TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
Đặc điểm của đơn bào Histomonas meleagridis ký sinh ở gia cầm
2.1.1 Vị trí của đơn bào trong hệ thống phân loại động vật nguyên sinh
Dựa trên kết quả phân tích trình tự gen 18S rRNA của H meleagridis do Cepicka I và cộng sự thực hiện vào năm 2010, vị trí phân loại của H meleagridis trong hệ thống nguyên sinh động vật được xác định rõ ràng.
2.1.2 Hình thái học của đơn bào
Nghiên cứu về bệnh đầu đen ở gà tây của Smith T (1895) cho thấy gan và manh tràng là hai cơ quan bị tổn thương nặng nề nhất Qua việc soi tươi chất chứa trong manh tràng của gà bệnh, tác giả đã phát hiện ra tác nhân gây bệnh là một sinh vật đơn bào mang tên Amoeba meleagridis.
= Histomonas meleagridis) có hình tròn hoặc ovan, đường kính 8 - 15 μm Trong mô cố định và nhuộm màu, Amoeba meleagridis có đường kính khoảng 6 - 10 μm
Năm 1920, Tyzzer E E đã tiến hành nghiên cứu hình thái của đơn bào trong môi trường nuôi cấy, phát hiện rằng Amoeba meleagridis có khả năng xuất hiện roi và di chuyển trong điều kiện yếm khí Dựa trên đặc điểm này, ông đã đổi tên tác nhân gây bệnh thành Histomonas meleagridis.
Các nhà khoa học cho biết, cấu tạo đơn bào H meleagridis ở dạng amoeboid theo thứ tự từ ngoài vào trong gồm 3 phần: màng, tế bào chất và nhân
- Màng đơn bào H meleagridis là một màng đơn, nhấp nhô giúp đơn bào dễ dàng thay đổi hình dạng cơ thể để di chuyển kiểu làn sóng
Tế bào chất chứa các thành phần quan trọng như ò-glycogen, ribosome, ARN, bộ mỏy golgi, hạt glycogen, không bào, hydrogenosome và hệ vi ống n m Những cấu trúc này nằm ở lớp ngoài của tế bào chất, gần tơ cơ hoặc theo trục dọc của tế bào, giúp nâng đỡ và định vị các bào quan trong tế bào chất.
H meleagridis có hình dạng trứng hoặc hình chữ U với một nucleotid và màng nhân kép Ở dạng trùng roi, đơn bào này có thêm một roi xuất phát từ phía trước, giúp vận chuyển Ngoài ra, nó còn có pelta-axostyle, một tấm vi ống hỗ trợ cho roi, và bộ máy parabasal, bao gồm các sợi vân hỗ trợ bộ máy Golgi.
2.1.3 Sức đề kháng của đơn bào H meleagridis
Theo nghiên cứu của Zaragatzki E và cộng sự (2010), đơn bào H meleagridis có sức đề kháng yếu với nhiệt độ thấp và độ axit cao Cụ thể, H meleagridis không thể tồn tại trong môi trường đông lạnh, và ở nhiệt độ 4 độ C, đơn bào này chỉ sống được tối đa 23 giờ Trong môi trường nuôi cấy có độ axit cao, H meleagridis chỉ có thể sống được 1 giờ.
Theo Lê Văn Năm (2011), đơn bào H meleagridis có sức đề kháng kém và chỉ có thể sống từ vài phút đến vài giờ khi ra ngoài môi trường ở nhiệt độ thấp hơn nhiệt độ cơ thể gia cầm, với thời gian sống tối đa không quá 24 giờ Tuy nhiên, H meleagridis có khả năng tồn tại lâu dài trong trứng của giun kim, kéo dài đến hàng năm.
(Heterakis ganillarum) mà vẫn có khả năng gây bệnh
2.1.4 Phương thức truyền lây bệnh do đơn bào H meleagridis ở gà
H meleagridis sinh sản b ng hình thức phân đôi (trực phân), bệnh lây truyền b ng 2 đường: trực tiếp và gián tiếp
Trong báo cáo ban đầu, Smith T (1895) đã cho r ng, sự lây truyền trực tiếp bệnh đầu đen do gà tây ăn, uống phải đơn bào Amoeba meleagridis (= Histomonas meleagridis)
Horton - Smith C và Long P L (1956) đã tiến hành 2 thí nghiệm để nghiên cứu độ pH trong đường tiêu hóa và ảnh hưởng của pH tới tỷ lệ nhiễm Histomonosis ở gà
Thí nghiệm 1: Cho gà khỏe bị bỏ đói 18 giờ uống huyễn dịch manh tràng của gà mắc bệnh điển hình, liều 1 ml/gà
Trong thí nghiệm 2, gà bị bỏ đói trong 18 giờ đã được cung cấp thêm 1 gam hỗn hợp gồm 40% canxi cacbonat, 17% magiê trisilicate và 43% cao lanh, nhằm giảm độ axit trong đường tiêu hóa Cuối cùng, gà được cho uống huyễn dịch manh tràng từ những con gà mắc bệnh điển hình với liều lượng 1 ml/gà.
Kết quả thấy, trong cả 2 thí nghiệm trên gà đều nhiễm H meleagridis với tỷ lệ cao hơn nhiều so với gà đối chứng không bị bỏ đói
Nghiên cứu cho thấy rằng việc gây nhiễm H meleagridis ở gà và gà tây qua đường miệng chỉ đạt hiệu quả khi giảm độ axit hoặc kiềm hóa môi trường axit trong đường tiêu hóa trên của chúng.
Nghiên cứu của Liebhart D và cộng sự (2009) cho thấy việc gây nhiễm đơn bào H meleagridis qua đường miệng cho gà một ngày tuổi dẫn đến tỷ lệ nhiễm bệnh và tỷ lệ chết cao Nguyên nhân có thể là do lượng axit tiết ra ở đường tiêu hóa trên của gà một ngày tuổi còn thấp, khiến chúng dễ mắc bệnh hơn.
Những đàn gà được chăm sóc và nuôi dưỡng tốt sẽ làm giảm sự quan trọng của con đường truyền trực tiếp H meleagridis qua đường miệng gây bệnh.
Theo Hess M và cs (2006) bệnh đầu đen xảy ra dễ dàng khi lỗ huyệt của gà khỏe tiếp xúc với mầm bệnh Ngay sau khi tiếp xúc, đơn bào
H meleagridis sẽ di chuyển ngƣợc theo nhu động ruột vào ký sinh ở manh tràng Với đường truyền lây này, Histomonosis sẽ lây lan nhanh chóng từ gà bệnh sang gà khỏe
Gây nhiễm Histomonosis cho gà qua đường miệng có tỷ lệ mắc bệnh và chết thấp hơn so với việc gây nhiễm qua lỗ huyệt Cụ thể, tỷ lệ mắc bệnh khi nhiễm qua đường miệng chỉ dưới 20% và tỷ lệ chết khoảng 2%, trong khi đó, khi nhiễm qua lỗ huyệt, tỷ lệ mắc bệnh vượt quá 65% và tỷ lệ chết lên đến khoảng 45%.
Kết quả nghiên cứu cho thấy, gà khỏe có thể bị nhiễm bệnh đầu đen qua tiếp xúc trực tiếp với gà bệnh hoặc qua đường miệng và lỗ huyệt Độ pH axit trong đường tiêu hóa có khả năng tiêu diệt đơn bào H meleagridis, dẫn đến tỷ lệ nhiễm qua đường miệng thường thấp Tuy nhiên, gà dễ dàng mắc bệnh đầu đen hơn khi bị nhiễm qua lỗ huyệt hoặc khi lỗ huyệt tiếp xúc với phân tươi chứa mầm bệnh Khi tiếp xúc với phân tươi của gà bệnh, H meleagridis có thể di chuyển ngược theo nhu động ruột để ký sinh tại manh tràng và gây bệnh.
* Bệnh truyền qua giun kim
Smith T (1895) đã tiến hành ấp 42 trứng gà tây từ 3 trang trại bị bệnh đầu đen và theo dõi sự phát triển của gà con Kết quả cho thấy, đơn bào H meleagridis không lây truyền từ gà tây mẹ sang gà con qua trứng Tuy nhiên, gà tây con mắc bệnh đầu đen rất sớm và chết ở tuổi 12 - 14 ngày Tác giả nhận định rằng, gà tây con bị nhiễm bệnh do được nuôi trong khu vực mà trước đó đã có đàn gà tây mắc bệnh đầu đen.
Bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gà
2.2.1 Lịch sử bệnh đầu đen ở gà
Histomonosis lần đầu tiên được phát hiện vào năm 1893 ở Rhode Island, theo Cushman S (1894) Tuy nhiên, từ năm 1891, Trạm thực nghiệm nông nghiệp địa phương đã nhận được báo cáo về một "bệnh khó hiểu" trên đàn gà tây, với triệu chứng nổi bật là sự biến đổi màu da vùng đầu Bệnh này có tỷ lệ chết cao ở gà tây, gây thiệt hại lớn cho ngành chăn nuôi.
Ban đầu, nông dân địa phương đã dựa vào các triệu chứng đặc trưng như mào thâm tím, da mép và da vùng đầu có màu xanh xám hoặc xanh đen của gà tây mắc bệnh để đặt tên cho căn bệnh này là "bệnh đầu đen".
Theo nghiên cứu của Theo Smith T (1895), khi gà tây mắc bệnh, gan và manh tràng là hai bộ phận bị tổn thương nghiêm trọng nhất Tác giả đã thu thập mẫu bệnh phẩm từ gan và manh tràng của gà bệnh để xác định nguyên nhân gây bệnh, phát hiện ra một sinh vật đơn bào có tên là Amoeba meleagridis Từ đó, căn bệnh này được gọi là viêm gan - ruột truyền nhiễm (Enterohepatitis).
Nghiên cứu của Tyzzer E E (1920) đã chỉ ra rằng trong môi trường nuôi cấy yếm khí, đơn bào Amoeba meleagridis xuất hiện roi và có khả năng chuyển động.
Vào ngày 9, tác nhân gây bệnh Amoeba meleagridis được đổi tên thành Histomonas meleagridis, và từ đó, bệnh này được gọi là Histomonoasis Tuy nhiên, theo quy định được đề xuất vào năm 1990 về việc sử dụng hậu tố "osis" cho tên các bệnh ký sinh trùng, bệnh này chính thức mang tên khoa học là Histomonosis.
Từ năm 1926 Histomonosis ở Mỹ đã nhanh chóng lây lan sang các châu lục khác nhƣ châu Âu, Úc và Đông Á Ở Châu Âu, dịch
Histomonosis đã xuất hiện và đƣợc báo cáo ở Áo, Hà Lan, Bỉ, Ireland,
Scotland và vương quốc Anh,…
Histomonosis hiện nay là một bệnh phổ biến toàn cầu, đặc biệt ở các quốc gia có ngành chăn nuôi gà và gà tây theo hình thức thả vườn hoặc chăn nuôi công nghiệp.
Lê Văn Năm và cs (2010) cho biết, ở Việt Nam lần đầu tiên
Histomonosis đã được phát hiện trên các đàn gà nuôi tập trung thả vườn ở một số tỉnh phía Bắc vào tháng 3 năm 2010 Hiện tại, bệnh này đã lan rộng và xuất hiện ở nhiều tỉnh, thành phố trên toàn quốc.
2.2.2 Những thiệt hại kinh tế do Histomonas meleagridis gây ra
Trong những thập kỷ qua, Histomonosis đã gây thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gà và gà tây Vào những năm 1930, dịch bệnh đầu đen đã gần như tiêu diệt hoàn toàn ngành chăn nuôi gà tây ở Đông và Trung Tây Hoa Kỳ Năm 1945, bệnh đầu đen do H meleagridis đã gây ra tỷ lệ chết 32,2% ở gà tây tại Bắc Carolina Kể từ đó, dịch bệnh này vẫn tiếp tục phát triển, gây ra thiệt hại kinh tế lớn cho người chăn nuôi.
Từ tháng 4 năm 2003 đến tháng 3 năm 2005, Pháp ghi nhận 113 ổ dịch Histomonosis trên gà tây, bao gồm 15 ổ dịch tại các trang trại gà giống Đến năm 2009, dịch Histomonosis bùng phát ở gà tây từ 9 đến 11 tuần tuổi với tỷ lệ chết đạt 24 - 68% (Sentíes - Cué G và cs (2009)).
2.2.3 Dịch tễ học bệnh đầu đen (Histomonosis) ở gia cầm
Histomonosis là một bệnh phổ biến ở gà và gà tây trên toàn cầu Các loài như chim trĩ, chim công, chim cút, gà lôi, đà điểu và vịt cũng có thể bị ảnh hưởng Trong số này, gà tây là loài nhạy cảm nhất với bệnh này (Lotfi A R và cs., 2012).
- Tình hình mắc bệnh đầu đen ở gà tây
Trong những thập kỷ gần đây, Histomonosis đã gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho ngành chăn nuôi gia cầm, đặc biệt là gà tây Trong năm
Vào năm 1930, dịch bệnh đầu đen đã tàn phá nghiêm trọng ngành chăn nuôi gà tây tại khu vực Đông và Trung Tây Hoa Kỳ Đến năm 1945, tỷ lệ tử vong do bệnh này tại Bắc Carolina đã lên tới 32,2% Hiện nay, dịch bệnh đầu đen ở gà tây vẫn tiếp tục bùng phát, gây ra những thiệt hại kinh tế nặng nề cho nhiều quốc gia trên thế giới.
Theo Mc Dougald L R và Fuller L (2005), gà tây mắc bệnh đơn bào H meleagridis tỷ lệ chết cao, có thể lên đến 100%
Gia cầm bị Histomonosis tỷ lệ chết cao, chủ yếu do tổn thương ở gan
Gà tây chết nhiều từ ngày thứ 14, sau khi xuất hiện triệu chứng lâm sàng
Gà bị Histomonosis thường tự hồi phục, trong khi gà tây mắc bệnh có khả năng tự hồi phục kém nên tỷ lệ chết thường cao
- Tình hình mắc bệnh đầu đen ở gà
Theo Mc Dougald L R (2005), bệnh Histomonosis gây ra tỷ lệ chết khoảng 10% ở gà, trong khi tỷ lệ này ở gà tây có thể lên tới 80-100% Tại miền Bắc nước Đức, bệnh này đã bùng phát từ năm 1971 đến 1973.
Histomonosis là một bệnh thường gặp ở gà, đặc biệt là ở độ tuổi từ 3 đến 9 tuần, với tỷ lệ tử vong trong đàn lên đến 10% Vào năm 2001, tại California, bệnh do đơn bào H meleagridis đã bùng phát trên một trại gà thịt 6 tuần tuổi Tuy nhiên, nhờ vào việc chẩn đoán sớm và can thiệp kịp thời, tỷ lệ tử vong đã được giảm xuống chỉ còn khoảng 1%.
Tất cả các giống gà đều có nguy cơ nhiễm đơn bào H meleagridis, nhưng tỷ lệ chết ở gà thấp hơn so với gà tây do tổn thương gan ở gà thường ít nghiêm trọng hơn.
- Tình hình mắc bệnh đầu đen trên vịt, chim cút và các loài chim khác
Nghiên cứu của AbdulRahman L (2011) cho thấy đơn bào H meleagridis tồn tại trong manh tràng của vịt, mặc dù vịt không biểu hiện triệu chứng lâm sàng của bệnh Khi H meleagridis được lấy từ manh tràng vịt và gây nhiễm cho gà tây, gà tây đã phát bệnh.
Tình hình nghiên cứu bệnh đầu đen trong và ngoài nước
2.3.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Trên thế giới, bệnh do đơn bào H meleagridis đƣợc phát hiện năm
Vào năm 1893, bệnh do H meleagridis lần đầu tiên được ghi nhận ở Rhode Island và nhanh chóng lan rộng ra khắp lục địa cũng như nhiều quốc gia khác Dịch bệnh này đã ảnh hưởng nghiêm trọng đến các khu vực ven biển phía Đông, miền Trung Tây và miền Tây Hoa Kỳ, với tỷ lệ tử vong có thể lên tới 100% Các nhà khoa học đã xác định H meleagridis là tác nhân gây bệnh, và vòng đời của ký sinh trùng này rất phức tạp, liên quan đến vật chủ trung gian là giun kim Heterakis gallinae (McDougald L R (2008)).
Nghiên cứu cho thấy gà có thể nhiễm bệnh do trứng giun kim từ trứng hoặc khi ăn phải giun đất mang trứng giun kim Bệnh này ảnh hưởng đến hầu hết các loại gà, đặc biệt là gà tây và gà dò, trong khi ít thấy ở gà lớn trên 5-6 tháng tuổi.
Bệnh đầu đen (Black Head) ở gà tây lần đầu tiên được mô tả bởi Tyzzer E E vào năm 1920, do một loại đơn bào gây ra Biểu hiện của bệnh này bao gồm tình trạng da vùng đầu có màu xanh tím, sau đó nhanh chóng chuyển sang màu thâm đen Bệnh đã được ghi nhận ở nhiều khu vực trên thế giới, bao gồm Bắc Mỹ, Tây Âu, Nam Mỹ và Nhật Bản.
Trong chăn nuôi gia cầm hiện đại, việc các trang trại chuyển đổi giữa các loại gia cầm không phải là điều hiếm gặp Tuy nhiên, việc chuyển từ nuôi gà thịt sang nuôi gà tây có thể gây ra nhiều tác hại, đặc biệt là khi các trang trại gà thịt đang bị ô nhiễm nặng bởi giun kim (Heterakis gallinae) Loại giun này được biết đến như một vector sinh học truyền bệnh đơn bào H meleagridis cho đàn gia cầm, gây ra những rủi ro nghiêm trọng cho sức khỏe của gia cầm.
Một số nghiên cứu nước ngoài khác về bệnh kí sinh trùng:
Huchzermeyer F W và Sutherland B (1978) đã phát hiện Leucocytozoon smithi lần đầu tiên ở Bắc Châu Phi, đồng thời xác định Simulium nigritarse là ký chủ trung gian của ký sinh trùng này.
Morii T và cộng sự (1984) đã tiến hành thí nghiệm lây nhiễm thoi trùng Leucocytozoon từ tuyến nước bọt của dĩn Kết quả cho thấy, các thoi trùng được phân lập vào ngày thứ 2 sau khi dĩn hút máu gia cầm bệnh không có khả năng lây nhiễm cho gà Trong khi đó, thoi trùng được phân lập vào ngày thứ 3 lại có khả năng gây nhiễm cho gà.
Nakamura K và cộng sự (2001) đã nghiên cứu tác động của Leucocytozoon lên gà đẻ, cho thấy rằng loại ký sinh trùng này gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng sản xuất trứng, thậm chí có thể dẫn đến ngừng đẻ Nghiên cứu phát hiện một lượng lớn thể phân liệt thế hệ 2 trong buồng trứng và ống dẫn trứng, gây phù nề và làm giảm áp lực của các mô xung quanh với các mô bị ảnh hưởng bởi đơn bào ký sinh.
Gà con từ 10 đến 80 ngày tuổi rất nhạy cảm với bệnh cầu trùng, với tỷ lệ chết cao Mật độ nuôi nhốt cao, độ ẩm không khí và độ ẩm chất độn chuồng cao, cùng với chế độ dinh dưỡng không đầy đủ, đều là những yếu tố góp phần làm bệnh lan rộng Bệnh cũng có thể lây nhiễm qua đường tiêu hóa, đặc biệt trong mùa xuân và mùa hè.
Bệnh cầu trùng chủ yếu ảnh hưởng đến gia cầm non, trong đó E tenella là loại cầu trùng gây bệnh nặng nhất ở gà 1 tháng tuổi, trong khi E maxima gây bệnh cho gà từ 1,5 đến 2 tháng tuổi.
2.3.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Bệnh kí sinh trùng là bệnh gây thiệt hại không nhỏ cho ngành chăn nuôi đặc biệt là chăn nuôi gia cầm:
Theo Hoàng Thạch (2004), khi các cơ quan nội tạng bị nhiễm Leucocytozoon, ở mức độ nhẹ không có biến đổi rõ rệt Tuy nhiên, nếu nhiễm ở mức độ vừa và nặng (3 - 6 ký sinh trùng trên 1 vi trường), sẽ xuất hiện tình trạng thoái hóa, biến màu, và có thể dẫn đến hoại tử từng đám nhỏ Nếu tình trạng nhiễm kéo dài, sự tăng sinh sẽ diễn ra, làm giảm chức năng hoạt động hoặc gây phá hoại, đặc biệt là ở gan và lách.
Lê Đức Quyết và cs (2009) cho biết: tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố nhƣ: tuổi gia cầm, giống, địa hình, vùng
Kết quả nghiên cứu về tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon ở gà tại một số tỉnh Nam Trung Bộ cho thấy tỷ lệ chung là 13,29% Cụ thể, Phú Yên có tỷ lệ nhiễm 20%, Bình Định 9,54%, và Khánh Hoà 12,04% Tỷ lệ nhiễm cao hơn ở vùng núi (27,34%) so với vùng đồng bằng (12,46%) Gà địa phương có tỷ lệ nhiễm Leucocytozoon là 12,46%, cao hơn gà ngoại với 7,61% Đáng chú ý, tỷ lệ nhiễm cao nhất xảy ra ở gà trên 6 tuần tuổi (15,6%), tiếp theo là gà từ 4 - 6 tuần tuổi (13,5%), trong khi gà dưới 4 tuần tuổi có tỷ lệ nhiễm thấp nhất (7,6%).
Nghiên cứu của Nguyễn Hữu Hƣng (2011) về tình hình nhiễm ký sinh trùng đường máu trên gà thịt tại Vĩnh Long và Sóc Trăng cho thấy tỷ lệ nhiễm khá cao, đạt 30,47% Cụ thể, tỷ lệ nhiễm ở Vĩnh Long là 32,38% và ở Sóc Trăng là 28,22% Đặc biệt, gà Tam Hoàng có tỷ lệ nhiễm cao hơn so với các giống gà Newlohman và Brown AAA Hơn nữa, gà nuôi theo kiểu chuồng hở có tỷ lệ nhiễm cao hơn so với gà nuôi trong chuồng kín.
Bệnh cầu trùng xảy ra quanh năm, nhưng thường bùng phát mạnh mẽ vào mùa xuân và mùa thu, đặc biệt trong điều kiện thời tiết nóng ẩm và mưa nhiều, tạo điều kiện thuận lợi cho noãn nang cầu trùng phát triển Tuy nhiên, bệnh có thể xuất hiện bất cứ lúc nào trong các trại gà lớn, đặc biệt khi mật độ nuôi cao, chuồng trại chật chội và chất thải không được xử lý kịp thời Để phòng ngừa bệnh cầu trùng, các trang trại cần chú ý đến việc sát trùng thường xuyên chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi, đồng thời chăm sóc gà tốt để nâng cao khả năng miễn dịch cho đàn gà.
Trong đó phải kể đến tác hại của đơn bào H meleagridis gây bệnh đầu đen trên gà:
Theo nghiên cứu của Nguyễn Thị Kim Lan và cộng sự (2008), H Meleagridis là một loài ký sinh sống trong trứng của giun kim Heterakis gallinae Cả H Meleagridis và Heterakis gallinae đều ký sinh trong ruột của gà và gà tây, gây ra các bệnh lý cho gà.
Giun Heterakis gây kích thích niêm mạc ruột, dẫn đến tụ huyết và làm giảm dinh dưỡng của gà, khiến chúng gầy yếu và gà con chậm lớn Trong quá trình ký sinh, giun này tiết độc tố, làm cho gà dễ bị trúng độc và mắc các bệnh viêm gan, viêm ruột do loại đơn bào.
H meleagridis xâm nhập vào trứng giun kim, gà ăn phải trứng này thì mắc bệnh
NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tƣợng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Gà thịt nuôi tại Liên Hoa - Phù Ninh - Phú Thọ
- Bệnh đầu đen do đơn bào H meleagridis gây ra ở gà
3.1.2 Thời gian, địa điểm nghiên cứu
- Địa điểm thực hiện đề tài: 3 trại gà nuôi bán chăn thả ở khu 3 - Liên Hoa - Phù Ninh - Phú Thọ.
Nội dung nghiên cứu
3.2.1.Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen trên gà
- Tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen ở 3 trại xã Liên Hoa - Phù Ninh
- Tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen theo lứa tuổi
- Tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen theo tình trạng vệ sinh thú y
- Tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen ở gà trên loại nền chuồng nuôi
3.2.2 Nghiên cứu triệu chứng lâm sàng, bệnh tích bệnh đầu đen trên gà
- Triệu chứng lâm sàng của gà mắc bệnh đầu đen
- Bệnh tích đại thể của gà mắc bệnh đầu đen
3.2.3.Nghiên cứu biện pháp phòng và trị bệnh
- Đề xuất 2 phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà
- Xác định hiệu lực của 2 phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà
- Đề xuất biện pháp phòng bệnh đầu đen cho gà
Phương pháp nghiên cứu
3.3.1 Nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen ở gà
Chúng tôi tiến hành theo dõi 3 trại gà tại khu 3 - Liên Hoa - Phù Ninh, với mỗi trại có 40 con gà được theo dõi từ sơ sinh đến 5 tháng tuổi Mỗi con gà đều được đeo thẻ chân để dễ dàng quan sát các triệu chứng lâm sàng và xác định các chỉ tiêu khác liên quan đến sức khỏe và sự phát triển của chúng.
Tiến hành theo dõi và ghi chép 120 con gà dựa trên các tiêu chí như tuổi, tình trạng vệ sinh thú y, nền chuồng nuôi, và triệu chứng lâm sàng Sau đó, thực hiện mổ khám để kiểm tra bệnh tích.
* Tuổi gà: Mổ khám gà ở 4 lứa tuổi với số lƣợng sau:
* Tình trạng vệ sinh thú y: Tiêu chí đánh giá tình trạng VSTY đƣợc quy định nhƣ sau:
Để đảm bảo tình trạng VSTY tốt cho đàn gà, cần duy trì chuồng trại cao ráo, thoáng mát và sạch sẽ Vệ sinh chuồng nuôi gà và khu vực xung quanh ít nhất một lần mỗi tuần, đồng thời thu gom phân và chất độn chuồng để ủ Hàng tháng, thực hiện khử trùng và tiêu độc chuồng trại cũng như dụng cụ chăn nuôi, và cần phát quang cây cỏ, khơi thông cống rãnh để tạo môi trường sống tốt nhất cho gà.
Để duy trì tình trạng vệ sinh trong chăn nuôi, cần thực hiện vệ sinh chuồng nuôi và khu vực xung quanh mỗi 3 - 4 tuần Đồng thời, cần chú ý đến việc xử lý các vũng nước đọng xung quanh chuồng gà Thực hiện tiêu độc chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi 2 - 3 tháng/lần, đồng thời phát quang cây cỏ và khơi thông cống rãnh để đảm bảo môi trường chăn nuôi sạch sẽ và an toàn.
Tình trạng vệ sinh chuồng nuôi gà kém thường diễn ra khi việc vệ sinh chỉ được thực hiện 2-3 tháng một lần, dẫn đến môi trường ẩm thấp và có nhiều vũng nước đọng xung quanh Ngoài ra, việc chọn vị trí chuồng ở nơi đất trũng và không kiểm soát được cỏ cây um tùm cũng góp phần làm tăng nguy cơ bệnh tật Việc không sát trùng tiêu độc chuồng trại và dụng cụ chăn nuôi, cùng với việc không khơi thông cống rãnh, càng làm tình trạng này trở nên nghiêm trọng hơn.
Số gà mổ khám theo tình trạng vệ sinh thú y nhƣ sau:
Tình trạng VSTY tốt: 40 con Tình trạng VSTY trung bình: 40 con Tình trạng VSTY kém: 40 con
*Kiểu nền chuồng nuôi: Theo dõi gà ở 2 kiểu nền chuồng nuôi là nền đất và nền xi măng có đệm lót là chấu
Số gà mổ khám nuôi ở 2 kiểu nền chuồng nuôi nhƣ sau:
3.3.2 Phương pháp xác định đặc điểm lâm sàng và bệnh tích bệnh đầu đen ở gà
* Quan sát triệu chứng lâm sàng:
Trước khi tiến hành phẫu thuật, cần áp dụng các phương pháp chẩn đoán cơ bản như quan sát, sờ nắn và đo thân nhiệt để xác định các biến đổi lâm sàng ở gà bệnh Những yếu tố cần chú ý bao gồm thân nhiệt, màu sắc của mào và tích, thể trạng, tình trạng ăn uống, mức độ vận động, màu sắc da vùng đầu và mép, cũng như trạng thái và màu sắc của phân.
* Mổ khám kiểm tra bệnh tích đại thể:
Phương pháp mổ khám gà theo Skrjabin K I (1928) là một quy trình toàn diện, trong đó sử dụng mắt thường và kính lúp để quan sát các nội quan như thận, lách, tim, phổi, gan và manh tràng Mục tiêu là xác định những biến đổi đại thể và chụp ảnh các vùng có bệnh tích điển hình Kết quả của quá trình mổ khám sẽ được ghi lại trong nhật ký để theo dõi biến đổi của gà.
3.3.3 Phương pháp nghiên cứu biện pháp phòng trị bệnh đầu đen cho gà
3.3.3.1 Phương pháp nghiên cứu biện pháp trị bệnh đầu đen cho gà
- Xây dựng 2 phác đồ điều trị bệnh đầu đen cho gà nhƣ sau:
Tên thuốc (theo nhà sản xuất)
Hoạt chất chính Liều lƣợng
Amovet Amoxicillin 1g/10lít nước/ngày
CTTNHH Mebipha Bio-Fortec Sorbitol, Cao Diệp hạ châu, Cao Bìm bìm biếc, Inositol, Taurin, Collagen
CTTNHH Mebipha Bio-Fortec Sorbitol, Cao Diệp hạ châu, Cao Bìm bìm biếc, Inositol, Taurin, Collagen
- Hiệu lực điều trị bệnh của 2 phác đồ:
Sau khi nhận diện các triệu chứng lâm sàng của bệnh đầu đen ở gà, cần tiến hành điều trị cho những con gà có triệu chứng tương tự bằng hai phác đồ đã xác định Liệu trình điều trị kéo dài từ 3 đến 5 ngày, sau đó đánh giá hiệu quả của từng phác đồ điều trị.
3.3.3.2.Đề xuất biện pháp phòng bệnh đầu đen cho gà
Biện pháp phòng bệnh đầu đen cho gà đƣợc đề ra dựa vào những cơ sở khoa học sau:
- Kết quả nghiên cứu tỷ lệ nhiễm bệnh đầu đen ở gà
- Kết quả nghiên cứu hiệu lực phác đồ điều trị bệnh đầu đen gà
*Các chỉ tiêu theo dõi:
Tỷ lệ nhiễm (%) = Số mẫu nhiễm x 100 Tổng số mẫu kiểm tra
3.5 Phương pháp xử lí số liệu
Các số liệu được xử lí theo phương pháp thống kê sinh học ( theo tài liệu của Nguyễn Văn Thiện và cs, 2008) và phần mềm Excel
Tỷ lệ gà có triệu chứng (%) = Số gà có triệu chứng x 100 Tổng số gà theo dõi
Tỷ lệ gà có bệnh tích (%) = Số gà có bệnh tích x 100 Tổng số gà mổ khám
Hiệu quả điều trị (%) Số gà khỏi về triệu chứng x 100 Tổng số gà đƣợc điều trị