đến giao thông, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội Vì vậy, CSHT GT rất đa dạng, bao gồm nhiều bộ phận khác nhau, với cả hình thái vật chất và phi vật chất.

Theo Điều 3 của Luật Xây Dựng Việt Nam, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm các công trình giao thông, thông tin liên lạc, cung cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, cấp nước, thu gom và xử lý nước thải, chất thải rắn, nghĩa trang, và các công trình khác Đồng thời, Điều 3 của Luật Giao thông đường bộ cũng quy định rằng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ bao gồm công trình đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe, trạm dừng nghỉ, và các công trình phụ trợ khác phục vụ cho giao thông và bảo đảm an toàn đường bộ.

Như vậy, khái niệm về CSHT GT của Việt Nam cũng khá tương đồng so với các cơ sở lý luận trên thế giới hiện nay.

Khái niệm huy động vốn vào đầu tư công

Vốn được định nghĩa là giá trị của tài sản, bao gồm cả tài sản hữu hình và vô hình như tài sản cố định, đất đai, nguyên vật liệu và thông tin Một lượng tiền phát hành không có giá trị đảm bảo hoặc các khoản nợ không thể thanh toán không thể được xem là vốn.

Vốn luôn phải liên kết với một chủ thể sở hữu cụ thể, không tồn tại khái niệm vốn vô chủ Do đó, việc xác định đúng chủ sở hữu vốn và tài sản là rất quan trọng; nếu không, việc sử dụng vốn sẽ dẫn đến lãng phí và hiệu quả thấp.

Trong nền kinh tế thị trường, vốn được coi là hàng hóa đặc biệt, khác với hàng hóa thông thường Khi vốn được bán, quyền sở hữu không bị mất đi mà chỉ chuyển giao quyền sử dụng Lãi suất chính là chi phí cho quyền sử dụng vốn, và giá trị sử dụng của vốn chủ yếu là để sinh lời.

Thời gian có giá trị quan trọng đối với vốn, vì giá trị đồng tiền thay đổi theo từng thời điểm Khi đồng tiền kéo dài theo thời gian, nó sẽ bị mất giá và độ rủi ro gia tăng Do đó, trong việc thẩm định và xác định hiệu quả của dự án đầu tư, cần đưa các khoản thu và chi về cùng một thời điểm để tiến hành so sánh và đánh giá chính xác.

Thứ năm, vốn phải được tích tụ và tập trung đến một lượng nhất định, đủ sức để đầu tư cho một dự án kinh doanh

Vốn cần phải được vận động để trở thành nguồn sinh lời, trong khi tiền chỉ là hình thức tiềm năng của vốn Để chuyển đổi tiền thành vốn thực sự, nó phải được đầu tư và sinh lợi.

Vốn được hiểu là toàn bộ cải vật chất do lao động của con người tạo ra và tích lũy qua thời gian, biểu hiện bằng tiền từ các nguồn lực đã đầu tư, bao gồm của cải vật chất, sức lao động, tài nguyên thiên nhiên và các tài sản khác Về hình thức, vốn có thể tồn tại dưới dạng hữu hình hoặc vô hình Trong nghĩa hẹp, vốn là biểu hiện bằng tiền của các nguồn lực của từng quốc gia, doanh nghiệp và cá nhân.

1.2.2 Huy động vốn Được hiểu là một chủ thể đứng ra kêu gọi các chủ thể khác góp vốn vào các kế hoạch, dự án của mình Ví dụ, trong lĩnh vực ngân hàng thương mại có thể hiểu đó là những công cụ, cách thức và phương pháp, và chương trình cụ thể nhằm thu hút sự chú ý của các cá nhân, các tổ chức và từ đó gửi tiền vào ngân hàng Trên cơ sở hai bên đều có lợi Hoạt động huy động vốn của các công ty, thương nhân có tính chất tương tự: hai bên đều tính đến lợi nhuận

1.2.3 Huy động vốn đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông

Huy động vốn đầu tư công, đặc biệt trong lĩnh vực hạ tầng giao thông, có sự khác biệt so với đầu tư thương mại, khi nhà nước không đặt mục tiêu lợi nhuận Tuy nhiên, các nhà đầu tư tư nhân, những người góp vốn, lại cần được đảm bảo lợi nhuận thương mại để thúc đẩy sự tham gia của họ.

Hoạt động đầu tư và xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông tại Việt Nam hiện nay dựa vào nhiều nguồn vốn khác nhau Các nguồn vốn này bao gồm phát hành trái phiếu chính phủ, vay vốn ODA và huy động vốn tư nhân thông qua hình thức PPP.

Vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông (CSHT GT) là giá trị tích lũy của cải xã hội, được sử dụng để duy trì, nâng cấp và phát triển CSHT GT nhằm phục vụ cho sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước Nguồn vốn này được hình thành từ nhiều nguồn khác nhau và thông qua các phương thức huy động đa dạng, bao gồm cả nguồn trong nước và quốc tế.

Nguồn VĐT ngoài khu vực nhà nước được huy động đầu tư phát triển CSHT GT có vai trò cơ bản là:

Để đa dạng hóa và mở rộng quy mô vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông (CSHT GT), việc áp dụng cơ chế đối tác công tư (PPP) sẽ giúp Nhà nước giảm bớt gánh nặng trong việc tìm kiếm, sắp xếp và phân bổ nguồn vốn từ ngân sách Nhờ đó, có thể thực hiện nhiều dự án đầu tư hơn hoặc tăng quy mô cho các dự án hiện tại trong lĩnh vực CSHT GT.

Khu vực kinh tế tư nhân có cơ hội đầu tư dài hạn và ít rủi ro nhờ sự bảo đảm của Nhà nước, từ đó tạo ra sự ổn định và tăng trưởng, thúc đẩy phát triển công nghiệp địa phương và tạo thêm nhiều việc làm Đồng thời, việc phân bố và quản lý rủi ro trong các dự án đầu tư cũng được cải thiện, với nguyên tắc rằng rủi ro sẽ được giao cho bên nào có khả năng xử lý tốt nhất và với chi phí thấp nhất Nhà nước thường chịu trách nhiệm về các rủi ro liên quan đến cộng đồng và môi trường, trong khi khu vực tư nhân lại ưu việt hơn trong việc quản lý và sử dụng vốn.

Kết hợp hai khâu Thiết kế và Xây dựng trong cùng một hợp đồng giúp tạo mối liên hệ chặt chẽ giữa nhà thiết kế và nhà xây dựng, từ đó nâng cao tính sáng tạo và tiết kiệm chi phí Việc này không chỉ rút ngắn thời gian xây dựng mà còn giảm thiểu tổng chi phí, giúp dịch vụ sớm được đưa vào sử dụng Hơn nữa, với việc giao dịch vụ vận hành và bảo trì cho khu vực tư nhân, các đơn vị này sẽ có động lực tìm kiếm giải pháp công nghệ và quản lý hiệu quả, nhằm giảm chi phí trong suốt vòng đời của công trình.

Cải thiện chất lượng dịch vụ cung cấp là một lợi ích rõ ràng từ các dự án vốn tư nhân, cho thấy chất lượng thường tốt hơn so với các hình thức đấu thầu truyền thống Điều này xuất phát từ cơ chế tận dụng tối đa lợi thế của các bên liên quan, trong đó Nhà nước đóng vai trò cung cấp chính sách và khả năng quản trị, còn bên tư nhân đảm nhận các yếu tố kỹ thuật như thiết kế, xây dựng, vận hành và quản lý.

Các nhà đầu tư tư nhân sẽ chuyển gánh nặng thanh toán từ người chịu thuế sang người tiêu dùng, vì mục tiêu chính của họ là tạo ra doanh thu và bù đắp chi phí.

Khái niệm hợp đồng xây dựng – chuyển giao

Theo Nghị định số 63/2018/ND-CP, hợp đồng BT (Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao) là thỏa thuận giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền và nhà đầu tư để xây dựng công trình hạ tầng Sau khi hoàn thành, nhà đầu tư sẽ chuyển giao công trình cho cơ quan nhà nước và nhận thanh toán bằng quỹ đất, trụ sở, tài sản hạ tầng hoặc quyền khai thác, kinh doanh công trình để thực hiện các dự án khác.

Hợp đồng BT được ký kết giữa nhà đầu tư và cơ quan Nhà nước có thẩm quyền, có đặc điểm tương tự như hợp đồng BOT và BTO về chủ thể và đối tượng Tuy nhiên, khác với hai hình thức đầu tư trên, nhà đầu tư trong hợp đồng BT chỉ có nghĩa vụ xây dựng và chuyển giao công trình cho Nhà nước, không được quyền kinh doanh công trình đó Điều này dẫn đến việc thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng sẽ ít hơn, nhưng vẫn phải đảm bảo lợi ích kinh tế cho nhà đầu tư Sau khi hoàn thành xây dựng, nhà đầu tư phải chuyển giao công trình ngay cho Nhà nước, và lợi ích mà họ nhận được sẽ đến từ một dự án khác mà Nhà nước đã cam kết Việc quy định mô hình đầu tư này cần phải đảm bảo sự kết hợp hài hòa giữa chính sách đầu tư của Nhà nước và hiệu quả kinh tế, xã hội của dự án, đồng thời đảm bảo lợi nhuận gián tiếp cho nhà đầu tư, là yếu tố quyết định cho sự lựa chọn hình thức đầu tư này Đây là điểm khác biệt cơ bản so với hai hình thức đầu tư BOT và BTO.

Hiện nay, hình thức đầu tư theo hợp đồng BT đang phát triển mạnh mẽ tại Việt Nam, đặc biệt là ở thành phố Hồ Chí Minh với nhiều dự án nổi bật như dự án chống ngập 10.000 tỷ đồng, dự án Tân Sơn Nhất – Bình Lợi – Vành đai ngoài, và các tuyến đường trong Khu đô thị mới Thủ Thiêm Ngoài ra, cầu Thủ Thiêm 2, cầu Thủ Thiêm 4, cùng dự án hạ tầng kỹ thuật Khu dân cư phía Bắc và đường trục Bắc-Nam cũng là những điểm nhấn quan trọng Tuy nhiên, đối với các nhà đầu tư nước ngoài, số lượng dự án theo hình thức này còn hạn chế, trong đó dự án xây dựng nhà máy điện Wartla là một trong những thành công nổi bật.

Kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư tư nhân đầu tư vào hạ tầng giao thông tại các quốc gia trên thế giới

 Các quốc gia Đông Nam Á

Các quốc gia Đông Nam Á đang tích cực thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung vốn trong lĩnh vực công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế Đầu tư tại Đông Nam Á đã tăng mạnh trong khoảng thời gian cuối thế kỷ trước, với mức đầu tư hiện tại cao hơn 50% so với các khu vực đang phát triển khác Đặc biệt, tỷ lệ đầu tư tư nhân trong GDP của Đông Á vượt hơn 2/3 so với các khu vực khác, nhờ vào môi trường kinh tế vĩ mô tích cực và sự đầu tư của Nhà nước vào hạ tầng Việc nhập khẩu tư liệu sản xuất không bị đánh thuế cao cũng khuyến khích đầu tư trong nước Lãi suất cho các dự án đầu tư của Ngân hàng Thế giới (WB) tại các nước Đông Nam Á cao hơn so với các quốc gia khác, nhằm thu hút các dự án đầu tư Các nước Đông Nam Á cũng nỗ lực giảm tối đa chi tiêu ngân sách thông qua nhiều biện pháp đồng bộ, bao gồm việc khuyến khích truyền thống tiết kiệm của người dân Á Đông và thường xuyên tuyên truyền về tiết kiệm trong cộng đồng.

Hệ thống pháp luật ở Đông Nam Á quy định các mô hình hợp tác công ty, với Philippines là một ví dụ tiêu biểu khi ban hành Luật số 7718 về BOT vào tháng 5/1994, điều chỉnh nhiều loại hợp đồng PPP như BT, BOO, BLT, BTO Nghị định hướng dẫn năm 2012 và hơn 16 văn bản hướng dẫn PPP đã thúc đẩy sự phát triển pháp luật về PPP và BT tại Philippines Trong khi đó, Indonesia ban hành Luật PPP và BT năm 2005 nhưng gặp khó khăn do thiếu cam kết chính trị và sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Điều này là bài học quý giá cho Việt Nam, nơi có điều kiện phát triển kinh tế - xã hội tương đồng với Indonesia, nhấn mạnh sự cần thiết phải nghiên cứu kỹ lưỡng luật PPP và BT của Indonesia để xây dựng hệ thống pháp luật tương ứng tại Việt Nam.

Vào khoảng 20 năm cuối thế kỷ XX, Trung Quốc thực hiện chính sách cải cách mở cửa, đạt được những thành tựu to lớn trong phát triển kinh tế nhờ vào việc đổi mới và thu hút vốn đầu tư hiệu quả Ngân sách nhà nước được tập trung đầu tư vào các công trình trọng điểm như phúc lợi công cộng, hạ tầng, dự án công nghiệp và công nghệ mới Bên cạnh đó, cải cách giáo dục và đào tạo cũng đã nâng cao đáng kể chất lượng nguồn nhân lực.

Ngoài việc sử dụng ngân sách nhà nước, Trung Quốc đã chủ động huy động vốn qua nhiều kênh khác nhau để thúc đẩy đầu tư phát triển công nghiệp nông thôn Quốc gia này đã triển khai nhiều mô hình và xí nghiệp, đồng thời cải cách cơ chế và chính sách đầu tư, trao quyền tự chủ cho các doanh nghiệp nhà nước.

Đến nay, Trung Quốc chưa ban hành Luật chính thức về PPP (Đối tác công tư) và BT (Xây dựng - Chuyển giao) Các dự án PPP và BT hiện đang được triển khai dựa trên các quy định trong Thông tư của Bộ Tài chính Trung Quốc.

Năm 2015, các hướng dẫn từ các cơ quan trung ương đã chỉ ra rằng việc thực hiện các dự án PPP và BT tại Trung Quốc có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam hiện nay Các dự án này đều phải tuân thủ các quy định pháp luật liên quan như Luật Ngân Sách, Luật Đấu Thầu, Luật Hợp đồng, cùng với ý kiến hướng dẫn của Hội đồng Nhà nước về quản lý hành chính đối với nợ công của chính quyền địa phương Bên cạnh đó, Quyết định của Hội đồng Nhà nước về cải cách hệ thống quản lý ngân sách cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các dự án này.

Kinh nghiệm huy động vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông qua mô hình hợp tác công tư từ các quốc gia rất đa dạng, không theo một khuôn mẫu cố định nào Tuy nhiên, các nước thành công trong chính sách này đều tuân thủ các quy luật kinh tế cơ bản, tận dụng tối đa lợi thế so sánh của mình và xem xét kỹ lưỡng điều kiện tự nhiên cũng như đặc điểm dân tộc.

Kinh nghiệm huy động vốn đầu tư phát triển ở các nước Đông Nam Á cho thấy tầm quan trọng của nguồn vốn đầu tư trong nước Để thu hút và huy động nguồn vốn này, cần thực hiện các biện pháp tích cực nhằm khuyến khích tiết kiệm, bao gồm điều chỉnh lãi suất hợp lý và mở rộng mạng lưới huy động vốn để tối ưu hóa khai thác nguồn lực.

Nguyễn Thu Trang và Chu Thị Việt Anh (2010) trong bài viết "Kinh nghiệm ngăn chặn bong bóng bất động sản tại Trung Quốc" nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển các công cụ huy động vốn đa dạng để đáp ứng nhu cầu tiết kiệm của người dân Các quốc gia đều có chính sách khuyến khích phát triển kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp, trong đó nguồn vốn nước ngoài đóng vai trò quan trọng, giúp phá vỡ vòng luẩn quẩn thiếu vốn ở các nước đang phát triển Bên cạnh đó, việc sử dụng công cụ thuế một cách hấp dẫn cũng là một phương pháp hiệu quả để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Các quốc gia đang nỗ lực hoàn thiện các quy định pháp luật về đối tác công tư (PPP) nhằm thu hút thêm vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông và các lĩnh vực khác Việc này không chỉ tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi và minh bạch mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia.

Phát triển hạ tầng giao thông là mục tiêu chiến lược quan trọng của Đảng và Chính phủ trong thời gian tới Để đạt được mục tiêu này, cần huy động tối đa các nguồn lực xã hội, đặc biệt là vốn đầu tư, vì đây là điều kiện tiên quyết cho sự phát triển bền vững của hạ tầng giao thông.

Nghiên cứu các kênh huy động vốn cho phát triển hạ tầng giao thông cho thấy mỗi kênh đều có ưu nhược điểm và cơ chế riêng Việc lựa chọn hình thức huy động vốn phụ thuộc vào từng quốc gia, địa phương và thời điểm cụ thể Kinh nghiệm từ nhiều nước cho thấy để thu hút đầu tư cho hạ tầng giao thông và phát triển kinh tế xã hội, cần có hệ thống pháp lý nhất quán, môi trường đầu tư thông thoáng, cùng với chính sách ưu đãi thuế Chính quyền địa phương nên phối hợp chặt chẽ với nhà đầu tư trong triển khai dự án và giải phóng mặt bằng, nhằm kịp thời xử lý các vấn đề phát sinh, từ đó nâng cao sức hấp dẫn cho các nhà đầu tư trong lĩnh vực này.

Việt Nam nên học hỏi những kinh nghiệm từ các quốc gia khác để xây dựng các chính sách hiệu quả, nhằm thu hút nguồn vốn đầu tư cho sự phát triển hạ tầng giao thông.

THỰC TRẠNG VỀ PHÁP LUẬT PPP VÀ MÔ HÌNH HỢP ĐỒNG BT VÀO ĐẦU TƯ HẠ TẦNG GIAO THÔNG

Nhu cầu thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông tại Việt Nam

Nghị quyết của Đại hội Đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ XII cùng với Nghị quyết của Quốc hội đã xác định mục tiêu tổng quát cho phát triển kinh tế - xã hội trong giai đoạn 5 năm tới.

Giai đoạn 2016-2020 tập trung vào việc đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và phấn đấu đạt mức tăng trưởng kinh tế cao hơn so với 5 năm trước Các đột phá chiến lược được đẩy mạnh, kết hợp với việc cơ cấu lại nền kinh tế nhằm đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất và sức cạnh tranh Đồng thời, phát triển văn hóa, thực hiện dân chủ, tiến bộ xã hội và bảo đảm an sinh xã hội là những ưu tiên hàng đầu, cùng với việc cải thiện đời sống nhân dân Đối phó chủ động với biến đổi khí hậu và quản lý tài nguyên hiệu quả cũng được nhấn mạnh Quốc phòng và an ninh được tăng cường, với quyết tâm bảo vệ độc lập và toàn vẹn lãnh thổ Công tác đối ngoại được nâng cao, hướng tới hội nhập quốc tế và giữ gìn hòa bình, ổn định Cuối cùng, mục tiêu là đưa Việt Nam trở thành nước công nghiệp hiện đại trong thời gian sớm nhất.

Theo báo cáo của Chính phủ trình Quốc hội về Kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2016-2020, tổng vốn đầu tư toàn xã hội dự kiến đạt khoảng 9.120-9.750 nghìn tỷ đồng, tương đương 32-34% GDP Trong số đó, vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước khoảng 2.000 nghìn tỷ đồng, chiếm 20,5-21,9% Việc huy động các nguồn vốn trong và ngoài nước sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

Dự kiến, tổng vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng của Nhà nước khoảng 363-378 nghìn tỷ đồng, chiếm 3,9-4%; vốn từ doanh nghiệp nhà nước khoảng 812-869 nghìn tỷ đồng, chiếm 8,9%; vốn đầu tư từ khu vực dân cư và doanh nghiệp tư nhân khoảng 4.326 - 4.839 nghìn tỷ đồng, chiếm 47,4-49,6%; vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) khoảng 1.592-1.635 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,8-17,5%; và các nguồn vốn khác khoảng 27,4-29,2 nghìn tỷ đồng, chiếm 0,3% Để phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng, Nghị quyết số 13-NQ/TW ngày 16/01/2012 đã nhấn mạnh việc thu hút mạnh mẽ các thành phần kinh tế, bao gồm cả nhà đầu tư nước ngoài, nhằm đảm bảo lợi ích cho họ và khuyến khích hình thức hợp tác giữa Nhà nước và nhân dân Ngày 08/6/2012, Chính phủ ban hành Nghị quyết số 16/NQ-CP để triển khai thực hiện các mục tiêu của Nghị quyết 13-NQ/TW.

Sau 05 năm, việc thực hiện chỉ đạo của các cấp Lãnh đạo Đảng và Chính phủ đã đạt được những kết quả nhất định, góp phần nâng cao hệ thống kết cấu hạ tầng đất nước Bên cạnh các nguồn vốn đầu tư truyền thống bao gồm ngân sách nhà nước, trái phiếu Chính phủ, ODA, vốn đầu tư từ các khu vực ngoài nhà nước thông qua hình thức BOT, BT đã góp phần thay đổi hình ảnh của các địa phương, cải thiện đáng kể hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông, ví dụ: đã đưa vào sử dụng hàng nghìn km quốc lộ 1A và đường Hồ Chí Minh đoạn qua Tây Nguyên, các cầu quy mô lớn như cầu Cổ Chiên, cầu Rạch Miễu, cầu Việt Trì, cầu Yên Lệnh )

Với nhu cầu phát triển kết cấu hạ tầng ngày càng tăng và ngân sách nhà nước chỉ đáp ứng khoảng 50% tổng nhu cầu, việc huy động vốn từ khu vực tư nhân trở nên cần thiết Để đạt được điều này, cần xây dựng cơ chế huy động vốn đi kèm với một hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ổn định và cởi mở, nhằm đáp ứng hiệu quả yêu cầu huy động nguồn vốn tư nhân.

Tình hình thực hiện quy định pháp luật về phát triển hạ tầng giao thông thông qua mô hình PPP nói chung và hợp đồng BT nói riêng 27

Trong giai đoạn hiện nay, Chính phủ cùng các cơ quan quản lý địa phương đã ký kết và thực hiện 193 dự án theo hình thức đối tác công tư (PPP) Bộ Giao thông vận tải dẫn đầu với 75 dự án PPP đang triển khai.

Trong lĩnh vực xây dựng, hai loại hợp đồng chủ yếu được áp dụng là Hợp đồng xây dựng – Kinh Doanh – Chuyển Giao BOT với hơn 120 dự án và Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao BT với hơn 71 dự án.

Trong lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng, các dự án PPP giao thông chiếm ưu thế với 158 dự án được thực hiện, theo sau đó là các dự án trong lĩnh vực năng lượng.

Trong lĩnh vực hạ tầng, đã có 9 dự án cấp nước, thoát nước và xử lý nước thải, trong khi lĩnh vực giao thông vẫn chưa thu hút được nhà đầu tư nước ngoài theo hình thức hợp đồng PPP Tuy nhiên, các nhà đầu tư đã tham gia vào các cảng biển hiện đại như bến cảng Container Tân Cảng Cát Lái, bến cảng Container Trung tâm Sài Gòn SPCT và bến cảng Container quốc tế Sài Gòn Việt Nam SITV Dự kiến, nguồn vốn huy động từ khu vực tư nhân cho phát triển hạ tầng giao thông đạt 327.110 tỷ đồng Mặc dù quy định đầu tư theo hình thức PPP đã được ban hành, nhưng lĩnh vực y tế và giáo dục vẫn chưa triển khai được dự án nào theo mô hình này, và việc thu hút đầu tư chủ yếu thông qua hoạt động xã hội hóa và các hình thức khác.

Trong giai đoạn hiện nay, số lượng dự án PPP mới được lựa chọn nhà đầu tư và đưa vào vận hành còn rất hạn chế do sự ảnh hưởng của các nghị định mới đã có hiệu lực.

Trong thời gian này, các dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư chủ yếu là những dự án được nghiên cứu và triển khai theo quy định của Nghị định 108/2009/NĐ-CP.

Trong giai đoạn 2016-2020, 18/63 địa phương đã đăng ký 598 dự án PPP, bao gồm 321 dự án khởi công mới và 277 dự án chuyển tiếp từ giai đoạn 2011-2015 Các hình thức chủ yếu được áp dụng là BT với 256 dự án, BOT với 87 dự án, BLT với 6 dự án, BOO với 1 dự án, và BTO với 11 dự án, trong khi một số dự án khác chưa xác định loại hợp đồng cụ thể Đến năm 2014, sau gần 10 năm thực hiện các ưu đãi theo Luật đầu tư, các dự án này đã có những bước phát triển quan trọng.

2005, Nhà nước chính thư văn bản quy phạm pháp luật mới thay thế là Luật Đầu tư

 Về ưu đãi đầu tư

Luật Đầu tư 2014 đã quy định rõ các ưu đãi đầu tư, bao gồm mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp thấp hơn mức thông thường trong một khoảng thời gian nhất định hoặc toàn bộ thời gian thực hiện dự án Ngoài ra, luật cũng đề xuất miễn, giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, miễn thuế nhập khẩu cho hàng hóa phục vụ việc tạo tài sản cố định, nguyên liệu, vật tư và linh kiện cần thiết cho dự án Bên cạnh đó, các ưu đãi cũng bao gồm miễn, giảm tiền thuê đất, tiền sử dụng đất và thuế sử dụng đất.

 Về chủ thể ký kết Hợp đồng

Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, và Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương có thẩm quyền ký kết và thực hiện hợp đồng dự án Những cơ quan này đại diện cho Nhà nước, thực hiện đàm phán với các nhà đầu tư từ nhiều thành phần kinh tế trong và ngoài nước nhằm bảo vệ lợi ích của Nhà nước.

 Lĩnh vực thực hiện dự án

Pháp luật hiện hành đã mở rộng các phương thức đầu tư cho nhà đầu tư tư nhân trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, đặc biệt là thông qua quy chế Hợp đồng BT Tuy nhiên, các nhà đầu tư nước ngoài chủ yếu chỉ quan tâm đến dự án BOT do thiếu sự rõ ràng trong việc hỗ trợ từ Chính phủ cho hình thức BT Luật Đầu tư 2014 đã bổ sung các đối tượng ưu đãi đầu tư, bao gồm các dự án có quy mô vốn từ 6.000 tỷ đồng trở lên, các dự án tại vùng nông thôn sử dụng từ 500 lao động trở lên, cũng như doanh nghiệp công nghệ cao và tổ chức khoa học và công nghệ.

 Về lập, công bố, phê duyệt danh mục dự án

Tính công khai và minh bạch trong hệ thống pháp luật, đặc biệt là trong lĩnh vực pháp luật đầu tư, đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút nguồn vốn đầu tư Do đó, việc hoàn thiện pháp luật đầu tư là cần thiết để nâng cao hiệu quả thu hút đầu tư vào cơ sở hạ tầng của đất nước.

 Về đàm phán, ký kết hợp đồng dự án

Trong quan hệ đầu tư, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dự án được xác định rõ ràng trong giai đoạn đàm phán và ký kết hợp đồng Giai đoạn này đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình đầu tư và thực hiện dự án.

 Về thủ tục thẩm tra, cấp giấy chứng nhận đầu tư

Ccơ quan tổ chức thẩm tra cấp Chứng nhận đầu tư cho Dự án không chỉ có

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cùng với UBND cấp tỉnh sẽ thực hiện sự phân cấp về thẩm quyền, nhằm giảm thiểu chồng chéo quyền lực và hạn chế sự tập trung quyền lực vào một cơ quan duy nhất.

Sau khi hoàn tất thủ tục đầu tư, chủ đầu tư sẽ tiến hành các công việc cần thiết và thực hiện các thủ tục pháp lý để triển khai dự án một cách hiệu quả.

- Triển khai xây dựng công trình

- Quản lý và kinh doanh công trình

- Chuyển giao công trình và kết thúc hợp đồng dự án

 Về giá của sản phẩm, dịch vụ của dự án BT

Nghị định số 108 quy định giá sản phẩm và dịch vụ trong dự án BT là điều khoản quan trọng trong hợp đồng dự án Nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam, giới hạn quyền của nhà đầu tư trong việc xác định mức phí và giá trần Điều 33 của Nghị định quy định giá, phí hàng hóa, dịch vụ phải bù đủ chi phí và đảm bảo lợi ích cho doanh nghiệp, người sử dụng và Nhà nước Mặc dù đã thiết lập nguyên tắc xác định giá, Nghị định vẫn còn một số hạn chế Từ tháng 06 năm 2018, Nghị định 63/2018/NĐ-CP và Nghị định 69/2019/NĐ-CP ra đời để thay thế và giải quyết các bất cập trong thanh toán dự án, tuy nhiên, nhiều dự án BT hiện nay vẫn bị ngừng triển khai vì nhiều lý do khác nhau.

Đánh giá về việc thực hiện quy định pháp luật về phát triển hạ tầng giao thông thông qua mô hình PPP nói chung và hợp đồng BT nói riêng

Trước khi Nghị định 63/2018/NĐ-CP về đầu tư theo hình thức đối tác công tư được ban hành, các dự án PPP và BT trước tháng 6 năm 2018 được thực hiện theo Nghị định 15/2015/NĐ-CP, Nghị định 30/2015/NĐ-CP, Nghị định 108/2009/NĐ-CP cùng các văn bản hướng dẫn như Thông tư số 03/2011/TT-BKHĐT và Thông tư số 166/2011/TT-BTC, quy định về quản lý chi phí dự án, các chỉ tiêu tài chính của hợp đồng, cũng như điều kiện và phương thức thanh toán cho nhà đầu tư.

Đầu tư theo hình thức đối tác công tư phải tuân thủ nhiều quy định pháp luật, bao gồm Luật Đầu tư, Luật Đầu tư công, Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Xây dựng, Luật Doanh nghiệp, và Luật Đất đai.

Các Luật và Nghị định hiện hành vẫn còn nhiều bất cập, thiếu tính thống nhất và đồng bộ, dẫn đến sự chồng chéo trong việc thực hiện dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư, đặc biệt là trong hợp đồng xây dựng – chuyển giao Sự điều chỉnh bởi nhiều Luật khác nhau làm tăng tính phức tạp và rủi ro trong triển khai dự án, từ đó giảm tính hấp dẫn của mô hình đầu tư này Cần thiết phải có biện pháp tháo gỡ những khó khăn và bất cập trong quá trình thực hiện để cải thiện tình hình.

2.3.2.1 Quy định chồng chéo, vướng mắc, chưa phù hợp giữa các văn bản quy phạm pháp luật về PPP

2.3.2.1.1 Vướng mắc giữa Luật Đầu tư công và quy định về PPP

- Về phân loại dự án PPP:

Một tiêu chí quan trọng trong việc phân nhóm dự án theo Luật Đầu tư công là quy mô của “vốn đầu tư công” Tuy nhiên, dự án PPP có đặc thù riêng, không chỉ dựa vào vốn đầu tư công mà chủ yếu là huy động vốn từ các nhà đầu tư Vì vậy, việc phân loại dự án PPP như một dự án đầu tư công là không hợp lý.

- Về thủ tục quyết định chủ trương đầu tư:

Trình tự và thủ tục phê duyệt đầu tư dự án vẫn còn thiếu sự nhất quán giữa các dự án sử dụng và không sử dụng vốn đầu tư công Tất cả các dự án PPP nhóm A, bất kể có hay không có vốn nhà nước, đều tác động lớn đến người dân và kinh tế xã hội Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, các dự án nhóm A có vốn nhà nước tham gia phải thành lập hội đồng liên ngành để thẩm định, trong khi các dự án nhóm A không có vốn góp của nhà nước lại không cần thực hiện thủ tục này.

Hiện nay, Luật Đầu tư công và Nghị định 63/2018/NĐ-CP đang sử dụng không đồng nhất các khái niệm như “đề xuất dự án”, “chủ trương đầu tư” và “chủ trương sử dụng vốn nhà nước tham gia thực hiện dự án” đối với các dự án PPP có sử dụng vốn đầu tư công Sự không thống nhất này có thể gây khó khăn trong việc triển khai và quản lý các dự án, ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư công.

- Về thủ tục thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn:

Việc thực hiện thủ tục thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo quy định pháp luật về đầu tư công, đặc biệt đối với các dự án PPP, hiện nay mang tính hình thức và chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến gia tăng thủ tục đầu tư Nguyên nhân chủ yếu là do tại thời điểm thẩm định, các cấp có thẩm quyền chưa có cơ sở vững chắc để khẳng định khả năng bố trí nguồn vốn cho từng dự án cụ thể.

Mức vốn Nhà nước hỗ trợ cho dự án PPP liên quan đến phương án tài chính sơ bộ, được xác định trong giai đoạn phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Tuy nhiên, độ chính xác của các thông số tài chính trong giai đoạn này còn hạn chế Theo thông lệ quốc tế, khả năng hỗ trợ của Nhà nước cho các dự án PPP được xác định rõ hơn trong giai đoạn phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, và mức hỗ trợ thực tế sẽ phụ thuộc vào kết quả của quá trình đấu thầu lựa chọn nhà đầu tư.

- Về thủ tục thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn:

Việc thực hiện thủ tục thẩm định nguồn vốn và khả năng cân đối vốn theo quy định pháp luật về đầu tư công, bao gồm các dự án PPP sử dụng vốn đầu tư công, hiện nay mang tính hình thức, kém hiệu quả và làm gia tăng thủ tục đầu tư Nguyên nhân chủ yếu là do vào thời điểm thẩm định, các cấp có thẩm quyền chưa có cơ sở xác định khả năng bố trí nguồn vốn cho từng dự án cụ thể.

Mức vốn Nhà nước hỗ trợ cho dự án PPP phụ thuộc vào phương án tài chính của dự án trong giai đoạn chủ trương đầu tư, cụ thể là khi phê duyệt báo cáo nghiên cứu tiền khả thi Tuy nhiên, phương án tài chính này chỉ mang tính sơ bộ và độ chính xác của các thông số tài chính còn thấp Theo thông lệ quốc tế, việc xác định khả năng hỗ trợ cần được thực hiện một cách cẩn trọng và có cơ sở rõ ràng.

Nhà nước hỗ trợ các dự án PPP trong giai đoạn phê duyệt báo cáo nghiên cứu khả thi, và mức hỗ trợ cụ thể sẽ được xác định dựa trên kết quả đấu thầu chọn nhà đầu tư.

2.3.2.1.2 Vướng mắc giữa Luật Xây dựng và quy định về PPP

- Về quyền, nghĩa vụ của chủ đầu tư và cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong dự án PPP có cấu phần xây dựng:

Luật Xây dựng (Khoản 9 và Khoản 27 Điều 3) xác định khái niệm chủ đầu tư là doanh nghiệp dự án trong các dự án PPP, và người quyết định đầu tư là cá nhân hoặc đại diện hợp pháp của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền Điều 68 và Điều 72 quy định trách nhiệm của chủ đầu tư và người quyết định đầu tư, nhưng hiện tại, Luật Xây dựng chưa đề cập đến trách nhiệm của cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong việc ký kết hợp đồng PPP.

Dự án PPP có bản chất là cơ quan nhà nước có thẩm quyền ký kết hợp đồng không phải là người quyết định đầu tư, mà nhà đầu tư mới là chủ thể đóng góp phần lớn vốn Mặc dù Nghị định 63/2018/NĐ-CP đã quy định trách nhiệm của cơ quan nhà nước trong quá trình xây dựng, nhưng Luật Xây dựng chưa xác định rõ trách nhiệm của cơ quan này trong việc ký kết hợp đồng PPP Điều này dẫn đến việc nhiều chủ đầu tư cho rằng họ là những người duy nhất có quyền giám sát và thực hiện dự án.

Theo Điều 137 Luật Xây dựng, sau khi hoàn thành, công trình xây dựng phải thực hiện quyết toán dự án đầu tư Đối với các dự án sử dụng vốn nhà nước, người quyết định đầu tư có trách nhiệm phê duyệt quyết toán trong phạm vi tổng mức đầu tư đã được phê duyệt Tuy nhiên, quy định này chỉ áp dụng cho các dự án có nhà thầu thực hiện, chưa phù hợp với các dự án PPP, nơi nhà đầu tư không chỉ xây dựng mà còn vận hành và kinh doanh, đồng thời phải duy trì cam kết về chất lượng dịch vụ và giá, phí dịch vụ.

2.3.2.1.3 Vướng mắc với Luật Đất đai

- Về quy định giao đất cho nhà đầu tư thực hiện dự án PPP

Khoản 3 Điều 155 Luật Đất đai quy định nhà nước giao cho nhà đầu tư quản lý diện tích đất để thực hiện dự án xây dựng - chuyển giao (BT); giao đất hoặc cho thuê đất đối với nhà đầu tư để thực hiện dự án xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT) và các hình thức khác theo quy định của pháp luật về đầu tư Luật Đất đai chưa quy định cụ thể thủ tục bàn giao đất cho nhà đầu tư trúng thầu dự án PPP, đối với các dự án có cấu phần kinh doanh “O” và “L” thì quy định bàn giao đất càng quan trọng bởi liên quan đến quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư trong việc sử dụng đất mà nhà nước giao triển khai dự án PPP Bên cạnh đó, về bản chất, dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư nhằm thực hiện dịch vụ công, do đó, trong trường hợp thu tiền sử dụng đất thì chi phí này cũng được tính vào phương án tài chính của nhà đầu tư và tổng vốn đầu tư của dự án Do đó, việc quy định cho thuê đất đối với dự án PPP là chưa phù hợp Bên cạnh đó, quy định hai trường hợp như nêu trên chưa đủ rõ ràng để thực hiện đối với dự án PPP trường hợp nào thì cho thuê đất và trường hợp nào thì giao đất

THỰC TIỄN THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ VÀO HẠ TẦNG GIAO THÔNG QUA MÔ HÌNH HỢP ĐỒNG BT TẠI THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Ngày đăng: 15/07/2022, 07:00

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
13. Viện nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng (2011), Tham vấn PPP: Kinh nghiệm quốc tế - Thực tiễn ở Việt Nam, Hà Nội tháng 5/2011. II. Tài liệu tiếng Anh 14. Vũ Đức Bảo (2013), "Hà Nội thu hút VĐT vào CSHT: Đột phá từ hình thức hợp tác công - tư", Tạp chí Nghiên cứu Tài chính Kế toánTiếng Anh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hà Nội thu hút VĐT vào CSHT: Đột phá từ hình thức hợp tác công - tư
Tác giả: Viện nghiên cứu đô thị và phát triển hạ tầng (2011), Tham vấn PPP: Kinh nghiệm quốc tế - Thực tiễn ở Việt Nam, Hà Nội tháng 5/2011. II. Tài liệu tiếng Anh 14. Vũ Đức Bảo
Năm: 2013
12. Sở Kế Hoạch và Đầu Tư Thành phố Hồ Chí Minh (2017), Tình hình Thực hiện Dự án Đối tác Công –Tư tại TPHCM, từ https://ppp.tphcm.gov.vn/tinh- hinh-thuc-hien-du-an-doi-tac-cong-tu-tai-tphcm.html, Truy cập lần cuối ngày 25/08/2019 Link
1. Asian Development Bank (2012), Assessment of Public-Private Partnerships in Viet Nam Constraints and Opportunities, Published 2012, Printed in the Philippines Khác
2. Asian Development Bank (2008), Public - Private - Partnership Hand book, Published 2008, Printed in the Philippines Khác
3. Jon Valentine, Intern (2008), Public-Private Partnerships in Infrastructure: Best-Practices from the International Experience and Applications for Thailand, National Economic and Social Development Board (NESDB), Thailand, August 2008 Khác
7. Chính phủ (2015), Nghị định số 15/2015/NĐ-CP ngày 14/2/2015 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư Khác
8. Chính phủ (2018), Nghị định số 63/2018/NĐ-CP ngày 04/05/2018 của Chính phủ về đầu tư theo hình thức đối tác công – tư Khác
9. Chính phủ (2009), Nghị định 108/2009/NĐ-CP Về đầu tư theo hình thức Hợp đồng Xây dựng – Kinh doanh – Chuyển giao, Hợp đồng Xây dựng – Chuyển giao – Kinh doanh, Hợp đồng Xây Dựng – Chuyển Giao Khác
10. Chính phủ (2019), Nghị định 69/2019/NĐ-CP Quy định việc sử dụng tài sản công để thanh toán cho Nhà đầu tư khi thực hiện dự án đầu tư xây dựng công trình theo hình thức Hợp đồng Xây dựng - Chuyển giao Khác
12. Chính phủ (2011), Nghị định số 01/2011/NĐ-CP ngày 05/01/2011, về phát hành trái phiếu Chính phủ, trái phiếu được Chính phủ bảo lãnh và trái phiếu chính quyền địa phương Khác
14. Thủ tướng Chính phủ (2010), Quyết định số 71/2010/QĐ-TTg ngày 09/11/2010, của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Quy chế Thí điểm đầu tư theo hình thức đối tác công - tư (PPP) Khác
15. Thủ tướng Chính phủ (2007), Quyết định số 412/2007/QĐ-TTg ngày 11/4/2007, của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt danh mục đầu tư một số dự án kết cấu hạ tầng giao thông quan trọng, thiết yếu đến năm 2020 Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

PHÁP LUẬT ÁP DỤNG MƠ HÌNH HỢP ĐỒNG BT ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO HẠ TẦNG  GIAO THÔNG – THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ - (LUẬN văn THẠC sĩ) pháp luật áp dụng mô hình hợp đồng BT để thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông – thực tiễn tại thành phố hồ chí minh
PHÁP LUẬT ÁP DỤNG MƠ HÌNH HỢP ĐỒNG BT ĐỂ THU HÚT VỐN ĐẦU TƯ TƯ NHÂN VÀO HẠ TẦNG GIAO THÔNG – THỰC TIỄN TẠI THÀNH PHỐ HỒ (Trang 1)
Bảng 3. 1: Quy mô và cơ cấu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 2001-2015 - (LUẬN văn THẠC sĩ) pháp luật áp dụng mô hình hợp đồng BT để thu hút vốn đầu tư tư nhân vào hạ tầng giao thông – thực tiễn tại thành phố hồ chí minh
Bảng 3. 1: Quy mô và cơ cấu vốn đầu tư phát triển trên địa bàn TP. Hồ Chí Minh thời kỳ 2001-2015 (Trang 59)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w