ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về hành vi chiếm đoạt tài sản của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Điều 174 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, nêu rõ rằng hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản của người khác bằng các thủ đoạn gian dối là vi phạm pháp luật.
Hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) bao gồm việc chiếm đoạt tài sản của người khác thông qua thủ đoạn gian dối Tội phạm này được cấu thành từ hai hành vi chính: chiếm đoạt tài sản và lừa dối Trong chương này của Luận văn, tác giả sẽ tập trung phân tích và xác định hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS.
Hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS (Điều 174 BLHS năm 2015) không được hướng dẫn cụ thể, nhưng vẫn được coi là một phần của các hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội phạm xâm phạm sở hữu Mặc dù thiếu hướng dẫn chi tiết, từ lý luận về hành vi chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự và các giáo trình hiện hành tại Việt Nam, có thể hiểu rằng hành vi này là việc cố ý chuyển biến trái pháp luật tài sản của người khác thành tài sản của mình.
Từ khái niệm nêu trên, hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS có các đặc điểm sau:
Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi khiến chủ sở hữu và người quản lý tài sản không còn khả năng thực hiện quyền của mình đối với tài sản, đồng thời tạo điều kiện cho người chiếm đoạt thực hiện các quyền này Thực tế, hành vi này không chỉ làm mất khả năng chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản của người quản lý, mà còn ảnh hưởng đến quyền lợi của chủ sở hữu.
Các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt bao gồm: tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS), tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Điều 169 BLHS), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS), tội cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS), tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 172 BLHS), tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS) và tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS).
2 Trường Đại học Luật TP.HCM (2019), Giáo trình Luật Hình sự Việt Nam (Phần Các tội phạm – Quyển 1)
Hành vi chiếm đoạt tài sản, mặc dù tạo điều kiện cho người chiếm đoạt thực hiện quyền đối với tài sản, nhưng về mặt pháp lý, hành vi này là trái luật và không làm mất quyền sở hữu của chủ sở hữu Do đó, tài sản vẫn thuộc quyền sở hữu của người chủ, và người phạm tội không có quyền sở hữu hợp pháp đối với tài sản đó.
Tài sản chỉ trở thành đối tượng của hành vi chiếm đoạt khi đang có người quản lý, bao gồm cả quản lý hợp pháp như chủ sở hữu hoặc người được ủy quyền, và quản lý bất hợp pháp Nếu tài sản không còn thuộc sự quản lý hay chiếm hữu của người quản lý, thì nó không còn là đối tượng bị chiếm đoạt.
Trong tội LĐCĐTS, người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản phải có lỗi cố ý trực tiếp, tức là họ nhận thức rõ rằng tài sản đang có người quản lý nhưng vẫn cố tình chuyển dịch trái pháp luật tài sản đó thành của riêng mình.
Việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản là rất quan trọng để phân biệt các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và các tội xâm phạm sở hữu không có tính chiếm đoạt, theo quy định tại Chương XVI BLHS năm 2015 Điều này cũng giúp phân loại rõ ràng giữa các tội xâm phạm sở hữu với những trường hợp không phải là tội phạm, như trong quan hệ pháp luật dân sự và kinh tế.
Một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo hành vi chiếm đoạt tài sản
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS), người phạm tội cần có ý định chiếm đoạt tài sản và sử dụng thông tin gian dối để khiến nạn nhân tin tưởng và tự nguyện giao tài sản Tuy nhiên, thực tế xét xử cho thấy việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội này vẫn gặp nhiều hạn chế và vướng mắc Để làm rõ những vấn đề này, tác giả sẽ phân tích một số vụ án điển hình nhằm chứng minh và đưa ra nhận xét về tình hình hiện tại.
Thứ nhất, phân biệt giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS (Điều
174 BLHS năm 2015) với hành vi sử dụng trái phép tài sản trong tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177 BLHS năm 2015)
Bản án hình sự phúc thẩm (HSPT) số 165/2019/HS-PT ngày 25/6/2019 của Tòa án nhân dân (TAND) cấp cao tại Đà Nẵng
Vào khoảng tháng 3/2017, ông Hồ Đắc T, giám đốc Công ty C, đã điều động nhân viên M vào vị trí kế toán kiêm thủ quỹ tại Phòng bán vé của Công ty C tại Bến xe Miền Đông, TP.HCM Nhiệm vụ của M là quản lý tiền phát sinh từ hoạt động kinh doanh và cung cấp dịch vụ chuyển tiền cho khách hàng Trong thời gian này, D thường xuyên đến Phòng bán vé để chuyển tiền về thành phố T5, từ đó biết rõ nhiệm vụ của M D đã nảy sinh ý định chiếm đoạt tiền của Công ty C và chủ động làm quen với M.
M Để tạo lòng tin, D thường xuyên mua trái cây đến Phòng bán vé cho M và các nhân viên ở đây, thường xuyên chuyển tiền về cho người thân ở thành phố T5 Sau khi đã tạo được lòng tin, D nhiều lần điện thoại, nhắn tin mượn tiền của M để chuyển cho người thân ở thành phố T5 và sau đó D trả tiền đầy đủ, đúng hẹn
Ngày 25/01/2018, D điện thoại nhờ M chuyển 13.800.000 đồng cho Lưu Mạnh
D ở thành phố T5 hứa sẽ trả tiền cho M vào chiều cùng ngày nhưng không thực hiện Thay vào đó, D tiếp tục nhờ M chuyển tiền cho nhiều người khác, tổng số tiền lên đến hơn 60.000.000 đồng Khi M yêu cầu trả lại, D cho biết số tiền đã được đầu tư vào việc đóng tàu với một người ở TP.HCM và hiện đang thiếu vốn.
M đã tiếp tục cho D mượn tiền để đầu tư hoàn thành tàu, với cam kết rằng khi xuất hóa đơn bán, D sẽ trả lại tiền cho M Để tăng cường lòng tin, D đã nhiều lần đưa cho M số tiền từ 1.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng, tổng cộng lên đến 40.000.000 đồng, với lý do đây là tiền đóng tàu cho M M đã không có sự cho phép từ 04 thành viên góp vốn của Công ty C, nhưng vì tin tưởng D và đã nhận 40.000.000 đồng từ D, M đã tự ý lấy 1.430.000.000 đồng từ Công ty C để đưa cho D.
D bằng hai hình thức: Một là, lợi dụng nhiệm vụ được giao làm dịch vụ chuyển tiền,
M đã chuyển tổng cộng 658.600.000 đồng cho 9 người thân của D ở thành phố T5 để trả nợ cho D Đồng thời, M cũng nhiều lần lấy tiền mặt từ Công ty C mà mình quản lý, đưa cho D với tổng số tiền 771.400.000 đồng Nhờ những thủ đoạn này, từ ngày 25/01/2018 đến ngày 06/03/2018, D đã chiếm đoạt 1.430.000.000 đồng của Công ty C để trả nợ và tiêu xài.
Quan điểm của các cơ quan tiến hành tố tụng (CQTHTT) về việc xác định tội danh đối với hành vi của D và M:
Tại bản án hình sự sơ thẩm số 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019, TAND tỉnh Phú Yên đã tuyên phạt bị cáo D 16 năm tù về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo điểm a khoản 4 Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, và bị cáo M 2 năm tù về tội sử dụng trái phép tài sản theo điểm a khoản 2 Điều 177 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Tại bản án HSPT số 165/2019/HS-PT ngày 25/6/2019, TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã quyết định giữ nguyên bản án HSST số 02/2019/HS-ST ngày 15/01/2019 của TAND tỉnh Phú, trong đó tuyên phạt bị cáo M 2 năm tù về tội sử dụng trái phép tài sản theo điểm a khoản 2 Điều 177 BLHS năm 2015.
Nh ận xét, đánh giá và vướ ng m ắc đặ t ra t ừ v ụ án:
Trong vụ án này, mặc dù D và M đều có hành vi tác động đến cùng một khách thể và đối tượng, nhưng do tính chất khách quan của hành vi khác nhau, nên việc xét xử D và M về hai tội danh khác nhau là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.
D đã có ý định chiếm đoạt tài sản của công ty C ngay từ đầu bằng cách cung cấp thông tin gian dối cho M, cụ thể là D nói rằng mình cần mượn tiền để đầu tư đóng tàu với một người đàn ông ở TP.HCM D cam kết sẽ trả lại tiền cho M sau khi hoàn tất đầu tư và xuất hóa đơn bán Tuy nhiên, thông tin này hoàn toàn sai sự thật, nhằm mục đích khiến M tin tưởng và giao cho D số tiền 1.430.000.000 đồng từ công ty C Hành vi của D là cố ý đưa ra thông tin gian dối để M tự nguyện giao tài sản, dẫn đến việc D chuyển dịch trái pháp luật tài sản của công ty C thành tài sản cá nhân Do đó, D đã vi phạm Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015 về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
M đã tin tưởng vào thông tin sai lệch từ D và, với vai trò là kế toán kiêm thủ quỹ của công ty C, đã tự ý lấy 1.430.000.000 đồng từ tài sản của công ty trong khoảng thời gian từ 25/1/2018 đến 6/3/2018 mà không có sự đồng ý của 4 thành viên góp vốn Hành động này được thực hiện nhằm mục đích vụ lợi 40 triệu đồng từ D, dẫn đến việc M không thể trả lại tài sản cho công ty Mặc dù không có ý định chiếm đoạt, nhưng việc khai thác tài sản của công ty C mà không có sự cho phép đã vi phạm quyền sở hữu của các thành viên.
C muốn cho D mượn số tiền 1.430.000 đồng trong một khoảng thời gian nhất định, và sau khi D hoàn trả lại cho M, M sẽ trả lại số tiền này cho công ty C M không có ý định chiếm đoạt số tiền mà chỉ muốn khai thác công dụng của nó trong thời gian nhất định.
M đã vi phạm quy định khi tự ý sử dụng tài sản thuộc phạm vi quản lý của mình, dẫn đến hành vi sử dụng trái phép tài sản theo Điều 177 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Để xác định đúng tội danh trong vụ án, cần phân biệt rõ giữa hành vi LĐCĐTS và hành vi sử dụng trái phép tài sản Chiếm đoạt tài sản là hành vi cố ý chuyển dịch tài sản của người khác thành tài sản của mình, trong khi hành vi sử dụng trái phép tài sản là việc khai thác công dụng của tài sản mà không có sự đồng ý của chủ sở hữu trong một khoảng thời gian nhất định Hành vi này không làm cho chủ sở hữu mất đi tài sản, mà chỉ tạm thời hạn chế quyền sử dụng của họ Sự khác biệt cơ bản giữa hành vi sử dụng trái phép tài sản và các hành vi chiếm đoạt là hành vi này chỉ xâm phạm đến quyền sử dụng tài sản mà không xâm phạm quyền định đoạt tài sản.
Vụ án này nêu bật sự cần thiết phải giải quyết những vướng mắc trong việc xác định hành vi chiếm đoạt tài sản theo tội LĐCĐTS (Điều 174 BLHS năm 2015) Cần có văn bản hướng dẫn rõ ràng để phân biệt giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS và hành vi sử dụng trái phép tài sản theo tội sử dụng trái phép tài sản (Điều 177 BLHS năm 2015).
Thứ hai, phân biệt giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS (Điều
Một số kiến nghị hoàn thiện
Theo phân tích tại mục 1.2 của Luận văn, thực tiễn định tội danh tội LĐCĐTS liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản vẫn gặp nhiều hạn chế và vướng mắc Các cơ quan tư pháp chưa xác định rõ ràng hành vi chiếm đoạt tài sản, dẫn đến nhầm lẫn giữa tội LĐCĐTS và hành vi sử dụng trái phép tài sản Ngoài ra, còn có sự khó khăn trong việc phân biệt hành vi chiếm đoạt tài sản với các hành vi tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội hoặc các trường hợp không phải là tội phạm, gây ảnh hưởng đến việc xử lý đúng đắn các vụ việc liên quan.
Thực tiễn cho thấy, việc định tội danh tội LĐCĐTS liên quan đến hành vi chiếm đoạt tài sản gặp nhiều vướng mắc chủ yếu do các lý do sau đây:
Hiện tại, các cơ quan nhà nước có thẩm quyền chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản trong các tội xâm phạm sở hữu nói chung, cũng như trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) nói riêng.
Việc thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản, cùng với sự đa dạng và phong phú của các hành vi thực tế, dẫn đến sự hiểu biết khác nhau về hành vi này trong tội LĐCĐTS Điều này đã gây ra sự không thống nhất trong nhận thức và áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng.
Dựa trên những vướng mắc và nguyên nhân đã nêu, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt trong việc hiểu và áp dụng hành vi chiếm đoạt tài sản theo tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015).
Tác giả kiến nghị rằng cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản Việc này nhằm phân biệt rõ ràng giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt, bao gồm tội LĐCĐTS (Điều 174 BLHS năm 2015), và các tội phạm không có tính chất chiếm đoạt, cũng như phân định các trường hợp không phải là tội phạm.
Hành vi chiếm đoạt tài sản, theo quy định từ Điều 168 đến Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, là hành vi cố ý chuyển giao trái phép tài sản thuộc quyền quản lý của người khác thành tài sản của riêng mình.
Hành vi chiếm đoạt tài sản phải có đủ các đặc điểm sau đây:
Hành vi chiếm đoạt tài sản là hành vi khiến chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, trong khi người chiếm đoạt có thể thực hiện các quyền này Quyền sở hữu được định nghĩa theo Điều 158 BLDS năm 2015, bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền định đoạt tài sản Nếu hành vi xâm phạm chỉ ảnh hưởng đến quyền sở hữu mà không xâm phạm quyền định đoạt, thì không được coi là chiếm đoạt tài sản theo các điều luật từ Điều 168 đến Điều 175 BLHS năm 2015, như ví dụ về việc sử dụng trái phép tài sản theo Điều 177 BLHS năm 2015.
Tài sản chỉ là đối tượng của hành vi chiếm đoạt khi đang có người quản lý, có thể là quản lý hợp pháp hoặc bất hợp pháp Nếu tài sản đã thoát ly khỏi sự quản lý hoặc chiếm hữu của người quản lý, thì không còn là đối tượng cho hành vi chiếm đoạt tài sản.
Người thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản cần phải có lỗi cố ý trực tiếp, nghĩa là họ nhận thức rõ rằng tài sản đang bị quản lý bởi người khác nhưng vẫn có ý định chiếm đoạt và biến tài sản đó thành của riêng mình một cách trái pháp luật.
Tác giả kiến nghị rằng cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn nhằm phân biệt rõ ràng giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS và các hành vi gian dối liên quan đến tội phạm trước đó của người phạm tội, nhấn mạnh rằng không phải tất cả các hành vi này đều là chiếm đoạt tài sản.
Trong trường hợp người phạm tội cung cấp thông tin gian dối mà không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản, như chỉ để che giấu hành vi phạm tội trước đó hoặc tiêu thụ tài sản do người khác phạm tội mà có, thì hành vi này không được coi là chiếm đoạt tài sản Do đó, người này sẽ không bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Thực tiễn cho thấy hành vi chiếm đoạt tài sản rất đa dạng và phức tạp, phụ thuộc vào điều kiện, hoàn cảnh và các yếu tố tác động khác nhau Để đảm bảo sự thống nhất trong việc áp dụng pháp luật, tác giả kiến nghị TANDTC cần xây dựng hệ thống án lệ nhằm phân biệt rõ ràng giữa hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS và các hành vi không có tính chiếm đoạt, cũng như những hành vi không phải là tội phạm trong quan hệ dân sự và kinh tế.
Chiếm đoạt tài sản là một trong hai hành vi khách quan của tội LĐCĐTS Trong Chương 1 của Luận văn, tác giả đã phân tích quy định pháp luật hình sự Việt Nam về hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội LĐCĐTS, đồng thời chỉ ra một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh Tác giả nêu rõ nguyên nhân của các vướng mắc và hạn chế, từ đó đưa ra kiến nghị nhằm hoàn thiện quy định pháp luật hình sự Việt Nam trong việc định tội danh đối với tội phạm này dựa trên dấu hiệu hành vi chiếm đoạt tài sản.
Kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn cụ thể về hành vi chiếm đoạt tài sản Điều này nhằm phân biệt rõ ràng giữa các tội xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt và tội LĐCĐTS theo Điều 174 BLHS.
2015) nói riêng với các tội phạm không có tính chất chiếm đoạt cũng như để phân biệt với các trường hợp không phải là tội phạm
ĐỊNH TỘI DANH TỘI LỪA ĐẢO CHIẾM ĐOẠT TÀI SẢN
Quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về thủ đoạn gian dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản
Hành vi lừa dối, hay còn gọi là thủ đoạn gian dối, là một yếu tố quan trọng trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015, bên cạnh hành vi chiếm đoạt tài sản đã được phân tích trong Chương 1 của Luận văn.
Thủ đoạn gian dối, theo từ điển tiếng Việt, được hiểu là những cách thức khôn khéo nhưng xảo trá, không thật thà và không ngay thẳng, nhằm mục đích lừa lọc để chiếm đoạt tài sản của người khác.
Thủ đoạn lừa dối trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) được hiểu là hành vi cố ý cung cấp thông tin sai lệch mà người phạm tội nhận thức rõ, nhằm khiến nạn nhân tin tưởng và tự nguyện giao tài sản.
Từ khái niệm trên, thủ đoạn gian dối trong tội LĐCĐTS có các đặc điểm sau:
- Xét về mặt khách quan, thủ đoạn gian dối là hành vi đưa ra những thông tin không đúng sự thật - thông tin giả
Khi cung cấp thông tin gian dối, người phạm tội nhận thức rõ rằng thông tin đó không đúng sự thật, nhưng vẫn cố gắng thuyết phục người khác tin vào điều đó.
Thủ đoạn gian dối là nguyên nhân chính khiến nạn nhân tự nguyện giao tài sản cho tội phạm Tuy nhiên, không phải mọi thủ đoạn gian dối đều thuộc về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) Nếu hành vi gian dối đã được quy định trong một tội danh độc lập trong Bộ luật Hình sự, người thực hiện sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội danh đó Ví dụ, nếu tội phạm sử dụng thông tin gian d
9 Viện Ngôn ngữ học (2013), Từ điển tiếng Việt phổ thông, NXB Phương Đông, tr.882, tr.290
Thủ đoạn gian dối trong tội LĐCĐTS có thể dẫn đến nhiều tội phạm khác theo Bộ luật Hình sự (BLHS) Cụ thể, nếu người phạm tội sử dụng thông tin gian dối để lừa gạt người quản lý tài sản, tạo điều kiện cho việc tiếp cận tài sản, họ có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội như cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015) nếu đe dọa bằng vũ lực, cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS năm 2015) nếu chiếm đoạt công khai, hoặc trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015) nếu lén lút chiếm đoạt Hơn nữa, trong giao dịch thương mại, hành vi gian dối như cân, đong, đo, đếm không chính xác hoặc các thủ đoạn lừa đảo khác gây thiệt hại cho khách hàng có thể cấu thành tội lừa dối khách hàng (Điều 198 BLHS năm 2015).
Trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS), người phạm tội luôn có mục đích chiếm đoạt tài sản của nạn nhân trước khi diễn ra việc giao nhận tài sản Họ cố tình đưa ra thông tin gian dối để tạo lòng tin, khiến nạn nhân giao tài sản cho mình Nếu thủ đoạn gian dối chỉ xuất hiện sau khi người phạm tội đã nhận tài sản một cách hợp pháp, thì không được coi là hành vi của tội LĐCĐTS Tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể, hành vi gian dối này có thể cấu thành các tội danh khác, chẳng hạn như tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 BLHS năm 2015.
Thủ đoạn gian dối, hay hành vi lừa dối, có thể được thực hiện qua nhiều hình thức như lời nói, hành động hoặc việc trình bày giấy tờ giả mạo nhằm đánh lừa người quản lý tài sản Hình thức thực hiện không ảnh hưởng đến việc định tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản, vì người phạm tội có thể áp dụng bất kỳ phương thức nào để thực hiện hành vi gian dối.
Một số vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo thủ đoạn gian dối
Thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản của người khác là một đặc điểm nổi bật của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) Tuy nhiên, dấu hiệu này không chỉ xuất hiện trong tội LĐCĐTS mà còn có thể thấy ở các tội phạm khác.
11 Xem: Điều 170, Điều 171, Điều 173 và Điều 198 BLHS năm 2015
Điều 175 BLHS năm 2015 quy định về một số dấu hiệu tội phạm, tuy nhiên, luật hình sự Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế trong việc xác định thủ đoạn gian dối Điều này dẫn đến khó khăn trong việc định tội danh cho tội LĐCĐTS Để làm rõ những vướng mắc này, tác giả sẽ phân tích và nhận xét một số vụ án điển hình.
Để xác định tội danh lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cần làm rõ rằng người phạm tội đã sử dụng thủ đoạn gian dối nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản của người khác, bất kể việc này xảy ra trước hay sau khi họ đã nhận được tài sản.
Bản án HSST số 06/2017/HSST ngày 5/4/2017 của TAND huyện Cù Lao Dung, Tỉnh Sóc Trăng
Bùi Tuấn Anh, một người nghiện ma túy, đã lợi dụng sự tin tưởng của bạn bè để mượn xe mô tô và sau đó cầm cố lấy tiền phục vụ cho nhu cầu tiêu xài cá nhân.
Vào ngày 25/5/2016, Tuấn Anh đã gọi điện cho ông Ngọc, ông ngoại của mình, để mượn chiếc xe mô tô Exciter biển số 83H8-0178 trị giá 17,6 triệu đồng Sau khi được đồng ý, Tuấn Anh đã mang xe đến tiệm cầm đồ Trung Nguyên và cầm cố với giá 7 triệu đồng Vào ngày 18/6/2016, Tuấn Anh đã nhờ Lê Tuấn Anh giới thiệu để gặp bà Lê Thị Loan, chị ruột của Lê Tuấn Anh, nhằm cầm chiếc xe với giá 15 triệu đồng Sau khi nhận tiền, Tuấn Anh đã chuộc lại chiếc xe từ tiệm cầm đồ và giao lại cho bà Loan quản lý, trong khi số tiền 8 triệu đồng còn lại đã bị Tuấn Anh tiêu xài hết.
Vào năm 2016, Tuấn Anh đã cầm chiếc xe mô tô của mình cho Nguyễn Văn Sử với số tiền 3 triệu đồng Vào ngày 8/6/2016, Tuấn Anh đã mượn chiếc xe Yamaha biển số 83D1-026.72 trị giá 10 triệu đồng từ Hiếu để đi chơi Sau khi mượn, Tuấn Anh đã cầm chiếc xe của Hiếu cho Sử với số tiền 5 triệu đồng Tuấn Anh chuộc lại xe của mình với 3 triệu đồng và giao xe của Hiếu cho Sử quản lý, còn lại 2 triệu đồng Tuấn Anh đã tiêu xài hết.
Vào ngày 18/6/2016, Tuấn Anh đã gọi điện cho bạn mình là Mạnh, thông báo rằng xe mô tô của anh bị cảnh sát giao thông tạm giữ Do không có phương tiện di chuyển, Tuấn Anh đã xin mượn chiếc xe Wave của Mạnh, có biển số 83D1-074.49, với giá trị khoảng 13 triệu đồng.
Mạnh đã đồng ý cho Tuấn Anh mượn xe, và sau đó, Tuấn Anh mang xe đến tiệm cầm đồ Nguyễn Hùng để cầm cố với giá 10 triệu đồng Tuy nhiên, số tiền cầm xe này đã bị Tuấn Anh tiêu xài hết.
Quan điể m c ủ a các CQTHTT v ề vi ệc xác đị nh t ội danh đố i v ớ i hành vi c ủ a Bùi Tu ấn Anh như sau:
CQCSĐT Công an huyện Cù Lao Dung đã tiến hành khởi tố vụ án và khởi tố bị can Bùi Tuấn Anh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
- Tại bản Cáo trạng số 19/QĐ-KSĐT ngày 29/11/2016, VKSND huyện Cù Lao Dung đã truy tố Bùi Tuấn Anh về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản
Tại bản án HSST số 06/2017/HSST ngày 5/4/2017, TAND huyện Cù Lao Dung đã xử phạt Bùi Tuấn Anh 1 năm tù về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, căn cứ vào các quy định tại Điều 140, Điều 46, Điều 48 BLHS năm 1999, Nghị quyết số 144/2016/QH13, và Điều 175 BLHS năm 2015.
Nh ận xét, đánh giá và vướ ng m ắc đặ t ra t ừ v ụ án:
Tội LĐCĐTS và tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản đều sử dụng thủ đoạn gian dối và liên quan đến hành vi tự nguyện giao tài sản hợp pháp theo hợp đồng, dẫn đến nhầm lẫn trong việc xác định hai tội danh này Tuy nhiên, sự khác biệt quan trọng giữa hai tội danh này nằm ở thủ đoạn gian dối được áp dụng.
Trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS), người phạm tội đã có ý định chiếm đoạt tài sản từ đầu và thực hiện các thủ đoạn gian dối Cụ thể, họ phải sử dụng thủ đoạn gian dối trước khi nhận được tài sản thông qua hợp đồng Thủ đoạn gian dối này không chỉ xảy ra trước hành vi chiếm đoạt về mặt thời gian mà còn là điều kiện tiên quyết cho việc thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
Trong tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, thủ đoạn gian dối là một phương thức mà người phạm tội sử dụng để chiếm đoạt tài sản đã được giao hợp pháp Đáng chú ý, tại thời điểm nhận tài sản từ bị hại, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt, mà ý định này chỉ xuất hiện sau khi họ đã nhận được tài sản.
14 Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 140 BLHS năm 1999 và hiện nay được quy định tại Điều 175 BLHS năm 2015
15 Xem: Khoản 1 Điều 175 BLHS năm 2015 tài sản và thời điểm người phạm tội dùng thủ đoạn gian dối là sau khi họ đã nhận được tài sản
Trong vụ án này, để xác định tội danh của Bùi Tuấn Anh, cần làm rõ thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản đã xảy ra trước hay sau khi nhận tài sản từ các bị hại Cụ thể, Tuấn Anh đã chủ động cung cấp thông tin sai lệch để các bị hại tin tưởng và tự nguyện giao tài sản, như mượn xe để sử dụng, đi chơi hay về nhà Sau khi nhận xe, Tuấn Anh lập tức mang đi cầm để lấy tiền tiêu xài cá nhân, cho thấy ý định chiếm đoạt tài sản đã có từ trước Do đó, Tuấn Anh đã đủ yếu tố cấu thành tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 BLHS năm 2015 Việc cơ quan chức năng huyện Cù Lao Dung khởi tố và truy tố Tuấn Anh về tội này là không đúng với quy định pháp luật.
Vấn đề quan trọng trong vụ án này là xác định tội danh đúng đắn khi người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản qua hợp đồng Cần làm rõ thời điểm mà người phạm tội thực hiện hành vi gian dối và mục đích chiếm đoạt, liệu có xảy ra trước hay sau khi nhận tài sản Nếu thủ đoạn gian dối và mục đích chiếm đoạt diễn ra trước khi nhận tài sản, sẽ cấu thành tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015) Ngược lại, nếu hành vi gian dối và mục đích chiếm đoạt xảy ra sau khi đã nhận tài sản hợp pháp, thì sẽ cấu thành tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015).
Bản án HSPT số 60/2021/HS-PT ngày 27/5/2021 của TAND tỉnh Khánh Hòa
Một số kiến nghị hoàn thiện
Mục 2.2 của Luận văn đã phân tích những vướng mắc trong thực tiễn định tội danh tội LĐCĐTS theo thủ đoạn gian dối gồm:
Để xác định tội danh trong trường hợp chiếm đoạt tài sản, cần làm rõ liệu người phạm tội đã có thủ đoạn gian dối trước hay sau khi nhận tài sản qua hợp đồng Nếu hành vi gian dối diễn ra trước khi nhận tài sản, có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015) Ngược lại, nếu hành vi gian dối xảy ra sau khi đã nhận tài sản, tội danh có thể là lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 175 BLHS năm 2015).
- Phân biệt tội LĐCĐTS với các tội phạm có tính chiếm đoạt khác khi có biểu hiện gian dối
Trong trường hợp ban đầu, người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để khiến nạn nhân tin tưởng và tự nguyện giao tài sản Tuy nhiên, khi nạn nhân hoặc người khác phát hiện và cố gắng giành lại tài sản, kẻ phạm tội sẽ có hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống trả.
Thực tiễn cho thấy, các vướng mắc trong việc xác định tội LĐCĐTS (Điều 174 BLHS năm 2015) chủ yếu xuất phát từ hai nguyên nhân Thứ nhất, hiện nay chưa có văn bản hướng dẫn rõ ràng về các thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản, dẫn đến khó khăn trong việc phân biệt tội LĐCĐTS với các tội phạm khác có tính chất chiếm đoạt.
23 Mục 6 phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/12/2001 của
Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Tòa án nhân dân tối cao và Viện kiểm sát nhân dân tối cao đã ban hành hướng dẫn về việc áp dụng các quy định tại Chương XIV của Bộ luật Hình sự năm 1999 liên quan đến các tội xâm phạm sở hữu Theo đó, cần xác định rõ các trường hợp có biểu hiện gian dối và quy định cụ thể khi nào thì chuyển hóa, khi nào thì không chuyển hóa từ tội Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản (Điều 140 BLHS năm 1999) sang tội Cướp tài sản (Điều 133 BLHS năm 1999).
Do sự thiếu hụt văn bản hướng dẫn cụ thể và sự khác biệt về năng lực chuyên môn của những người tiến hành tố tụng, việc hiểu và áp dụng các thủ đoạn gian dối trong tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (LĐCĐTS) cùng các tội phạm chiếm đoạt khác có thể khác nhau Điều này dẫn đến sự không thống nhất trong việc áp dụng pháp luật trong thực tế.
Dựa trên những vướng mắc và nguyên nhân đã nêu, tác giả đề xuất một số kiến nghị nhằm cải thiện pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt trong việc nhận thức và áp dụng các thủ đoạn gian dối liên quan đến tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015).
Tác giả đề xuất rằng các cơ quan nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về "thủ đoạn gian dối" liên quan đến tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản và tội lạm dụng tín nhiệm nhằm chiếm đoạt tài sản.
Khi người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản thông qua hợp đồng, cần xác định rõ thời điểm thực hiện hành vi gian dối và mục đích chiếm đoạt tài sản, xem xét liệu chúng xảy ra trước hay sau khi tài sản được nhận, nhằm truy cứu trách nhiệm hình sự một cách chính xác.
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối và có ý định chiếm đoạt tài sản trước khi nhận được tài sản đó, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối với mục đích chiếm đoạt tài sản sau khi đã nhận, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản theo Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Kiến nghị các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ban hành văn bản hướng dẫn phân biệt “thủ đoạn gian dối” trong tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản với các tội phạm chiếm đoạt khác có biểu hiện gian dối.
“Trong trường hợp người phạm tội có thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác thì truy cứu TNHS như sau:
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để khiến nạn nhân tin tưởng và tự nguyện giao tài sản, thì đây chính là cơ sở để truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo Điều 174 Bộ luật Hình sự năm 2015.
Nếu người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối chỉ để tiếp cận tài sản dễ dàng hơn và sau đó áp dụng các thủ đoạn khác để chiếm đoạt tài sản, thì không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản (Điều 174 BLHS năm 2015) Thay vào đó, họ sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm chiếm đoạt tài sản tương ứng như tội cướp tài sản (Điều 168 BLHS năm 2015), tội cưỡng đoạt tài sản (Điều 170 BLHS năm 2015), tội cướp giật tài sản (Điều 171 BLHS năm 2015) và tội trộm cắp tài sản (Điều 173 BLHS năm 2015).
Trong trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để khiến nạn nhân tự nguyện giao tài sản, nếu khi bị phát hiện hoặc khi nạn nhân cố gắng giành lại tài sản, người phạm tội lại có hành vi dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực để chống trả, thì cần xác định rõ tội danh.
- Một là, tác giả kiến nghị bổ sung vào khoản 2 Điều 174 BLHS năm 2015 điểm g với quy định “Hành hung để tẩu thoát” tương tự như dấu hiệu định khung
“Hành hung để tẩu thoát” quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 171, điểm b khoản 2 Điều 172 và điểm đ khoản 2 Điều 173 BLHS năm 2015
Tác giả kiến nghị các cơ quan nhà nước cần ban hành văn bản hướng dẫn rõ ràng về trường hợp người phạm tội sử dụng thủ đoạn gian dối để nạn nhân tự nguyện giao tài sản Khi nạn nhân hoặc người khác phát hiện và cố gắng lấy lại tài sản, nếu người phạm tội có hành vi sử dụng vũ lực hoặc đe dọa sử dụng vũ lực để chống trả, cần áp dụng các hướng dẫn tương tự như đã nêu trong mục 6 Phần I Thông tư liên tịch số 02/2001/TTLT-BTP-BCA-TANDTC-VKSNDTC ngày 25/12/2001, liên quan đến các tội cướp giật tài sản, công nhiên chiếm đoạt tài sản và trộm cắp tài sản.
“Khi áp dụng tình tiết "hành hung để tẩu thoát" tại điểm g khoản 2 Điều 174 BLHS cần chú ý: