Giáo trình Triết học Mác-Lênin: Phần 2 cung cấp những kiến thức về chủ nghĩa duy vật lịch sử. Những nội dung chính được trình bày trong chương này gồm có: Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, giai cấp và dân tộc, nhà nước và cách mạng xã hội, ý thức xã hội, triết học về con người. Mời các bạn cùng tham khảo.
TRIẾT HỌC VÀ VẤN ĐỀ CƠ BẢN CỦA TRIẾT HỌC
Vấn đề cơ bản của triết học Error! Bookmark not defined 3 Biện chứng và siêu hình Error! Bookmark not defined II TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VÀ VAI TRÒ CỦA TRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN TRONG ĐỜI SỐNG XÃ HỘI Error! Bookmark not defined 1 Sự ra đời và phát triển của triết học Mác - LêninError! Bookmark not defined Đối tượng và chức năng của triết học Mác - LêninError! Bookmark not defined 3 Vai trò của triết học Mác - Lênin trong đời sống xã hội và trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam hiện nay
CHỦ NGHĨA DUY VẬT LỊCH SỬ
Lịch sử tư tưởng triết học trước Mác đã đóng góp những giá trị xã hội quan trọng, tạo nền tảng cho triết học Mác-xít trong việc phát triển quan niệm duy vật lịch sử Tuy nhiên, các nhà triết học duy tâm đã sai lầm khi tìm kiếm nguyên nhân phát triển lịch sử từ tư tưởng và cá nhân, dẫn đến việc họ coi trọng hoạt động tinh thần mà không chú trọng đến thực tiễn xã hội Ngược lại, các nhà triết học duy vật trước Mác cũng mắc phải khuyết điểm trong phương pháp tư duy siêu hình, khi họ quy bản chất con người vào bản tính tự nhiên và tộc loại, từ đó tuyệt đối hóa vai trò của hoàn cảnh địa lý và áp dụng máy móc các quy luật tự nhiên vào xã hội Họ thiếu tính thực tiễn và không nhận thức được vai trò cách mạng của hoạt động thực tiễn trong sự phát triển xã hội.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã xuất phát từ tiền đề nghiên cứu về lịch sử xã hội là con người hiện thực “Tiền đề đầu tiên của toàn bộ lịch sử nhân loại thì dĩ nhiên là sự tồn tại của những cá nhân con người sống” 133 Nghiên cứu về cuộc sống của con người hiện thực, các nhà kinh điển phát hiện ra phương thức tồn tại của con người chính là hoạt động thực tiễn của họ Động lực thúc đẩy con người hoạt động trong tiến trình lịch sử là nhu cầu và lợi ích mà trước hết là nhu cầu vật chất Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng: “cái sự hiển nhiên…là trước hết con người cần phải ăn, uống, ở và mặc, nghĩa là phải lao động, trước khi có thể đấu tranh để giành quyền thống trị, trước khi có thể hoạt động chính trị, tôn giáo, triết học vv….” 134 Nhưng “cá nhân là thực thể xã hội cho nên mọi biểu hiện sinh hoạt của nó là biểu hiện và sự khẳng định của sinh hoạt xã hội” 135 C.Mác và Ph.Ăngghen viết : “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người” 136 Con người, bằng hoạt động của mình đã làm nên lịch sử, tạo ra xã hội
Lôgic lý luận của C.Mác và Ph.Ăngghen nhấn mạnh tầm quan trọng của thực tiễn trong triết học, với quan niệm đúng đắn về vai trò của thực tiễn đối với đời sống xã hội Điều này giúp giải quyết những bí ẩn và bế tắc trong các lý luận hiện có.
133 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 3, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 29
134 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 19, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1995, tr 166
135 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 42, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,, 2000, tr 171
136 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 27, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,1996, tr 657.
CHỦ NGHĨA DUY VẬT BIỆN CHỨNG I VẬT CHẤT VÀ Ý THỨC Error! Bookmark not defined 1 Vật chất và các hình thức tồn tại của vật chấtError! Bookmark not defined 2 Nguồn gốc, bản chất và kết cấu của ý thứcError! Bookmark not defined 3 Mối quan hệ giữa vật chất và ý thức Error! Bookmark not defined II PHÉP BIỆN CHỨNG DUY VẬT Error! Bookmark not defined 1 Hai loại hình biện chứng và phép biện chứng duy vật
HỌC THUYẾT HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa duy vật lịch sử, chỉ ra các quy luật phát triển xã hội và cung cấp phương pháp luận khoa học để cải tạo xã hội Trong bối cảnh thế giới đang trải qua những biến đổi sâu sắc, lý thuyết này vẫn giữ nguyên giá trị khoa học và thời đại, trở thành nền tảng cho các chính đảng và nhà nước xã hội chủ nghĩa trong việc xây dựng cương lĩnh, đường lối và chính sách Nó cũng là cơ sở khoa học để xác định con đường phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa tại Việt Nam hiện nay.
Học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của Chủ nghĩa Mác - Lênin nhấn mạnh rằng sản xuất vật chất là nền tảng cho sự phát triển xã hội, đồng thời chỉ ra mối quan hệ biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất Nó cũng đề cập đến sự tương tác giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, khẳng định rằng sự phát triển các hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử - tự nhiên Hệ thống quan điểm này phản ánh bản chất và quy luật vận động, phát triển của lịch sử xã hội loài người.
1 Sản xuất vật chất là cơ sở của sự tồn tại và phát triển xã hội Để tồn tại và phát triển, con người phải tiến hành sản xuất Đó là hoạt động đặc trưng riêng có của con người và xã hội loài người Sản xuất là hoạt động không ngừng sáng tạo ra giá trị vật chất và tinh thần nhằm mục đích thoả mãn nhu cầu tồn tại và phát triển của con người Quá trình sản xuất diễn ra trong xã hội loài người chính là sự sản xuất xã hội - sản xuất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực Ph.Ăngghen khẳng định:
Theo quan điểm duy vật về lịch sử, nhân tố quyết định trong lịch sử là sự sản xuất và tái sản xuất đời sống hiện thực Cả Mác và tôi đều khẳng định rằng không chỉ có nhân tố kinh tế là yếu tố duy nhất quyết định, vì nếu ai đó hiểu sai câu này, họ đã làm cho nó trở nên trống rỗng và vô nghĩa.
Sự sản xuất xã hội bao gồm ba phương diện không thể tách rời: sản xuất vật chất, sản xuất tinh thần và sản xuất ra bản thân con người Trong đó, sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội, quyết định sự vận động và phát triển của đời sống xã hội Bên cạnh đó, sản xuất tinh thần đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các giá trị tinh thần nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người và xã hội Cuối cùng, việc sản xuất ra bản thân con người diễn ra ở cả phạm vi cá nhân và xã hội, bao gồm sinh đẻ, nuôi dạy con cái và phát triển dân số, thể hiện sự phát triển của con người như một thực thể sinh học - xã hội.
Sản xuất vật chất là quá trình con người sử dụng công cụ lao động để tác động vào tự nhiên, biến đổi các dạng vật chất nhằm tạo ra của cải xã hội Mục tiêu của quá trình này là đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người.
Sản xuất vật chất là nền tảng thiết yếu cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra "tư liệu sinh hoạt của con người" Điều này không chỉ giúp duy trì sự sống mà còn thúc đẩy sự phát triển của từng cá nhân và toàn thể cộng đồng.
Sản xuất vật chất là nền tảng cho mọi hoạt động lịch sử của con người, hình thành các quan hệ kinh tế - vật chất giữa con người với nhau, từ đó tạo ra các quan hệ xã hội khác như chính trị, pháp luật, đạo đức và tôn giáo Nó không chỉ đảm bảo điều kiện và phương tiện cho hoạt động tinh thần mà còn duy trì và phát triển phương thức sản xuất tinh thần trong xã hội C.Mác nhấn mạnh rằng việc sản xuất tư liệu sinh hoạt vật chất là cơ sở để phát triển các thể chế nhà nước, quan điểm pháp quyền, nghệ thuật và cả những quan niệm tôn giáo Nhờ vào sản xuất của cải vật chất, con người có thể duy trì sự tồn tại và phát triển, đồng thời sáng tạo ra đời sống vật chất và tinh thần phong phú và phức tạp của xã hội.
Sản xuất vật chất là điều kiện chủ yếu sáng tạo ra bản thân con người Nhờ hoạt động sản xuất vật chất mà con người hình thành nên
137 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997, tr 641
Sản xuất vật chất là điều kiện quyết định cho sự hình thành và phát triển phẩm chất xã hội của con người Ph Ăngghen nhấn mạnh rằng "lao động đã sáng tạo ra bản thân con người", cho thấy lao động không chỉ giúp con người tách khỏi tự nhiên mà còn hòa nhập và cải tạo nó Qua lao động sản xuất, con người tạo ra mọi giá trị vật chất và tinh thần, đồng thời cũng hình thành nên chính bản thân mình.
Nguyên lý về vai trò của sản xuất vật chất là nền tảng cho sự tồn tại và phát triển của xã hội loài người, mang ý nghĩa phương pháp luận quan trọng Để hiểu và cải tạo xã hội, cần xuất phát từ đời sống sản xuất và nền sản xuất vật chất xã hội Cuối cùng, không thể dùng tinh thần để giải thích đời sống tinh thần; sự phát triển của xã hội phải bắt đầu từ việc nâng cao đời sống kinh tế và vật chất.
2 Biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất a Phương thức sản xuất Ở mỗi giai đoạn lịch sử con người tiến hành sản xuất theo một cách thức nhất định, tức là có một cách sinh sống, cách sản xuất riêng của mình, đó là phương thức sản xuất Phương thức sản xuất là cách thức con người tiến hành quá trình sản xuất vật chất ở những giai đoạn lịch sử nhất định của xã hội loài người Phương thức sản xuất là sự thống nhất giữa lực lượng sản xuất với một trình độ nhất định và quan hệ sản xuất tương ứng Lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất là các khái niệm chỉ hai mối quan hệ “song trùng” của nền sản xuất vật chất xã hội, đó là quan hệ giữa con người với tự nhiên và quan hệ giữa người với người trong quá trình sản xuất vật chất “Người ta không thể sản xuất được nếu không kết hợp với nhau theo một cách nào đó để hoạt động chung và để trao đổi hoạt động với nhau Muốn sản xuất được, người ta phải có những mối liên hệ và quan hệ nhất định với nhau; và quan hệ của họ với giới tự nhiên, tức là việc sản xuất” 140 Do vậy, phương thức sản xuất là cách thức con người thực hiện đồng thời sự tác động giữa con người với tự nhiên và sự tác động giữa người với người để sáng tạo ra của cải vật chất phục vụ nhu cầu con người và xã hội ở những giai đoạn lịch sử nhất định
Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, tạo ra sức sản xuất và năng lực thực tiễn nhằm biến đổi các đối tượng vật chất của tự nhiên theo nhu cầu của con người và xã hội Cấu trúc của lực lượng sản xuất được phân tích qua hai khía cạnh: kinh tế - kỹ thuật (tư liệu sản xuất) và kinh tế - xã hội (người lao động) Sự kết hợp này giữa “lao động sống” và tư liệu sản xuất là yếu tố quyết định trong quá trình phát triển kinh tế.
“lao động vật hóa” tạo ra sức sản xuất, là toàn bộ những năng lực thực tiễn
139 C.Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, t 20, Sđd, tr 641
Lực lượng sản xuất là một hệ thống bao gồm người lao động và tư liệu sản xuất, cùng với các mối quan hệ kết hợp giữa chúng Hệ thống này tạo ra sức sản xuất, cho phép cải biến tự nhiên và tạo ra của cải vật chất phục vụ mục đích của con người Đây chính là biểu hiện của năng lực thực tiễn cơ bản nhất trong xã hội qua các thời kỳ.
- năng lực hoạt động sản xuất vật chất của con người
Người lao động là những cá nhân sở hữu tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng và năng lực sáng tạo trong quá trình sản xuất xã hội Họ không chỉ là chủ thể sáng tạo mà còn là người tiêu dùng các sản phẩm vật chất Người lao động được xem là nguồn lực cơ bản, vô tận và đặc biệt trong sản xuất Hiện nay, trong bối cảnh sản xuất xã hội, tỷ lệ lao động cơ bắp đang giảm dần, trong khi lao động trí tuệ và trí tuệ ngày càng chiếm ưu thế.
Tư liệu sản xuất là điều kiện vật chất thiết yếu cho tổ chức sản xuất, bao gồm tư liệu lao động và đối tượng lao động Đối tượng lao động là các yếu tố vật chất mà con người sử dụng tư liệu lao động để tác động và biến đổi cho phù hợp với nhu cầu sử dụng Tư liệu lao động, bao gồm công cụ và phương tiện lao động, là những yếu tố mà con người dựa vào để biến đổi đối tượng lao động thành sản phẩm đáp ứng yêu cầu sản xuất.
GIAI CẤP VÀ DÂN TỘC
1 Giai cấp và đấu tranh giai cấp
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp là nội dung cốt lõi của chủ nghĩa Mác - Lênin, phản ánh sự vận dụng chủ nghĩa duy vật biện chứng vào lĩnh vực xã hội Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác đã lần đầu tiên phân tích một cách khoa học vấn đề giai cấp Trong thư gửi G Vây-đơ- mai-ơ vào ngày 5-3-1852, C Mác đã tóm tắt lý luận về giai cấp của mình một cách ngắn gọn, khoa học và đầy đủ.
Trong nghiên cứu của tôi, tôi đã chỉ ra rằng sự tồn tại của các giai cấp chỉ liên quan đến những giai đoạn phát triển lịch sử cụ thể của sản xuất Đấu tranh giai cấp là một quá trình tất yếu, dẫn đến sự hình thành của chuyên chính vô sản Bản chất của nền chuyên chính này là một bước chuyển tiếp, hướng tới việc xóa bỏ mọi giai cấp và tiến tới một xã hội không giai cấp.
Lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chiến lược và sách lược của các đảng cộng sản và giai cấp công nhân toàn cầu Đây là cơ sở lý luận và phương pháp luận khoa học giúp họ thực hiện thành công sứ mệnh lịch sử của mình.
Trong lịch sử, nhiều nhà triết học và xã hội học trước C Mác, đặc biệt là từ phía tư sản, đã công nhận sự tồn tại của các giai cấp nhưng không thể lý giải một cách khoa học về hiện tượng phức tạp này Họ xem giai cấp là tập hợp những người có chức năng xã hội, lối sống hoặc mức sống tương đồng, dựa trên tiêu chuẩn chủ quan thay vì các đặc trưng khách quan Thực chất, họ đã tránh né các vấn đề cốt lõi, đặc biệt là quyền sở hữu tư liệu sản xuất, nhằm làm mờ sự khác biệt và đối kháng giai cấp, từ đó biện hộ cho sự tồn tại của các giai cấp thống trị và bóc lột.
Các Mác đã nghiên cứu giai cấp thông qua phân tích cấu trúc phương thức sản xuất, sử dụng lý luận về hình thái kinh tế - xã hội làm nền tảng Ông cho rằng gốc rễ của cấu trúc xã hội và giai cấp nằm ở kinh tế, và sự phân chia xã hội thành giai cấp là kết quả tất yếu của sự phát triển lịch sử Quan hệ giai cấp phản ánh các mối quan hệ sản xuất, trong đó một nhóm người có thể bóc lột lao động của nhóm khác Do đó, để hiểu đúng về giai cấp, cần phải liên kết nó với đời sống kinh tế và nền sản xuất vật chất xã hội.
V.I Lênin, kế thừa tư tưởng của C.Mác và Ph Ăngghen, trong tác phẩm “Sáng kiến vĩ đại”, đã đưa ra một định nghĩa khoa học về giai cấp Ông mô tả giai cấp là những tập đoàn lớn với sự khác biệt về địa vị trong hệ thống sản xuất xã hội, quan hệ pháp lý đối với tư liệu sản xuất, vai trò trong tổ chức lao động, và cách thức hưởng thụ tài sản xã hội Giai cấp cũng được hiểu là những tập đoàn có khả năng chiếm đoạt lao động của tập đoàn khác do sự khác biệt về địa vị trong chế độ kinh tế - xã hội nhất định Định nghĩa này nêu rõ các đặc trưng cơ bản của giai cấp.
Giai cấp là những tập đoàn người có địa vị kinh tế - xã hội khác nhau trong một hệ thống sản xuất xã hội cụ thể, không phải là cá nhân riêng lẻ Địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp này được xác định bởi các điều kiện tồn tại kinh tế - vật chất của xã hội, do đó mang tính khách quan.
Địa vị kinh tế - xã hội của mỗi giai cấp không phải do cá nhân tự lựa chọn, mà được xác định bởi phương thức sản xuất trong xã hội Các giai cấp trong hệ thống sản xuất xã hội bao gồm giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị, phản ánh bản chất của phương thức sản xuất tại từng thời kỳ lịch sử Trong xã hội chiếm hữu nô lệ, giai cấp thống trị là chủ nô; trong xã hội phong kiến là địa chủ; và trong xã hội tư bản chủ nghĩa là tư sản và vô sản Sự phát triển của các phương thức sản xuất có thể làm thay đổi địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp, như khi giai cấp địa chủ không còn là giai cấp thống trị trong hệ thống sản xuất tư bản chủ nghĩa đã phát triển.
Phương thức sản xuất xã hội là yếu tố quyết định dẫn đến sự hình thành các giai cấp Không phải tất cả các phương thức sản xuất trong lịch sử đều tạo ra giai cấp, mà chỉ những phương thức có điều kiện vật chất tạo ra sự đối lập lợi ích giữa các nhóm người mới phát sinh giai cấp Trong lịch sử nhân loại, các phương thức sản xuất như chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa đã cung cấp điều kiện vật chất cho sự tồn tại của các giai cấp đối kháng.
Dấu hiệu chủ yếu quy định địa vị kinh tế-xã hội của các giai cấp là mối quan hệ kinh tế - vật chất giữa các tập đoàn người trong phương thức sản xuất Các mối quan hệ này bao gồm quan hệ sở hữu tư liệu sản xuất, quan hệ tổ chức quản lý sản xuất và quan hệ phân phối của cải xã hội Những mối quan hệ này xác định vị thế kinh tế - xã hội khác nhau của các tập đoàn, tạo ra sự phân chia giữa giai cấp thống trị và giai cấp bị trị.
Các giai cấp khác nhau đóng vai trò quan trọng trong các mối quan hệ kinh tế - vật chất Quan hệ sở hữu xác định giai cấp nào nắm quyền sở hữu tư liệu sản xuất, trong khi giai cấp khác không có quyền này Quan hệ tổ chức và quản lý sản xuất quy định giai cấp có quyền điều hành và phân công lao động, còn giai cấp không có quyền sẽ không thể tổ chức sản xuất Cuối cùng, quan hệ phân phối của cải xã hội quyết định phương thức và quy mô hưởng thụ sản phẩm, địa tô và giá trị thặng dư.
Quan hệ đối với tư liệu sản xuất là yếu tố quyết định địa vị kinh tế - xã hội của các giai cấp Giai cấp nào nắm giữ tư liệu sản xuất sẽ chiếm ưu thế trong tổ chức quản lý sản xuất và phân phối sản phẩm, từ đó trở thành giai cấp thống trị Ngược lại, các giai cấp không có tư liệu sản xuất sẽ phụ thuộc vào giai cấp có quyền lực và trở thành giai cấp bị thống trị Quan hệ sản xuất vật chất không chỉ xác định vai trò của các giai cấp trong kinh tế mà còn ảnh hưởng lớn đến vị trí của họ trong các lĩnh vực chính trị, văn hóa và xã hội.
Quan hệ giai cấp là mối quan hệ giữa bóc lột và bị bóc lột, phản ánh sự chiếm đoạt lao động của một tập đoàn người bởi tập đoàn khác trong một chế độ kinh tế - xã hội nhất định Các quan hệ này thường được nhà nước của giai cấp thống trị thể chế hoá thành luật pháp và bảo vệ bằng hệ thống chính trị - pháp lý Giai cấp thống trị về kinh tế cũng giữ vai trò thống trị trong các lĩnh vực khác của đời sống xã hội, dẫn đến sự đối lập về lợi ích cơ bản giữa các giai cấp, nguyên nhân gây ra mọi xung đột xã hội Trong xã hội tư bản chủ nghĩa, sự khác biệt về vị trí và vai trò trong hệ thống sản xuất giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản tạo ra mâu thuẫn giữa hai giai cấp này Định nghĩa giai cấp của Lênin khẳng định rằng giai cấp là một phạm trù kinh tế - xã hội lịch sử, tồn tại dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất, với nguyên nhân kinh tế là yếu tố quyết định Tuy nhiên, cần xem xét giai cấp trong hệ thống mối quan hệ xã hội phức tạp, để hiểu rõ sự khác biệt về kinh tế, chính trị, tư tưởng và các khía cạnh khác Phân tích chế độ kinh tế đã sản sinh ra các giai cấp và vị trí của mỗi giai cấp trong chế độ đó là cơ sở khoa học để hiểu sâu sắc về chúng Định nghĩa của Lênin mang tính cách mạng và khoa học, cung cấp lý luận cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh xoá bỏ giai cấp và xây dựng xã hội mới.
Giai cấp là một hiện tượng xã hội lâu dài, gắn liền với các điều kiện sản xuất vật chất trong lịch sử Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra rằng sự xuất hiện và biến mất của các giai cấp cụ thể cũng như xã hội có giai cấp phụ thuộc vào những yếu tố kinh tế, liên quan đến các giai đoạn phát triển lịch sử của sản xuất.
Trong xã hội cộng sản nguyên thuỷ, do lực lượng sản xuất chưa phát triển, năng suất lao động rất thấp, vì vậy phương thức làm chung, hưởng chung trở thành chủ yếu để duy trì sự tồn tại Điều kiện sản xuất không cho phép sự phân chia giai cấp, dẫn đến sự bình đẳng và tự do trong xã hội, không có nô lệ và thường không có sự nô dịch các bộ lạc khác, như Ph.Ăngghen đã chỉ rõ.
NHÀ NƯỚC VÀ CÁCH MẠNG XÃ HỘI
Nhà nước là một hiện tượng xã hội tồn tại trong các xã hội có giai cấp và đấu tranh giai cấp Sự khác biệt trong nhận thức và lợi ích giai cấp đã dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về nhà nước, tập trung vào nguồn gốc, bản chất, chức năng, cũng như các kiểu và hình thức nhà nước trong lịch sử Có hai loại quan điểm chính: quan điểm ngoài Mác-xít và quan điểm Mác-xít Các quan điểm ngoài Mác-xít thường bị ảnh hưởng bởi lợi ích giai cấp và hạn chế về mặt lịch sử, do đó không thể giải thích một cách khách quan và khoa học về nhà nước.
Quan điểm về nhà nước trong lịch sử đã được các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin kế thừa, bổ sung và phát triển, mang lại giá trị khoa học trong việc giải thích hiện tượng nhà nước Nguồn gốc của nhà nước được xem xét từ nhiều khía cạnh, phản ánh sự phát triển của xã hội và các mối quan hệ quyền lực.
Ph Ăngghen trong tác phẩm "Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước" đã nhấn mạnh rằng nhà nước là một phạm trù lịch sử, không tồn tại vĩnh viễn Ông chỉ ra rằng đã từng có những xã hội không cần đến nhà nước, không có khái niệm về nhà nước và chính quyền nhà nước.
Trong xã hội nguyên thủy, sự tồn tại của các cộng đồng thị tộc và bộ lạc diễn ra mà chưa có sự hình thành của nhà nước Nhà nước, với vai trò là cơ quan quyền lực của giai cấp, chưa xuất hiện để duy trì sự thống trị và đối lập với nhân dân.
Xã hội tự quản đã trải qua giai đoạn cuối của xã hội cộng sản nguyên thủy, khi chế độ tư hữu xuất hiện, dẫn đến sự bất bình đẳng và phân hóa giai cấp Giai cấp thống trị và giai cấp bị thống trị ra đời, thay thế quan hệ bình đẳng bằng quan hệ áp bức và bóc lột, khiến nền dân chủ bị thay thế bởi độc tài Sự mâu thuẫn giai cấp trở nên gay gắt, với các cuộc đấu tranh của giai cấp bị trị chống lại giai cấp thống trị diễn ra thường xuyên Để bảo vệ quyền lợi, giai cấp thống trị sử dụng bạo lực để đàn áp sự phản kháng Cuộc đấu tranh giai cấp đầu tiên giữa chủ nô và nô lệ trong xã hội chiếm hữu nô lệ đã dẫn đến sự ra đời của nhà nước nhằm “làm dịu” mâu thuẫn giai cấp và duy trì sự tồn tại của xã hội.
Nhà nước xuất hiện trong bối cảnh lịch sử cụ thể, là kết quả của sự phát triển xã hội đến một giai đoạn nhất định Khi xã hội bị chia rẽ thành những mâu thuẫn đối lập mà không thể hòa giải, nhà nước trở thành giải pháp cho sự bất lực trong việc giải quyết những xung đột này.
Nhà nước được hình thành nhằm duy trì trật tự xã hội và bảo vệ quyền lợi của giai cấp thống trị, đồng thời ngăn chặn cuộc đấu tranh giai cấp dẫn đến sự xung đột nghiêm trọng.
173 C Mác và Ph Ăngghen, Toàn tập, t.21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr 257
174 tiêu diệt lẫn nhau và tiêu diệt luôn cả xã hội, để duy trì xã hội trong vòng
“trật tự” V.I.Lênin cho rằng, khi trong xã hội xuất hiện “ biểu hiện của mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được” thì nhà nước ra đời Rằng:
Nhà nước xuất hiện khi có những mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa được, bất kể thời gian và địa điểm Sự tồn tại của nhà nước là minh chứng cho việc những mâu thuẫn này không thể được giải quyết.
Nguyên nhân sâu xa của sự ra đời của nhà nước là sự phát triển của lực lượng sản xuất, dẫn đến sự dư thừa của cải và sự xuất hiện chế độ tư hữu Nguyên nhân trực tiếp là mâu thuẫn giai cấp trong xã hội trở nên gay gắt và không thể điều hòa Sự xuất hiện của nhà nước là điều tất yếu khách quan nhằm “làm dịu” xung đột giai cấp và duy trì trật tự xã hội, nơi địa vị và lợi ích của giai cấp thống trị được bảo đảm.
Nhà nước xuất hiện trong bối cảnh kinh tế - xã hội cụ thể, chỉ tồn tại khi có mâu thuẫn và đấu tranh giữa các giai cấp Theo Ph Ăngghen, nhà nước là công cụ của một giai cấp nhằm áp bức giai cấp khác, điều này đúng cả trong chế độ cộng hòa dân chủ lẫn chế độ quân chủ.
V I Lênin khẳng định lại quan điểm của C Mác về nhà nước: “Theo Mác, nhà nước là một cơ quan thống trị giai cấp, là một cơ quan áp bức của một giai cấp này đối với một giai cấp khác; đó là sự kiến lập một
“trật tự”, trật tự này hợp pháp hóa và củng cố sự áp bức kia bằng cách làm dịu xung đột giai cấp” 177
Giai cấp thống trị trong xã hội thường nắm giữ quyền lực kinh tế và sử dụng nhà nước như công cụ để duy trì trật tự xã hội, bảo vệ vị trí và quyền lợi của mình.
Nhà nước là một tổ chức chính trị đại diện cho giai cấp thống trị về kinh tế, có nhiệm vụ bảo vệ trật tự hiện tại và đàn áp sự phản kháng từ các giai cấp khác.
Nhà nước là công cụ chuyên chính của một giai cấp, không tồn tại nhà nước đứng trên hay ngoài giai cấp Tuy nhiên, có thể xảy ra tình huống nhà nước trở thành sản phẩm của sự thỏa hiệp tạm thời giữa các giai cấp nhằm chống lại một giai cấp khác Đôi khi, nhà nước cũng giữ được mức độ độc lập nhất định giữa hai giai cấp đối kháng khi cuộc đấu tranh giữa chúng đạt đến sự cân bằng.
175 V I Lênin, toàn tập, t.33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1976, tr.9
176 C Mácvà Ph Ăng ghen, Toàn tập, t.22, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr.290 -291
Trong tác phẩm của V I Lênin, ông chỉ ra rằng có những thời kỳ ngoại lệ khi các giai cấp đang đấu tranh gần đạt được sự cân bằng, khiến cho chính quyền nhà nước tạm thời trở thành một bên trung gian, có được một mức độ độc lập nhất định đối với cả hai giai cấp.
Ý THỨC XÃ HỘI
Đời sống xã hội bao gồm hai lĩnh vực quan trọng: vật chất và tinh thần, phản ánh sự tồn tại và ý thức xã hội Việc phân tích các quy luật phát triển xã hội không thể thiếu yếu tố ý thức xã hội, bên cạnh các mối quan hệ kinh tế và chính trị - xã hội Trong triết học Mác - Lênin, khái niệm ý thức xã hội luôn gắn liền với tồn tại xã hội.
1 Khái niệm tồn tại xã hội và các yếu tố cơ bản của tồn tại xã hội a Khái niệm tồn tại xã hội
Tồn tại xã hội bao gồm toàn bộ sinh hoạt vật chất và các điều kiện sống của xã hội Nó đại diện cho thực tại xã hội khách quan và là một hình thức vật chất xã hội, phản ánh các quan hệ xã hội vật chất qua ý thức xã hội Trong các quan hệ này, mối quan hệ giữa con người với tự nhiên và giữa con người với nhau là hai yếu tố cơ bản nhất của tồn tại xã hội.
Tồn tại xã hội được hình thành từ các yếu tố cơ bản như phương thức sản xuất vật chất, điều kiện tự nhiên, hoàn cảnh địa lý, dân số và mật độ dân số Trong đó, phương thức sản xuất vật chất đóng vai trò quan trọng nhất.
Lời tựa cuốn Góp phần phê phán khoa kinh tế chính trị C.Mác viết:
Phương thức sản xuất vật chất là yếu tố quyết định các quá trình sinh hoạt xã hội, chính trị và tinh thần C.Mác nhấn mạnh rằng không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ, mà chính tồn tại xã hội lại ảnh hưởng đến ý thức của họ Quan điểm này đã khắc phục chủ nghĩa duy tâm và xây dựng lý thuyết duy vật lịch sử về mối quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, khẳng định vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức Trước đó, trong tác phẩm Hệ tư tưởng Đức, C.Mác cũng đã đề cập đến vấn đề này.
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đi đến kết luận rằng, toàn bộ gốc rễ của sự phát triển xã hội loài người, kể cả ý thức của con người, đều nằm trong và bị quy định bởi sự phát triển của các điều kiện kinh tế - xã hội, nghĩa là
Ý thức không phải là yếu tố quyết định đời sống mà chính đời sống lại quyết định ý thức Ngay từ đầu, ý thức đã là một sản phẩm xã hội và sẽ vẫn như vậy miễn là con người còn tồn tại Đây là điểm cốt lõi của nguyên lý tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội.
Tồn tại xã hội không chỉ hình thành ý thức xã hội mà còn quyết định nội dung và hình thức biểu hiện của nó Mỗi yếu tố trong tồn tại xã hội được phản ánh qua các hình thái ý thức xã hội khác nhau từ nhiều góc độ và cách thức Đồng thời, các hình thái ý thức này cũng tác động trở lại tồn tại xã hội, thể hiện tính độc lập tương đối của ý thức xã hội.
2 Ý thức xã hội và kết cấu của ý thức xã hội a Khái niệm ý thức xã hội
Phạm trù ý thức xã hội, cùng với tồn tại xã hội, là một khái niệm quan trọng trong chủ nghĩa duy vật lịch sử, giúp giải quyết những vấn đề cơ bản của triết học xã hội Ý thức xã hội được hiểu là sự tự nhận thức của xã hội về chính mình và hiện thực xung quanh Nó đại diện cho mặt tinh thần của đời sống xã hội và là một phần của văn hóa tinh thần, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ hình thái kinh tế - xã hội và các giai cấp đã tạo ra nó Cấu trúc của ý thức xã hội bao gồm tâm lý xã hội và hệ tư tưởng xã hội, trong đó hệ tư tưởng chứa đựng các quan điểm, học thuyết và tư tưởng quan trọng Tâm lý xã hội phản ánh cảm xúc, tâm trạng và truyền thống, phát sinh từ tồn tại xã hội và phản ánh nó ở các giai đoạn phát triển khác nhau Như V.I Lênin đã chỉ ra, ý thức xã hội không chỉ là sự phản ánh thụ động mà là một quá trình biện chứng, kết quả từ mối quan hệ hoạt động của con người với thực tại Mặc dù có mối liên hệ chặt chẽ với ý thức cá nhân, ý thức xã hội và ý thức cá nhân vẫn có sự khác biệt do thuộc về hai trình độ khác nhau.
198 C.Mác và Ph.Ăngghen Toàn tập, t.3 Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tr 37
Ý thức cá nhân là thế giới tinh thần của từng cá nhân, được hình thành từ những đặc điểm sống, giáo dục và điều kiện phát triển nhân cách riêng Mặc dù ý thức của mỗi người phản ánh tồn tại xã hội ở mức độ khác nhau, nhưng không phải lúc nào nó cũng thể hiện quan điểm chung của cộng đồng, nhóm xã hội hay thời đại cụ thể nào đó.
Ý thức xã hội tồn tại dưới nhiều hình thức khác nhau, phản ánh sự đa dạng và phong phú của đời sống xã hội Nó thường được chia thành hai loại chính: ý thức xã hội thông thường và ý thức lý luận Ý thức xã hội thông thường là những tri thức, quan niệm hình thành từ hoạt động hàng ngày, chưa được hệ thống hóa, trong khi ý thức lý luận là những tư tưởng được tổng hợp và khái quát hóa thành các học thuyết xã hội Dù ý thức xã hội thông thường có mức độ thấp hơn, nhưng lại phong phú hơn và là cơ sở quan trọng cho sự hình thành ý thức lý luận Ngược lại, ý thức lý luận có khả năng phản ánh hiện thực một cách sâu sắc, chính xác và bao quát, đồng thời chỉ ra các mối liên hệ và quy luật của các sự vật và quá trình xã hội, thậm chí còn vượt trước hiện thực.
Tâm lý xã hội là ý thức xã hội thể hiện qua ý thức cá nhân, bao gồm tư tưởng, tình cảm, tâm trạng, thói quen, nếp sống, nếp nghĩ, phong tục, tập quán và ước muốn Những yếu tố này hình thành dưới tác động của cuộc sống hàng ngày và phản ánh thực tế xã hội của từng cá nhân, nhóm người hoặc toàn thể xã hội.
Tâm lý xã hội phản ánh trực tiếp các điều kiện sinh hoạt hàng ngày của con người, ghi lại những hiện tượng bề mặt của tồn tại xã hội Tuy nhiên, khác với ý thức lý luận, tâm lý xã hội không đủ khả năng để xác định các mối liên hệ khách quan và bản chất của các sự vật và quá trình xã hội Dù vậy, vai trò của tâm lý xã hội trong việc phát triển ý thức xã hội là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc nắm bắt dư luận xã hội và nhu cầu đa dạng của nhân dân trong các hoàn cảnh khác nhau.
Hệ tư tưởng đại diện cho giai đoạn phát triển cao hơn của ý thức xã hội, phản ánh sự nhận thức lý luận về tồn tại xã hội Nó có khả năng phân tích sâu sắc bản chất của các mối quan hệ xã hội và là kết quả của việc tổng kết, khái quát hóa các kinh nghiệm xã hội Từ đó, hệ tư tưởng hình thành nên những quan điểm và tư tưởng đa dạng trong các lĩnh vực như chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, nghệ thuật và tôn giáo.
Trong lịch sử nhân loại, tồn tại hai hệ tư tưởng: khoa học và không khoa học Hệ tư tưởng không khoa học thường phản ánh các quan hệ vật chất một cách sai lầm hoặc xuyên tạc, trong khi hệ tư tưởng khoa học phản ánh chính xác các quá trình và hiện tượng xã hội Cả hai hệ tư tưởng này đều ảnh hưởng đến sự phát triển của khoa học, với hệ tư tưởng không khoa học, đặc biệt là triết học, đã kìm hãm sự phát triển của khoa học tự nhiên trong nhiều thế kỷ ở châu Âu thời Trung cổ.
Tâm lý xã hội và hệ tư tưởng, dù thuộc hai trình độ khác nhau của ý thức xã hội, vẫn có mối liên hệ chặt chẽ và tác động lẫn nhau Tâm lý xã hội có thể thúc đẩy hoặc cản trở sự hình thành và tiếp nhận hệ tư tưởng, đồng thời làm giảm tính cứng nhắc của nó Ngược lại, hệ tư tưởng khoa học có khả năng bổ sung và nâng cao trí tuệ cho tâm lý xã hội, từ đó thúc đẩy sự phát triển tích cực của tâm lý xã hội.