CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM BÁO CÁO KỸ THUẬT PHỤC VỤ XÂY DỰNG CHIẾN LƯỢC QUỐC GIA VỀ BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU GIAI ĐOẠN ĐẾN NĂM 2050 Hà Nội, 3 2022 ii MỤC LỤC DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU vii DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ viii I MỞ ĐẦU 1 1 1 Tính cấp thiết của việc xây dựng Chiến lược 1 1 2 Quan điểm, mục tiêu của việc xây dựng Chiến lược 6 1 2 1 Quan điểm, định hướng cho việc xây dựng Chiến lược 6 1 2 2 Mục tiêu của việc xây dựng Chiến lược 6 1) Mục tiêu tổng quát của việc xây dựng Chiến lược 6 2) Mục tiêu cụ.
BỐI CẢNH CHUNG
Bối cảnh quốc tế
2.1.1 Đàm phán và cam kết ứng phó với biến đổi khí hậu
Sau khi Việt Nam phê duyệt Chiến lược quốc gia về BĐKH vào năm 2012, bối cảnh quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang diễn ra mạnh mẽ và ảnh hưởng tiêu cực đến mọi khía cạnh của đời sống xã hội cũng như sự phát triển bền vững của hành tinh Do đó, ứng phó với BĐKH đã trở thành một yêu cầu cấp bách và là nhiệm vụ ưu tiên hàng đầu của nhiều quốc gia và tổ chức trên toàn cầu.
Thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu bắt đầu có hiệu lực từ năm 2021, yêu cầu tất cả các quốc gia phải có trách nhiệm pháp lý trong việc giảm thiểu phát thải khí nhà kính và thực hiện cam kết trong Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) Việc thích ứng với biến đổi khí hậu, giảm phát thải khí nhà kính và hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu cần được đặt lên hàng đầu, nhằm đạt được các mục tiêu toàn cầu, đồng thời phải được thực hiện một cách minh bạch và chịu sự giám sát, đánh giá từ quốc tế.
Hoa Kỳ đã trở lại mạnh mẽ trong việc dẫn dắt ứng phó với biến đổi khí hậu toàn cầu, khẳng định vị thế của mình là quốc gia hàng đầu về kinh tế, khoa học và công nghệ Việc tái tham gia Thoả thuận Paris và nâng cao mức đóng góp tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu đã tạo động lực mới, đồng thời khuyến khích các quốc gia khác cam kết mạnh mẽ hơn trong việc giảm phát thải khí nhà kính.
Phát triển các-bon thấp hướng tới phát ròng bằng "0" vào năm 2050 đã trở thành xu thế toàn cầu, đặc biệt sau các cam kết tại COP26 nhằm chuyển đổi năng lượng mạnh mẽ và giữ mức tăng nhiệt độ toàn cầu ở ngưỡng 1,5°C Mâu thuẫn giữa các cường quốc, đặc biệt là giữa Nga và phương Tây, đã đẩy giá dầu mỏ lên cao, khiến các quốc gia tìm kiếm nguồn năng lượng thay thế Sức ép chính trị và kinh tế ngày càng gia tăng buộc các quốc gia phải giảm dần năng lượng hóa thạch Tại COP26, thế giới đã đưa ra lộ trình cắt giảm phát thải khí nhà kính mạnh mẽ, yêu cầu mọi quốc gia, bao gồm cả Việt Nam, phải chuyển đổi sang phát triển phát thải thấp Điều này sẽ tác động sâu rộng đến chính trị, ngoại giao, kinh tế và thương mại toàn cầu, đòi hỏi Việt Nam tham gia tích cực vào nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu.
Phát triển năng lượng sạch đang được thúc đẩy mạnh mẽ, với sự chấm dứt sử dụng than và chuyển hướng tài chính quốc tế sang hỗ trợ năng lượng tái tạo, kinh tế tuần hoàn, bảo vệ rừng và hệ sinh thái Các nước phát triển cần thực hiện cam kết loại bỏ hoàn toàn điện than và nhanh chóng từ bỏ các nguồn nhiên liệu hóa thạch khác như dầu và khí Đồng thời, họ cũng cần tăng cường đóng góp tài chính để phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19.
Giảm phát thải khí nhà kính và phát triển kinh tế các-bon thấp nhằm đạt được mục tiêu phát thải ròng bằng “0” (trung hòa các-bon) đã trở thành con đường phát triển chủ đạo trên toàn cầu.
Nguồn lực tài chính toàn cầu đang dần được chuyển hướng để thực hiện Thỏa thuận Paris, nhưng có sự mất cân đối nghiêm trọng giữa đầu tư cho giảm nhẹ phát thải và đầu tư cho thích ứng với biến đổi khí hậu Đầu tư cho giảm nhẹ phát thải thường liên quan đến công nghệ cao, tạo lợi nhuận và mang lại lợi ích toàn cầu, do đó được các nước phát triển ưu tiên và thu hút đầu tư từ doanh nghiệp Ngược lại, thích ứng với biến đổi khí hậu chủ yếu mang lại lợi ích cho cộng đồng tại khu vực thực hiện giải pháp, ít hấp dẫn các nhà đầu tư bên ngoài Theo thống kê gần đây, hơn 90% nguồn tài chính cho biến đổi khí hậu được dành cho giảm nhẹ phát thải, trong khi chưa đến 7% được sử dụng cho thích ứng Điều này tạo ra thách thức lớn cho các nước đang phát triển, nơi dễ bị tổn thương bởi biến đổi khí hậu, buộc họ phải ưu tiên cho thích ứng trong khi nguồn lực lại hạn chế.
Đại dịch COVID-19 đã gây ra một cuộc khủng hoảng nghiêm trọng toàn cầu, buộc nhiều quốc gia phải triển khai các gói hỗ trợ phục hồi Tuy nhiên, điều này cũng ảnh hưởng đến nguồn lực dành cho biến đổi khí hậu (BĐKH) Để phục hồi một cách bền vững, nhiều biện pháp phục hồi xanh đã được đề xuất, bao gồm hỗ trợ phát triển hạ tầng và công nghệ sạch, giảm trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, và khuyến khích các giải pháp dựa vào thiên nhiên.
Thương mại, môi trường và biến đổi khí hậu đang trở thành những vấn đề quan trọng trong các Hiệp định tự do thương mại thế hệ mới và các chương trình nghị sự của các tổ chức quốc tế như WTO và WEF Các chủ đề chính được thảo luận bao gồm việc đánh thuế hàng hóa nhập khẩu dựa trên lượng carbon, thúc đẩy thương mại hàng hóa xanh, loại bỏ trợ cấp cho nhiên liệu hóa thạch, và hỗ trợ kinh tế tuần hoàn Ngoài ra, cần đảm bảo rằng các đối tác thương mại tuân thủ các tiêu chuẩn môi trường cao và phát thải carbon thấp, cùng với việc trợ cấp cho các sáng kiến bền vững.
Gần 150 quốc gia đã cam kết mục tiêu trung hòa carbon vào giữa thế kỷ, với các nước G7 và nhiều ngân hàng lớn như Ngân hàng Thế giới và Ngân hàng Phát triển Châu Á ngừng tài trợ cho các dự án điện sử dụng than Các biện pháp như đánh thuế hàng hóa nhập khẩu dựa trên carbon, thúc đẩy thương mại hàng hóa xanh, và xóa bỏ trợ cấp nhiên liệu hóa thạch đang được áp dụng rộng rãi Những nỗ lực này nhằm khuyến khích các quốc gia phát triển kinh tế carbon thấp, sử dụng năng lượng sạch và hỗ trợ các ngành công nghiệp ít phát thải.
Tại Hội nghị COP26, Việt Nam đã nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng quốc tế nhờ vào các cam kết mạnh mẽ và ý kiến đóng góp có trách nhiệm, mở ra nhiều cơ hội hợp tác trong việc phát triển kinh tế tuần hoàn và thích ứng với biến đổi khí hậu Các đối tác phát triển trong và ngoài nước đã thể hiện mong muốn hợp tác để thực hiện các cam kết này Cam kết đạt phát thải ròng bằng “0” và tham gia giảm phát thải mê-tan đã gửi đi tín hiệu mạnh mẽ, tạo điều kiện cho Việt Nam thu hút nguồn tài chính toàn cầu cho phát triển ít phát thải.
2.1.2 Xu thế về giảm phát thải khí nhà kính
Yêu cầu quốc tế về giảm phát thải khí nhà kính
Tại Hội nghị COP21 năm 2015, các quốc gia đã thông qua Thoả thuận Paris về BĐKH, đánh dấu một bước tiến lịch sử trong việc cam kết giảm thiểu phát thải khí nhà kính Thoả thuận này thiết lập một cơ sở pháp lý toàn cầu, ràng buộc trách nhiệm của các bên tham gia trong việc giữ nhiệt độ trung bình toàn cầu không vượt quá 2 độ C, với nỗ lực giới hạn mức tăng ở mức 1,5 độ C vào cuối thế kỷ 21.
Từ năm 2015 đến 2018, các Bên đã đạt được đồng thuận về Hướng dẫn thực hiện Thỏa thuận Paris, được gọi là Bộ quy tắc khí hậu Katowice tại COP24, Ba Lan Bộ quy tắc này bao gồm các hướng dẫn quan trọng liên quan đến Khung minh bạch tăng cường (ETF) theo Điều 13 Thỏa thuận Paris và Quyết định số 1/CP.21 của COP21 Nội dung chính của Bộ quy tắc tập trung vào việc đảm bảo tính minh bạch trong các hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu, bao gồm cả giảm nhẹ phát thải khí nhà kính và hỗ trợ ứng phó với biến đổi khí hậu.
Theo quy định của Bộ Quy tắc khí hậu Katowice, các hoạt động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính (KNK) của quốc gia sẽ được theo dõi và giám sát chi tiết theo từng dự án trong giai đoạn cam kết Điều này bao gồm kiểm kê KNK, quy trình MRV mức giảm nhẹ phát thải, phương pháp luận và kỹ thuật sử dụng, nguồn dữ liệu, cũng như kiểm soát và đảm bảo chất lượng (QA/QC) Các quy trình này cần được tích hợp vào hệ thống Đo đạc, Báo cáo, Thẩm định (MRV) của các quốc gia, nhằm tạo ra khung minh bạch theo hướng dẫn của UNFCCC và được thể hiện thành chính sách cấp quốc gia và ngành Đặc biệt, các yêu cầu quốc tế về tính minh bạch trong hoạt động giảm nhẹ phát thải KNK từ cấp quốc gia đến cơ sở cần đáp ứng tiêu chuẩn của ETF từ năm 2024 trở đi.
Trong xây dựng hệ thống MRV các cấp, cần thực hiện trên cơ sở một số nguyên tắc sau:
- Phải phù hợp với các định hướng và quan điểm chỉ đạo trong các văn bản pháp lý hiện hành
Đảm bảo tính thống nhất giữa các chủ thể quản lý, bất kể chức năng và nhiệm vụ cụ thể của họ, là điều cần thiết để tất cả cùng hướng đến một mục tiêu và nhiệm vụ chung.
Để đảm bảo tính hiệu quả trong công tác quản lý giảm nhẹ phát thải khí nhà kính, cần thực hiện rà soát chức năng và nhiệm vụ của từng cấp Việc này giúp xác định rõ trách nhiệm và vai trò của mỗi cấp trong quá trình quản lý, từ đó nâng cao hiệu quả công tác giảm thiểu khí thải.
- Bảo đảm tính phù hợp đối với khả năng của cơ quan quản lý nhà nước và các yếu tố khách quan của thực tiễn
Cùng với Gói Thoả thuận khí hậu Katowice được thông qua tại COP24 năm
Vào năm 2018, Gói Thoả thuận khí hậu Glasgow đã được thông qua tại COP26, hoàn thiện Bộ quy tắc hướng dẫn thực hiện Thoả thuận Paris, tạo nền tảng cho các quốc gia triển khai Thoả thuận này trong nước Điều này thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương, đồng thời khuyến khích sự tham gia của khối doanh nghiệp trong ứng phó với biến đổi khí hậu Việc giảm phát thải khí nhà kính, thích ứng với biến đổi khí hậu, hỗ trợ tài chính, chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực sẽ được thực hiện thông qua các quy định minh bạch và chặt chẽ, thuận lợi cho giám sát quốc tế Các nội dung đàm phán trong tương lai sẽ tập trung vào việc đánh giá tuân thủ các quy định của Thoả thuận Paris, xử lý các vấn đề liên quan đến hợp tác phát triển, và làm rõ cách huy động và sử dụng tài chính khí hậu nhằm hỗ trợ các nước đang phát triển.
Đóng góp về giảm phát thải của một số nước trên thế giới
Để giảm phát thải khí nhà kính toàn cầu từ năm 2020, các bên tham gia UNFCCC cần thực hiện các Đóng góp cụ thể Điều này chủ yếu thông qua Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC), mà sau này đã được chính thức hóa thành Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC).
Theo Quyết định số 1/CP.21 của COP21, các Bên tham gia UNFCCC được yêu cầu cập nhật NDC và hoàn thành việc này trong năm 2020 Đến nay, gần 143 Bên, bao gồm 142 quốc gia và Cộng đồng chung châu Âu, đã gửi bản NDC cập nhật Nội dung các NDC cập nhật này tập trung vào việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính thông qua nhiều biện pháp khác nhau, bao gồm chính sách, công nghệ trong năng lượng, công nghiệp, giao thông vận tải, nông nghiệp, và quản lý đất đai và chất thải trong giai đoạn 2021-2030, với tầm nhìn đến năm 2050.
Mức độ và phương thức đóng góp vào việc giảm nhẹ phát thải khí nhà kính của các quốc gia khác nhau, với các biện pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu trong một khoảng thời gian nhất định Bảng 2.1 dưới đây tóm tắt thông tin về các mục tiêu giảm nhẹ phát thải khí nhà kính đến năm 2030 trong các NDC/INDC.
Bài viết đề cập đến 17 nhóm nước được lựa chọn, bao gồm cả các Bên thuộc và không thuộc Phụ lục I của UNFCCC, như Cộng đồng chung châu Âu, Vương Quốc Anh, Hoa Kỳ, Nhật Bản, Úc, Nga, Trung Quốc, Ấn Độ, Nam Phi, Brazil, Hàn Quốc, Mexico, Indonesia, Philippines, Thái Lan và Malaysia.
Bảng 2.10.Thông tin tóm tắt về mục tiêu giảm nhẹ đến 2030 của một số Bên tham gia UNFCCC
STT Quốc gia Đóng góp vô điều kiện Đóng góp có điều kiện
Khí nhà kính và lĩnh vực
Vào năm 2020, Việt Nam cam kết giảm ít nhất 55% lượng phát thải khí nhà kính trong nước vào năm 2030 so với năm 1990, mà không phụ thuộc vào các khoản tín dụng quốc tế.
CH 4 , N 2 O, HFCs, PFCs, SF6, NF3 Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp, rác thải, nông nghiệp,
Vương quốc Anh cam kết giảm ít nhất 68%
KNK vào năm 2030 so với mức năm 1990
- Các lĩnh vực: năng lượng bao gồm giao thông, Các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm, nông nghiệp, LULUCF, chất thải
Hoa Kỳ Giảm 50-52% dưới mức
Năng lượng (Ngành điện, giao thông vận tải, tòa nhà, công nghiệp); nông nghiệp và đất
(NDC cập nhật của Đặt ra mục tiêu mới so với cam kết giảm 26%
STT Quốc gia Đóng góp vô điều kiện Đóng góp có điều kiện
Khí nhà kính và lĩnh vực
Dân số, GDP năm 2020) thành 46% vào năm
2030 và tiếp tục đặt ra thách thức cao hơn giảm 50%
- Các lĩnh vực: năng lượng, Các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm, nông nghiệp,
5.049 tỷ USD Úc (NDC cập nhật năm 2020)
Thực hiện mục tiêu đầy tham vọng trên toàn nền kinh tế là giảm lượng phát thải khí nhà kính xuống từ 26 đến 28% so với mức năm 2005 vào năm 2030
- Các lĩnh vực: năng lượng, Các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm, nông nghiệp,
Mục tiêu giảm phát thải khí nhà kính vào năm
2030 tới mức 70% so với mức năm 1990
Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm, nông nghiệp, rác thải, LULUCF
- Đạt mức phát thải đỉnh vào năm 2030 và nỗ lực hết sức để sớm đạt phát thải đỉnh;
CO 2 trên một đơn vị GDP từ 60% đến 65% so với mức năm 2005;
- Tăng tỷ trọng của nhiên liệu không hóa thạch trong tiêu thụ năng lượng sơ cấp lên khoảng 20%; và
STT Quốc gia Đóng góp vô điều kiện Đóng góp có điều kiện
Khí nhà kính và lĩnh vực
- Tăng trữ lượng rừng khoảng 4,5 tỷ mét khối so với năm 2005
- Trung Quốc sẽ tăng cường mục tiêu khí hậu năm 2030 (NDC), đạt phát thải đỉnh trước năm
2030 và hướng tới mục tiêu đạt được trung hòa các-bon trước năm
Giảm cường độ phát thải theo GDP từ 33 đến 35% vào năm 2030 so với mức năm 2005
-Các lĩnh vực: năng lượng, nông nghiệp, lâm nghiệp, rác thải
Phát thải của Nam Phi vào năm 2025 và 2030 sẽ nằm trong khoảng từ
Theo chính sách quốc gia, lượng CO2 tương đương được xác định nằm trong khoảng từ 398 đến 614 triệu tấn Đây là tiêu chuẩn quan trọng để đánh giá hiệu quả của các hành động giảm nhẹ phát thải khí nhà kính.
-Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp và sử dụng sản phẩm, rác thải, Nông nghiệp, lâm nghiệp và sử dụng đất khác (AFOLU)
Giảm 37% lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính vào năm 2025 so với năm 2005 Ngoài ra, Brazil còn cam kết giảm 43% lượng khí thải vào năm 2030, so với năm
Mục tiêu trung hòa các bon vào năm 2060, có thể sớm hơn vào năm
2050 khi cơ chế thị trường đi vào hoạt động
-Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp, rác thải, nông nghiệp,
Mục tiêu được cập nhật là giảm 24,4% từ tổng lượng phát thải KNK quốc gia vào năm 2017, là 709,1
STT Quốc gia Đóng góp vô điều kiện Đóng góp có điều kiện
Khí nhà kính và lĩnh vực
Dân số, GDP tỉ t-CO2 tđ vào năm
-Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp, nông nghiệp, LULUCF, quản lý chất thải
Giảm 22% lượng phát thải KNK và 51% lượng phát thải cácbon đen vào năm 2030, so với kịch bản BAU
Các cam kết có điều kiện cho thấy rằng việc giảm phát thải khí nhà kính có thể đạt mức tăng lên đến 36% và giảm 70% phát thải carbon đen nếu được cung cấp nhiều nguồn lực hơn để thực hiện các biện pháp cần thiết.
-Loại KNK: CO2, CH4, N2O, SF6, PFCs, SLCP, HFCs
-Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp, rác thải, nông nghiệp, rừng và các mục đích sử dụng đất khác
Cam kết giảm 29% lượng phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường vào năm
Cắt giảm lên đến 41% lượng phát thải KNK trong điều kiện được tiếp cận phát triển và chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực, hợp tác quốc tế
-Các lĩnh vực: năng lượng, quản lý chất thải, IPPU, nông nghiệp, FOLU
Philippines cam kết giảm và tránh phát thải KNK dự kiến là 75%, trong đó 2,71% là vô điều kiện Đạt phát thải đỉnh vào năm 2030
Giảm và tránh phát thải KNK dự kiến 72,29% có điều kiện, thể hiện tham vọng của nước này trong việc giảm nhẹ phát thải KNK cho giai đoạn 2020 đến
- Các lĩnh vực: nông nghiệp, chất thải, công nghiệp, giao thông vận tải và năng lượng
(NDC cập nhật của năm 2020)
Giảm 20% phát thải KNK so với kịch bản phát triển thông thường vào năm 2030
Giảm 25% trong điều kiện được tiếp cận phát triển và chuyển giao công nghệ, tăng cường năng lực, hợp tác quốc
-Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp,
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) Thái Lan
STT Quốc gia Đóng góp vô điều kiện Đóng góp có điều kiện
Khí nhà kính và lĩnh vực
Dân số và GDP đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy hợp tác quốc tế dựa trên thị trường, nhằm giảm phát thải khí nhà kính (KNK) và phát triển bền vững Ngành nông nghiệp, LULUCF và quản lý rác thải cũng cần được chú trọng Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, GDP năm 2020 đạt 501,79 tỷ USD.
- NDC 2015: Đạt 35% cường độ phát thải khí nhà kính trên 1 đơn vị GDP vào năm 2030 so với mức năm 2005
- NDC 2021: Đạt 45% cường độ phát thải khí nhà kính trên 1 đơn vị GDP vào năm 2030 so với mức năm 2005
10% trong tổng số 45% là khoản đóng góp có điều kiện khi nhận hỗ trợ tài chính, khoa học công nghệ và nâng cao năng lực từ các quốc gia phát triển.
- CO2, CH4, N2O, HFCs, PFCs, SF6 và NF3 (năm
- Các lĩnh vực: năng lượng, các quá trình công nghiệp, rác thải, nông nghiệp,
- Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2020 của
Malaysia là 336.66 tỷ USD (WB)
Việt Nam đã tham gia Công ước khung của Liên hợp quốc về BĐKH (UNFCCC) từ năm 1994 và tích cực triển khai nhiều hoạt động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) do là một nước đang phát triển chịu nhiều tác động từ vấn đề này Để thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của một Bên tham gia UNFCCC, Nghị định thư Kyoto và Thỏa thuận Paris về BĐKH, Việt Nam đã gửi Đóng góp dự kiến do quốc gia tự quyết định (INDC) vào năm 2015 và cập nhật Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) vào năm 2020, nhằm bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất.
Trong thời gian qua, Việt Nam đã nhận được sự quan tâm và chỉ đạo chặt chẽ từ Đảng, Quốc hội và Chính phủ trong công tác ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) Các Bộ, ngành và địa phương cũng nỗ lực thực hiện các giải pháp nhằm tạo ra hành lang pháp lý cho hoạt động BĐKH, thúc đẩy phát triển nền kinh tế các bon thấp và tăng trưởng xanh Hiện tại, Việt Nam đang xây dựng một số văn bản quy phạm pháp luật về BĐKH, phù hợp với bối cảnh toàn cầu và điều kiện trong nước.
Tại Hội nghị COP26, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã cùng 124 nguyên thủ quốc gia tham gia và cam kết đưa phát thải ròng về “0” vào giữa thế kỷ Ông cũng tham gia sự kiện công bố Cam kết giảm phát thải mê-tan toàn cầu với 103 nguyên thủ quốc gia khác và ký Tuyên bố Glasgow về rừng và sử dụng đất với đại diện của 141 quốc gia Để thực hiện các cam kết này, Ban chỉ đạo quốc gia đã được thành lập với sự tham gia của các Bộ trưởng từ các bộ như Tài nguyên và Môi trường, Công Thương, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Giao thông vận tải, và nhiều bộ khác, nhằm triển khai các cam kết của Việt Nam tại COP26.
Trong bối cảnh trên, Chiến lược quốc gia về BĐKH giai đoạn đến năm 2050 được xây dựng và sẽ ban hành trong năm 2022
2.2.1 Quan điểm chiến lược của Việt Nam trong ứng phó với BĐKH
Quan điểm chiến lược trong ứng phó với BĐKH của Việt Nam đến năm
Đến năm 2050, chiến lược phát triển sẽ kế thừa có chọn lọc nội dung từ Chiến lược 2011-2020, đồng thời điều chỉnh và bổ sung những điểm mới phù hợp với quan điểm và mục tiêu của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ 13 Ngoài ra, kế hoạch này cũng sẽ tiếp tục thực hiện theo Kết luận 56-KL/TW ngày 23/8/2019 của Bộ Chính trị, nhằm thúc đẩy các nghị quyết của Trung ương 7 khóa.
Nghị quyết 24-NQ/TW nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và tăng cường quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường Chiến lược phát triển kinh tế giai đoạn 2021-2030 cũng được xây dựng với mục tiêu bền vững, nhằm đáp ứng các thách thức từ BĐKH Việt Nam cam kết tại Hội nghị COP26 hướng tới mục tiêu phát thải ròng bằng không, thể hiện quyết tâm trong việc giảm thiểu tác động của BĐKH và thúc đẩy phát triển xanh.
Biến đổi khí hậu (BĐKH) đang là một thách thức nghiêm trọng, ảnh hưởng sâu sắc đến đời sống xã hội toàn cầu Chiến lược ứng phó BĐKH tại Việt Nam không chỉ là nhu cầu cấp thiết trong nước mà còn là nghĩa vụ quốc tế, thể hiện qua việc thực hiện Thỏa thuận Paris và các điều ước quốc tế khác mà Việt Nam tham gia Điều này nhằm bảo vệ hệ thống khí hậu của trái đất.
Ở cấp quốc gia
Khí hậu Việt Nam đang diễn biến theo xu hướng bất lợi với sự gia tăng nhiệt độ, nước biển dâng và các hiện tượng khí hậu cực đoan như sương muối và nắng nóng Những tác động rõ rệt của biến đổi khí hậu (BĐKH) đã ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội, đời sống con người, môi trường và các hệ sinh thái.
Nhận thức rõ về tác động, thách thức và cơ hội của biến đổi khí hậu (BĐKH) đối với phát triển bền vững, Chính phủ Việt Nam đã triển khai nhiều chính sách thể hiện quyết tâm ứng phó với BĐKH Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 24-NQ/TW nhằm chủ động ứng phó, quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường Chiến lược quốc gia về BĐKH đã được phê duyệt, xác định hướng đi trong ứng phó với BĐKH, cùng với Kế hoạch hành động quốc gia giai đoạn 2012-2020, đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trong việc thực hiện chiến lược này.
Chiến lược quốc gia về BĐKH, được phê duyệt tại Quyết định số 2139/QĐ-TTg ngày 05 tháng 12 năm 2011, nhằm phát huy năng lực toàn quốc trong việc thích ứng với tác động của BĐKH và giảm phát thải khí nhà kính Mục tiêu của chiến lược bao gồm bảo đảm an toàn cho người dân và tài sản, hướng tới phát triển bền vững Đồng thời, chiến lược cũng tập trung vào việc tăng cường khả năng thích ứng với BĐKH của con người và hệ thống tự nhiên, phát triển nền kinh tế các-bon thấp, nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống và bảo đảm an ninh quốc gia trong bối cảnh BĐKH toàn cầu, đồng thời tích cực tham gia bảo vệ hệ thống khí hậu trái đất cùng cộng đồng quốc tế.
Kế hoạch hành động quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2012 - 2020, được Thủ tướng Chính phủ ban hành tại Quyết định số 1474/QĐ-TTg ngày 05 tháng 10 năm 2012, nhằm đạt được 10 mục tiêu quan trọng Các mục tiêu này bao gồm: tăng cường năng lực giám sát khí hậu và cảnh báo thiên tai; bảo đảm an ninh lương thực và nước; chủ động ứng phó với thiên tai và chống ngập cho các thành phố lớn; giảm phát thải khí nhà kính và phát triển kinh tế theo hướng các-bon thấp; nâng cao năng lực quản lý và hoàn thiện cơ chế chính sách về biến đổi khí hậu; huy động sự tham gia của các thành phần kinh tế và tổ chức xã hội; nâng cao nhận thức và phát triển nguồn nhân lực; phát triển khoa học và công nghệ phục vụ chính sách và giải pháp ứng phó; hợp tác quốc tế để nâng cao vị thế của Việt Nam; và huy động nguồn lực tài chính cho ứng phó với biến đổi khí hậu Để thực hiện các mục tiêu này, Kế hoạch đã đề ra 65 đề án và nhiệm vụ trong giai đoạn 2012 - 2020 cùng 10 chương trình ưu tiên trong giai đoạn 2012 - 2015.
Nhiều luật và chương trình quan trọng đã được ban hành nhằm bảo vệ môi trường và ứng phó với biến đổi khí hậu tại Việt Nam, bao gồm Luật bảo vệ môi trường 2014 và 2020, Quy hoạch phát triển giao thông vận tải vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, cùng với Kế hoạch bảo vệ và phát triển rừng giai đoạn 2011-2020 Các quyết định như lồng ghép BĐKH trong Chiến lược Giao thông vận tải Việt Nam, Đề án phát triển đô thị ứng phó với BĐKH đến 2020, và Quy hoạch mạng lưới quan trắc tài nguyên và môi trường quốc gia giai đoạn 2016-2025 cũng đã được thực hiện Ngoài ra, các chương trình mục tiêu giai đoạn 2016-2020 và Kế hoạch thực hiện thỏa thuận Paris về BĐKH cũng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển lâm nghiệp bền vững và bảo vệ rừng ven biển.
Trong giai đoạn 2015 - 2020, Việt Nam đã ban hành nhiều quyết định quan trọng nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai, bao gồm Quyết định số 120/QĐ-TTg ngày 22/01/2015 và Quyết định số 770/QĐ-TTg ngày 23/6/2019 Chương trình mục tiêu ứng phó với BĐKH và TTX giai đoạn 2016-2020 được xác định qua Quyết định số 1670/QĐ-TTg ngày 31/10/2017, cùng với Văn kiện chương trình SPR-CC giai đoạn 2016 - 2020 theo Quyết định số 2044/QĐ-TTg ngày 27/10/2017 Ngoài ra, Nghị quyết số 120/NQ-CP ngày 17/11/2017 đã nhấn mạnh phát triển bền vững đồng bằng sông Cửu Long thích ứng với BĐKH Đặc biệt, Đóng góp do quốc gia tự quyết định (NDC) của Việt Nam đã được cập nhật vào năm 2020 thông qua Văn bản số 1982/VPCP-QHQT ngày 24/7/2020.
Chiến lược tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 được quy định tại Quyết định số 1658/QĐ-TTg ngày 01/10/2021 của Thủ tướng Chính phủ Sau COP26, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 06/2022/NĐ-CP ngày 07/01/2022 nhằm giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ô-dôn Đồng thời, Quyết định số 01/2022/QĐ-TTg ngày 18/01/2022 đã công bố danh mục lĩnh vực và cơ sở phát thải khí nhà kính cần thực hiện kiểm kê khí nhà kính.
Ở cấp bộ, ngành
Các Bộ, ngành đã triển khai nhiều chính sách và chương trình nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu, trong đó có việc xây dựng Kế hoạch thực hiện cam kết của Việt Nam tại Hội nghị COP26, với mục tiêu đạt phát thải ròng bằng "0" vào năm 2050 Một số chính sách tiêu biểu đã được áp dụng theo từng ngành lĩnh vực.
- Bộ Tài nguyên và Môi trường: Thông tư số 01/2022/TT-BTNMT ngày
Vào ngày 07/01/2022, các quy định chi tiết thi hành Luật Bảo vệ môi trường về ứng phó với biến đổi khí hậu đã được ban hành Bộ Tài nguyên và Môi trường đã thực hiện nhiều kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu, bao gồm giai đoạn 2011-2015 theo Quyết định số 2418/QĐ-BTNMT ngày 20/12/2010, giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 672/QĐ-BTNMT ngày 31/3/2017, và kế hoạch thực hiện Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định số 2967/QĐ-BTNMT ngày 23/11/2017.
- Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Kế hoạch hành động ứng phó với
Trong giai đoạn 2011-2015, ngành Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã triển khai BĐKH theo Quyết định số 543/QĐ-BNN-KHCN ngày 23/3/2011, với tầm nhìn đến năm 2050 Tiếp theo, Kế hoạch hành động ứng phó BĐKH cho giai đoạn 2016-2020 và tầm nhìn 2050 được ban hành theo Quyết định số 819/QĐ-BNN-KHCN ngày 14/3/2016, nhằm nâng cao khả năng thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu trong lĩnh vực nông nghiệp.
Bộ Xây dựng đã triển khai các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu cho ngành xây dựng trong giai đoạn 2014-2020, cụ thể là Quyết định số 209/QĐ-BXD ban hành ngày 04/3/2014 và Quyết định số 811/QĐ-BXD ngày 18/8/2016 cho giai đoạn 2016-2020 Những kế hoạch này nhằm nâng cao khả năng thích ứng và giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu đối với ngành xây dựng, đảm bảo phát triển bền vững.
- Bộ Giao thông vận tải: Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Bộ
Giai đoạn 2011-2015, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành nhiều quyết định quan trọng nhằm phát triển bền vững ngành giao thông, bao gồm Quyết định số 199/QĐ-BGTVT ngày 26/01/2011 và Kế hoạch hành động về phát triển bền vững giai đoạn 2013-2015 (Quyết định số 4088/QĐ-BGTVT ngày 12/12/2013) Đặc biệt, Chỉ thị 02/CT-BGTVT ngày 18/02/2014 nhấn mạnh việc ứng phó chủ động với biến đổi khí hậu và sử dụng hiệu quả tài nguyên Tiếp theo, Kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai giai đoạn 2016-2020 (Quyết định số 1456/QĐ-BGTVT ngày 11/5/2016) tiếp tục khẳng định cam kết của Bộ trong việc phát triển bền vững và bảo vệ môi trường.
- Bộ Công thương: Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của Bộ Công thương (Quyết định số 4103/QĐ-BCT ngày 03/8/2010); Kế hoạch hành động của
Bộ Công thương đã thực hiện Nghị quyết số 08/NQ-CP ngày 23/01/2014 của Chính phủ, nhằm thi hành Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa XI Mục tiêu là chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, theo Quyết định số 9792/QĐ-BCT ngày 30/10/2014.
- Bộ Y tế: Kế hoạch hành động ứng phó với BĐKH của ngành y tế giai đoạn
2019-2030 và tầm nhìn đến năm 2050 (Quyết định số 7562/QĐ-BYT ngày 24/12/2018)
Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành các kế hoạch hành động nhằm thực hiện Chiến lược quốc gia phòng, chống và giảm nhẹ thiên tai trong ngành giáo dục giai đoạn 2011-2020, theo Quyết định số 4068/QĐ-BGDĐT ngày 08/9/2011 Đặc biệt, trong năm 2013, Bộ đã triển khai công tác phòng, chống thiên tai, lụt, bão và tìm kiếm cứu nạn, cùng với việc thực hiện kế hoạch hành động quốc gia cho giai đoạn 2012-2020 theo Chỉ thị số 1813/CT-BGDĐT ngày 29/7/2013 Ngoài ra, Bộ cũng đã xây dựng kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững trong lĩnh vực Giáo dục và Đào tạo đến năm 2025, với định hướng đến năm 2030 theo Quyết định số 2161/QĐ-BGDĐT.
Vào ngày 21 tháng 6 năm 2017, chương trình giáo dục phổ thông đã quy định việc tích hợp kiến thức về ứng phó với biến đổi khí hậu vào chương trình giáo dục tổng thể Điều này được xác định trong Thông tư số 32/2018/TT-BGDĐT ban hành ngày 26 tháng 12 năm 2018.
Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch đã ban hành kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định số 2235/QĐ-BVHTTDL ngày 19/6/2013, và tiếp tục triển khai kế hoạch giai đoạn 2021-2030 với tầm nhìn đến 2050 theo Quyết định số 4864/QĐ-BVHTTDL ngày 31/12/2019.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội: Kế hoạch hành động ứng phó với
Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã triển khai các quyết định quan trọng về biến đổi khí hậu trong giai đoạn 2011-2015, cụ thể là Quyết định số 403/QĐ-LĐTBXH ngày 30/3/2011 Đồng thời, bộ cũng đã xây dựng Kế hoạch thực hiện thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu cho giai đoạn 2019-2020 và 2021, nhằm tăng cường nỗ lực ứng phó với biến đổi khí hậu.
2030 (Quyết định số 1290/QĐ-LĐTBXH ngày 11/9/2019).
Ở cấp địa phương
Nhằm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2012-2015 theo Quyết định số 1138/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, tất cả các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã xây dựng và ban hành kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu Nhiều địa phương cũng đã cập nhật kế hoạch này để phù hợp với tình hình mới.
Theo Chương trình mục tiêu ứng phó với biến đổi khí hậu và thiên tai giai đoạn 2016-2020, các tỉnh, thành phố đã triển khai các kế hoạch hành động ứng phó với biến đổi khí hậu giai đoạn 2021-2030 Một số địa phương đã hoàn thành và ban hành bản cập nhật kế hoạch, bao gồm kế hoạch chi tiết thực hiện Thỏa thuận Paris và đánh giá khí hậu địa phương.
2.2.4 Tài chính và đầu tư cho ứng phó với BĐKH
Trong giai đoạn 2011-2020, Việt Nam đã có những tiến bộ đáng kể trong việc huy động đầu tư cho biến đổi khí hậu (BĐKH) và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững Tuy nhiên, nguồn lực tài chính để thực hiện chiến lược quốc gia về BĐKH vẫn còn thấp so với nhu cầu thực tế, với khoảng 55,85 tỷ USD cần thiết cho Chương trình mục tiêu về BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 Kế hoạch đầu tư công trung hạn chỉ đáp ứng được khoảng 24 tỷ USD, trong khi phần còn lại cần được huy động từ khu vực doanh nghiệp Để thu hẹp khoảng cách giữa nhu cầu đầu tư và dòng tài chính thực tế, cần cải thiện cơ chế và chính sách nhằm thu hút đầu tư từ cả doanh nghiệp Nhà nước và tư nhân, lĩnh vực chưa phát huy hết tiềm năng của mình.
Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu giai đoạn 2011-2020 đã nhấn mạnh việc "đa dạng hóa các nguồn lực tài chính và tập trung đầu tư có hiệu quả" như một trong mười nhiệm vụ chiến lược Điều này bao gồm việc huy động và sử dụng hiệu quả nguồn lực từ ngân sách nhà nước, tài trợ quốc tế, cũng như vốn từ các tổ chức, cá nhân và doanh nghiệp trong và ngoài nước để đầu tư cho ứng phó với biến đổi khí hậu Ngày 31 tháng 10 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó biến đổi khí hậu và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 tại Quyết định số 1670/QĐ-TTg, kết nối các mục tiêu về biến đổi khí hậu với nguồn vốn đầu tư và vốn sự nghiệp.
Đầu tư công
Ngày 31 tháng 10 năm 2017, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình mục tiêu ứng phó BĐKH và tăng trưởng xanh giai đoạn 2016-2020 tại Quyết định số 1670/QĐ-TTg có gắn kết các mục BĐKH với nguồn vốn đầu tư phát triển và nguồn vốn sự nghiệp bảo vệ môi trường
Nội dung chi từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) cho bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững bao gồm hai phần chính: (i) chi đầu tư phát triển cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và tổ chức, cùng với việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó BĐKH; và (ii) chi thường xuyên, bao gồm các hoạt động của cơ quan, bộ máy liên quan đến BVMT, BĐKH và phát triển bền vững ở cả trung ương và địa phương, cũng như việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH.
Nội dung chi từ Ngân sách Nhà nước (NSNN) cho bảo vệ môi trường (BVMT), ứng phó với biến đổi khí hậu (BĐKH) và phát triển bền vững bao gồm hai loại chính: (i) chi đầu tư phát triển cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội, hỗ trợ doanh nghiệp và tổ chức, cũng như thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó BĐKH; và (ii) chi thường xuyên cho hoạt động của các cơ quan, bộ máy liên quan đến BVMT, BĐKH và phát triển bền vững ở cả trung ương và địa phương, cùng với việc thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia về ứng phó với BĐKH.
Từ năm 2013 đến năm 2020, việc đầu tư cho biến đổi khí hậu (BĐKH) ở Việt Nam đã được rà soát tại 10 bộ ngành, trong đó Bộ Giao thông vận tải, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, và Bộ Tài nguyên và Môi trường là ba bộ có mức chi đầu tư cao nhất Trung bình, Bộ Giao thông vận tải đã chi khoảng 443 tỷ đồng mỗi năm cho các hoạt động giảm nhẹ BĐKH, trong khi Bộ Tài nguyên và Môi trường và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn lần lượt chi bình quân 40,3 tỷ đồng và 37,8 tỷ đồng mỗi năm.
Trong bối cảnh tỷ trọng chi đầu tư công cho thích ứng với biến đổi khí hậu (BĐKH) đang giảm, tỷ trọng chi cho các dự án giảm nhẹ phát thải khí nhà kính lại có xu hướng tăng, mặc dù vẫn còn ở mức thấp Điều này cho thấy Chính phủ đang ưu tiên cao cho các dự án trồng, khôi phục và phát triển rừng, đặc biệt là rừng ven biển và rừng đầu nguồn, vì những dự án này không chỉ phục vụ mục đích thích ứng với BĐKH mà còn góp phần giảm thiểu phát thải khí nhà kính.
Chi cho bảo vệ môi trường (BVMT) trong ngân sách nhà nước (NSNN) đã tăng đều đặn từ năm 2011 đến 2020, thể hiện sự quan tâm ngày càng cao đối với biến đổi khí hậu (BĐKH) Sự gia tăng này diễn ra cả ở cấp trung ương và địa phương, cho thấy cam kết mạnh mẽ trong việc bảo vệ môi trường.
Các bộ như Giao thông vận tải, Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Công Thương, Xây dựng, Y tế, Giáo dục và Đào tạo, Khoa học và Công nghệ, Văn hóa, Thể thao và Du lịch, Tài nguyên và Môi trường, cùng với Thông tin và Truyền thông, đều có nhiệm vụ chi ngân sách cho bảo vệ môi trường (BVMT) Đáng chú ý, chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho BVMT tại cấp địa phương chiếm tỷ trọng cao, với mức trung bình trong giai đoạn 2011.
Trong năm 2020, chi ngân sách nhà nước (NSNN) cho sự nghiệp môi trường chiếm 85,5% tổng chi NSNN, với tốc độ tăng trưởng đạt 10,2% trong giai đoạn 2011 - 2020, cao hơn mức tăng chung của NSNN là 7,2% Từ năm 2013 đến 2020, tổng chi ngân sách cho sự nghiệp môi trường đạt gần 129,8 ngàn tỷ đồng, trong đó khoảng 11,5% là từ ngân sách trung ương và hơn 88,5% từ ngân sách địa phương Tổng quan, chi thường xuyên NSNN cho sự nghiệp bảo vệ môi trường trong giai đoạn 2011 cho thấy sự đầu tư đáng kể vào lĩnh vực này.
- 2020 luôn đảm bảo đạt tỷ lệ khoảng 1% tổng chi ngân sách nhà nước và tăng dần hàng năm
Trong giai đoạn 2010-2015, có 08 trong tổng số 16 Chương trình mục tiêu quốc gia (CTMTQG) trực tiếp thực hiện các mục tiêu của Chiến lược quốc gia về biến đổi khí hậu (BĐKH) và Chiến lược tăng trưởng xanh Các chương trình còn lại đóng góp gián tiếp, bao gồm: (1) Giảm nghèo bền vững; (2) Nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn; (3) Y tế; (4) Vệ sinh an toàn thực phẩm.
Sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; (6) Ứng phó với BĐKH ; (7) Xây dựng nông thôn mới; (8) Khắc phục và cải thiện ô nhiễm môi trường
Giai đoạn 2016-2020, số Chương trình mục tiêu quốc gia giảm từ 16 xuống còn 02 chương trình chính: (i) Giảm nghèo bền vững và (ii) Xây dựng nông thôn mới Nguyên nhân của sự giảm này là do mục tiêu của 16 chương trình trước quá rộng, nguồn lực chưa đảm bảo và tổ chức thực hiện còn hạn chế, dẫn đến hiệu quả thấp Hai chương trình mới này tập trung giải quyết các vấn đề cấp quốc gia, bao gồm nhiều dự án đường bộ và cấp nước liên quan đến thích ứng với biến đổi khí hậu Ngoài ra, các chương trình trước không bị loại bỏ hoàn toàn mà được rà soát và sắp xếp hợp lý trong 21 chương trình mục tiêu với 37 dự án thành phần, nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Tổng số vốn phê duyệt cho 21 chương trình mục tiêu trong giai đoạn này đạt khoảng 1,14 triệu tỷ đồng (tương đương 51 tỷ USD) trên toàn quốc.
Trong số 21 Chương trình mục tiêu, có nhiều chương trình liên quan trực tiếp và gián tiếp đến biến đổi khí hậu (BĐKH) và tăng trưởng xanh, trong đó nổi bật là chương trình “Ứng phó với BĐKH và tăng trưởng xanh” với tổng vốn thực hiện lên tới 15.866 tỷ đồng Cụ thể, vốn đầu tư phát triển từ ngân sách trung ương đạt 470 tỷ đồng, vốn sự nghiệp từ ngân sách trung ương là 396 tỷ đồng, và vốn ODA lên đến 15.000 tỷ đồng Mục tiêu tổng quát của chương trình là đồng thời thực hiện Chiến lược quốc gia về BĐKH và Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, đồng thời cam kết của Việt Nam với cộng đồng quốc tế trong việc bảo vệ khí hậu Trái đất, tạo điều kiện thu hút thêm hỗ trợ vốn đầu tư từ quốc tế.
8 Nghị quyết 100/2015/QH13 của Quốc hội ngày 12 tháng 11 năm 2015 về phê duyệt chủ trương các chương trình mục tiêu quốc gia giai đoạn 2016-2020
Trong giai đoạn 2015-2020, ngân sách nhà nước (NSNN) dành cho biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam ước tính khoảng 166,2 ngàn tỷ đồng mỗi năm, chiếm 10,9% tổng chi NSNN và 3% GDP năm 2018 Trong đó, chi cho các hoạt động chống chịu đạt khoảng 55 ngàn tỷ đồng, trong khi chi cho thích ứng lên tới 111,2 ngàn tỷ đồng Theo UNDP (2015b), mức chi cho ứng phó với BĐKH của Việt Nam cao hơn so với một số quốc gia trong khu vực như Thái Lan (0,53% GDP), Campuchia (1,64% GDP) và Vanuatu (2,74% GDP).
Nguồn vốn viện trợ phát triển nước ngoài
Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang hợp tác với các bộ ngành, Ngân hàng Thế giới và các nhà tài trợ để đánh giá việc cung cấp ODA cho biến đổi khí hậu (BĐKH) và tăng trưởng xanh Qua đó, bộ xác định nhu cầu về nguồn lực và những ưu tiên trong thời gian tới cho việc sử dụng vốn ODA nhằm hỗ trợ BĐKH và thúc đẩy tăng trưởng xanh.
Theo rà soát năm 2021, dòng vốn ODA vào Việt Nam đang có xu hướng giảm dần trong những năm gần đây, ngoại trừ năm 2016 Từ 2012 đến 2019, tổng nguồn tài chính phát triển quốc tế cho biến đổi khí hậu (BĐKH) vào Việt Nam đạt khoảng 2,26 tỷ USD mỗi năm, trong đó 39% được sử dụng cho các hoạt động chống chịu, 49% cho các hoạt động giảm nhẹ, và 12% cho các hoạt động đồng lợi ích.
Nguồn lực từ khu vực doanh nghiệp
Tín dụng xanh tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng ổn định trong những năm qua, với dư nợ tín dụng xanh tăng từ hơn 85 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2016 lên hơn 333 nghìn tỷ đồng vào cuối năm 2020, chiếm 3,62% tổng dư nợ tín dụng toàn hệ thống Từ năm 2016 đến 2021, tốc độ tăng trưởng tín dụng xanh được duy trì ở mức cao, với mức tăng trưởng bình quân đạt 183% mỗi năm trong giai đoạn 2016-2021.
Tín dụng xanh cho biến đổi khí hậu (BĐKH) tại Việt Nam tập trung vào ba lĩnh vực chính: nông nghiệp, năng lượng tái tạo và các lĩnh vực khác như quản lý nước bền vững và lâm nghiệp bền vững Trong giai đoạn 2018-2020, tổng mức tín dụng xanh trung bình đạt khoảng 12,91 tỷ USD mỗi năm, trong đó tín dụng xanh cho chống chịu đạt 9,34 tỷ USD và tín dụng xanh thích ứng với BĐKH đạt 3,56 tỷ USD mỗi năm.
Năm 2016, Bộ Tài chính phê duyệt dự án thí điểm phát hành trái phiếu xanh đô thị nhằm huy động vốn cho các dự án xanh như thủy lợi, bảo vệ môi trường và điện gió Sở Giao dịch Chứng khoán Hà Nội (HNX) hỗ trợ các nhà đầu tư trong việc phát hành trái phiếu xanh, triển khai thí điểm tại các địa phương cần huy động vốn, trong đó TP.HCM và Bà Rịa - Vũng Tàu là hai địa phương đã thực hiện dự án này.
The UNDP (2015) highlights the critical role of national budgets in addressing climate change, showcasing how various governments have strategically utilized their financial resources to formulate effective responses This article distills lessons learned from over twenty Climate Public Expenditure and Institutional Reviews, emphasizing the importance of integrating climate considerations into budgetary processes to enhance resilience and sustainability.