1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

TIỂU LUẬN CUỐI KỲ Sự phát triển CNXH khoa học giai đoạn C.Mác Ph.Ăng-ghen

45 107 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Sự Phát Triển Của CNXH Khoa Học Trong Giai Đoạn Của C.Mác Và Ph.Ăng-ghen
Tác giả Nguyễn Thanh Điền, Lê Văn Hiền, Đoàn Chấn Hưng, Huỳnh Ngọc Tuấn, Võ Huỳnh Anh Nhật, Trần Quốc Siêu
Người hướng dẫn ThS. Trần Ngọc Chung
Trường học Trường Đại Học Sư Phạm Kỹ Thuật TP. HCM
Chuyên ngành Lý Luận Chính Trị
Thể loại tiểu luận
Năm xuất bản 2021
Thành phố Tp. Hồ Chí Minh
Định dạng
Số trang 45
Dung lượng 723,93 KB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (5)
  • 2. Mục tiêu nghiên cứu (5)
  • CHƯƠNG 1: C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC (6)
    • 1.1. Vai trò của Các Mác và Phriđich Ăngghen (6)
      • 1.1.1 Tiểu sử Các Mác (6)
        • 1.1.1.1 Thời niên thiếu và thanh niên (0)
        • 1.1.1.2. Những năm tháng sống ở nước ngoài (6)
      • 1.1.2. Tiểu sử Phriđơrich Ăngghen (7)
      • 1.1.3. Vai trò của Các Mác và Phiriđích Ăngghen (8)
        • 1.1.3.1. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị của Các Mác (9)
        • 1.1.3.2. Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị của Ph.Ångghen (10)
    • 1.2 Chủ nghĩa duy vật lịch sử (11)
      • 1.2.1. Chủ nghĩa duy vật lịch sử là (11)
      • 1.2.2. Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất (11)
      • 1.2.3. Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (12)
        • 1.2.3.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (12)
        • 1.2.3.2. Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng (13)
      • 1.2.4. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội và tính độc lập tương đối của ý thức xã hội… (13)
        • 1.2.4.1. Tồn tại xã hội quyết định ý thức xã hội (13)
      • 1.2.5. Hình thái kinh tế – xã hội và quá trình lịch sử tự nhiên của sự phát triển các hình thái (14)
      • 1.2.6. Vai trò của đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội đối với sự vận động phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp (15)
        • 1.2.6.1. Giai cấp và vai trò của đấu tranh giai cấp đối với sự phát triển của xã hội có đối kháng (15)
        • 1.2.7.1. Con người và bản chất con người (16)
        • 1.2.7.2. Khái niệm quần chúng nhân dân và vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân (16)
    • 1.3. Học thuyết về giá trị thặng dư (17)
      • 1.3.1. Phần mở đầu (17)
      • 1.3.2. Lý luận về giá trị thặng dư (17)
        • 1.3.2.1. Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản (17)
        • 1.3.2.2. Hàng hóa lao động (19)
        • 1.3.2.3. Bản chất của giá trị thặng dư (21)
      • 1.4.1. Khái niệm giai cấp công nhân (23)
      • 1.4.2. Nội dung và điều kiện khách quan quy định sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân….24 1.5. Thời kỳ từ 1848 đến Công xã Pari (1871) (24)
      • 1.5.1. Sơ lược Thời kỳ công xã Pari (26)
      • 1.5.2. Thời kỳ 1848 – 1852 (Trước công xã Paris) (29)
      • 1.5.3. Quan điểm của C. Mác và Ph. Ăngghen về liên minh công – nông (32)
    • 1.6. Thời kỳ sau Công Xã Paris đến 1895 (35)
  • Chương II: ĐÁNH GIÁ VỀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN (0)
    • 2.1. Ảnh hưởng từ giai đoạn này đến các giai đoạn sau (38)
    • 2.2. Ảnh hưởng của giai đoạn này đến con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam (39)
  • KẾT LUẬN (42)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (44)

Nội dung

Mục tiêu nghiên cứu

Bài viết giúp sinh viên hiểu rõ sự phát triển của chủ nghĩa xã hội khoa học trong thời kỳ của C Mác và Ph Ăng-ghen, liên kết lý luận với thực tiễn và tổng kết kinh nghiệm thực tiễn Nó đóng góp vào việc giải quyết các vấn đề thực tiễn hiện tại liên quan đến lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam Đồng thời, bài viết khẳng định tính biện chứng, khoa học và lịch sử của lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học trong dòng chảy lịch sử nhân loại.

C.MÁC VÀ PH.ĂNG-GHEN PHÁT TRIỂN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

Vai trò của Các Mác và Phriđich Ăngghen

Các Mác, sinh ngày 5 tháng 5 năm 1818 tại Trier, Đức, là một nhân vật quan trọng trong lịch sử tư tưởng Trier, một thành phố cổ có vai trò là thủ đô của một công quốc tôn giáo lớn trong thời Trung cổ, cũng là nơi phản ánh những mâu thuẫn xã hội sâu sắc Mặc dù có vẻ yên bình, thành phố này chứng kiến sự đối lập giữa cuộc sống của người nghèo thành thị và tầng lớp thị dân giàu có, thể hiện phong trào xã hội sôi động của nước Đức thời bấy giờ.

1.1.1.1 Thời niên thiếu và thanh niên

Năm 1830, khi mới mười hai tuổi, C Mác bắt đầu học tại trường trung học ở Trier, nơi cậu thể hiện khả năng xuất sắc trong các lĩnh vực đòi hỏi tính sáng tạo độc lập, đặc biệt là toán học Trong thời gian học phổ thông, C Mác may mắn được học với những thầy giáo tốt, bao gồm hiệu trưởng dạy lịch sử và triết học, cùng thầy dạy toán và vật lý, những người theo chủ nghĩa duy vật và có tư tưởng tự do.

Vào mùa thu năm 1835, C Mác tốt nghiệp trung học và sau đó nhập học tại Đại học Tổng hợp Bonn để học luật Hai tháng sau, theo lời khuyên của cha, Mác chuyển đến Đại học Tổng hợp Berlin, nơi anh bắt đầu nghiên cứu triết học bên cạnh luật học, sử học và ngoại ngữ Vào mùa xuân năm 1837, Mác chú trọng vào tác phẩm của Hêgen và từ năm 1839 đến một phần năm 1840, anh tập trung nghiên cứu lịch sử triết học Cổ đại Ngày 15 tháng 4 năm 1841, ở tuổi 23, Mác nhận bằng Tiến sĩ triết học với luận án về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và Êpiquơ tại Đại học Tổng hợp Jena.

1.1.1.2 Những năm tháng sống ở nước ngoài

Cuối tháng Mười năm 1843, C Mác đến Paris, nơi ông đã có những trải nghiệm quan trọng trong suốt một năm rưỡi lưu lại Chuyến đi đầu tiên này đã đóng vai trò then chốt trong sứ mệnh chính trị của ông, mặc dù sau đó Mác trở lại Paris vài lần nữa.

Vào cuối tháng Mười một năm 1842, lần đầu tiên, Các Mác đã gặp Phriđơrich Ăngghen trong chuyến hành trình của Ăngghen đến Anh, khi ông ghé thăm Bộ Biên tập tờ Rheinische Zeitung.

Vào mùa hè năm 1844, Ăngghen đã đến Paris thăm Mác, và trong suốt 10 ngày ở đây, họ đã có nhiều cuộc trò chuyện cởi mở Cuộc gặp gỡ này đã gắn kết họ thành những người bạn với chung lý tưởng và quan điểm về lý luận cũng như thực tiễn.

Phriđơrich Ăngghen (Friedrich Engels) là một triết gia, nhà khoa học và nhà lý luận chính trị người Đức thế kỷ 19 Ông cùng với Karl Marx đã sáng lập và phát triển chủ nghĩa cộng sản, đồng thời đóng vai trò lãnh đạo trong phong trào công nhân toàn cầu và Quốc tế I.

Cuối năm 1939, Ăngghen bắt đầu nghiên cứu các tác phẩm của Hêghen, đặc biệt là tư tưởng về sự tiến bộ của lịch sử loài người trong cuốn Triết học lịch sử Ảnh hưởng của Hêghen được thể hiện rõ trong hoạt động chính luận của Ăngghen, nhưng ông đã phát triển quan điểm biện chứng về lịch sử và các hiện tượng xã hội, ứng dụng những tư tưởng cơ bản của phép biện chứng Hêghen vào thực tiễn cuộc sống.

Tháng 3 năm 1848 cùng với Mác, Ăngghen đã thảo ra Những yêu sách của Đảng cộng sản Đức được Ban Chấp hành Trung ương LĐNNCS thông qua như là văn kiện có tính chất cương lĩnh cho hành động của giai cấp vô sản Đức Tháng 4 năm 1848 cùng với Mác, Ăngghen trở về Đức tham gia trực tiếp vào cuộc cách mạng Đức Ngày 20 tháng 5 năm 1848, Ăngghen đến Koln cùng Mác chuẩn bị xuất bản tờ báo Neue Rheinische Zeitung (Báo mới tỉnh Ranh) mà hai ông là linh hồn của tờ báo Cuối tháng 8 năm 1848, khi Mác đi Berlin (Đức) và Viên (Áo) để quyên tiền cho việc tiếp tục xuất bản tờ báo, Ăngghen thay thế cương vị Tổng Biên tập của Mác, đứng mũi chịu sào trước những truy bức không ngừng của vương quốc Phổ, ông đã thể hiện một nghị lực phi thường và tài năng tổ chức của một lãnh tụ cách mạng Ngoài ra, Ăngghen còn tích cực tham gia vào phong trào quần chúng rộng lớn, đòi thành lập Uỷ ban an ninh bảo vệ quyền lợi của tầng lớp nhân dân bị pháp luật Phổ tước bỏ quyền đại diện ở Quốc hội Tháng 10 năm 1848 Ăngghen vội vã rời Barmen lên đường đi Bỉ để tránh lệnh truy nã của chính quyền Phổ Nhà đương cục Bỉ không cho Ăngghen cư trú chính trị và ngày 5 tháng 10 năm 1848, Ăngghen đến Paris lưu lại ít ngày sau đó, đi Thuỵ Sĩ tham gia Đại hội các liên đoàn công nhân Đức Ăngghen được bầu vào Uỷ ban Trung ương của tổ chức này.

Năm 1872, Ăngghen tham gia vào việc tổ chức chiến dịch bảo vệ Công xã Paris Trong thời

Trong những năm cuối đời, Ăngghen đã viết nhiều tác phẩm có giá trị lý luận quan trọng, đặc biệt là cuốn "Chống Đuyrinh" (1878), góp phần hoàn thiện lý thuyết của chủ nghĩa Mác Sau khi Các Mác qua đời (1883), Ăngghen trở thành người lãnh đạo tổ chức những người theo chủ nghĩa xã hội ở châu Âu, hoàn thiện bản thảo và chuẩn bị in tập II và III của bộ "Tư bản" mà Mác chưa kịp hoàn thành Các tác phẩm nổi bật của Ăngghen như "Nguồn gốc gia đình, Chế độ tư hữu và Nhà nước" (1884), "Luivich Phoiơbach và sự cáo chung của triết học cổ điển Đức" (1866), "Biện chứng tự nhiên" và "Vấn đề nông dân ở Pháp và Đức" (1894) không chỉ có giá trị tuyên truyền cho chủ nghĩa cộng sản khoa học mà còn mang lại giá trị lý luận và thực tiễn cao, làm phong phú thêm cho chủ nghĩa Mác.

Các điều kiện kinh tế - xã hội cùng với những tiền đề khoa học tự nhiên và lý luận là cần thiết cho sự ra đời của một học thuyết Tuy nhiên, yếu tố quyết định cho sự hình thành học thuyết khoa học, cách mạng và sáng tạo chính là vai trò quan trọng của C.Mác và Ph.Ăngghen.

C.Mác và Ph.Ăngghen trưởng thành ở Đức, đất nước có nền triết học phát triển rực rỡ với thành tựu nổi bật là chủ nghĩa duy vật của L.Phoiobắc và phép biện chứng của V.Ph.Hêghen Bằng trí tuệ uyên bác và sự dấn thân trong phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao động C.Mác và Ph.Ăngghen đến với nhau, đã tiếp thu các giá trị của nền triết học cổ điển, kinh tế chính trị học cổ điển Anh và kho tàng tri thức của nhân loại để các ông trở thành những nhà khoa học thiên tài, những nhà cách mạng vĩ đại nhất thời địa.

Với kinh nghiệm phong phú ở Anh, Pháp, Đức và sự hợp tác với C Mác, Ph Ăng-ghen đã phát triển quan điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học, nhấn mạnh sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân trong việc lãnh đạo xã hội thông qua đảng cộng sản Lý thuyết này giúp giai cấp công nhân khẳng định vai trò chính trị và chuyển đổi xã hội từ chủ nghĩa tư bản sang chủ nghĩa xã hội và cộng sản Ph Ăng-ghen cùng C Mác đã cung cấp luận cứ thuyết phục, biến chủ nghĩa xã hội từ không tưởng thành khoa học Những chiến lược và sách lược mà ông đề xuất trong giai đoạn cuối đời đã đóng góp to lớn vào kho tàng chủ nghĩa xã hội khoa học.

1.1.3.1 Sự chuyển biến lập trường triết học và lập trường chính trị của Các Mác

Mới 19 tuổi (1837), Các Mác đã nghiên cứu kỹ tác phẩm của Hêghen (1770 -1831), triết gia Đức nổi tiếng và là người sáng lập ra học thuyết về phép biện chứng duy tâm Đặc biệt, Mác chú ý đến triết học của Êpicuơ (Épicure) một trong những nhà tư tưởng lớn nhất thời Cổ đại Quan tâm đến vấn đề thái độ của con người đối với thế giới xung quanh, Mác đã giải quyết được những vấn đề quan trọng như triết học có chứng minh tất cả những cái hiện tồn tại là hợp lý hay không, hay là nó chứa đựng trong bản thân nó cái cần phải có ngược với cái đang tồn tại Mác đặc biệt đánh giá cao ý tưởng của Êpicuơ muốn vươn tới sự tự do và độc lập về tinh thần, muốn thoát khỏi những xiềng xích ràng buộc của tôn giáo và mê tín Trong luận án tiến sĩ Về sự khác nhau giữa triết học tự nhiên của Đêmôcrit và triết học tự nhiên của Êpicuơ (1841), Mác kịch liệt chống mê tín, dị đoan và mọi triết học phản động muốn việc nghiên cứu khoa học phải phục tùng lợi ích của tôn giáo Tiếp theo, Mác đã viết một bài báo sắc sảo (2-1842) chống lại sự kiểm duyệt báo chí của chế độ chuyên chế Phổ, nhân đó lên án gay gắt các thể chế nhà nước Phổ Mác phê phán mạnh mẽ hơn chế độ chuyên chế Phổ và những nhà tư tưởng bênh vực cho chế độ này khi trở thành người lãnh đạo tờ báo Rheinische Zeitung vào tháng Mười năm 1842 Tháng Giêng năm 1843, Chính phủ Phổ ký lệnh đình bản tờ báo Marx càng nhận thức rõ hơn ở Vương quốc Phổ không thể công khai tuyên truyền cách mạng được Từ thời điểm này trở đi vấn đề cơ bản mà Mác quan tâm là vấn đề cách mạng, bản chất, nguyên nhân và động lực của nó Công tác thực tiễn ở báo Rheinisehe Zeitung đã làm thay đổi về cơ bản thế giới quan của Mác, chuyển từ chủ nghĩa duy tâm sang chủ nghĩa duy vật và từ chủ nghĩa dân chủ - cách mạng sang chủ nghĩa cộng sản Nghiên cứu tác phẩm của Hêgen, Mác thấy rõ Nhà nước không phải là hiện thân của lý trí thế giới, hiện thân của cái chung đứng riêng các lợi ích riêng như Hêgen khẳng định Mác thấy phải xét lại một cách có phê phán cái quan niệm duy tâm của Hêgen về xã hội và nhà nước, phát hiện những động lực thật sự của tiến bộ xã hội, những biện pháp và hình thức làm biến đổi thế giới bằng cách mạng Thời kỳ này, Mác viết một công trình quan trọng phê phán học thuyết của Hêgen về Nhà nước và pháp luật, có nhan đề: Góp phần phê phán triết học pháp quyền của Hêgen (sau khi Mác qua đời, công trình này mới được xuất bản ở Liên Xô năm 1927) Đóng góp to lớn về mặt lý luận của Mác trong quá trình phê phán Hêgen đưa ra một quan niệm đúng đắn về một chế độ xã hội dân chủ, ở đó nền dân chủ là sự tự quyết của nhân dân, lợi ích của nhân dân Tháng Hai năm 1844, trên tờ tạp chí Deutsch –

Franzosische Jahrbucher (Niên giám Pháp - Đức) Mác đăng bài Góp phần phê phán triết học

Hêgen đã đề cập đến 10 pháp quyền, nhấn mạnh rằng giai cấp vô sản là lực lượng duy nhất có khả năng giải phóng toàn thể nhân loại Trong tạp chí Deutsch – Franzosische Jahrbucher, Các Mác và Pheđơrich Ăngghen đã cùng nhau trình bày những quan điểm mới mẻ, trong đó Các Mác đưa ra giả thuyết thiên tài về sự phát triển lịch sử của xã hội Tuy nhiên, để khẳng định tính chính xác của những quan điểm này, cần có chứng minh lịch sử, và Các Mác đã tập trung toàn bộ hoạt động lý luận của mình vào việc thực hiện điều này.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử

1.2.1 Chủ nghĩa duy vật lịch sử là: Chủ nghĩa duy vật lịch sử là hệ thống quan điểm duy vật biện chứng về xã hội, là kết quả của sự vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và phép biện chứng duy vật vào việc nghiên cứu đời sống xã hội và lịch sử nhân loại

1.2.2 Vai trò của sản xuất vật chất và quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Sản xuất vật chất là quá trình lao động của con người, trong đó con người sử dụng công cụ và phương tiện lao động để tác động vào tự nhiên Mục tiêu của quá trình này là cải biến các dạng vật chất trong tự nhiên nhằm tạo ra của cải vật chất, đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội.

Thứ nhất: sản xuất vật chất là nền tảng, là cơ sở để duy trì sinh hoạt vật chất cho xã hội

Thứ hai: chính lịch sử phát triển của sản xuất vật chất quyết định sự phát triển của đời sống tinh thần như chính trị, đạo đức, pháp quyền v.v…

Trong quá trình sản xuất vật chất, con người không chỉ cải tạo thế giới tự nhiên và xã hội mà còn tự cải tạo bản thân Nhờ vào những nỗ lực này, con người ngày càng phát triển và hoàn thiện hơn.

Phương thức sản xuất là cách mà con người tạo ra của cải vật chất trong một giai đoạn lịch sử cụ thể, phản ánh mối quan hệ giữa con người với tự nhiên (lực lượng sản xuất) và giữa con người với nhau trong quá trình sản xuất (quan hệ sản xuất) Do đó, phương thức sản xuất là sự kết hợp chặt chẽ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất.

Quy luật quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất

Lực lượng sản xuất là sự kết hợp giữa người lao động và tư liệu sản xuất, chủ yếu là công cụ lao động, nhằm tạo ra sức sản xuất vật chất Mặc dù lực lượng sản xuất do con người tạo ra, nhưng nó mang tính khách quan và thể hiện mối quan hệ giữa con người và tự nhiên Lực lượng sản xuất phản ánh năng lực hoạt động thực tiễn của con người trong quá trình chinh phục và khai thác tài nguyên thiên nhiên.

12 sản phẩm của sự kết hợp giữa lao động sống và lao động quá khứ

Lực lượng sản xuất đóng vai trò quyết định trong sự hình thành và biến đổi của quan hệ sản xuất Sản xuất vật chất luôn biến đổi và phát triển, khởi đầu từ sự tiến bộ của lực lượng sản xuất, đặc biệt là công cụ lao động Lực lượng sản xuất là yếu tố động và cách mạng, luôn vận động trong lịch sử Nó là nội dung của quá trình sản xuất, trong khi quan hệ sản xuất là hình thức xã hội của nó Sự thay đổi trong lực lượng sản xuất sẽ dẫn đến sự thay đổi trong quan hệ sản xuất Mâu thuẫn giữa hai yếu tố này tạo ra đấu tranh giai cấp, đỉnh cao là cách mạng xã hội, nhằm phá vỡ "xiềng xích" để thiết lập quan hệ sản xuất mới phù hợp với lực lượng sản xuất hiện tại.

1.2.3 Biện chứng của cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

1.2.3.1 Khái niệm cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng là tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành kết cấu kinh tế của một xã hội nhất định

Trong một cơ sở hạ tầng bao gồm ba loại quan hệ sản xuất:

Quan hệ sản xuất tàn dư của phương thức sản xuất cũ

Quan hệ sản xuất thống trị

Quan hệ sản xuất là yếu tố quyết định cho phương thức sản xuất trong tương lai Cơ sở hạ tầng của một xã hội được hình thành chủ yếu từ quan hệ sản xuất thống trị Điều này cho thấy rằng, trong một cơ sở hạ tầng đa dạng với nhiều thành phần kinh tế, quan hệ sản xuất thống trị sẽ chi phối và định hình các quan hệ sản xuất khác.

Kiến trúc thượng tầng bao gồm các quan điểm về chính trị, pháp luật, triết học, đạo đức, tôn giáo và nghệ thuật, cùng với các thiết chế như Nhà nước, đảng phái, giáo hội và các đoàn thể Những yếu tố này được xây dựng dựa trên một cơ sở hạ tầng nhất định, tạo thành một hệ thống xã hội đồng bộ và có tính tương tác cao.

1.2.3.2 Quan hệ biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng

Vai trò quyết định của cơ sở hạ tầng đối với kiến trúc thượng tầng

Cơ sở hạ tầng tạo ra một kiến trúc thượng tầng tương ứng, quy định đặc điểm của kiến trúc thượng tầng Điều này thể hiện tính chất xã hội giai cấp của kiến trúc thượng tầng, phản ánh rõ ràng tính chất xã hội giai cấp của cơ sở hạ tầng.

Sự thay đổi cơ sở hạ tầng ảnh hưởng trực tiếp đến kiến trúc thượng tầng Khi cơ sở hạ tầng cũ không còn tồn tại, kiến trúc thượng tầng gắn liền với nó cũng sẽ biến mất Ngược lại, khi cơ sở hạ tầng mới được hình thành, kiến trúc thượng tầng mới sẽ xuất hiện để phù hợp với sự phát triển này.

Sự tác động của kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng theo hai hướng:

Sự tác động phù hợp với quy luật kinh tế – xã hội, với yêu cầu phát triển lực lượng sản xuất thì thúc đẩy sự phát triển xã hội

Sự tác động không phù hợp với quy luật kinh tế – xã hội sẽ cản trở sự phát triển của sản xuất và xã hội Kiến trúc thượng tầng chính trị có vai trò quan trọng trong việc định hướng các hoạt động thực tiễn nhằm tối ưu hóa phát triển kinh tế – xã hội Tồn tại xã hội không chỉ quyết định ý thức xã hội mà còn ảnh hưởng đến tính độc lập tương đối của nó.

Tồn tại xã hội bao gồm tất cả các điều kiện vật chất và mối quan hệ vật chất cần thiết cho sự phát triển của xã hội Các yếu tố cơ bản của điều kiện sinh hoạt vật chất đóng vai trò quan trọng trong việc xác định sự tồn tại và tiến bộ của cộng đồng.

Phương thức sản xuất vật chất Điều kiện tự nhiên

Trong đó, phương thức sản xuất vật chất là yếu tố cơ bản nhất

Ý thức xã hội là khía cạnh tinh thần của đời sống xã hội, phát sinh từ sự tồn tại xã hội và phản ánh sự phát triển của xã hội qua các giai đoạn khác nhau Đây là một hiện tượng phức tạp có thể được phân loại thành nhiều cấp độ khác nhau Trong khi đó, ý thức cá nhân được hình thành từ môi trường và điều kiện sống cụ thể của từng cá nhân, cũng như từ quá trình giáo dục và trải nghiệm trong cuộc sống của họ.

Ý thức xã hội phản ánh tính giai cấp, vì các giai cấp trong xã hội có địa vị, vai trò và điều kiện sống khác nhau Sự khác biệt này ảnh hưởng đến cách mà mỗi giai cấp hình thành nhận thức và quan điểm của mình về thế giới xung quanh.

Vai trò quyết định của tồn tại xã hội đối với ý thức xã hội

Tồn tại xã hội là yếu tố khách quan quyết định sự hình thành và phát triển của ý thức xã hội, bao gồm nghệ thuật, tư tưởng chính trị và pháp quyền Nó không chỉ là nền tảng mà còn ảnh hưởng đến nội dung, tính chất và đặc điểm của ý thức xã hội.

Học thuyết về giá trị thặng dư

Theo VI LêNin, lý luận giá trị thặng dư là nền tảng của học thuyết kinh tế C.Mác Các nhà tư bản mua sức lao động của công nhân kết hợp với tư liệu sản xuất để tạo ra sản phẩm và thu về giá trị thặng dư Mặc dù nhiều nhà kinh tế học coi mọi tư liệu sản xuất là tư bản, nhưng thực tế, tư liệu sản xuất chỉ trở thành tư bản khi nó thuộc sở hữu của các nhà tư bản và được sử dụng để khai thác lao động Tư bản được định nghĩa là giá trị mang lại giá trị thặng dư thông qua việc bóc lột công nhân Giá trị thặng dư là phần giá trị do lao động công nhân tạo ra ngoài sức lao động mà tư bản chiếm giữ Do đó, việc sản xuất giá trị thặng dư tối đa cho nhà tư bản là nội dung cốt lõi của quy luật thặng dư, quyết định sự phát triển của chủ nghĩa tư bản và sự chuyển đổi sang một xã hội cao hơn Nghiên cứu về giá trị thặng dư có vai trò quan trọng trong phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa.

1.3.2 Lý luận về giá trị thặng dư:

1.3.2.1 Sự chuyển hóa tiền tệ thành tư bản:

Tiền tệ xuất hiện như một hệ quả tự nhiên của quá trình sản xuất và trao đổi hàng hóa, đồng thời đóng vai trò là khởi nguồn của tư bản Tuy nhiên, tiền tệ không tự động trở thành tư bản; nó chỉ chuyển hóa thành tư bản trong những điều kiện nhất định, khi được sử dụng để khai thác sức lao động.

Tiền thông thường vận động theo công thức H-T-H (hàng - tiền - hàng), tức là hàng hóa chuyển hóa thành tiền và ngược lại Trong khi đó, tiền với tư cách là tư bản vận động theo công thức T-H-T (tiền - hàng - tiền), cho thấy sự chuyển hóa của tiền thành hàng hóa và sau đó hàng hóa lại chuyển hóa thành tiền Mọi biến động theo công thức T-H-T đều dẫn đến sự chuyển hóa thành tư bản.

Mục đích của lưu thông hàng hoá là để thoả mãn nhu cầu với giá trị sử dụng khác nhau, kết thúc khi người trao đổi có được giá trị sử dụng cần thiết Ngược lại, lưu thông tư bản nhằm tạo ra giá trị và giá trị tăng thêm, do đó, số tiền thu về phải lớn hơn số tiền ứng ra để đảm bảo sự vận động có ý nghĩa Công thức vận động của tư bản là T-H-T’, với T’ = T + ∆T, trong đó giá trị thặng dư (∆T) là phần vượt trội so với số tiền ứng ra Tư bản, vì vậy, không chỉ là giá trị mà còn là giá trị mang lại giá trị thặng dư, cho phép sự vận động của tư bản diễn ra không giới hạn, vì sự gia tăng giá trị là vô tận.

Tiền ứng trước là số tiền được đưa vào lưu thông và khi trở lại tay chủ sở hữu, nó sẽ gia tăng một lượng nhất định Điều này dẫn đến câu hỏi liệu sự gia tăng này có phải do bản chất của lưu thông hay không, từ đó hình thành giá trị thặng dư Các nhà kinh tế học tư sản cho rằng sự gia tăng này là do lưu thông hàng hóa tạo ra, nhưng những quan điểm của họ thiếu căn cứ vững chắc.

Trong quá trình lưu thông hàng hóa, khi giá cả thay đổi ngang nhau, chỉ có hình thái giá trị bị biến đổi, trong khi tổng giá trị và phần giá trị của mỗi bên trong giao dịch vẫn giữ nguyên.

Theo C Mác, trong xã hội tư bản, không có nhà tư bản nào chỉ đóng vai trò là người bán sản phẩm mà không đồng thời là người mua các yếu tố sản xuất Khi một nhà tư bản bán hàng hóa với giá cao hơn giá trị vốn của nó, thì các nhà tư bản khác cũng bán các yếu tố sản xuất với giá cao hơn giá trị Do đó, lợi nhuận từ việc bán hàng hóa sẽ bù đắp cho chi phí cao khi mua vào, dẫn đến việc không thể xác định nguồn gốc của giá trị thặng dư (∆T).

Nếu hàng hóa được bán thấp hơn giá trị thực, lợi nhuận của người mua sẽ tương đương với khoản lỗ của người bán Do đó, sự chênh lệch giá trị (∆T) không thể phát sinh từ việc mua hàng với giá thấp hơn giá trị của nó Như Karl Marx đã chỉ ra, việc một số thương nhân có thể mua rẻ và bán đắt chỉ giải thích được sự giàu có của cá nhân họ, chứ không thể lý giải sự làm giàu của toàn bộ giai cấp tư bản Tổng giá trị trước, trong và sau khi trao đổi không thay đổi; chỉ có phần giá trị trong tay mỗi bên là thay đổi Vì vậy, việc trao đổi các vật ngang giá không tạo ra giá trị thặng dư, và việc trao đổi các vật không ngang giá cũng không sinh ra giá trị thặng dư Lưu thông hàng hóa không tạo ra giá trị mới.

Nếu người có tiền không tham gia vào lưu thông, họ sẽ không thể gia tăng giá trị tài sản của mình Theo C Mác, "tư bản không thể xuất hiện từ lưu thông và cũng không thể xuất hiện ở bên ngoài lưu thông Nó phải xuất hiện trong lưu thông." Điều này thể hiện mâu thuẫn cơ bản trong công thức tư bản, nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tham gia vào lưu thông để tạo ra giá trị.

Sự chuyển hoá của tiền thành tư bản không xuất phát từ bản thân số tiền, mà diễn ra trong quá trình vận động của tư bản Tiền chỉ là phương tiện lưu thông để thực hiện giá cả hàng hoá, do đó giá trị của nó không thay đổi Chuyển hoá này không xảy ra ở giá trị trao đổi hàng hoá, vì trong trao đổi, người ta chỉ trao đổi những vật ngang giá, mà chỉ có thể diễn ra ở giá trị sử dụng của hàng hoá.

Hàng hóa đặc biệt này có giá trị sử dụng mang tính chất tạo ra giá trị, đó chính là sức lao động mà nhà tư bản đã tìm thấy trên thị trường.

Sức lao động bao gồm toàn bộ thể lực và trí lực của con người, được sử dụng trong quá trình tái sản xuất hàng hóa và dịch vụ Đây là yếu tố quan trọng trong việc tạo ra giá trị sử dụng, thể hiện khả năng lao động của mỗi cá nhân.

Không phải bao giờ sức lao động cũng là hàng hoá, mà sức lao động chỉ biến thành hàng hoá trong điều kiện lịch sử nhất định

C Mác đã nhấn mạnh sức lao động chỉ trở thành hàng hoá khi có đủ hai điều kiện sau:

Người lao động cần có quyền tự do về thân thể và làm chủ sức lao động của chính mình, đồng thời có quyền bán sức lao động cho người khác Điều này khẳng định rằng, mỗi cá nhân có sức lao động phải được công nhận quyền sở hữu đối với chính sức lao động đó.

Người lao động phải bị tước bỏ toàn bộ tư liệu sản xuất, trở thành vô sản và buộc phải bán sức lao động của mình, vì không còn lựa chọn nào khác để tồn tại.

Sự đồng thời tồn tại của hai điều kiện này dẫn đến việc sức lao động trở thành hàng hóa, điều này là yếu tố quyết định để chuyển hóa thành tư bản.

Cũng như những hàng hoá khác, hàng hoá sức lao động có hai thuộc tính là giá trị và giá trị sử dụng

Giá trị hàng hoá sức lao động do thời gian lao động cần thiết để sản xuất và tái sản xuất sức lao động

Thời kỳ sau Công Xã Paris đến 1895

Dựa trên kinh nghiệm từ Công xã Pari, C.Mác và Ph.Ănghen đã phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học qua các tác phẩm quan trọng như “Nội chiến ở Pháp” (1871), “Phê phán Cương lĩnh Gôta” (1875), “Chống Đuyrinh” (1878) và “Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước” (1884) Những tác phẩm này không chỉ phản ánh những bài học lịch sử mà còn cung cấp cơ sở lý luận cho việc xây dựng một xã hội công bằng và phát triển.

Trong tác phẩm "Nội chiến ở Pháp", C.Mác nhấn mạnh rằng giai cấp công nhân chỉ cần phá hủy bộ máy quản liêu mà không cần tiêu diệt toàn bộ bộ máy nhà nước tư sản Ông cũng công nhận Công xã Pari là một hình thức nhà nước của giai cấp công nhân, từ đó đưa ra những luận điểm quan trọng về sự chuyển biến của bộ máy nhà nước trong bối cảnh cách mạng.

Tác phẩm "Chống Đuyrinh" (1878) của Ph.Ăngghen là một tác phẩm tổng hợp, bao gồm ba phần chính: Triết học, Kinh tế chính trị và Chủ nghĩa xã hội khoa học Trong đó, phần "Sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học" đã được tách ra thành một tác phẩm riêng, phân tích chi tiết các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội và tiền đề tư tưởng, lý luận trực tiếp cho sự ra đời của chủ nghĩa xã hội khoa học Quá trình luận chứng về sự phát triển của chủ nghĩa xã hội từ không tưởng đến khoa học, Ph.Ăngghen đã kế thừa và chỉ rõ những điểm tích cực, tiến bộ trong học thuyết của các nhà không tưởng vĩ đại.

Vào cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa xã hội khoa học đã hình thành và được đánh giá qua tác phẩm "Làm gì?" của V.I Lenin (1902) Ông nhận định rằng chủ nghĩa xã hội lý luận Đức không thể quên nguồn gốc từ các nhà tư tưởng như Xanh Ximông, Phurie và Ô-oen Mặc dù các học thuyết của họ có tính chất ảo tưởng, nhưng họ vẫn được coi là những trí thức vĩ đại, đã tiên đoán nhiều chân lý mà ngày nay chúng ta đang chứng minh một cách khoa học.

Chủ nghĩa xã hội khoa học là một phần quan trọng trong chủ nghĩa Mác, có nhiệm vụ nghiên cứu các điều kiện lịch sử và bản chất của sự biến đổi xã hội Nhiệm vụ này nhằm giúp giai cấp bị áp bức hiểu rõ hơn về điều kiện và bản chất của sự nghiệp giải phóng của chính họ, thể hiện lý luận của phong trào vô sản.

Trong tác phẩm này, hai tác giả dự đoán về tương lai của chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản, khi tình trạng vô chính phủ trong sản xuất xã hội được thay thế bằng một nền sản xuất có tổ chức và kế hoạch Khi đó, con người sẽ trở thành những người làm chủ thực sự, kiểm soát các điều kiện sống xung quanh Đây là thời điểm mà con người bắt đầu sáng tạo lịch sử của chính mình một cách có ý thức, đánh dấu bước nhảy vọt từ vương quốc tất yếu sang vương quốc tự do.

C.Mác và Ph.Ăngghen, mặc dù có những cống hiến lớn lao về lý luận và thực tiễn, không xem học thuyết của mình là một hệ thống giáo điều bất biến Họ thường nhấn mạnh rằng đó chỉ là những gợi ý cho suy nghĩ và hành động Trong Lời nói đầu cho tác phẩm "Đấu tranh giai cấp ở Pháp" (1848 - 1850), Ph.Ăngghen đã thừa nhận sai lầm trong việc dự đoán các cuộc cách mạng vô sản ở châu Âu, vì lịch sử đã chỉ ra rằng điều kiện kinh tế lúc bấy giờ chưa đủ chín muồi để xóa bỏ chế độ tư bản Điều này cũng là cơ sở để V.I.Lênin và các nhà tư tưởng của giai cấp công nhân tiếp tục phát triển và bổ sung lý luận phù hợp với điều kiện lịch sử mới.

Chủ nghĩa Mác là một học thuyết phát triển, mang tính chất hệ thống mở, luôn được vận dụng và bổ sung để phù hợp với thực tiễn Trong thư gửi nhà văn Mỹ Phlo-ren-xơ Ken-li-vi-sne-vét-xcai-a vào ngày 27 tháng 1 năm 1887, Ph.Ăngghen nhấn mạnh rằng lý luận của ông là lý luận của sự phát triển, không phải là một giáo điều.

37 mà người ta phải học thuộc lòng và lắp lại một cách máy móc” V.I.Lênin sau này, vào năm

Năm 1910, đã nhấn mạnh rằng học thuyết của Mác không phải là một giáo điều cứng nhắc mà là kim chỉ nam cho hành động, như Ph Ăngghen đã khẳng định Việc quên đi điều này sẽ dẫn đến việc biến chủ nghĩa Mác thành phiến diện và phá hủy cơ sở lý luận của nó, đặc biệt là phép biện chứng V.I Lênin cũng nhấn mạnh rằng chủ nghĩa Mác phải phản ánh sự biến đổi của điều kiện xã hội và luôn cần được vận dụng, bổ sung và phát triển Lịch sử hình thành và phát triển của chủ nghĩa Mác chứng minh rằng C Mác và Ph Ăngghen đã trải qua một quá trình chuyển biến và tự bổ sung lý luận, như khái niệm "quan hệ sản xuất" trong "Hệ tư tưởng Đức".

1845 đầu 1846), chỉ mới được C.Mác và Ph.Ăngghen sử dụng như là “quan hệ giao tiếp” Đến

Trong tác phẩm “Sự khốn cùng của triết học” (1847), C Mác đã đề cập đến khái niệm “quan hệ xã hội”, và đến “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản” thì khái niệm này đã được phát triển thành “quan hệ sản xuất” Bên cạnh đó, khái niệm “chuyên chính vô sản” cũng được Mác nhấn mạnh như một yếu tố quan trọng trong việc xây dựng xã hội mới.

C.Mác đã trình bày khái niệm “chuyên chính vô sản” từ những mầm mống ban đầu, nhấn mạnh rằng giai cấp công nhân cần tổ chức liên hiệp để loại bỏ giai cấp tư sản Trong “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, ông khẳng định rằng nhà nước là công cụ bạo lực nhằm thiết lập chính quyền Đặc biệt, vào ngày 5 tháng 3 năm 1852, trong “Thư gửi Vâyđơmayơ”, C.Mác lần đầu tiên sử dụng thuật ngữ “chuyên chính vô sản”.

V.I.Lênin đã vận dụng, bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác trong điều kiện khoa học về thế giới vi mô phát triển như vũ bão; sự chuyển biến của chủ nghĩa tư bản sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, nhưng bản chất ăn bám, bóc lột của nó không đổi; sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực ở nước Nga Xô viết đặt ra nhiều vấn đề mới chưa có tiền lệ trong lịch sử Trong bối cảnh đó, V.I.Lênin đã vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và đã bổ sung, phát triển nhiều luận điểm lý luận của chủ nghĩa Mác về triết học; kinh tế chính trị và chủ nghĩa cộng sản khoa học V.I.Lênin đã khẳng định: "Chúng ta không hề coi lý luận của Mác như là một cái gì đã xong xuôi hẳn và bất khả xâm phạm; trái lại, chúng ta tin rằng lý luận đó chỉ đặt nền móng cho môn khoa học mà những người xã hội chủ nghĩa cần phải phát

ĐÁNH GIÁ VỀ GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN

Ngày đăng: 13/07/2022, 12:47

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ đạo biên soạn, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Chủ nghĩa xã hội khoa học
Tác giả: Bộ Giáo dục và Đào tạo
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia
2. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Lý luận chính trị, Hà Nội,2018 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Cao cấp lý luận chính trị, Chủ nghĩa xã hội khoa học
Tác giả: Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb Lý luận chính trị
Năm: 2018
3. GS Đỗ Tư, PTS Trịnh Quốc Tuấn, PTS Nguyễn Đức Bách (đồng chủ biên), Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa , Nxb CTQG, H.1994 (tập 1 &2) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lược khảo lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa
Tác giả: GS Đỗ Tư, PTS Trịnh Quốc Tuấn, PTS Nguyễn Đức Bách
Nhà XB: Nxb CTQG
Năm: 1994
7. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.156 -166 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nxb Chính trị quốc gia
Năm: 2016
8. C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.36, Nxb Cshính trị quốc gia, Hà Nội 9. C.Mác và Ph.Ăngghen (1995), Tuyển tập, tập 4, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr.626 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Toàn tập
Tác giả: C.Mác, Ph.Ăngghen
Nhà XB: Nxb Cshính trị quốc gia
13. Tiểu sử Các Mác, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan chủ quản: Ban Tuyên giáo Trung ương, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/c-mac/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/tieu-su-cac-mac-149 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu sử Các Mác
Nhà XB: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
14. Tiểu sử Phriđich Ăngghen, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, cơ quan chủ quản: Ban Tuyên giáo Trung ương, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/c-mac-angghen-lenin-ho-chi-minh/ph-angghen/tieu-su-cuoc-doi-va-su-nghiep/tieu-su-phridorich-angghen-153 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiểu sử Phriđich Ăngghen
Nhà XB: Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam
4. Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H, 2011 (cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) Khác
10. C.Mác và Ph.Ăngghen (1981), Tuyển tập, tập 2, Nxb. Sự Thật, Hà Nội, tr.172 - 173 11. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 11, Nxb. Tiến bộ Mát-xcơ-va, tr.281 Khác
12. Hồ Chí Minh (2011): Toàn tập, t.12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.30 Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w