1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.

120 7 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Các Giải Pháp Phát Triển Ngành Công Nghiệp Hỗ Trợ Cho Ngành Ô Tô Việt Nam
Tác giả Nghiêm Thanh Hải
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Thị Việt Hoa
Trường học Trường Đại Học Ngoại Thương
Chuyên ngành Quản Lý Kinh Tế
Thể loại Luận Văn Thạc Sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 120
Dung lượng 2,13 MB

Cấu trúc

  • LỜI CAM ĐOAN

  • DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

  • DANH MỤC BẢNG BIỂU, HÌNH VẼ

  • LỜI MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN MỘT SỐ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ

    • 1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

      • 1.1.1. Khái niệm CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

      • 1.1.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô

      • 1.1.3. Vai trò của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô đối với phát triển kinh tế - xã hội đất nước

    • 1.2. Phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

      • 1.2.1. Khái niệm phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

      • 1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

    • 1.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của một quốc gia

      • 1.3.1. Yếu tố bên ngoài quốc gia

      • 1.3.2. Yếu tố bên trong quốc gia

    • 1.4. Kinh nghiệm phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của một số nước

      • 1.4.1. Kinh nghiệm của Thái Lan

      • 1.4.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc

      • 1.4.3. Bài học rút ra

  • CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ Ở VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 2016 - 2020

    • 2.1. Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.1. Nhu cầu thị trường ô tô

      • 2.1.2. Định hướng chiến lược phát triển và chiến lược mua sắm của các hãng ô tô lớn trên thế giới

      • 2.1.3. Đặc điểm của các hợp phần chi tiết, trang thiết bị linh phụ kiện ô tô

      • 2.1.4. Năng lực phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của quốc gia

      • 2.1.5. Lợi thế so sánh của quốc gia

      • 2.1.6. Chính sách phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của nhà nước

    • 2.2. Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô giai đoạn 2016 – 2020

      • 2.2.1. Số lượng, tăng trưởng và phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.2.2. Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.3. Quy mô giá trị sản xuất của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.4. Tình hình thương mại quốc tế của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.5. Tình hình nội địa hóa sản xuất của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.6. Tính đa dạng sản phẩm của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.7. Tỷ trọng phân bổ các doanh nghiệp trong ngành CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

      • 2.1.8. Năng lực phát triển của các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam

    • 2.3. Đánh giá về phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

      • 2.2.1. Thành tựu và nguyên nhân

      • 2.2.2. Hạn chế và nguyên nhân

    • 3.1. Quan điểm, cơ hội và thách thức phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam trong bối cảnh mới

    • 3.2. Các giải pháp phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đến năm 2030

      • 3.2.1. Giải pháp từ phía Nhà nước

      • 3.2.2. Giải pháp từ phía các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

      • 3.2.3. Giải pháp từ phía Hiệp hội ô tô và Hiệp hội CNHT Việt Nam

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN MỘT SỐ NƯỚC VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ CHO NGÀNH CÔNG NGHIỆP Ô TÔ

Khái niệm, đặc điểm và vai trò của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

1.1.1 Khái niệm CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Thuật ngữ CNHT (Công nghiệp hỗ trợ) ra đời tại Nhật Bản vào đầu thập niên 1980 và nhanh chóng lan rộng sang nhiều quốc gia, đặc biệt là các nước công nghiệp hóa mới ở châu Á như Hàn Quốc, Đài Loan, Malaixia và Thái Lan CNHT thường được định nghĩa theo nhiều cách khác nhau, phụ thuộc vào phạm vi, quan điểm, mục đích sử dụng và trình độ phát triển của từng quốc gia.

Nhiều nhà nghiên cứu như Ohno (2007) và Hà Thị Hương Lan (2014) đã tổng hợp các định nghĩa về công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Định nghĩa đầu tiên được đưa ra bởi MITI Nhật Bản vào năm 1985, mô tả các doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất trang thiết bị và linh phụ kiện Hiện nay, Nhật Bản công nhận CNHT là một nhóm các hoạt động công nghiệp cung cấp đầu vào trung gian cho các ngành công nghiệp hạ nguồn Tại Mỹ, CNHT được hiểu là các ngành cung cấp nguyên vật liệu và linh kiện, hỗ trợ quá trình sản xuất để lắp ráp sản phẩm công nghiệp cuối cùng Ở châu Âu, CNHT được gọi là các ngành cung ứng, trong khi Thái Lan định nghĩa CNHT là các nhà sản xuất linh phụ kiện cho ô tô và điện - điện tử, cũng như các ngành cung cấp máy móc, thiết bị và dịch vụ hỗ trợ sản xuất.

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) được hiểu là các ngành sản xuất sản phẩm trung gian, đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nguyên liệu và linh kiện cho ngành công nghiệp lắp ráp sản phẩm cuối cùng Theo Ohno (2007), CNHT không phải là một ngành kinh tế cụ thể mà bao gồm nhiều lĩnh vực sản xuất khác nhau Tại Việt Nam, thuật ngữ CNHT xuất hiện lần đầu vào năm 2003 trong “Sáng kiến chung Việt Nam - Nhật Bản” và đã được nhắc đến trong nhiều văn bản của Chính phủ, tuy nhiên, định nghĩa chưa được rõ ràng Đến năm 2007, Bộ Công nghiệp đã định nghĩa CNHT là hệ thống các cơ sở sản xuất và công nghệ cung cấp nguyên vật liệu, linh phụ kiện phục vụ cho lắp ráp sản phẩm công nghiệp cuối cùng Hiện nay, định nghĩa này được áp dụng theo Quyết định số 12/2011/QĐ-TTg, trong đó CNHT được xác định là các ngành sản xuất vật liệu, linh kiện, phụ tùng để cung cấp cho ngành sản xuất và lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam bao gồm hệ thống sản xuất và công nghệ cung cấp vật liệu, phụ tùng và linh kiện cần thiết Ô tô, với cấu trúc phức tạp, là sản phẩm thiết yếu trong xã hội hiện đại, phục vụ nhu cầu di chuyển và vận chuyển hàng hóa Để sản xuất một chiếc ô tô, cần từ 20.000 đến 30.000 loại chi tiết khác nhau, và con số này có thể tăng lên nhờ những tiến bộ trong khoa học công nghệ Do đó, khi thảo luận về CNHT cho ngành ô tô, cần chú ý đến sự phát triển và đa dạng của các linh kiện.

Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô bao gồm nhiều doanh nghiệp từ các lĩnh vực khác nhau, chuyên sản xuất chi tiết, linh kiện và cung cấp dịch vụ, nhằm cung cấp các yếu tố đầu vào trung gian cho quá trình sản xuất và lắp ráp ô tô hoàn chỉnh Điều này cho thấy rằng các doanh nghiệp trong CNHT ô tô không chỉ giới hạn trong ngành ô tô mà còn bao gồm các lĩnh vực như cơ khí, hóa chất, nhựa, và điện- điện tử, tạo thành một mạng lưới hỗ trợ đa dạng cho ngành công nghiệp ô tô.

CNHT trong ngành công nghiệp ô tô bao gồm toàn bộ khả năng của các cơ sở sản xuất cung cấp linh kiện và dịch vụ Tuy nhiên, việc phân tách CNHT cho ngành ô tô với CNHT cho các ngành khác là rất khó khăn, bởi nhiều doanh nghiệp sản xuất chi tiết, linh kiện và phụ tùng phục vụ cho nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó công nghiệp ô tô chỉ là một trong số đó.

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam bao gồm cả doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, chuyên sản xuất và cung cấp chi tiết, linh kiện Để phát triển CNHT cho ngành ô tô, cần khai thác hiệu quả các nguồn lực đa dạng, bao gồm cả nguồn lực nội địa và quốc tế.

1.1.2 Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô

Ngoài những điểm chung của CNHT, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô có những đặc điểm riêng biệt

Thứ nhất, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô vừa mang tính cơ bản vừa mang tính hiện đại và đa dạng

Cấu trúc ô tô đã trải qua nhiều thay đổi từ khi ra đời, tuy nhiên, bên cạnh những linh kiện cơ bản, ngày càng xuất hiện nhiều chi tiết mới đại diện cho công nghệ hiện đại như điện tử và kỹ thuật số Sự phức tạp trong cấu trúc ô tô, với nhiều chi tiết và linh kiện, cùng với yêu cầu cao về công nghệ, đặt ra thách thức cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô Điều này đòi hỏi sự đa dạng trong sản xuất, kết hợp giữa các ngành cơ bản và các ngành công nghệ tiên tiến.

Thứ hai, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô có tính đa cấp

Ô tô được cấu thành từ nhiều chi tiết và linh kiện khác nhau, và hiện nay không có hãng ô tô nào sản xuất toàn bộ các bộ phận cần thiết để lắp ráp một chiếc ô tô hoàn chỉnh Thay vào đó, các bộ phận này thường được sản xuất bởi nhiều doanh nghiệp khác nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô.

Các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô đóng vai trò quan trọng và nằm ở nhiều vị trí khác nhau Ở đỉnh chuỗi là các công ty lắp ráp ô tô, chủ yếu là các hãng lớn toàn cầu, có nhiệm vụ lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh để cung cấp cho thị trường Dưới họ là các doanh nghiệp CNHT, cung cấp những yêu cầu cơ bản để tạo ra các chi tiết đặc trưng cho sản phẩm Các doanh nghiệp này thường là những công ty lớn tại các quốc gia sản xuất ô tô hàng đầu, chuyên sản xuất linh kiện với công nghệ cao và độ chính xác cao Các cấp thấp hơn trong chuỗi bao gồm những doanh nghiệp CNHT sản xuất linh kiện để bán ra thị trường hoặc tham gia vào các hợp đồng cung cấp dài hạn cho các doanh nghiệp ở cấp cao hơn.

Trong chuỗi sản xuất ô tô, các doanh nghiệp ở cấp thấp thường có quy mô sản xuất nhỏ hơn, tập trung vào chuyên môn hóa cao và sản xuất ít chủng loại sản phẩm, thường chỉ chuyên sâu vào một số chi tiết linh kiện cụ thể.

Thứ ba, quy trình sản xuất ô tô được tổ chức theo hệ thống liên kết chặt chẽ giữa các công đoạn, khu vực và ngành công nghiệp Để hoàn thiện một chiếc ô tô, quá trình sản xuất bao gồm nhiều bước từ cung ứng nguyên vật liệu, sản xuất các sản phẩm trung gian đến lắp ráp sản phẩm cuối cùng Mỗi công đoạn không chỉ tạo ra giá trị gia tăng mà còn có mức độ đóng góp khác nhau vào tổng giá trị của sản phẩm.

Ngành công nghiệp ô tô phụ thuộc vào các doanh nghiệp CNHT trong quá trình sản xuất liên kết chặt chẽ từ đầu vào đến đầu ra Mỗi doanh nghiệp là một mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng, nơi họ mua các chi tiết và linh kiện, đồng thời kích thích sự phát triển của các nhà cung cấp Sự liên kết này tạo ra môi trường cạnh tranh thuận lợi cho các doanh nghiệp CNHT, đồng thời thúc đẩy sự phát triển của họ Đặc điểm liên kết theo quy trình sản xuất cũng dẫn đến sự hình thành liên kết khu vực nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Mặc dù sự phát triển hiện đại giúp giảm bớt phụ thuộc về mặt địa lý, việc tập trung các doanh nghiệp CNHT trong cùng một khu vực vẫn mang lại lợi ích lớn về chi phí vận chuyển và tối ưu hóa hoạt động logistics.

Ngành công nghiệp ô tô cần tận dụng lợi thế về không gian và mạng lưới sản xuất để phát triển hiệu quả Đầu tiên, mặc dù hệ thống công nghiệp hỗ trợ (CNHT) có thể tự phát triển trong những điều kiện nhất định như thị trường lớn, nhưng vai trò của chính sách nhà nước là rất quan trọng trong việc thúc đẩy toàn hệ thống Thứ hai, chính sách phát triển CNHT cần phải xem xét đặc điểm của từng ngành, lựa chọn khâu, chi tiết, linh kiện sản xuất để phân bổ cơ sở sản xuất hợp lý Cuối cùng, với sự phát triển của mạng lưới sản xuất toàn cầu, CNHT của mỗi quốc gia phải cạnh tranh trong một thị trường ngày càng mở rộng, đòi hỏi cần có chính sách và tầm nhìn dài hạn, cũng như lựa chọn các hãng sản xuất ô tô lớn nước ngoài làm đối tác chiến lược để xây dựng và phát triển CNHT hiệu quả.

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô không chỉ là một lĩnh vực đơn lẻ mà là sự kết hợp đa dạng của nhiều công nghệ và trình độ kỹ thuật khác nhau, bao gồm cơ khí, điện, điện tử, cao su và chất dẻo Sự khác biệt trong công nghệ sản xuất dẫn đến quy trình sản xuất và nguồn nguyên liệu đa dạng, tạo ra giá trị gia tăng không đồng đều Các linh kiện yêu cầu công nghệ sản xuất đơn giản thường do doanh nghiệp nhỏ cung cấp, trong khi các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao thường thuộc về các doanh nghiệp lớn với trình độ công nghệ tiên tiến Điều này cho thấy rằng mỗi quốc gia cần xác định chiến lược phát triển CNHT phù hợp với trình độ phát triển của mình để tham gia hiệu quả vào chuỗi cung ứng toàn cầu trong ngành ô tô.

Thứ năm, CNHT cho ngành công nghiệp ô tô thường thu hút số lượng lớn các doanh nghiệp, nhất là các DNNVV

Phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

1.2.1 Khái niệm phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô không chỉ bao gồm sự gia tăng về số lượng mà còn đòi hỏi sự cải tiến về chất lượng của các bộ phận cấu thành Điều này có nghĩa là để đạt được sự tiến bộ bền vững, cần phải tập trung vào cả việc mở rộng quy mô sản xuất lẫn nâng cao tiêu chuẩn chất lượng trong các sản phẩm và dịch vụ liên quan.

Trong lịch sử, ngành công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ô tô trên toàn cầu đã phát triển mạnh mẽ, gắn liền với sự ra đời và lớn mạnh của các doanh nghiệp trong lĩnh vực này tại các quốc gia tư bản phát triển Sự phát triển này chủ yếu được điều chỉnh bởi nhu cầu của thị trường.

Nhiều quốc gia đang đặt ra mục tiêu phát triển ngành công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ (CNHT) nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội Để đạt được điều này, các quốc gia xây dựng chiến lược và thực thi các chính sách hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô, trong đó vai trò của nhà nước là rất quan trọng Nhà nước không chỉ xác định các mục tiêu quốc gia cho ngành công nghiệp ô tô và CNHT mà còn sử dụng các công cụ để điều tiết và thúc đẩy hoạt động của doanh nghiệp trong lĩnh vực này Tại Việt Nam, sự phát triển của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô được hiểu theo cách thức này.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô được xem xét qua hai khía cạnh chính: phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu.

Phát triển theo chiều rộng trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô có nghĩa là tăng cường số lượng và quy mô sản xuất của các doanh nghiệp, đồng thời mở rộng đa dạng các loại chi tiết và linh kiện cung ứng cho ngành sản xuất ô tô.

Phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô theo chiều sâu là yếu tố then chốt để nâng cao năng lực và chất lượng sản phẩm Điều này bao gồm việc cải thiện năng lực sản xuất thông qua công nghệ tiên tiến, nguồn nhân lực chất lượng cao, quản lý hiệu quả và khả năng tiếp cận thị trường, từ đó giảm chi phí sản xuất và đáp ứng tốt hơn các tiêu chuẩn của doanh nghiệp lắp ráp Bên cạnh đó, việc tăng cường khả năng liên kết và hợp tác trong chuỗi cung ứng toàn cầu sẽ nâng cao vị thế của các doanh nghiệp CNHT trong mạng sản xuất ô tô.

Phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo chiều rộng và chiều sâu có mối quan hệ mật thiết với nhau

1.2.2 Các tiêu chí đánh giá sự phát triển của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Để đánh giá sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong ngành công nghiệp ô tô, cần sử dụng hệ thống các nhóm tiêu chí đa dạng Mỗi nhóm tiêu chí này có thể được phân nhỏ hơn để phân tích sự chuyển biến về cả lượng và chất Các tiêu chí về lượng thể hiện qua quy mô, số lượng và giá trị tuyệt đối, trong khi các tiêu chí về chất liên quan đến cơ cấu, chuyển dịch cơ cấu và hiệu quả hoạt động.

Về cơ bản, để đánh giá sự phát triển của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, luận văn sử dụng hệ thống các tiêu chí sau đây:

 Số lượng, tăng trưởng và phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô là chỉ tiêu quan trọng phản ánh quy mô của ngành Các chỉ tiêu tăng trưởng thể hiện tốc độ thay đổi và mở rộng của CNHT theo thời gian Ngoài ra, các chỉ tiêu phân bố cung cấp thông tin về sự phân bổ số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực này qua không gian và thời gian, giúp đánh giá hiệu quả phát triển của ngành công nghiệp ô tô.

Các tiêu chí đánh giá được xác định dựa trên hình thức sở hữu doanh nghiệp và loại hình sản xuất sản phẩm, bao gồm chi tiết và linh kiện Số lượng doanh nghiệp cung cấp cùng loại chi tiết thiết bị cho thấy sự phát triển theo chiều ngang, trong khi số lượng doanh nghiệp tham gia vào nhiều cấp trong mạng lưới sản xuất hoặc chuỗi cung ứng thể hiện mối liên kết kinh tế theo chiều dọc.

Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh sự phát triển theo chiều sâu của ngành này Trong khi các chỉ tiêu về lượng và tăng trưởng cho thấy sự phát triển theo chiều rộng, thì các chỉ tiêu về cơ cấu doanh nghiệp cung cấp thông tin chi tiết về sự tiến bộ và sự chuyển biến trong CNHT cho ngành ô tô.

Các chỉ tiêu về cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu được phân tích dựa trên quy mô doanh nghiệp, hình thức sở hữu và loại hình sản xuất sản phẩm Bên cạnh đó, cơ cấu và sự chuyển dịch của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô cũng được xem xét theo các vùng lãnh thổ khác nhau.

 Quy mô giá trị sản xuất của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Nhóm chỉ tiêu giá trị sản xuất đóng vai trò quan trọng trong việc đánh giá năng lực sản xuất của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô so với các ngành CNHT khác trong nền kinh tế Các chỉ tiêu này được phân tích từ cả hai khía cạnh số lượng và chất lượng, giúp cung cấp cái nhìn tổng quan về hiệu quả và tiềm năng phát triển của ngành.

Các tiêu chí về lượng được thể hiện qua quy mô giá trị gia tăng hàng năm, trong khi các chỉ tiêu về chất phản ánh tốc độ tăng trưởng và sự chuyển dịch cơ cấu nội bộ của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô Những chỉ tiêu này được phân loại dựa trên quy mô doanh nghiệp, hình thức sở hữu, loại hình sản xuất sản phẩm, và theo từng vùng lãnh thổ.

 Tình hình thương mại quốc tế của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Nhóm chỉ tiêu này phản ánh mức độ hội nhập của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô vào thị trường quốc tế, với khả năng khai thác từ cả hai chiều xuất khẩu và nhập khẩu Các chỉ tiêu này được phân tích dựa trên cả khía cạnh lượng và chất, tương tự như nhóm chỉ tiêu giá trị gia tăng.

Tình hình nội địa hóa sản xuất của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô là chỉ tiêu quan trọng để đánh giá mức độ phát triển của ngành này Chỉ tiêu này phản ánh sự thay đổi về chất và năng lực huy động nguồn lực sản phẩm trong nước trong quá trình sản xuất Khi CNHT phát triển đến mức các doanh nghiệp có thể tham gia vào mọi công đoạn sản xuất ô tô, tỷ lệ nội địa hóa đạt 100%, tức là quốc gia đó có khả năng tự sản xuất tất cả các thiết bị, linh kiện, phụ tùng cần thiết để lắp ráp ô tô hoàn chỉnh.

 Tính đa dạng sản phẩm của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của một quốc gia

1.3.1 Yếu tố bên ngoài quốc gia

Nhu cầu thị trường ô tô ngày càng tăng, đặc biệt ở các nước có nền kinh tế phát triển cao, do ô tô đáp ứng nhu cầu thiết yếu về di chuyển và giao thương Quá trình toàn cầu hóa đã tạo ra một thị trường ô tô tiềm năng, thu hút các tập đoàn ô tô lớn chuyển dịch đầu tư sang các nước đang phát triển như Trung Quốc, Ấn Độ và Indonesia Sự bùng nổ ngành công nghiệp ô tô tại các quốc gia này mở ra cơ hội lớn cho sự phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Để lắp ráp một lượng lớn ô tô, nhu cầu về linh kiện và phụ tùng gia tăng, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp CNHT Tuy nhiên, do trình độ công nghiệp còn thấp, các nước đang phát triển cần thu hút đầu tư từ nước ngoài để nâng cao năng lực sản xuất Lợi ích từ chi phí lao động rẻ và chính sách thuận lợi của chính phủ đã tạo ra làn sóng đầu tư vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô tại các quốc gia này.

 Định hướng chiến lược phát triển và chiến lược mua sắm của các hãng ô tô lớn trên thế giới

Toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế đã làm thay đổi cấu trúc tổ chức sản xuất, thúc đẩy phân công lao động quốc tế và hình thành mạng sản xuất toàn cầu Hiện nay, các nước phát triển thường có những doanh nghiệp hàng đầu trong mạng sản xuất ô tô toàn cầu, với hàng ngàn doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ phân tán khắp nơi trên thế giới.

Trong ngành công nghiệp ô tô hiện nay, không một công ty lớn nào, kể cả Toyota hay Honda, có thể sản xuất sản phẩm theo quy trình khép kín như trước Sự cạnh tranh quốc tế buộc các công ty phải giảm chi phí sản xuất và nâng cao sự hài lòng của khách hàng Mỗi chiếc ô tô được sản xuất thường có linh kiện từ nhiều quốc gia khác nhau Các nhà lắp ráp ô tô lớn như Toyota cần hơn 1600 nhà cung ứng, trong khi Mercedes-Benz cần tới 1400 nhà cung ứng để đảm bảo chất lượng sản phẩm.

Sự cạnh tranh hiện nay đã chuyển từ cấp độ doanh nghiệp sang cấp độ các mạng sản xuất, đòi hỏi các công ty phải đáp ứng yêu cầu cao về chất lượng và giá cả từ khách hàng Ngay cả những công ty dẫn đầu thị trường cũng gặp khó khăn trong việc phát triển năng lực nội bộ để đối phó với áp lực cạnh tranh Do đó, thành công trong cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực từ bên ngoài, bao gồm tất cả các khâu trong quá trình sản xuất từ đầu vào đến lắp ráp sản phẩm Các công ty hàng đầu cần lựa chọn các doanh nghiệp bên ngoài để hình thành mạng sản xuất toàn cầu, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của mình.

Các hãng hàng đầu thường đưa ra sự lựa chọn kỹ lưỡng về nhà cung ứng nguyên liệu, chi tiết và linh kiện Họ cũng chú trọng đến việc cung cấp thông tin, hỗ trợ kỹ thuật, dịch vụ và marketing để đảm bảo chất lượng và sự hài lòng của khách hàng.

 Đặc điểm của các hợp phần chi tiết, trang thiết bị linh phụ kiện ô tô

Sự đa dạng trong chi tiết và linh kiện ô tô thể hiện qua yêu cầu công nghệ chế tác khác nhau, từ công nghệ cao đến công nghệ vừa phải Điều này tạo ra sự phân tầng tự nhiên trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô trên toàn cầu Các linh kiện công nghệ cao thường do doanh nghiệp nước ngoài nắm giữ và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp CNHT trong nước khi đủ khả năng Ngược lại, các chi tiết không yêu cầu công nghệ cao thường do doanh nghiệp CNHT nội địa đảm nhiệm Ở các cấp thấp hơn trong mạng sản xuất ô tô, doanh nghiệp chuyên môn hóa sâu hơn và quy mô sản xuất nhỏ hơn Do đó, yêu cầu về trình độ công nghệ chế tác có ảnh hưởng lớn đến sự phân công chuyên môn hóa và vị trí của các doanh nghiệp CNHT trong mạng sản xuất ô tô toàn cầu.

1.3.2 Yếu tố bên trong quốc gia

 Năng lực phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của quốc gia

Năng lực phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của một quốc gia phụ thuộc trước hết vào các yếu tố sau:

Số lượng và khả năng gia nhập thị trường của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong ngành công nghiệp ô tô là yếu tố quan trọng Hệ thống CNHT hiện tại bao gồm cả doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp địa phương, tham gia vào mạng sản xuất của các hãng ô tô lớn Để duy trì uy tín và thương hiệu, các hãng này chọn lọc nhà cung ứng dựa trên tiêu chuẩn chất lượng nghiêm ngặt, sự ổn định và khả năng giao hàng đúng hạn Năng lực của các doanh nghiệp CNHT phụ thuộc vào sự phát triển của họ, bao gồm số lượng doanh nghiệp đủ khả năng cung cấp sản phẩm và dịch vụ với chất lượng cao Các tiêu chí về trình độ quản lý và công nghệ cũng được đặt ra, ảnh hưởng đến quyết định hợp tác của các doanh nghiệp ô tô lớn nước ngoài với các đối tác trong nước.

Năng lực công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong ngành công nghiệp ô tô đóng vai trò quyết định trong việc tiếp thu và phát triển công nghệ Ô tô là một trong những ngành đòi hỏi công nghệ cao, do đó, khả năng của các doanh nghiệp CNHT trong nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc tham gia vào mạng lưới sản xuất toàn cầu của các hãng ô tô lớn.

Hiện nay, sự phát triển của các doanh nghiệp cung cấp nguyên vật liệu như cao su, nhựa đang có những bước tiến quan trọng, đồng thời, ngành công nghiệp cơ khí chế tạo cũng đang trên đà phát triển Tuy nhiên, một quốc gia có ngành công nghiệp cơ khí chế tạo phát triển ở mức độ thấp sẽ gặp nhiều khó khăn trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô Ngược lại, sự phát triển mạnh mẽ của ngành cơ khí chế tạo chính là tiền đề quan trọng để thúc đẩy CNHT cho ngành công nghiệp ô tô, tạo ra sự kết nối chặt chẽ giữa hai lĩnh vực này.

- Năng lực phát triển, mở rộng các mối quan hệ liên kết của các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

Năng lực phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô phụ thuộc vào việc xây dựng và lựa chọn chiến lược phát triển hiệu quả Điều này đặc biệt liên quan đến khả năng nắm bắt cơ hội, dự báo thị trường, thực hiện các hoạt động marketing, và năng lực quản lý điều hành của doanh nghiệp.

Yếu tố này có ảnh hưởng trực tiếp đến chuỗi cung ứng cho ngành công nghiệp ô tô của quốc gia, đóng vai trò quyết định trong sự thành công hay thất bại của quá trình phát triển ngành công nghiệp này.

 Lợi thế so sánh của quốc gia

Mỗi quốc gia và khu vực đều có những lợi thế so sánh riêng, việc lựa chọn và khai thác đúng lợi thế này là rất quan trọng để định hướng chiến lược phát triển cho các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Lợi thế so sánh về nguồn nhân lực rẻ, tài nguyên sẵn có, chi phí khai thác thấp, vị trí địa lý, thị trường tại chỗ và tối ưu hóa quy trình sản xuất và công nghệ là những cơ sở quan trọng để các doanh nghiệp nước ngoài tham gia liên kết kinh tế, chuyển giao công nghệ và phát triển mạng lưới các doanh nghiệp CNHT Việc tìm kiếm những khu vực có chi phí sản xuất thấp là một trong những động cơ quan trọng nhất của các công ty nước ngoài khi quyết định đầu tư vào một quốc gia hoặc khu vực nào đó.

Mặc dù có lợi thế so sánh, việc phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô trong nước không chỉ phụ thuộc vào điều này Sự thành công trong việc khai thác lợi thế đó còn dựa vào khả năng dự báo xu hướng phát triển, sự chuyển dịch cơ cấu đầu tư của các hãng ô tô lớn trên thế giới, cùng với khả năng nắm bắt cơ hội phát triển của các doanh nghiệp nội địa.

Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô của nhà nước đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành và phát triển một nền CNHT mạnh, đặc biệt ở các nước có trình độ phát triển thấp Việc xác định chiến lược cơ cấu công nghiệp, quy hoạch phát triển ngành ô tô, cùng với các chính sách như hỗ trợ tài chính, tín dụng, thuế, thu hút đầu tư nước ngoài, và phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là những yếu tố then chốt Những chính sách này không chỉ tạo điều kiện cho sự phát triển của CNHT mà còn thúc đẩy liên kết kinh tế, hỗ trợ thông tin, nội địa hóa và phát triển thị trường, từ đó góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành công nghiệp ô tô.

Lịch sử phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô toàn cầu cho thấy nhiều phương thức phát triển khác nhau Hiện nay, hầu hết các quốc gia đều lựa chọn áp dụng hệ thống chính sách và định hướng chiến lược của nhà nước nhằm thúc đẩy CNHT cho ngành ô tô Các chính sách này có thể bao gồm việc hỗ trợ và tạo điều kiện cho các lĩnh vực ưu tiên, hoặc yêu cầu thực hiện các quy định nghiêm ngặt để đảm bảo sự phát triển bền vững của CNHT trong ngành công nghiệp ô tô.

Kinh nghiệm phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của một số nước

1.4.1 Kinh nghiệm của Thái Lan

Thái Lan là quốc gia tiên phong trong phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) tại khu vực ASEAN, với sự khởi đầu từ đầu những năm 1990 Hiện nay, đất nước này sở hữu một ngành công nghiệp ô tô phát triển mạnh mẽ, cùng với một mạng lưới CNHT vững chắc phục vụ cho ngành ô tô (Techakanont, 2011) Quá trình phát triển chính sách CNHT cho ngành công nghiệp ô tô tại Thái Lan có thể được phân chia thành bốn giai đoạn rõ ràng.

Giai đoạn từ 1960-1970, Thái Lan đã xác định ngành công nghiệp ô tô là một lĩnh vực kinh tế trọng điểm, với mục tiêu phát triển mạnh mẽ Mặc dù chính phủ đã nỗ lực tập trung nguồn lực để xây dựng ngành này, nhưng vào năm 1970, năng lực sản xuất và công nghệ của ngành ô tô vẫn còn hạn chế, với nhiều doanh nghiệp nhỏ và vừa có công nghệ lạc hậu Để cải thiện tình hình, chính phủ đã triển khai chính sách thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt từ các hãng ô tô lớn trên thế giới.

Giai đoạn 2 (1971 – 1986) đánh dấu sự phát triển nền tảng cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô tại Thái Lan, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong các giai đoạn tiếp theo.

Vào năm 1980, với sự hỗ trợ từ Nhật Bản, chính phủ Thái Lan đã triển khai một chiến lược toàn diện nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô, tập trung vào việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và giảm dần bảo hộ thị trường nội địa thông qua các quy định về tỷ lệ nội địa hóa Chính sách nội địa hóa được ban hành vào năm 1972 yêu cầu các nhà sản xuất ô tô nước ngoài phải mua linh kiện sản xuất tại Thái Lan, nhằm nâng cao năng lực sản xuất trong nước Tuy nhiên, do phần lớn doanh nghiệp Thái Lan lúc bấy giờ là các DNNVV với công nghệ thấp và quản lý yếu, họ không đủ khả năng cung cấp linh kiện đạt tiêu chuẩn cho các hãng ô tô quốc tế Do đó, nhiều doanh nghiệp FDI vẫn phải nhập khẩu linh kiện từ nước ngoài hoặc phụ thuộc vào các nhà sản xuất vệ tinh Để thích ứng, Thái Lan đã điều chỉnh chính sách, cho phép các công ty lắp ráp ô tô lựa chọn mua linh kiện sản xuất tại địa phương.

Giai đoạn 3 từ 1987-1999 đánh dấu sự tăng trưởng nhanh chóng của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan, nhờ vào việc tận dụng nguồn lực ngoại và phát triển hài hòa với ngành công nghiệp hỗ trợ Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu gay gắt và yêu cầu cắt giảm chi phí sản xuất, Thái Lan đã điều chỉnh chiến lược để thu hút các hãng ô tô lớn từ Nhật Bản, Mỹ và châu Âu thông qua các chính sách ưu đãi và xây dựng môi trường đầu tư đáng tin cậy Hợp tác với JICA, Thái Lan đã triển khai quy hoạch phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, thành lập các khu công nghiệp và nâng cấp hạ tầng giao thông tại miền Đông và Đông Bắc Sự lan tỏa đầu tư từ miền trung sang miền bắc và miền đông diễn ra mạnh mẽ trong những năm 1990, với sự hiện diện của các doanh nghiệp ô tô châu Âu và Mỹ tại Rayong, cùng với các công ty Nhật Bản tập trung ở Chonburi Các công ty này không chỉ mở rộng sản xuất mà còn xây dựng mạng lưới cung ứng với các doanh nghiệp địa phương, đặc biệt thông qua chương trình khuyến khích sử dụng linh kiện sản xuất trong nước, đảm bảo chất lượng theo tiêu chuẩn nghiêm ngặt.

Từ năm 2000 đến nay, Thái Lan đã tích cực phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô, khẳng định vị thế hàng đầu trong khu vực ASEAN và thúc đẩy xuất khẩu Các chính sách trước đây đã tạo điều kiện cho sự liên kết giữa các công ty lắp ráp ô tô và các doanh nghiệp nước ngoài, góp phần tăng cường chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp Thái Lan Nhờ đó, năng lực công nghệ và sản xuất của các doanh nghiệp CNHT trong nước đã được cải thiện đáng kể Tuy nhiên, khác với Nhật Bản, mạng sản xuất ô tô tại Thái Lan gồm nhiều doanh nghiệp cung cấp cho các hãng ô tô nổi tiếng thế giới, cùng với các doanh nghiệp FDI và các DNNVV hoạt động như vệ tinh Ngành công nghiệp ô tô Thái Lan đã phát triển ổn định, tập trung tại các khu công nghiệp ở Bangkok và miền đông Thái Lan Chính phủ Thái Lan cũng chú trọng phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô định hướng xuất khẩu, thúc đẩy tự do hóa và xóa bỏ rào cản về tỷ lệ nội địa hóa và quy định xuất xứ sản phẩm.

1.4.2 Kinh nghiệm của Trung Quốc

Từ sau năm 1978, Trung Quốc đã thực hiện chính sách mở cửa thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đặc biệt trong ngành công nghiệp ô tô, điều này đã thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Chính phủ đã dỡ bỏ các rào cản và ban hành các chính sách thuận lợi, thu hút sự hiện diện của nhiều hãng ô tô lớn toàn cầu như Volkswagen, GM, Ford, Toyota và Peugeot-Citroen Tuy nhiên, giai đoạn đầu, CNHT cho ngành ô tô vẫn còn yếu kém, với năng lực công nghệ, tài chính và nguồn nhân lực hạn chế, dẫn đến việc phụ thuộc vào linh kiện nhập khẩu từ các nước phát triển Để nâng cao sức cạnh tranh cho ngành công nghiệp ô tô nội địa, Trung Quốc đã điều chỉnh chính sách nhằm ưu tiên thu hút FDI vào lĩnh vực CNHT.

Trung Quốc đang triển khai các chính sách khuyến khích học hỏi công nghệ và chuyển đổi từ liên kết ngang sang liên kết dọc trong chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô Để thu hút đầu tư nước ngoài, Trung Quốc không áp dụng các biện pháp hạn chế tiêu dùng nội địa mà khuyến khích doanh nghiệp sản xuất ô tô tiêu thụ trong nước, đồng thời hạn chế nhập khẩu ô tô nước ngoài Nhờ đó, nhiều tập đoàn ô tô quốc tế đã đầu tư trực tiếp vào thị trường Trung Quốc Bên cạnh đó, Trung Quốc cũng ban hành nhiều chính sách nhằm phát triển thị trường linh kiện ô tô nội địa và kết nối các nhà sản xuất trong nước, khuyến khích liên kết và liên doanh giữa các hãng trong nước và nước ngoài, cũng như hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa cung cấp phụ tùng, linh kiện.

Trung Quốc đang tích cực xây dựng và khuyến khích các chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô nội địa, cho phép các hãng ô tô nước ngoài tham gia thông qua việc thiết lập tiêu chí lựa chọn Các hãng lớn nước ngoài có thể đưa ra chính sách và tiêu chí để chọn các đối tác trong nước đủ điều kiện sản xuất linh kiện, phụ tùng Khi được lựa chọn, các doanh nghiệp nội địa sẽ nhận được hỗ trợ toàn diện và nâng cao năng lực sản xuất để tham gia vào mạng lưới sản xuất của các hãng Ví dụ, vào năm 1997, GM đã đặt ra tiêu chí chọn 1-2 nhà cung cấp linh kiện tại Trung Quốc dựa trên tiêu chuẩn chất lượng, dịch vụ, công nghệ và giá cả, mở ra cơ hội cho các hãng nội địa nâng cao công nghệ và đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế, từ đó tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu trong ngành công nghiệp ô tô.

Trung Quốc tận dụng doanh nghiệp nhà nước (DNNN) như một công cụ quan trọng trong chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô nội địa Các DNNN lớn không chỉ tham gia vào các liên doanh lắp ráp mà còn đầu tư vào việc phát triển cơ sở sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô Các liên doanh này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng thích ứng và chuyên sâu của các cơ sở sản xuất trong nước, nhằm cung cấp linh kiện cho các hãng ô tô nước ngoài Tại Thượng Hải, hơn 100 nhà máy liên doanh đã được thành lập, chuyên cung cấp linh kiện cho các hãng ô tô lớn quốc tế, tạo ra lợi thế về việc giảm chi phí giao dịch và rút ngắn thời gian cung cấp nhờ vào sự tập trung địa lý.

Trung Quốc đã xây dựng và phát triển các cụm công nghiệp tập trung trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) nhằm giảm chi phí giao dịch, thúc đẩy học hỏi và chuyển giao công nghệ, từ đó nâng cao năng lực cạnh tranh của ngành Đặc biệt, các vùng tập trung cho CNHT trong ngành công nghiệp ô tô đã được hình thành (Ding Ke, 2007) Ngoài ra, Trung Quốc cũng phát triển các khu thương mại để tăng cường trao đổi hàng hóa, phục vụ như các chợ đầu mối cho các cụm CNHT Sự phát triển của các doanh nghiệp liên doanh đã tạo ra nhu cầu về chi tiết, phụ tùng từ các nhà thầu phụ là các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), giúp các hãng nội địa tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu của ngành công nghiệp ô tô.

Trung Quốc đã tạo ra một môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) khu vực tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng ngành công nghiệp ô tô Chính phủ không chỉ thu hút đầu tư từ các hãng ô tô nước ngoài mà còn ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, bao gồm ưu đãi thuế và hỗ trợ tín dụng, nhằm khuyến khích các doanh nghiệp tư nhân sản xuất linh kiện và phụ tùng ô tô Những chính sách này đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô Ngoài ra, việc khuyến khích các liên doanh sản xuất ô tô mang thương hiệu địa phương đã tạo ra sự gắn kết giữa doanh nghiệp nội địa và doanh nghiệp nước ngoài, trong đó các doanh nghiệp lớn giúp thu hút liên kết và chuyển giao công nghệ cho các doanh nghiệp vệ tinh địa phương.

Trung Quốc đang tập trung vào việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao để thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô Để nhanh chóng làm chủ công nghệ ô tô và hướng tới nội địa hóa CNHT, nước này tích cực tìm kiếm và phát triển nguồn nhân lực từ cả trong và ngoài nước Chính phủ Trung Quốc đã thực hiện các chính sách thu hút kỹ sư kỹ thuật, đặc biệt là từ cộng đồng Hoa kiều, nhằm nâng cao năng lực cho ngành CNHT Ngoài ra, Trung Quốc còn triển khai chương trình đào tạo kỹ sư quốc tế để sản xuất động cơ công nghệ cao đạt tiêu chuẩn Euro IV, tiêu chuẩn khí thải hiện đại nhất Nước này cũng tuyển chọn sinh viên từ Mỹ và các quốc gia có ngành công nghiệp ô tô phát triển để trở về làm việc Đặc biệt, các chính sách hấp dẫn được đưa ra nhằm thu hút các chuyên gia và kỹ sư cao cấp từ các tập đoàn lớn trên thế giới.

Thái Lan và Trung Quốc, hai quốc gia láng giềng của Việt Nam, đã có nền công nghiệp ô tô phát triển mạnh mẽ và đạt nhiều thành tựu đáng kể Nghiên cứu quá trình phát triển của ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) ô tô tại Trung Quốc và Thái Lan cho thấy Việt Nam có thể rút ra những bài học kinh nghiệm quý giá để thúc đẩy sự phát triển của ngành công nghiệp ô tô trong nước.

Để phát triển ngành công nghiệp ô tô, cần xây dựng một chiến lược tổng thể cho ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) với lộ trình và bước đi hợp lý Sự thành công của ngành công nghiệp ô tô Thái Lan bắt nguồn từ việc tập trung nguồn lực vào phát triển CNHT, tạo dựng mạng lưới CNHT vững mạnh với công nghệ tiên tiến, từ đó thúc đẩy sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp ô tô tại quốc gia này.

Thực trạng các yếu tố ảnh hưởng đến phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

2.1.1 Nhu cầu thị trường ô tô

Ngành công nghiệp ô tô đóng góp quan trọng vào GDP toàn cầu, với 3.25% GDP của Mỹ, 5% của Trung Quốc, 4% của Đức và 12% của Thái Lan, trong khi tại Việt Nam, tỷ lệ này là 3% Do đó, ngành ô tô luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt từ chính phủ, với nhiều hiệp định thương mại có ngoại lệ nhằm bảo vệ ngành trước áp lực cạnh tranh quốc tế, ngoại trừ ATIGA và EVFTA.

Tại Việt Nam, doanh số bán xe ghi nhận sự chững lại vào năm 2017 với mức giảm 10%, nhưng đã có dấu hiệu phục hồi nhẹ vào năm 2018 với tỷ lệ tăng trưởng đạt 6%.

Trong 11 tháng đầu năm 2019, doanh số bán xe tăng 14% so với năm trước Năm 2017, sự suy giảm doanh số toàn thị trường chủ yếu do tác động của các chính sách mới có hiệu lực từ 2018, khiến khách hàng có tâm lý chờ đợi và kỳ vọng giá xe sẽ giảm mạnh do thuế nhập khẩu từ ASEAN và linh kiện về 0% Tốc độ tăng trưởng doanh số bán xe trong năm 2018 chậm lại do những khó khăn trong nhập khẩu, dẫn đến tình trạng thiếu hụt nguồn cung Tuy nhiên, vào năm 2019, giá xe giảm từ 8-15%, góp phần thúc đẩy tăng trưởng doanh số bán xe trên toàn thị trường (SIDEC, 2021).

Năm 2020, Việt Nam không chỉ kiểm soát tốt dịch COVID-19 mà còn thực hiện chính sách giảm 50% lệ phí trước bạ cho xe sản xuất lắp ráp trong nước, cùng với hàng loạt khuyến mãi từ doanh nghiệp, đã kích cầu doanh số bán hàng, đặc biệt là đối với dòng xe lắp ráp trong nước.

Thị trường ô tô Việt Nam năm 2020 trải qua nhiều biến động do tác động của dịch COVID-19, với sự sụt giảm doanh số vào đầu năm và sau đó hồi phục vào nửa cuối năm Nhiều nhà máy như Ford, Toyota, TC Motor, và Honda buộc phải tạm ngừng hoạt động để phòng chống dịch Kết quả là, doanh số bán xe của các thành viên Hiệp hội Các nhà sản xuất ô tô Việt Nam (VAMA) trong 6 tháng đầu năm chỉ đạt 107.183 xe, giảm 30,5% so với cùng kỳ năm trước, đánh dấu mức thấp nhất trong 5 năm qua.

Trong 6 tháng cuối năm 2020, thi ̣ trường ô tô Viê ̣t Nam có sự tăng trưởng trở lại khi Chính phủ cho phép giảm 50% lệ phí trước bạ đối với ô tô sản xuất lắp ráp trong nước để hỗ trợ người dân, doanh nghiệp Nhờ đó, phí trước bạ đối với ô tô

“nội” giảm từ 15 triệu đến gần 300 triệu đồng, tùy dòng xe và thương hiệu

Trong tháng 9/2020, thị trường ô tô Việt Nam đạt doanh số 27.252 xe, tăng 32% so với tháng trước; tháng 10 đạt 33.254 xe, tăng 22% so với tháng 10 và tháng

Trong tháng 11, thị trường ô tô Việt Nam ghi nhận kỷ lục với 36.359 xe được tiêu thụ, tăng 9% so với tháng trước Tính chung 11 tháng đầu năm 2020, các thành viên của VAMA đã tiêu thụ tổng cộng 248.768 xe, giảm 14% so với cùng kỳ năm ngoái, với bình quân 22.615 xe mỗi tháng Tuy nhiên, theo các chuyên gia, con số này chưa phản ánh đầy đủ tình hình thị trường do sự tham gia của nhiều thương hiệu như Audi, Jaguar Land Rover, Mercedes-Benz, Subaru, Volkswagen và Volvo, nhưng không công bố doanh số bán hàng.

Theo 3 báo cáo chính thức từ VAMA, TC Motor và VinFast, thị trường ô tô Việt Nam 11 tháng năm 2020 tiêu thụ khoảng 346.830 xe, bình quân 31.530 xe/tháng Với doanh số bán này, cùng với tháng cuối cùng của năm người dân tranh thủ chính sách giảm 50% lệ phí trước bạ để mua xe, ước tính cả năm 2020 Việt Nam tiêu thụ trên 380.000 xe, giảm khoảng 20.000 xe so với năm 2019

2.1.2 Định hướng chiến lược phát triển và chiến lược mua sắm của các hãng ô tô lớn trên thế giới

Các tập đoàn ô tô hàng đầu thế giới đang chọn các quốc gia phát triển với điều kiện thuận lợi để thiết lập cơ sở sản xuất linh kiện chính Chẳng hạn, Toyota, một trong những nhà sản xuất ô tô lớn nhất, đang sản xuất động cơ diesel tại Thái Lan, động cơ xăng tại Indonesia và bộ truyền động cơ tại Philippines, nhằm tối ưu hóa hoạt động sản xuất tại châu Á Xu hướng này yêu cầu các quốc gia điều chỉnh chiến lược phát triển và tái cơ cấu đầu tư để nắm bắt cơ hội, lựa chọn vị trí trong mạng sản xuất ô tô toàn cầu, tập trung vào sản xuất những linh kiện phát huy thế mạnh của từng nước, từ đó khẳng định vị trí trong chuỗi cung ứng ô tô toàn cầu.

Các nhà cung cấp ô tô Nhật Bản như Sumitomo Electric Industries, Yazaki và Furukawa Electric đã có nhà máy sản xuất dây cáp tại Việt Nam, quốc gia này đã trở thành nguồn nhập khẩu dây cáp hàng đầu của Nhật Bản từ năm 2014, chiếm khoảng 40% thị phần vào năm 2020 Việc sản xuất dây cáp chủ yếu được thực hiện bằng tay, đòi hỏi nhiều công nhân, nhưng đại dịch Covid-19 đã khiến các nhà sản xuất gặp khó khăn trong việc tuyển dụng lao động, dẫn đến việc cắt giảm sản lượng Yazaki có hai nhà máy tại Việt Nam và cho biết sản xuất đã bị ảnh hưởng, trong khi Furukawa Electric cũng ghi nhận sự giảm sút đáng kể trong công suất sử dụng nhà máy từ tháng 7 Koito Manufacturing đã khởi động lại một nhà máy ở Malaysia nhưng cảnh báo về sự không chắc chắn trong sản xuất tương lai do tình hình không ổn định Ngoài ra, các nhà sản xuất vật liệu Nhật Bản như Toray và Mitsubishi Chemical cũng đã giảm sản xuất linh kiện ô tô tại Đông Nam Á.

Các nhà sản xuất ô tô Nhật Bản đang gặp khó khăn trong việc mua sắm linh kiện, với Daihatsu Motor thông báo tạm ngừng hoạt động tại bốn nhà máy lắp ráp trong thời gian lên tới 17 ngày Tình trạng thiếu hụt chất bán dẫn toàn cầu cùng với sự đình trệ nguồn cung linh kiện từ Malaysia và Việt Nam đã góp phần vào tình hình này.

Dự kiến sản lượng sản xuất ô tô sẽ giảm khoảng từ 30.000 chiếc đến 40.000 chiếc trong thời gian từ tháng 8 đến tháng 9 và giảm khoảng 19% đến 25% trong năm 2021 Cụ thể:

Theo Nikkei, Toyota Motor, công ty mẹ của Daihatsu, sẽ giảm 40% sản lượng sản xuất toàn cầu trong tháng 9 so với kế hoạch ban đầu, chủ yếu do thiếu linh kiện và phụ tùng ô tô từ Đông Nam Á Hãng dự kiến sẽ cắt giảm 220.000 xe sản xuất ở nước ngoài.

Trong tháng 8, Honda Motor đã giảm sản lượng 20.000 xe tại Quảng Châu, Trung Quốc, tương đương 20% so với kế hoạch sản xuất ban đầu Tại Nhật Bản, công ty đã tạm ngừng hoạt động tại nhà máy Suzuka ở tỉnh Mie Nguyên nhân chính cho những thay đổi này là do tình trạng thiếu chip và sự trì hoãn trong việc mua sắm linh kiện từ Indonesia và Thái Lan.

Nissan Motor đã đóng cửa một nhà máy lắp ráp ở bang Tennessee của Hoa

Kỳ trong hai tuần vì các vấn đề mua sắm chất bán dẫn ở Malaysia Động thái này được dự báo sẽ làm giảm sản lượng hàng chục nghìn xe

Các nhà sản xuất và lắp ráp ô tô đã đầu tư xây dựng nhà máy tại nhiều quốc gia Đông Nam Á nhằm đảm bảo khả năng giao hàng và vận chuyển bền vững toàn cầu Tuy nhiên, đại dịch Covid-19 đã làm thay đổi chiến lược này.

2.1.3 Đặc điểm của các hợp phần chi tiết, trang thiết bị linh phụ kiện ô tô

Sự thay đổi nhanh chóng của công nghệ trong ngành công nghiệp ô tô đang đặt ra thách thức lớn cho các doanh nghiệp CNHT trong việc phát triển lực lượng lao động Ngành ô tô cần nhân lực có tay nghề cao, kỹ năng chuyên biệt và hiểu biết về công nghệ Tuy nhiên, sự thay đổi công nghệ yêu cầu công nhân phải có khả năng thích ứng nhanh chóng, điều này phụ thuộc vào tri thức và kinh nghiệm của họ Do đó, phát triển lực lượng lao động có trình độ cao là điều kiện thiết yếu để CNHT phát triển Bên cạnh đó, đặc điểm của từng loại linh kiện cũng ảnh hưởng đến khả năng phát triển, đặc biệt là kích cỡ linh kiện, vì nó tác động đến chi phí vận chuyển Các linh kiện cồng kềnh như ghế ô tô hay khung xe thường có chi phí vận chuyển lớn, do đó các doanh nghiệp thường sản xuất gần với công ty chính để giảm chi phí Hơn nữa, tính chuyên biệt hay thông dụng của linh kiện cũng ảnh hưởng đến quyết định mua sắm của doanh nghiệp, với linh kiện chuyên biệt cần các nhà cung cấp gắn bó chặt chẽ, trong khi linh kiện thông dụng có thể được mua từ nhiều nguồn khác nhau dựa vào chất lượng và giá cả.

2.1.4 Năng lực phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô của quốc gia

Đặc điểm của công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô giai đoạn 2016 – 2020

Giữa những chính sách ưu đãi của Chính phủ Việt Nam, giai đoạn 1995-2000 chứng kiến sự ra đời của nhiều liên doanh ô tô, nhằm phát triển ngành công nghiệp ô tô thành trụ cột của nền kinh tế Hiện nay, Việt Nam là một trong ba quốc gia tại Đông Nam Á, cùng với Thái Lan và Indonesia, thu hút nhiều nhà máy sản xuất từ các tập đoàn ô tô toàn cầu.

Chính phủ đã ban hành Nghị định số 116/2017/NĐ-CP nhằm quy định các điều kiện liên quan đến sản xuất, lắp ráp, nhập khẩu và kinh doanh dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng ô tô Mục tiêu của nghị định là thúc đẩy ngành công nghiệp ô tô như một động lực quan trọng cho sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, với các chính sách ổn định và dài hạn Nghị định cũng nhấn mạnh việc phát triển ngành công nghiệp ô tô dựa trên tiềm năng của doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước và xuất khẩu, đồng thời đảm bảo quyền lợi của người tiêu dùng và an toàn môi trường, phù hợp với các cam kết quốc tế của Việt Nam.

2.2.1 Số lượng, tăng trưởng và phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Theo số liệu từ Tổng cục Thống kê, số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô rất hạn chế, chỉ chiếm dưới 1% tổng số doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, với tỷ lệ bình quân giai đoạn 2016 - 2020 chỉ khoảng 0,8% Tốc độ tăng trưởng số lượng doanh nghiệp CNHT thấp hơn so với mức trung bình của nền kinh tế, đạt 6,5% so với 9,6% Đến hết năm 2020, chỉ có 628 doanh nghiệp CNHT cho ngành ô tô đang hoạt động, trong đó 404 doanh nghiệp chuyên sản xuất thiết bị, linh kiện và phụ tùng ô tô, chiếm 64,3%.

Sự tăng trưởng số lượng doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô chủ yếu đến từ khu vực doanh nghiệp tư nhân, với tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 28,7% trong giai đoạn 2016-2020 Trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước chỉ tăng trưởng 14,6% và khu vực đầu tư nước ngoài (FDI) ghi nhận mức tăng trưởng thấp nhất, chỉ 1,9% Điều này cho thấy khu vực FDI dường như thiếu động lực để đầu tư vào CNHT cho ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam.

Bảng 2.1 Số lượng và tăng trưởng doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất, sở hữu và quy mô doanh nghiệp

A - Số lượng doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô và ngành liên quan theo loại hình sản xuất

Sản xuất thiết bị, linh kiện, phụ tùng và lắp ráp ô tô

Sản xuất thân và thùng xe ô tô các loại

Sản xuất thiết bị, linh kiện và phụ tùng ô tô các loại

Gia công cơ khí, linh kiện, phụ tùng ô tô các loại

B - Doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sở hữu

Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài 226 238 14 24 30 1.9

C - Doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo quy mô doanh nghiệp

D - Tổng số doanh nghiệp trong nền kinh tế

Tổng số DN trong nền kinh tế 558,720 649,382 693,554 746,426 804,652 9.6

Số DN CNHT ô tô/ Tổng số DN trong nền kinh tế

Ghi chú: Số liệu thống kê chỉ gồm các doanh nghiệp đang hoạt động kinh doanh tại thời điểm

Nguồn: Tác giả tự tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê (Số liệu thống kê Doanh nghiệp 2016 -2020)

2.2.2 Cơ cấu và chuyển dịch cơ cấu doanh nghiệp trong CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Ngành công nghiệp ô tô đang trải qua sự chuyển dịch cơ cấu đáng kể Trong khi tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất và lắp ráp, sản xuất thân và thùng xe ô tô có xu hướng giảm, thì tỷ trọng doanh nghiệp vừa sản xuất trang thiết bị linh kiện phụ tùng, đồng thời với hoạt động lắp ráp xe ô tô lại tăng lên Cụ thể, tỷ trọng doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực sản xuất xe ô tô đã tăng từ 9,8% năm 2016 lên 14,3% vào năm 2020 Điều này cho thấy sự thay đổi trong mô hình kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp ô tô.

Bảng 2.2 Cơ cấu và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất sở hữu và quy mô doanh nghiệp (%)

A –Cơ cấu và thay đổi cơ cấu theo loại hình sản xuất

Sản xuất thiết bị, linh kiện, phụ tùng và lắp ráp ô tô

Sản xuất thân và thùng xe ô tô các loại

Sản xuất thiết bị, linh kiện và phụ tùng ô tô các loại

Gia công cơ khí, linh kiện, phụ tùng ô tô các loại

B - Cơ cấu và thay đổi cơ cấu theo loại hình sở hữu

Doanh nghiệp đầu tư nước ngoài

C - Cơ cấu và thay đổi cơ cấu theo quy mô doanh nghiệp

Nguồn: Tác giả tự tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê (Số liệu thống kê Doanh nghiệp 2016 -2020)

Ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam chủ yếu tập trung ở hai vùng Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng, với các tỉnh và thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai và Bình Dương Hai vùng này chiếm khoảng 70% tổng số doanh nghiệp trong ngành, không bao gồm các doanh nghiệp sửa chữa ô tô.

Từ năm 2016, số lượng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô tại vùng Đồng bằng sông Hồng, đặc biệt là Hà Nội và các tỉnh lân cận, đã tăng trưởng nhanh chóng, trong khi khu vực Đông Nam Bộ, bao gồm TP Hồ Chí Minh, lại có xu hướng giảm Số doanh nghiệp hoạt động đã tăng từ 182 vào năm 2016 lên 288 vào năm 2020, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp CNHT trên toàn quốc, trong khi tỷ lệ này chỉ khoảng 41% ở Đông Nam Bộ Đáng chú ý, khu vực Tây Nguyên gần như không có sự hiện diện của doanh nghiệp CNHT cho ngành ô tô.

Bảng 2.3 Phân bố và thay đổi phân bố địa lý doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô

A - Phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng Đồng bằng sông Hồng 182 220 244 258 288 12.3

Trung du và Miền núi phía Bắc 18 14 12 14 20 5.8

Bắc Trung Bộ và Duyên hải

Tây Nguyên 4 6 2 4 2 8.3 Đông Nam Bộ 236 222 232 206 258 3.2 Đồng bằng sông Cửu Long 22 12 14 18 18 -0.1

B - Cơ cấu và thay đổi cơ cấu phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng giai đoạn 2016-2020 (%)

Thay đổi Đồng bằng sông Hồng 37.0 43.0 45.4 48.1 45.9 8.9

Trung du và Miền núi phía Bắc 3.7 2.7 2.2 2.6 3.2 -0.5 Bắc Trung Bộ và Duyên hải

Tây Nguyên 0.8 1.2 0.4 0.7 0.3 -0.5 Đông Nam Bộ 48.0 43.4 43.1 38.4 41.1 -6.9 Đồng bằng sông Cửu Long 4.5 2.3 2.6 3.4 2.9 -1.6

Nguồn: Tác giả tự tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê (Số liệu thống kê Doanh nghiệp 2016 -2020)

Phân bố doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô cho thấy sự tập trung chủ yếu ở vùng Đồng bằng sông Hồng, bao gồm Hà Nội và các tỉnh lân cận, với 52 doanh nghiệp hoạt động trong năm 2020 Đồng thời, khu vực này cũng có phần lớn doanh nghiệp sản xuất trang thiết bị linh phụ kiện cho ngành ô tô, với 80 doanh nghiệp Ngoài ra, vùng Đông Nam Bộ ghi nhận 198 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này trong cùng năm.

Bảng 2.4 trình bày cơ cấu và sự thay đổi trong phân bố doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng và loại hình sản xuất tính đến cuối năm 2020 Dữ liệu cho thấy sự phân bổ doanh nghiệp CNHT có sự khác biệt rõ rệt giữa các vùng, đồng thời phản ánh những xu hướng phát triển trong ngành công nghiệp ô tô Việc nắm bắt thông tin này giúp các doanh nghiệp và nhà đầu tư hiểu rõ hơn về thị trường và cơ hội phát triển trong lĩnh vực CNHT ô tô.

Tây Nguyên ĐNB ĐBSCL Tổng

A - Phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng và loại hình sản xuất năm 2020

Sản xuất thiết bị, linh kiện, phụ tùng và lắp ráp ô tô

Sản xuất thân và thùng xe ô tô các loại

Sản xuất thiết bị, linh kiện và phụ tùng ô tô các loại

Gia công cơ khí, linh kiện, phụ tùng ô tô các loại

B - Cơ cấu và thay đổi cơ cấu phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng và loại hình sản xuất năm 2020 (%)

Tây Nguyên ĐNB ĐBSCL Tổng

Sản xuất thiết bị, linh kiện, phụ tùng và lắp ráp ô tô

Sản xuất thân và thùng xe ô tô các loại

Sản xuất thiết bị, linh kiện và phụ tùng ô tô các loại

Gia công cơ khí, linh kiện, phụ tùng ô tô các loại

Ghi chú các vùng địa lý tại Việt Nam: ĐBSH (Đồng bằng sông Hồng), TD&MNPB (Trung du và Miền núi phía Bắc), BTB&DHMT (Bắc Trung Bộ và Duyên hải Miền Trung), ĐNB (Đông Nam Bộ) và ĐBSCL (Đồng bằng sông Cửu Long).

Nguồn: Tác giả tự tính toán từ nguồn số liệu của Tổng cục thống kê (Số liệu thống kê Doanh nghiệp 2016 -2020)

2.1.3 Quy mô giá trị sản xuất của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Trong giai đoạn 2001-2005, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô đều có mức tăng trưởng tương đối cao Giai đoạn 2006-

Năm 2009, giá trị sản xuất của các doanh nghiệp trong lĩnh vực sản xuất khung gầm và thùng xe, cũng như trang thiết bị linh phụ kiện, mặc dù có sự suy giảm nhẹ so với giai đoạn trước, nhưng vẫn duy trì ở mức cao với tỷ lệ trung bình trên 27% mỗi năm Đồng thời, các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp xe tiếp tục ghi nhận mức tăng trưởng giá trị sản xuất cao hơn so với các giai đoạn trước đó.

Từ năm 2010, lĩnh vực sản xuất linh kiện và phụ tùng đã có sự phát triển mạnh mẽ, với giá trị sản xuất ước đạt 316 nghìn tỷ đồng vào năm 2015, chiếm khoảng 4,4% tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo Trong đó, sản xuất linh kiện kim loại dẫn đầu với 150 nghìn tỷ đồng, tiếp theo là linh kiện điện - điện tử với 117 nghìn tỷ đồng (SIDEC, 2016).

Hình 2.1 Giá trị sản xuất của lĩnh vực sản xuất xe có động cơ

Nguồn: Tổng cục thống kê 2016-2020

Theo Tổng cục Thống kê, trong năm 2020, giá trị sản xuất của ngành công nghiệp xe có động cơ đạt 208 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 40 nghìn tỷ đồng so với năm trước đó.

Từ năm 2016 đến 2020, giá trị sản xuất trong lĩnh vực sản xuất xe có động cơ chỉ đạt gần 168 nghìn tỷ đồng, chiếm 2,7% tổng giá trị sản xuất của toàn ngành công nghiệp Tăng trưởng bình quân trong giai đoạn này chỉ đạt khoảng 5,5% mỗi năm, thấp hơn so với mức tăng trưởng của toàn ngành và có xu hướng giảm nhẹ Đến cuối năm 2020, lĩnh vực này đã thu hút khoảng 200.000 lao động (SIDEC, 2020).

2.1.4 Tình hình thương mại quốc tế của CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Theo báo cáo của Trung tâm Phát triển Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ (SIDEC), kim ngạch xuất nhập khẩu sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (linh kiện, phụ tùng) của Việt Nam đã liên tục tăng trưởng từ năm 2010 đến nay Đặc biệt, trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu đã đạt được những con số ấn tượng, phản ánh sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp này.

Đánh giá về phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam giai đoạn 2016 - 2020

2.2.1 Thành tựu và nguyên nhân

Số lượng doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp ô tô và công nghiệp hỗ trợ đã tăng liên tục, đặc biệt là sự đóng góp của khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước Cụ thể, từ 492 doanh nghiệp năm 2016, con số này đã tăng lên 628 doanh nghiệp vào năm 2020, tương đương với tỷ lệ tăng 27% Hiện nay, thị trường Việt Nam đã có sự hiện diện của hầu hết các hãng sản xuất ô tô lớn trên thế giới như Toyota, Honda, Ford, kéo theo sự đầu tư của nhiều nhà sản xuất vệ tinh và nhà cung ứng linh kiện phụ tùng nước ngoài.

Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô đang chuyển dịch theo hướng tăng tỷ trọng doanh nghiệp sản xuất trang thiết bị, linh kiện và phụ tùng, trong khi giảm dần tỷ trọng doanh nghiệp trong sản xuất và lắp ráp cũng như sản xuất thân và thùng xe Hiện tại, các doanh nghiệp CNHT trong nước đã sản xuất được 11/15 nhóm sản phẩm ưu tiên phát triển.

Trong năm 2020, giá trị sản xuất của lĩnh vực xe có động cơ đạt 208 nghìn tỷ đồng, tăng khoảng 40 nghìn tỷ đồng so với 168 nghìn tỷ đồng năm 2016 Tỷ trọng giá trị sản xuất tăng nhanh ở khu vực doanh nghiệp tư nhân, mặc dù doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng giá trị sản xuất của ngành công nghiệp hỗ trợ ô tô.

Các doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô không chỉ cung cấp sản phẩm cho thị trường nội địa mà còn tham gia xuất khẩu, chủ yếu thông qua việc cung cấp linh kiện và phụ tùng cho các doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp trong nước Thị trường xuất khẩu chính của họ bao gồm các quốc gia và vùng lãnh thổ Đông Á cùng với các nước trong khu vực ASEAN Đặc biệt, trong cơ cấu xuất nhập khẩu sản phẩm CNHT cho ngành ô tô, nhóm sản phẩm linh kiện và phụ tùng ô tô đã đạt được thặng dư thương mại khoảng 0,2 tỷ USD.

Vào thứ năm, năng lực công nghệ của nhiều doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam đã được nâng cao Nhiều doanh nghiệp đã ứng dụng công nghệ và máy móc tiên tiến từ các quốc gia EU và Nhật Bản Đồng thời, các tiêu chuẩn và công cụ quản lý hiện đại cũng đã thu hút sự quan tâm và được áp dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp.

2.2.2 Hạn chế và nguyên nhân

Mặc dù đã đạt được một số kết quả nhất định trong quá trình phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam còn hạn chế Cụ thể:

Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành ô tô Việt Nam đang phát triển chậm cả về số lượng lẫn chất lượng, với chỉ 642 doanh nghiệp tính đến cuối năm 2020, tất cả đều là doanh nghiệp hỗ trợ cấp 1 Các doanh nghiệp này rất nhỏ bé và yếu kém so với các trung tâm sản xuất lớn trên thế giới và trong khu vực Cụ thể, Thái Lan có tới 1.418 doanh nghiệp hỗ trợ cấp 1, trong đó có 708 doanh nghiệp nội địa và 710 doanh nghiệp nước ngoài, cùng với hơn 2.200 nhà cung cấp cấp 2, 3 Malaysia và Indonesia cũng có số lượng doanh nghiệp lớn hơn nhiều so với Việt Nam, với khoảng 460 nhà cung cấp cấp 1 và 400 nhà cung cấp cấp 2 ở Malaysia, trong khi Indonesia có khoảng 166 nhà cung cấp cấp 1 và 672 nhà cung cấp cấp 2 Tại Việt Nam, số doanh nghiệp trong lĩnh vực CNHT cho ngành ô tô chỉ chiếm chưa đến 1% trong tổng số 680.000 doanh nghiệp đang hoạt động trong nền kinh tế (Tổng cục thống kê 2020).

Giá trị sản xuất của công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô chỉ chiếm khoảng 2,7% tổng giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp Trong giai đoạn 2016-2020, mức tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân chỉ đạt khoảng 5,5%/năm, thấp hơn so với mức tăng trưởng chung của toàn ngành Tính chung trong 5 năm, giá trị tăng thêm của ngành công nghiệp đã tăng từ 810,438 nghìn tỷ đồng năm 2015 lên 1.145,437 nghìn tỷ đồng, với tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị gia tăng ước đạt 7,16% trong giai đoạn 2016-2020 (Bộ Công Thương, 2021).

Mặc dù doanh nghiệp FDI trong lĩnh vực sản xuất trang thiết bị linh phụ kiện ô tô chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ, nhưng chúng lại đóng góp phần lớn giá trị gia tăng cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam Nhiều doanh nghiệp hoạt động theo mô hình chế xuất, tập trung vào sản xuất linh kiện xuất khẩu, chỉ cung cấp một tỷ lệ rất nhỏ cho thị trường nội địa (1-3%) Điều này cho thấy vai trò của các doanh nghiệp tư nhân trong nước chưa được thể hiện rõ, mặc dù số lượng nhiều nhưng giá trị tạo ra lại thấp.

Tỷ lệ nội địa hóa sử dụng linh kiện và phụ tùng sản xuất trong nước của Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với Thái Lan, Indonesia và Malaysia Mặc dù các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) trong ngành ô tô đã sản xuất được 11/15 nhóm sản phẩm ưu tiên, nhưng chủ yếu là những sản phẩm đơn giản với hàm lượng công nghệ thấp Việt Nam phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm CNHT có hàm lượng công nghệ cao, đặc biệt là các bộ phận quan trọng như hệ thống phanh, ly hợp và hộp số Trong năm 2020, giá trị nhập khẩu lớn nhất thuộc mã HS 870829 (bộ phận thân xe, cửa xe, dây đai) đạt 216 triệu USD, tăng 26% so với năm 2019, trong đó ASEAN chiếm 52,3% nguồn nhập khẩu Hàn Quốc đứng thứ hai với 22,4%, trong khi nhập khẩu từ Nhật Bản giảm xuống còn 8,7% Giá trị nhập khẩu lớn thứ hai là mã HS 870840 (bộ phận hộp số và phụ tùng) với 172,9 triệu USD, chủ yếu từ Liên minh châu Âu (EU), nhưng đã giảm xuống 40,2% từ 2019, với Nhật Bản trở thành thị trường thay thế.

Máy móc và công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam hiện tại còn lạc hậu, dẫn đến chất lượng sản phẩm chưa đạt yêu cầu và giá thành cao Sự chênh lệch về chất lượng linh kiện phụ tùng giữa các doanh nghiệp trong nước và nước ngoài khá lớn Bên cạnh đó, tốc độ cập nhật công nghệ mới của các doanh nghiệp cũng rất hạn chế Nhiều doanh nghiệp CNHT vẫn thiếu năng lực và công nghệ cần thiết để tham gia vào chuỗi giá trị của ngành công nghiệp ô tô trong nước.

Những hạn chế, yếu kém trong phát triển CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam thời gian qua có nhiều nguyên nhân khác nhau Cụ thể là:

* Nhóm nguyên nhân từ phía các doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Nhiều doanh nghiệp CNHT trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam chưa xây dựng được niềm tin từ các doanh nghiệp FDI về khả năng cung ứng linh phụ kiện Hầu hết các doanh nghiệp này không đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng, thông số kỹ thuật, nguyên vật liệu và thời hạn giao hàng, đặc biệt là với các đơn hàng lớn từ doanh nghiệp lắp ráp ô tô có vốn đầu tư nước ngoài Mặc dù có khả năng sản xuất một số chi tiết, nhưng nhiều doanh nghiệp CNHT Việt Nam vẫn thiếu hiểu biết về văn hóa kinh doanh và khả năng thuyết phục các doanh nghiệp FDI sử dụng sản phẩm của họ.

Trong hệ thống doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) tại Việt Nam, sự thiếu hụt các nhà sản xuất nguyên liệu và vật liệu cơ bản như sắt thép, nhựa, cao su kỹ thuật, hóa chất và linh kiện điện tử đã tạo ra khó khăn trong việc tìm nguồn cung cấp đáng tin cậy cho ngành công nghiệp ô tô Nhiều doanh nghiệp CNHT hiện đang sử dụng công nghệ lạc hậu, dẫn đến chi phí sản xuất cao và khả năng cạnh tranh thấp Do đó, các doanh nghiệp lắp ráp ô tô thường phải nhập khẩu linh kiện và phụ tùng từ nước ngoài, đặc biệt là từ các công ty 100% vốn nước ngoài hoặc các doanh nghiệp FDI hướng đến xuất khẩu Tình trạng này góp phần làm cho tỷ lệ nội địa hóa trong ngành công nghiệp ô tô tại Việt Nam vẫn ở mức thấp.

Khả năng nghiên cứu và thiết kế phát triển sản phẩm mới của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu sản xuất theo mẫu mã nước ngoài Nguyên nhân chính là do thiếu bộ phận nghiên cứu phát triển, đội ngũ kỹ sư yếu kém, thiếu trang thiết bị thí nghiệm hiện đại và đầu tư thấp cho hoạt động này.

Ngành công nghiệp hỗ trợ (CNHT) cho ô tô đang đối mặt với tình trạng thiếu hụt nguồn nhân lực có trình độ và kỹ năng phù hợp Năng lực của nguồn nhân lực trong lĩnh vực này còn hạn chế, dẫn đến việc sản xuất ô tô và linh phụ kiện không đáp ứng được yêu cầu về chất lượng và số lượng Nguyên nhân chính của vấn đề này là do một tỷ lệ lớn lao động chưa được đào tạo bài bản, hoặc nếu có thì cũng không kịp thời cập nhật kiến thức mới, đặc biệt là trong việc vận hành máy móc và thiết bị hiện đại.

Sự liên kết giữa các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ (CNHT) và lắp ráp ô tô tại Việt Nam còn rất hạn chế, với các doanh nghiệp sản xuất linh kiện chưa kết nối chặt chẽ với các nhà lắp ráp và thiếu khả năng tham gia vào chuỗi cung ứng của các công ty FDI Các doanh nghiệp lắp ráp ô tô trong nước, đa số mới thành lập, thiếu kinh nghiệm trong việc phát triển cơ sở CNHT và thu hút các nhà sản xuất linh kiện Nhiều doanh nghiệp lắp ráp đang theo đuổi mô hình tự cung tự cấp, điều này dẫn đến việc hình thành các chuỗi cung ứng nội bộ nhưng chủ yếu dưới dạng công ty mẹ con, với số lượng thành viên ít và thiếu hợp tác kinh doanh lâu dài Khi ký hợp đồng mua linh kiện, các doanh nghiệp lắp ráp thường giữ vai trò chủ đạo, trong khi các công ty lắp ráp nước ngoài lại tự thành lập các công ty cung cấp linh kiện hoặc thu hút các nhà cung ứng đầu tư vào Việt Nam.

CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN NGÀNH CÔNG NGHIỆP HỖ TRỢ

Ngày đăng: 09/07/2022, 14:48

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bạch Dương (2016), Báo điện tử Vneconomy ngày 16 tháng 11 năm 2016. “Nội địa hóa ô tô ở Việt Nam và câu chuyện của người đến sau” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nội địa hóa ô tô ở Việt Nam và câu chuyện của người đến sau
Tác giả: Bạch Dương
Năm: 2016
2. Bạch Dương, Đức Thọ (2016),, Báo điện tử Vneconomy ngày 13 tháng 11 năm 2016, “Công nghiệp ôtô và kẻ ngược dòng Trường Hải” Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghiệp ôtô và kẻ ngược dòng Trường Hải
Tác giả: Bạch Dương, Đức Thọ
Năm: 2016
3. Bảo Trân (2016), Báo Người lao động điện tử ngày 10 tháng 11 năm 2016, “Mục tiêu nội địa hóa thất bại”, truy cập ngày 01/3/2017 tại http://nld.com.vn/thoi-su- trong-nuoc/muc-tieu-noi-dia-hoa-o-to-that-bai-20161110221233373.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mục tiêu nội địa hóa thất bại
Tác giả: Bảo Trân
Năm: 2016
6. Bộ Công Thương (2017), “Thông qua Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025”, truy cập ngày 03/3/2017 tại http://www.moit.gov.vn/vn/pages/Tinchuyende.aspx?Machuyende=TLCV&IDNews=9055 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thông qua Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025
Tác giả: Bộ Công Thương
Năm: 2017
9. Đặng Thu Hương, Trần Ngọc Thìn (2009), "Thực trạng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam và một số giải pháp khắc phục", Tạp chí Kinh tế và Phát triển, số 139 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam và một số giải pháp khắc phục
Tác giả: Đặng Thu Hương, Trần Ngọc Thìn
Năm: 2009
11. Đức Thọ, Báo điện tử VnEconomy ngày 21 tháng 11 năm 2016. "Xe nhập Thái và hiện thực phũ phòng của công nghiệp ô tô Việt", truy cập 9h ngày 12.3.2017 tại http://vneconomy.vn/xe-360/xe-nhap-thai-va-hien-thuc-phu-phang-cua-cong- nghiep-oto-viet-20161121090030188.htm Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xe nhập Thái và hiện thực phũ phòng của công nghiệp ô tô Việt
13. Hoàng Văn Châu (2010), “Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam”, NXB. Thông tin và Truyền thông, Hà Nội, 2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
Tác giả: Hoàng Văn Châu
Nhà XB: NXB. Thông tin và Truyền thông
Năm: 2010
16. Lê Thị Thanh Huyền, (2006), “Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ”, Tạp chí Tài chính số 3 (tháng 3) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ
Tác giả: Lê Thị Thanh Huyền
Năm: 2006
17. Lê Xuân Sang và Nguyễn Thị Thu Huyền (2011). “Chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ: Lý luận, thực tiễn và định hướng cho Việt Nam”, Hội thảo “Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam”, Viện Chính sách Công nghiệp và Chiến lược và Chính sách tài chính tháng 12/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chính sách thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ: Lý luận, thực tiễn và định hướng cho Việt Nam”, Hội thảo “Chính sách tài chính hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Tác giả: Lê Xuân Sang và Nguyễn Thị Thu Huyền
Năm: 2011
18. Mai Nguyên, Báo Đầu tư chứng khoán điện tử ngày 16 tháng 8 năm 2014. “Công nghiệp hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô: Đầu tư nhỏ lẻ, công nghệ đơn giản”, truy cập ngày 06/3/2017 tại http://tinnhanhchungkhoan.vn/thuong-truong/cong-nghiep-ho-tro-nganh-o-to-dau-tu-nho-le-cong-nghe-don-gian-100904.html Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghiệp hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô: Đầu tư nhỏ lẻ, công nghệ đơn giản
19. Nguyễn Đình Tài (2013), “Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt Nam”, Tạp chí Tài chính, số 4 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô hình nào cho cụm liên kết ngành ở Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Đình Tài
Năm: 2013
20. Nguyễn Đức Hải (2005), “Phát triển ngành CNHT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay”, Thông tin những vấn đề kinh tế - chính trị học, Viện Kinh tế chính trị học, Học viện Hành chính quốc gia, số 6, tr.31-32 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển ngành CNHT ở nước ta trong giai đoạn hiện nay
Tác giả: Nguyễn Đức Hải
Năm: 2005
21. Nguyễn Ngọc Sơn (2008), "Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam", Tạp chí Nghiên cứu kinh tế, số 359 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển công nghiệp hỗ trợ ngành dệt may Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Ngọc Sơn
Năm: 2008
24. Nguyễn Thị Xuân Thúy (2006), “Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan về khái niệm và sự phát triển”, sách K. Ohno (chủ biên), Xây dựng công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam, Tập 1, tr. 29-51. Diễn đàn Phát triển Việt Nam, 2007 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghiệp hỗ trợ: Tổng quan về khái niệm và sự phát triển
Tác giả: Nguyễn Thị Xuân Thúy
Năm: 2006
26. Nguyễn Văn Chung (2008), “Nghiên cứu các biện pháp hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp (ô tô, xe máy, máy nông nghiệp) khi Việt Nam là thành viên WTO”, Đề tài Nghiên cứu khoa học Bộ Công Thương, mã số 2007–78–002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu các biện pháp hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu một số sản phẩm công nghiệp (ô tô, xe máy, máy nông nghiệp) khi Việt Nam là thành viên WTO
Tác giả: Nguyễn Văn Chung
Năm: 2008
27. Nguyễn Văn Thanh (2006), "Xây dựng KCN và KCX theo hướng Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam", Tạp chí Những vấn đề kinh tế và chính trị thế giới, số 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xây dựng KCN và KCX theo hướng Phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Văn Thanh
Năm: 2006
29. Phạm Tất Thắng (2013), “Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Một số vấn đề đặt ra”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số tháng 10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Một số vấn đề đặt ra
Tác giả: Phạm Tất Thắng
Năm: 2013
30. Phan Đăng Tuất (2005), “Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam”, Tạp chí Công nghiệp, Kỳ 1, Tháng 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trở thành nhà cung cấp cho các doanh nghiệp Nhật Bản – Con đường nào cho các doanh nghiệp Việt Nam
Tác giả: Phan Đăng Tuất
Năm: 2005
44. Ding Ke (2007). “Domestic Market-based Industrial Cluster Development in Modern China”, IDE discussion paper No.88 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Domestic Market-based Industrial Cluster Development in Modern China
Tác giả: Ding Ke
Năm: 2007
31. Phương Dung (2017), Báo điện tử Dân trí ngày 17 tháng 2 năm 2017, Chê công nghiệp hỗ trợ kém, doanh nghiệp ô tô Nhật muốn rút khỏi Việt Nam, Truy cập hồi 16h ngày 7 tháng 7 năm 2017 tại địa chỉ http://dantri.com.vn/su- kien/che-cong- nghiep-ho-tro-kem-doanh-nghiep-o-to-nhat-muon-rut-khoi-viet-nam- 20170217074747666.htm Link

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.2. Cơ cấu và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất sở hữu và quy mô doanh nghiệp (%) - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Bảng 2.2. Cơ cấu và thay đổi cơ cấu doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất sở hữu và quy mô doanh nghiệp (%) (Trang 58)
Các doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp ôtô (không kể loại hình sửa chữa)  tập  trung  chủ  yếu  tại  vùng  Đông  Nam  Bộ  và  vùng  Đồng  bằng  sông  Hồng,  trong đó chủ yếu tập trung tại các tỉnh và thành phố là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí  Minh, Đồng Nai - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
c doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp ôtô (không kể loại hình sửa chữa) tập trung chủ yếu tại vùng Đông Nam Bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng, trong đó chủ yếu tập trung tại các tỉnh và thành phố là Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai (Trang 59)
Bảng 2.3. Phân bố và thay đổi phân bố địa lý doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Bảng 2.3. Phân bố và thay đổi phân bố địa lý doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô (Trang 60)
Bảng 2.4. Cơ cấu và thay đổi cơ cấu phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng và loại hình sản xuất đến hết năm 2020 - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Bảng 2.4. Cơ cấu và thay đổi cơ cấu phân bố doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo vùng và loại hình sản xuất đến hết năm 2020 (Trang 61)
Hình 2.1. Giá trị sản xuất của lĩnh vực sản xuất xe có động cơ - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Hình 2.1. Giá trị sản xuất của lĩnh vực sản xuất xe có động cơ (Trang 62)
2.1.4. Tình hình thương mại quốc tế của CNHT cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
2.1.4. Tình hình thương mại quốc tế của CNHT cho ngành công nghiệp ôtô Việt Nam (Trang 63)
Hình 2.3. Tình hình thu mua linh phụ kiện của các doanh nghiệp sản xuất ôtô ở Việt Nam năm 2020 (%) - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Hình 2.3. Tình hình thu mua linh phụ kiện của các doanh nghiệp sản xuất ôtô ở Việt Nam năm 2020 (%) (Trang 65)
Hình 2.4. Tình hình thu mua linh phụ kiện của một số hãng ôtô lớn tại Việt Nam năm 2020 (%) - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Hình 2.4. Tình hình thu mua linh phụ kiện của một số hãng ôtô lớn tại Việt Nam năm 2020 (%) (Trang 66)
Bảng 2.5. Tỷ lệ doanh nghiệp nằm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao theo loại hình sản xuất, loại hình sở hữu và quy mô doanh - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Bảng 2.5. Tỷ lệ doanh nghiệp nằm trong các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao theo loại hình sản xuất, loại hình sở hữu và quy mô doanh (Trang 68)
Theo bảng số liệu trên thì tính bình quân cho giai đoạn 05 năm, từ năm 2016 đến 2020 thì chỉ có  khoảng  gần 47% trên tổng số doanh nghiệp trong ngành nằm  trong các khu công nghiệp - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
heo bảng số liệu trên thì tính bình quân cho giai đoạn 05 năm, từ năm 2016 đến 2020 thì chỉ có khoảng gần 47% trên tổng số doanh nghiệp trong ngành nằm trong các khu công nghiệp (Trang 69)
Bảng 2.6. Thống kê tài sản bình quân doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất, loại hình sở hữu và quy mô doanh nghiệp - Các giải pháp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô Việt Nam.
Bảng 2.6. Thống kê tài sản bình quân doanh nghiệp CNHT cho ngành công nghiệp ô tô theo loại hình sản xuất, loại hình sở hữu và quy mô doanh nghiệp (Trang 70)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w