PHẦN I: MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Thế giới luôn vận động và phát triển, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, con người đã đạt được nhiều bước tiến mới về văn hóa, giáo dục và cả y tế. Nhưng bên cạnh sự phát triển luôn luôn tồn tại những mặt hạn chế, những vấn đề cấp bách đặt ra cho con người. Khi khoa học kỹ thuật phát triển, năng suất lao động tăng cao yêu cầu con người phải có được những kiến thức phù hợp để có thể tồn tại, nếu không thì họ sẽ bị đào thải . Chất lượng cuộc sống được nâng cao, nhưng bên cạnh đó cũng xuất hiện hàng loạt các mối lo đặt ra cho con người: ô nhiễm môi trường, bệnh dịch… Và một trong những điều đó lo ngại nhất đó là sự xuất hiện và phát triển của các bệnh xã hội. HIV/AIDS là một lentivirus có khả năng gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải ( AIDS) – một tình trạng làm hệ miễn dịch của con người bị suy giảm cấp tiến, tạo điều kiện cho những nhiễm trùng cơ hội làm đê dọa mạng sống đã và đang trở thành vấn nạn mà mỗi quốc gia hết sức quan tâm và nỗ lực phấn đấu góp phần đẩy lùi, hạn chế sự lây lan. HIV/AIDS được phát hiện vào năm 1981, với một tốc độ lây lan chưa từng có đã trở thành đại dịch toàn cầu . Dịch HIV/AIDS lan sang châu Á khá muộn, trường hợp nhiễm HIV đầu tiên tại khu vực này được phát hiện tại Thái Lan vào năm 1985 đến cuối những năm 90 Campuchia, Myanmar và Thái Lan công bố dịch bệnh đáng lo ngại trên toàn đất nước. Năm 2001 có tới 1,07 triệu người lớn và trẻ em mới bị nhiễm HIV tại châu Á Thái Bình Dương, đưa tổng số người bị nhiễm HIV tại khu vực này lên tới 7,1 triệu người. Dịch tễ học lây nhiễm HIV ở khu vực này có nhiều hình thái khác biệt, tại Thái Lan và Campuchia hình thái lây nhiễm HIV chủ yếu qua quan hệ tình dục khác giới, nhưng một số nước khác như Việt Nam, Trung Quốc, Malaysia hình thái lây nhiễm chủ yếu qua tiêm chích ma túy và tình trạng lây truyền qua đường tình dục khác giới ngày càng tăng . Tại Trung Quốc, UNAIDS và WHO ước tính có khoảng 1,5 triệu người bị nhiễm HIV/AIDS trong đó có 850.000 người, 220.000 là phụ nữ. Tỷ lệ nhiễm HIV trong nhóm thanh niên từ 15-24 tuổi theo ước tính vào khoảng 0.20% trong 6 tháng đầu năm 2001 số lượng người nhiễm HIV tăng 67,4% so với năm 2000. Đường lây truyền dich HIV tại Trung Quốc chủ yếu là do tiêm chích ma túy. Vào năm 2000, 7 tỉnh của Trung Quốc đã phải đối mặt với nguy cơ lan tràn dịch HIV, hơn 70% số người tiêm chích ma túy bị HIV dương tính ở một số khu vực như quận Yili ở Xinjiang và quận Ruili ở Vân Nam. Cũng có dấu hiệu của lây nhiễm HIV qua đường tình dục ở 3 tỉnh (Vân Nam, Quảng Tây và Quảng Đông). Năm 2000, tốc độ lây nhiễm HIV qua quan hệ với gái mại dâm tại Vân Nam là 4,6% (năm 1991 là 1,6%) tại Quảng Tây là 10,7% (tăng hơn 6% so với năm 1999). Ấn Độ năm 2004 được ước tính có số nhiễm HIV cao nhất trong khu vực, UNAIDS và WHO ước tính có khoảng 3,97 triệu người Ấn Độ bị nhiễm HIV vào cuối năm 2001. Tại Indonesia, HIV tăng nhanh chóng trong nhóm tiêm chích ma túy và gái mại dâm và ở nhóm người hiến máu. Kết quả giám sát tại Indonesia cho thấy vào năm 2000, 40% số người tiêm chích đang được điều trị ở Jakarta đã bị nhiễm HIV. Tại Bogor, tỉnh Đông Java, 25% số người tiêm chích nhiễm HIV Tại Thái Lan theo ước tính có khoảng 670.000 trường hợp nhiễm HIV. Thái lan là nước triển khai chương trình bao cao su rất sớm và các báo cáo gần đây cho thấy tỷ lệ nhiễm HIV ở Thái Lan không gia tăng như các năm trước đây và có xu hướng giảm xuống ở một số nhóm đối tượng. Ở Việt Nam phát hiện trường hợp nhiễm HIV đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh vào tháng 12 năm 1990 do quan hệ tình dục với người nước ngoài.Đến tháng 8/ 1993 đã có 790 người nhiễm HIV. Đến tháng 10/1999 đã có 16.000 người nhiễm HIV, trong đó có 2.903 người chuyển sang giai đoạn AIDS và đã có 1509 người tử vong. Theo báo cáo thống kê tính đến 31/12/2011, số trường hợp nhiễm HIV hiện còn sống là 197.335 trường hợp, số bệnh nhân AIDS hiện còn sống là 48.720 và 52.325 trường hợp tử vong do AIDS. HIV/AIDS được xác định là đại dịch nguy hiểm, là mối hiểm họa đối với sức khỏe, tính mạng của con người, tác động trực tiếp đến phát triển kinh tế, văn hóa và tương lai nòi giống của dân tộc. Nhận thức được mối nguy hiểm mà HIV/AIDS mang đến cho mỗi con người, cộng đồng và mỗi quốc gia. Chúng ta đã triển khai nhiều biện pháp để phòng tránh cũng như giảm thiểu sự lây lan của căn bệnh nguy hiểm này. HIV/AIDS đã được đưa vào Chương trình mục tiêu quốc gia nhằm giảm thiểu khả năng lây lan, giảm số người lây nhiễm HIV, nâng cao nhận thức, thái độ của cộng đồng đối với HIV/AIDS. Qua nhiều năm triển khai, chương trình đã đạt được một số kết quả đáng ghi nhận. Tuy nhiên bên cạnh đó vẫn còn một số mặt hạn chế cần giải quyết. Để tìm hiểu về hiệu quả mà chương trình mục tiêu quốc gia phòng chống HIV/AIDS đã đạt được trong giai đoạn vừa qua, tác giả đã lựa chọn đề tài: “Nhận thức và thái độ người dân về chương trình y tế quốc gia phòng chống HIV/AIDS” dựa trên phân tích bộ số liệu nghiên cứu, đánh giá của Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển.
NỘI DUNG
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ PHƯƠNG PHÁP LUẬN
1.1 Những khái niệm cơ bản liên quan đến đề tài nghiên cứu
Nhận thức, theo triết học, là quá trình phản ánh và tái tạo hiện thực trong tư duy con người, chịu sự chi phối của các quy luật phát triển xã hội và gắn liền với thực tiễn Quá trình này bao gồm việc thu thập kiến thức và hình thành khái niệm về các hiện tượng thực tế, giúp con người hiểu biết hơn về thế giới xung quanh Nhận thức không chỉ là tích lũy tri thức và kinh nghiệm mà còn là công cụ để cải tạo thế giới Nó phát sinh và phát triển thông qua sự tương tác giữa chủ thể và khách thể trong quá trình phản ánh hiện thực khách quan.
Chủ thể nhận thức là con người, bao gồm cá nhân, nhóm, giai cấp, dân tộc và nhân loại Con người, với tính hiện thực, là tổng hòa các mối quan hệ xã hội, do đó nhận thức của họ bị chi phối bởi nhiều yếu tố khác nhau.
+ Truyền thống văn hóa dân tộc và điều kiện kinh tế - xã hội
+ Các tri thức của thế hệ trước để lại
+ Đặc điểm tâm sinh lý của mối người
+ Trình độ phát triển cụ thể của mỗi cá nhân về mặt sinh học
Khách thể nhận thức là đối tượng mà nhận thức hướng tới, bao gồm cả thế giới vật chất và thế giới tinh thần Nhận thức không phải là một hoạt động đơn giản hay thụ động, mà là một quá trình biện chứng, tích cực và sáng tạo Quá trình này diễn ra từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và sau đó quay trở lại thực tiễn Nó phản ánh sự tiến triển từ chưa biết đến biết, từ biết ít đến biết nhiều, và từ hiện thực đến bản chất, đồng thời đi từ bản chất kém sâu sắc đến bản chất sâu sắc hơn.
HIV là virus gây suy giảm miễn dịch ở người, làm giảm khả năng chống lại bệnh tật, trong khi AIDS là giai đoạn cuối của nhiễm HIV khi cơ thể bị suy yếu nghiêm trọng và dễ mắc các bệnh nặng như nhiễm trùng, ung thư, lao phổi Sự khác biệt chính giữa HIV và AIDS là HIV gây ra AIDS Virus HIV có thể lây truyền qua ba con đường: quan hệ tình dục không an toàn với người nhiễm HIV, truyền máu không an toàn hoặc sử dụng chung dụng cụ có dính máu, và từ mẹ sang con trong quá trình mang thai, sinh nở hoặc cho con bú.
HIV/AIDS là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong trên toàn cầu, ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe con người, dẫn đến bệnh tật, mất khả năng lao động và tử vong Bên cạnh đó, HIV/AIDS còn tác động tiêu cực đến sự phát triển kinh tế, xã hội, an ninh và ổn định của các quốc gia, gây ra những hậu quả bất lợi cho việc đạt được nhiều mục tiêu phát triển thiên niên kỷ.
AIDS (Cách viết tắt từ các chữ cái đầu của cụm từ tiếng Anh: Aquired
Hội chứng Suy Giảm Miễn Dịch Mắc Phải (SIDA) là giai đoạn cuối của nhiễm virus HIV, được viết tắt từ cụm từ tiếng Pháp "Syndrôm dé Immuno Dèficience Acquise" SIDA gây ra sự suy yếu nghiêm trọng của hệ miễn dịch, làm cho cơ thể dễ bị nhiễm trùng và các bệnh lý khác.
Hội chứng là một tập hợp các triệu chứng Ví dụ hội chứng nhiễm trùng bao gồm các triệu chứng sốt, nhức đầu, môi khô, lưỡi bẩn
AIDS không phải là một hội chứng di truyền mà là bệnh mắc phải do các hành vi nguy cơ trong cuộc sống, chẳng hạn như sử dụng chung bơm kim tiêm hoặc quan hệ tình dục không an toàn với người nhiễm HIV Những hành vi này có thể dẫn đến lây nhiễm HIV, và từ đó, nếu không được điều trị, có thể phát triển thành AIDS.
Thời gian từ khi nhiễm HIV đến khi phát triển thành AIDS phụ thuộc vào sức đề kháng và lối sống của từng cá nhân Trung bình, quá trình này kéo dài từ 5 đến 7 năm, nhưng trong nhiều trường hợp, người nhiễm HIV có thể duy trì sức khỏe tốt và kéo dài thời gian này lên đến hàng chục năm nếu họ thực hiện các biện pháp phòng ngừa lây nhiễm và chăm sóc sức khỏe hợp lý.
Nhận thức của người dân về HIV/AIDS là sự hiểu biết của các cá nhân về căn bệnh này và chương trình Quốc gia phòng chống HIV/AIDS tại Việt Nam Hậu quả của HIV/AIDS không chỉ ảnh hưởng đến sức khỏe và lao động mà còn tác động đến kinh tế, chính trị, gia đình và xã hội.
1.2 Một số lí thuyết xã hội học áp dụng trong nghiên cứu
1.2.1 Quan điểm về xã hội hóa
Xã hội hóa là một khái niệm quan trọng trong xã hội học, với nhiều cách hiểu khác nhau Trong bài viết này, tác giả sẽ tập trung vào ba cách hiểu chính liên quan đến nhận thức và thái độ của người dân.
Xã hội hóa được định nghĩa trong từ điển xã hội học là quá trình mà cá nhân thích ứng và tương tác với các giá trị, chuẩn mực và hình mẫu hành vi xã hội Qua quá trình này, một thành viên trong xã hội không chỉ tiếp nhận mà còn duy trì khả năng tham gia vào các hoạt động xã hội.
Theo nhà khoa học G Andreeva, xã hội hóa là quá trình hai mặt, trong đó cá nhân tiếp nhận kinh nghiệm xã hội thông qua việc tham gia vào môi trường và các mối quan hệ xã hội Đồng thời, cá nhân cũng chủ động tái sản xuất các mối quan hệ này thông qua hoạt động của mình Quá trình xã hội hóa giúp cá nhân hình thành giá trị, tâm thế và xu hướng để tham gia vào việc tái tạo xã hội Mặt đầu tiên của xã hội hóa là sự thu nhận kinh nghiệm, trong khi mặt thứ hai là sự tác động của con người trở lại môi trường qua hành động của họ.
Xã hội hóa là quá trình mà con người học hỏi và tiếp thu các yếu tố văn hóa-xã hội suốt đời, từ gia đình đến trường học, bạn bè và môi trường làm việc Quá trình này dựa vào sự bắt chước và học hỏi, giúp cá nhân thích nghi với xã hội Kiến thức về HIV/AIDS của người dân phản ánh sự tương tác giữa năng lực, nhu cầu tìm hiểu và sự tích cực trong nhận thức Nhận thức này phụ thuộc vào các môi trường xã hội khác nhau như gia đình, trường học, bạn bè, cơ quan và đặc biệt là các phương tiện truyền thông đại chúng.
HIV/AIDS là một vấn đề sức khỏe quan trọng, đòi hỏi sự xã hội hóa để nâng cao nhận thức cộng đồng Sức khỏe không chỉ là vấn đề cá nhân mà còn liên quan đến sức khỏe xã hội và cộng đồng Hành vi chăm sóc sức khỏe cá nhân gắn liền với hành vi chăm sóc sức khỏe của cộng đồng Do đó, việc xã hội hóa nhận thức về HIV/AIDS và chương trình Quốc gia phòng chống HIV/AIDS là cần thiết để thu hút sự tham gia của cá nhân, nhóm người, và các tổ chức xã hội trong công tác bảo vệ sức khỏe và phòng chống HIV/AIDS một cách hiệu quả.
1.2.2 Thuyết tương tác biểu trưng
Lý thuyết nhấn mạnh rằng con người, bao gồm cá nhân, nhóm xã hội và cộng đồng, sử dụng một hệ thống các biểu trưng trong quá trình tương tác xã hội Môi trường nơi diễn ra các tương tác xã hội hóa chính là không gian của những biểu trưng này.
THỰC TRẠNG NHẬN THỨC VÀ THÁI ĐỘ CỦA NGƯỜI DÂN VỀ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS
VỀ CHƯƠNG TRÌNH QUỐC GIA PHÒNG CHỐNG HIV/AIDS
2.1 Một số đặc điểm về Chương trình Quốc gia phòng chống HIV/AIDS
2.1.1 Những đặc điểm chung của việc triển khai chương trình
Phòng chống HIV/AIDS là một dự án quan trọng trong mục tiêu Y tế quốc gia, nhận được sự chú ý từ Đảng và chính phủ Việt Nam, cũng như sự quan tâm toàn cầu.
Tính đến ngày 30/9/2010, cả nước có 180.312 người nhiễm HIV hiện đang còn sống, bao gồm 42.339 bệnh nhân AIDS và 48.368 trường hợp tử vong do HIV/AIDS Tỷ lệ người nhiễm HIV được phát hiện chiếm 0.26% dân số Điều đáng lo ngại là tốc độ lây nhiễm của HIV/AIDS đang gia tăng nhanh chóng, với 100% số tỉnh, thành phố, 97.8% số quận, huyện và trên 74% số xã, phường đã báo cáo có người nhiễm HIV/AIDS.
Tính đến ngày 30/6/2010, cả nước có 176.436 người nhiễm HIV còn sống, trong đó có 41.239 bệnh nhân AIDS và 47.466 người đã tử vong do AIDS Thành phố Hồ Chí Minh là địa phương có số người nhiễm HIV cao nhất, chiếm 25,9% tổng số ca nhiễm trên toàn quốc Trong 6 tháng đầu năm 2010, cả nước ghi nhận 4.812 trường hợp mới nhiễm HIV, 1.881 bệnh nhân AIDS và 620 ca tử vong So với cùng kỳ năm 2009, số ca nhiễm HIV mới giảm 27,08%, số bệnh nhân AIDS giảm 17,8% và số ca tử vong giảm 29,3% (Cục Phòng chống HIV/AIDS – Bộ Y tế).
1 Kỷ yếu hội nghị 20 năm phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam
HIV/AIDS 6 tháng đầu năm 2010 và trọng tâm kế hoạch 6 tháng cuối năm
Tại Việt Nam, dịch HIV/AIDS chủ yếu tập trung ở các nhóm có nguy cơ cao, với sự chuyển dịch đáng chú ý từ lây truyền qua đường tiêm chích ma túy sang lây truyền qua quan hệ tình dục Đối tượng nhiễm HIV ngày càng trẻ hóa và tỷ lệ phụ nữ nhiễm bệnh cũng đang gia tăng.
Nhằm đối phó với nguy cơ và diễn biến phức tạp của dịch HIV/AIDS tại Việt Nam, đặc biệt là ở các tỉnh miền Nam, Chính Phủ đã coi việc phòng chống HIV/AIDS là nhiệm vụ quan trọng trong ngành y tế Từ giai đoạn 2001-2005, phòng chống HIV/AIDS đã được đưa vào danh mục các dự án Mục tiêu y tế quốc gia và tiếp tục được thực hiện trong giai đoạn 2006-2010 Dự án này đã được chuyển đổi thành một dự án mục tiêu độc lập nhằm tăng cường chỉ đạo và đầu tư cho các hoạt động phòng chống dịch bệnh, khi mà tình hình HIV/AIDS đang có xu hướng phát triển và lan rộng trong bối cảnh xã hội ngày càng phát triển.
Trong những năm qua, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu kinh tế-xã hội, trong đó công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân được Đảng và chính phủ đặc biệt chú trọng Dự án mục tiêu quốc gia phòng chống các bệnh xã hội, bệnh dịch nguy hiểm và HIV/AIDS là một trong những dự án quan trọng của chính phủ, nhằm nâng cao sức khỏe người dân Chính phủ đã từng bước phát triển hệ thống trang thiết bị, cơ sở hạ tầng và đội ngũ y bác sĩ để điều trị và phòng chống các căn bệnh nguy hiểm Giai đoạn 2006-2010, dự án này đã được triển khai với các chỉ số cụ thể cần đạt được, góp phần cải thiện sức khỏe cho đại bộ phận dân cư trên toàn quốc.
Năm 2011, Viện Nghiên cứu Truyền thống và Phát triển là đơn vị được
Bộ Y Tế giao nhiệm vụ thực hiện chọn mẫu thống kê, đánh giá Chương trình phòng chống HIV/AIDS tại 47 tỉnh/thành bao gồm : Vùng Đông bắc bao gồm
Việt Nam được chia thành nhiều vùng địa lý, mỗi vùng có những tỉnh riêng biệt Khu vực miền núi phía Bắc gồm 6 tỉnh: Thái Nguyên, Tuyên Quang, Bắc Giang, Bắc Cạn, Cao Bằng và Hà Giang Vùng Tây Bắc bao gồm 3 tỉnh: Hòa Bình, Lào Cai và Điện Biên Đồng bằng Sông Hồng có 10 tỉnh: Hà Nội, Vĩnh Phúc, Hải Dương, Bắc Ninh, Nam Định, Thái Bình, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Phòng và Hà Nam Bắc Trung Bộ gồm 3 tỉnh: Nghệ An, Hà Tĩnh và Thừa Thiên Huế, cùng với Quảng Bình và Quảng Trị Nam Trung Bộ có 5 tỉnh: Đà Nẵng, Quảng Nam, Bình Định, Ninh Thuận và Bình Thuận Tây Nguyên bao gồm 4 tỉnh: Kon Tum, Đắc Nông, Đắc Lắc và Lâm Đồng Đông Nam Bộ có 6 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Đồng Nai và Bà Rịa-Vũng Tàu Cuối cùng, đồng bằng Sông Cửu Long bao gồm 9 tỉnh: Đồng Tháp, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu, Bến Tre và Long An.
An Giang, Kiên Giang và Cà Mau.
Theo thống kê từ 47 tỉnh, nhiều địa phương đã bắt đầu triển khai các dự án phòng chống HIV/AIDS từ rất sớm, với tỉnh tiên phong thực hiện vào năm đầu tiên.
1990 có 2 tỉnh là tỉnh Tuyên Quang và Đồng Tháp chiếm 4.4% Năm 1992 có
Từ năm 1993 đến 2003, nhiều tỉnh tại Việt Nam đã bắt đầu triển khai các dự án phát triển Cụ thể, năm 1993 có 7 tỉnh như Thừa Thiên Huế, Hà Nội, Quảng Trị, Lâm Đồng, Đà Nẵng, thành phố Hồ Chí Minh và An Giang, chiếm 15.6% Năm 1994, 6 tỉnh gồm Long An, Đăk Lăk, Bình Định, Tây Ninh, Thái Nguyên và Hà Giang tham gia, chiếm 13.3% Năm 1995, 4 tỉnh như Khánh Hòa, Cà Mau, Ninh Thuận và Bình Phước triển khai, chiếm 8.9% Năm 1997, 5 tỉnh Bắc Ninh, Hưng Yên, Hà Nam, Cao Bằng và Bắc Cạn tham gia, chiếm 11.1% Đặc biệt, vào các năm 1998, 2001 và 2003, mỗi năm có 1 tỉnh là Lào Cai, Kon Tum và Hải Dương bắt đầu triển khai dự án.
2004 có 2 tỉnh triển khai là: Đồng Nai, Đắc Nông Năm 2005 có 2 tỉnh triển khai là: Bà Rịa - Vũng Tàu, Bắc Giang Có 8 tỉnh triển khai dự án vào năm
Năm 2006, các tỉnh Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Trà Vinh, Bình Dương, Hòa Bình, Thái Bình, Bạc Liêu và Quảng Bình chiếm tỷ lệ 17.8% Hai tỉnh không có phản hồi trong năm triển khai là Điện Biên và Hải Phòng.
Kết quả cho thấy dự án phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai ở nhiều thời điểm khác nhau, đồng thời phản ánh nhận thức của các địa phương về mối nguy hiểm của HIV/AIDS đối với đời sống xã hội.
Đến năm 2010, chương trình phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai tại 476/485 quận huyện, cho thấy độ bao phủ rộng rãi Tại cấp xã/phường, số lượng địa phương tham gia dự án cũng tăng nhanh, từ 5.977 xã trong tổng số 6.919 xã/phường vào năm 2006 lên 7.056 xã/phường trong tổng số 7.612 xã/phường vào năm 2010.
Như vậy có thể thấy độ bao phủ của dự án phòng chống HIV/AIDS tại
Trong giai đoạn 2006 – 2010, có 47 dự án phòng chống HIV/AIDS được triển khai tại các đơn vị quân/ huyện thuộc tỉnh thành, với tỷ lệ trung bình đạt 97.78% (± 10.2%) trong các quận/huyện Đặc biệt, vào hai năm 2007 và 2008, tỷ lệ này gần như đạt 100% Tuy nhiên, đến năm 2009 và 2010, tỷ lệ giảm xuống còn 98.4% (± 7.62%), nhưng vẫn cao hơn so với năm đầu giai đoạn Hơn nữa, số liệu cho thấy hơn 50% quận/huyện trong các tỉnh được phân tích đều thực hiện 100% các dự án tại đơn vị của mình.
Độ bao phủ của dự án phòng chống HIV/AIDS ở cấp xã phường thấp hơn so với cấp quận/huyện, nhưng đang ngày càng mở rộng theo thời gian thực hiện chương trình Cụ thể, vào năm 2006, có 91.80% (± 19.80%) số xã/phường trong một quận/huyện tham gia dự án Đến năm 2010, tỷ lệ này tăng lên đáng kể, với hơn 50% số xã/phường trong các tỉnh phân tích triển khai dự án đạt 100%.
So sánh sự thu hẹp của độ lệch chuẩn trong giá trị trung bình từ năm 2006 đến
2010 cho thấy sự chệnh lệch giữa các tỉnh trong độ bao phủ ngày càng được thu hẹp ở những năm cuối giai đoạn
Bảng 1: Tỷ lệ bao phủ của dự án ở cấp các đơn vị quận/huyện trực thuộc tỉnh/thành (%) tính theo các chỉ số trung bình
Các chỉ số Năm thực hiện dự án
Giá trị thấp nhất 35.71 50.00 50.00 50.00 50.00 Giá trị cao nhất 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
Dự án phòng chống HIV/AIDS đã được triển khai sớm tại nhiều địa phương, với sự quan tâm đáng kể và tích lũy nhiều kinh nghiệm trong tổ chức và quản lý, giúp mở rộng độ bao phủ của dự án trên hầu hết các khu vực.
Bảng 2: Tỷ lệ bao phủ của dự án ở cấp các đơn vị xã/phường trực thuộc huyện/quận (%) tính theo các chỉ số trung bình
Các chỉ số Năm thực hiện dự án
Giá trị thấp nhất 22.27 22.27 22.27 22.27 22.17 Giá trị cao nhất 100.00 100.00 100.00 100.00 100.00
2.1.2 Các mô hình đã được triển khai trong dự án