1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong luật tố tụng hình sự việt nam

143 2 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nguyên Tắc Xét Xử Trực Tiếp, Bằng Lời Nói Và Liên Tục Tại Phiên Tòa Trong Luật Tố Tụng Hình Sự Việt Nam
Tác giả Nguyễn Đức Hùng
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Ngọc Chí
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Luật Hình Sự
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 143
Dung lượng 1,5 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA….6 1.1. Khái niệm “xét xử trực tiếp”, “xét xử bằng lời nói” và“xét xử liên tục” tại phiên tòa (12)
    • 1.1.1. Xét xử trực tiếp (12)
    • 1.1.2. Xét xử bằng lời nói (17)
    • 1.1.3. Xét xử liên tục (18)
    • 1.2 Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (20)
      • 1.2.1. Cơ sở lý luận (20)
      • 1.2.2. Cơ sở thực tiễn (25)
    • 1.3. Ý nghĩa của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa phiên tòa (29)
    • 1.4. Sơ lược về sự hình thành và phát triển của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam (0)
      • 1.4.1. Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi BLTTHS 1988 có hiệu lực thi hành (31)
      • 1.4.2. Giai đoạn từ khi BLTTHS 1988 có hiệu lực thi hành đến nay (38)
    • 1.5. Sự thể hiện của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới (41)
      • 1.5.1. Nguyên tắc xét xử trực tiếp và nguyên tắc xét xử bằng lời nói (41)
      • 1.5.2. Nguyên tắc xét xử liên tục (46)
    • 2.1. Nội dung, phạm vi và yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (49)
      • 2.1.1. Nội dung nguyên tắc (49)
      • 2.1.2. Phạm vi của nguyên tắc (55)
      • 2.1.3. Yêu cầu của nguyên tắc (60)
    • 2.2. Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự có liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (62)
      • 2.2.1. Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án (62)
      • 2.2.2. Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (64)
      • 2.2.3. Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chưa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật (0)
      • 2.2.4. Nguyên tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án (68)
      • 2.2.5 Nguyên tắc Thẩm phán và Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật (69)
      • 2.2.6 Nguyên tắc xét xử công khai (70)
      • 2.2.7. Nguyên tắc tiếng nói và chữ viết dùng trong tố tụng hình sự (71)
    • 2.3. Một số quy định bảo đảm thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (72)
      • 2.3.1. Sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa (72)
      • 2.3.2. Giới hạn của việc xét xử (Điều 196 BLTTHS 2003) (74)
      • 2.3.3. Biên bản phiên tòa (Điều 200 BLTTHS 2003) (75)
    • 2.4. Các quy định liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phiên tòa hình sự phúc thẩm (76)
      • 2.4.1. Phiên tòa hình sự sơ thẩm (76)
      • 2.4.2. Phiên tòa hình sự phúc thẩm (93)
    • 3.1. Thực trạng thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (98)
      • 3.1.1. Những kết quả đạt được (98)
      • 3.1.2. Những hạn chế (101)
    • 3.2. Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (0)
      • 3.2.1. Những nguyên nhân về lập pháp luật (107)
      • 3.2.2. Những nguyên nhân về thi hành pháp luật (109)
    • 3.3. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (113)
      • 3.3.1. Yêu cầu hoàn thiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa (113)
      • 3.3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa ................................................. 109 KẾT LUẬN (0)

Nội dung

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA….6 1.1 Khái niệm “xét xử trực tiếp”, “xét xử bằng lời nói” và“xét xử liên tục” tại phiên tòa

Xét xử trực tiếp

Theo Từ điển Tiếng Việt, "trực tiếp" được định nghĩa là có mối quan hệ thẳng với đối tượng tiếp xúc mà không qua khâu trung gian, điều này trái ngược với khái niệm "gián tiếp".

"Đối tượng" được định nghĩa là "người, vật, hiện tượng mà con người nhằm vào trong suy nghĩ, hành động." Từ đó, "trực tiếp" hiểu là phương pháp tiến hành công việc bằng cách tiếp xúc và tác động thẳng vào đối tượng nghiên cứu để đạt được mục đích mà không qua trung gian Vì vậy, "xét xử trực tiếp" được hiểu là phương thức thực hiện hoạt động xét xử, trong đó chủ thể thực hiện tiếp xúc và tác động trực tiếp vào đối tượng của hoạt động xét xử, nhằm đạt được các mục tiêu và nhiệm vụ của quá trình này.

Theo Điều 127 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS 2003, Tòa án là cơ quan xét xử duy nhất có quyền thực hiện hoạt động xét xử các vụ án hình sự Xét xử hình sự là hoạt động áp dụng pháp luật của Tòa án nhằm giải quyết vụ án, bao gồm hai nội dung chính: xác định các sự kiện thực tế của vụ án và đánh giá pháp lý độc lập, khách quan Tòa án phải xác định có hay không có hành vi phạm tội, ai là người thực hiện, cũng như tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi đó Nếu kết luận bị cáo có tội, Tòa án sẽ quyết định hình thức xử lý phù hợp theo quy định của pháp luật Các bản án của Tòa án mang tính chất phán quyết cuối cùng, có hiệu lực bắt buộc đối với bị cáo và các chủ thể liên quan, thể hiện thái độ của nhà nước đối với vụ án.

Hoạt động xét xử không chỉ đơn thuần là áp dụng pháp luật mà còn cần xác định chính xác sự kiện xảy ra trong mối quan hệ khách quan Việc xác định sự thật khách quan của vụ án là một nội dung và mục đích quan trọng, giúp Tòa án đưa ra những đánh giá pháp lý chính xác và toàn diện về các tình tiết và hành vi của bị cáo cũng như các chủ thể liên quan Một phiên tòa công minh phải hướng tới việc tìm kiếm chân lý khách quan, phù hợp với các yếu tố thực tế của vụ án.

Tại phiên tòa xét xử, các tình tiết của vụ án không hiện hữu trong thời điểm diễn ra, mà là những sự kiện đã xảy ra trong quá khứ Điều này đặt ra thách thức cho HĐXX và các bên tham gia trong việc xem xét và đánh giá vụ án.

Tòa án cần có tài liệu thu thập đúng quy trình pháp luật để tuyên án bị cáo về tội danh cụ thể theo Bộ luật Hình sự.

Chứng cứ trong vụ án hình sự là những tài liệu và thông tin xác thực, được thu thập theo quy trình do Bộ luật quy định Theo Điều 64 BLTTHS 2003, chứng cứ được Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Toà án sử dụng để xác định hành vi phạm tội, người thực hiện tội phạm, cùng các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết vụ án một cách chính xác.

Chứng cứ trong vụ án hình sự là thông tin chính xác phản ánh các tình tiết thực tế, giúp làm sáng tỏ các vấn đề cần chứng minh Các nguồn chứng cứ bao gồm vật chứng, lời khai của các bên liên quan, kết luận giám định, và biên bản điều tra Nếu không có nguồn chứng cứ, sẽ không thể có chứng cứ để giải thích các tình tiết của vụ án, dẫn đến kết luận không chính xác từ cơ quan tố tụng Để xác định tình tiết và ra phán quyết, Tòa án cần kiểm tra và đánh giá các chứng cứ, bao gồm việc trực tiếp nghe lời khai, xem xét vật chứng, hiện trường và các tài liệu liên quan.

Tòa án, với vai trò là "người trọng tài công minh" và "người bảo vệ công lý", không chỉ thực hiện chức năng xét xử mà còn phải tạo điều kiện cho các bên tham gia phiên tòa thực hiện quyền tố tụng của mình Điều này bao gồm quyền trình bày chứng cứ, tài liệu và ý kiến Việc xét xử trực tiếp đồng nghĩa với việc Tòa án cần lắng nghe và xem xét các ý kiến, yêu cầu của những người tham gia, từ đó thu thập "dữ kiện" cần thiết để xác định đúng và đầy đủ các tình tiết cũng như vấn đề liên quan đến vụ án.

Tòa án xác định các tình tiết của vụ án dựa trên việc kiểm tra trực tiếp chứng cứ và lắng nghe ý kiến của những người tham gia phiên tòa Việc đánh giá tính chất pháp lý của các tình tiết và hành vi của bị cáo là cần thiết để đưa ra phán quyết chính xác, phù hợp với sự thật khách quan và quy định pháp luật Do đó, phán quyết chỉ có thể dựa vào các chứng cứ và ý kiến đã được xem xét trực tiếp tại phiên tòa Nếu Tòa án căn cứ vào chứng cứ và ý kiến chưa được xem xét, sẽ vi phạm nguyên tắc xét xử trực tiếp.

Quá trình giải quyết vụ án hình sự bao gồm nhiều giai đoạn như khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án, mỗi giai đoạn có nhiệm vụ và yêu cầu riêng Trong các giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố, cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) thu thập, kiểm tra và đánh giá chứng cứ, đồng thời đưa ra nhận định về các tình tiết của vụ án Tuy nhiên, các kết luận này chỉ là kết quả của hoạt động thu thập chứng cứ, không phải là kết quả xét xử của Tòa án Nếu Tòa án chỉ dựa vào những kết quả này để ra phán quyết, thì đó sẽ không phải là xét xử trực tiếp mà là hình thức xét xử gián tiếp thông qua hồ sơ vụ án.

Xét xử trực tiếp và xét xử bút lục là hai phương pháp xét xử có sự khác biệt rõ rệt Xét xử bút lục, theo Từ Điển luật học, là thủ tục đặc biệt áp dụng ở cấp phúc thẩm để giải quyết các vụ án đơn giản, rõ ràng và ít nghiêm trọng mà không cần mở phiên tòa Phương pháp này cho phép xử lý nhanh chóng các trường hợp như đề nghị giảm án hay xin hưởng án treo, từ đó giúp đẩy nhanh tiến độ xét xử và giảm tình trạng án tồn đọng.

Phương pháp xét xử bút lục trong Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay bao gồm các thủ tục như: thủ tục rút gọn ở cấp phúc thẩm theo Thông tư số 19 – TATC ngày 02/10/1974 của TANDTC; xét xử phúc thẩm đối với quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị; và các thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1989 và 2003.

Phương pháp xét xử bút lục khác biệt rõ rệt so với xét xử trực tiếp: (1) Tòa án không trực tiếp xác định các tình tiết vụ án qua việc kiểm tra chứng cứ bằng lời nói, mà tiến hành qua một phiên họp không công khai của HĐXX, dựa trên các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ để ra phán quyết; (2) Sự tham gia của những người tham gia tố tụng không bắt buộc, Tòa án chỉ triệu tập khi cần thiết và vẫn có thể tiến hành xét xử ngay cả khi không có ai có mặt.

Mỗi phương pháp xét xử đều có những ưu điểm và hạn chế riêng Xét xử trực tiếp mang lại tính công khai, dân chủ và toàn diện cao, nhưng có thể kéo dài quá trình giải quyết vụ án Ngược lại, xét xử bút lục diễn ra không công khai, hạn chế quyền tham gia và trình bày chứng cứ của các bên liên quan, nhưng lại đơn giản và nhanh chóng hơn trong việc giải quyết vụ án.

Xét xử bằng lời nói

"Lời nói" là một phần thiết yếu trong cuộc sống con người, gắn liền với sự phát triển của xã hội từ những ngày đầu của nhân loại Theo Từ điển Tiếng Việt, “lời nói” được định nghĩa là những gì con người diễn đạt trong một bối cảnh giao tiếp cụ thể, và là sản phẩm của hoạt động ngôn ngữ, đối lập với ngôn ngữ Ngôn ngữ học cũng xác định lời nói là một khía cạnh quan trọng trong việc hiểu và tương tác giữa con người.

“những chuỗi âm thanh khác nhau nhằm truyền đạt những thông tin cụ thể” mà mỗi thành viên trong cộng đồng phát ra trong giao tiếp [70, tr.147]

"Lời nói" là phương tiện giao tiếp ngôn ngữ giúp con người bày tỏ nhận thức, tư tưởng và nguyện vọng, đồng thời tiếp nhận thông tin từ người khác Hình thức giao tiếp này thường diễn ra trực tiếp giữa người nói và người nghe, cho phép họ luân phiên vai trò và tương tác thông qua đối đáp, nghe, trình bày và phản hồi thông tin.

Xét xử bằng lời nói là quá trình mà các thành viên Hội đồng xét xử (HĐXX) sử dụng giao tiếp bằng lời nói để thực hiện các hoạt động xét xử Trong phiên tòa, HĐXX có nhiệm vụ xem xét và đánh giá chứng cứ, xác định các tình tiết của vụ án, cũng như đánh giá tính chất pháp lý đối với hành vi của bị cáo và những người tham gia tố tụng Cuối cùng, HĐXX phải ra phán quyết giải quyết vụ án theo quy định của pháp luật.

Xét xử bằng lời nói là phương thức xét xử trực tiếp, trong đó tòa án không thể kiểm tra chứng cứ mà không nghe trình bày từ bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và các bên liên quan khác, bao gồm cả người làm chứng và người giám định.

Tại phiên tòa, các bên tham gia chỉ có thể trình bày chính xác và đầy đủ về tình tiết vụ án thông qua lời nói Họ sẽ đưa ra nhận xét, đánh giá chứng cứ, và tranh luận để làm rõ các tình tiết liên quan Qua đó, Hội đồng xét xử sẽ thu thập thông tin cần thiết để kiểm tra và đánh giá các chứng cứ, từ đó xác định đúng đắn các tình tiết của vụ án và giải quyết một cách toàn diện.

Xét xử bằng lời nói tại phiên tòa là phương thức tiến hành hoạt động xét xử theo quy định của Luật TTHS, trong đó Tòa án sử dụng lời nói làm công cụ để trực tiếp xem xét và kiểm tra chứng cứ, xác định các tình tiết của vụ án, và đưa ra phán quyết giải quyết vụ án theo quy định pháp luật.

Xét xử liên tục

"Liên tục" có nghĩa là các hoạt động diễn ra nối tiếp nhau trong một quá trình không bị gián đoạn Trong bối cảnh xét xử, "xét xử liên tục tại phiên tòa" đề cập đến việc Tòa án thực hiện các hoạt động xét xử một vụ án mà không ngắt quãng, từ lúc bắt đầu cho đến khi kết thúc phiên xét xử.

BLTTHS 2003 quy định quy trình xét xử tại Tòa án diễn ra theo nhiều bước chặt chẽ, bắt đầu từ thủ tục mở phiên tòa, tiếp theo là xét hỏi, tranh luận, lời nói sau cùng của bị cáo, nghị án, và cuối cùng là tuyên án Mỗi bước này bao gồm các hoạt động cụ thể như đọc quyết định đưa vụ án ra xét xử, báo cáo danh sách người triệu tập, kiểm tra căn cước và giải thích quyền lợi, nghĩa vụ của họ Do đó, "xét xử liên tục tại phiên tòa" có nghĩa là Tòa án phải thực hiện các hoạt động xét xử liên tục từ khi bắt đầu phiên tòa đến khi tuyên án, bao gồm cả quá trình nghị án ngay sau lời nói cuối cùng của bị cáo.

HĐXX tại Tòa án phải liên tục xét xử từng vụ án và không được tham gia tố tụng vụ án khác khi chưa giải quyết xong vụ án hiện tại Việc này đảm bảo rằng hoạt động xét xử diễn ra liên tục, không bị gián đoạn, và mỗi vụ án được giải quyết dứt điểm theo quy định của pháp luật.

Hoạt động xét xử vụ án hình sự là một quá trình phức tạp, đặc biệt đối với các vụ án lớn với nhiều vấn đề cần chứng minh và số lượng bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đông đảo Để thực hiện đầy đủ các thủ tục xét xử và làm sáng tỏ mọi tình tiết của vụ án, cần có thời gian xét xử dài, có thể kéo dài từ nhiều ngày đến cả tuần hoặc hơn Do đó, các thành viên HĐXX và những người tham gia phiên tòa cần thời gian nghỉ ngơi theo quy luật sinh học và quy định của pháp luật, bao gồm nghỉ trưa, nghỉ qua đêm, cũng như vào các ngày thứ bảy, chủ nhật, ngày lễ hoặc vì lý do khách quan khác Từ đó, tính liên tục trong hoạt động xét xử không thể tuyệt đối mà phải chấp nhận sự gián đoạn trong những khoảng thời gian nêu trên.

Tại phiên tòa, các thành viên HĐXX cần trực tiếp kiểm tra và đánh giá chứng cứ để xác định chính xác các tình tiết và tính chất pháp lý liên quan đến vụ án Mỗi hoạt động tại phiên tòa đều đóng vai trò quan trọng trong việc chứng minh sự thật khách quan Để có được nhận định chính xác, HĐXX phải nắm bắt đầy đủ diễn biến tại phiên tòa; nếu không, họ có thể đưa ra đánh giá sai lệch về chứng cứ và tình tiết vụ án, dẫn đến quyết định không đúng Do đó, sự hiện diện liên tục của Thẩm phán và Hội thẩm là cần thiết để đảm bảo họ có đủ dữ liệu cần thiết nhằm xác định sự thật khách quan và ra phán quyết chính xác.

Khái niệm “xét xử liên tục tại phiên tòa” được hiểu là phương pháp hoạt động xét xử theo quy định của Luật TTHS, trong đó Tòa án phải tiến hành liên tục các thủ tục tố tụng từ khi bắt đầu cho đến khi kết thúc vụ án, ngoại trừ thời gian nghỉ theo quy định pháp luật Các thành viên Hội đồng xét xử (HĐXX) phải tham gia xét xử liên tục và chỉ được tham gia vụ án khác sau khi đã hoàn thành xét xử vụ án hiện tại.

Cơ sở lý luận và thực tiễn của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

Trong các quốc gia dân chủ và tiến bộ, quyền con người cần được tôn trọng và bảo vệ một cách đầy đủ Tòa án đóng vai trò quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người, thể hiện công lý, sự bình đẳng và công bằng xã hội Đây là nơi mà người dân có thể tin tưởng để bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của mình.

Hoạt động xét xử của Tòa án đóng vai trò quyết định trong quá trình tố tụng hình sự, với quyền duy nhất tuyên bố một người là có tội hay vô tội Các phán xét của Tòa án không chỉ thể hiện công lý và sự công bằng mà còn bảo vệ quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội Mục tiêu của việc xét xử không chỉ là xử lý tội phạm mà còn minh oan cho người vô tội, ngăn chặn vi phạm quyền con người Do đó, Tòa án cần phải là một trọng tài công minh, khách quan, đảm bảo rằng kẻ phạm tội bị trừng phạt, các buộc tội vô căn cứ bị bác bỏ, và người vô tội được minh oan.

Quyền được xét xử công bằng là một quyền con người cơ bản, được bảo vệ trong nhiều văn kiện pháp lý về nhân quyền, bao gồm quyền được xét xử công khai, quyền bình đẳng trước Tòa án, quyền được suy đoán vô tội và quyền được bào chữa Điều 14 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị năm 1966 khẳng định mọi người đều bình đẳng trước Tòa án và có quyền được xét xử công bằng bởi một Tòa án độc lập, không thiên vị Tòa án là cơ quan duy nhất có quyền ra bản án về sự buộc tội trong vụ án hình sự, đảm bảo quy trình tố tụng khách quan và hợp lý Các quốc gia có trách nhiệm thành lập Tòa án có thẩm quyền để xác định và phán quyết về sự buộc tội hình sự, và nếu một cá nhân không tiếp cận được với Tòa án, điều đó có nghĩa là quốc gia đã không đảm bảo quyền này theo quy định của Điều 14.

Người bị buộc tội có quyền tham dự phiên tòa công bằng và công khai trước Tòa án độc lập để xác định tội phạm mà họ bị cáo buộc Sự công bằng và bình đẳng trong tố tụng thể hiện qua quyền ngang bằng giữa các bên, cho phép cả bên buộc tội và bên gỡ tội có quyền xem xét và đưa ra chứng cứ Người bị buộc tội có quyền bào chữa, bao gồm việc tự bào chữa hoặc nhờ người khác, được thông báo về lý do buộc tội, thẩm vấn nhân chứng buộc tội và mời nhân chứng gỡ tội Họ cũng có quyền được phiên dịch miễn phí Quyền bào chữa là nền tảng bảo vệ quyền con người, đảm bảo rằng người bị buộc tội không bị kết tội một cách độc đoán, tạo ra sự cân bằng và khách quan trong xét xử.

Sự công bằng trong xét xử yêu cầu hoạt động xét xử phải diễn ra công khai và minh bạch Tất cả các vụ án hình sự phải tuân theo nguyên tắc tranh tụng công khai tại phiên tòa, điều này đảm bảo tính minh bạch của các thủ tục tố tụng và bảo vệ lợi ích của cá nhân cũng như toàn xã hội Tòa án chỉ được xử kín trong những trường hợp đặc biệt như lý do đạo đức, trật tự công cộng, an ninh quốc gia, hoặc để bảo đảm tính riêng tư của các bên Dù xét xử kín, phán quyết và các chứng cứ, lý giải pháp lý của Tòa án vẫn cần được công khai.

Nguyên tắc xét xử công bằng gắn liền với nguyên tắc suy đoán vô tội, một thành tựu pháp lý quan trọng bảo vệ quyền con người và đảm bảo sự khách quan trong tố tụng hình sự Điều 11 Tuyên ngôn thế giới về quyền con người năm 1948 khẳng định rằng mọi người bị cáo buộc đều có quyền được coi là vô tội cho đến khi có bằng chứng chứng minh ngược lại qua một phiên tòa công khai, với đầy đủ các bảo đảm cần thiết cho việc bào chữa.

Nguyên tắc suy đoán vô tội khẳng định rằng người bị buộc tội, tức là những người bị nghi ngờ thực hiện tội phạm, được coi là vô tội cho đến khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật từ Tòa án Quyền này không chỉ là quyền của người bị buộc tội mà còn là nghĩa vụ pháp lý của các cơ quan tố tụng hình sự và toàn xã hội Chỉ có bản án đã có hiệu lực pháp luật mới là cơ sở để xác định một người có tội và phải chịu trách nhiệm hình sự.

Các tài liệu, chứng cứ và kết luận của CQĐT và cơ quan Công tố không phải là phán quyết cuối cùng về vụ án Dù những tài liệu này có chính xác đến đâu, người bị buộc tội vẫn được coi là vô tội cho đến khi có bản án có hiệu lực pháp luật từ Tòa án Không ai, kể cả Tòa án, được dựa vào các chứng cứ của CQĐT và cơ quan Công tố để khẳng định sự có tội của người bị buộc tội Tại phiên tòa, HĐXX phải coi bị cáo là vô tội và không được có định kiến trước khi có kết quả xét xử Chỉ khi hành vi phạm tội được chứng minh đầy đủ qua thủ tục tố tụng công khai và công bằng, HĐXX mới có thể kết luận bị cáo là có tội và áp dụng hình phạt.

Nghĩa vụ chứng minh thuộc về bên buộc tội, trong khi người bị buộc tội có quyền nhưng không có nghĩa vụ chứng minh sự vô tội của mình Cơ quan THTT và người THTT phải làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án một cách khách quan và đầy đủ Mọi hoài nghi về lỗi của người bị buộc tội cần được giải thích theo hướng có lợi cho họ; không chứng minh được hành vi phạm tội đồng nghĩa với sự vô tội của người đó Tòa án muốn tuyên bị cáo có tội thì phải chứng minh rằng phán quyết đó là có căn cứ và hợp pháp Việc đưa ra bản án chính xác cần phải dựa trên các chứng cứ rõ ràng, chứ không chỉ dựa vào suy luận chủ quan hay định kiến.

Tòa án cần phải kiểm tra đầy đủ chứng cứ và lập luận của các bên để xác định chính xác tình tiết vụ án, ra phán quyết dựa trên sự thật khách quan và quy định pháp luật, không bị ảnh hưởng bởi định kiến hay tác động bên ngoài Nếu Tòa án đã có sẵn niềm tin vào hồ sơ vụ án và coi bị cáo là có tội, quá trình xét xử sẽ thiếu khách quan và công bằng, dẫn đến việc chỉ tìm kiếm một kết quả đã được ấn định Điều này biến hoạt động xét xử thành hình thức, vi phạm quyền tố tụng của bị cáo và nguyên tắc xét xử công bằng, đồng thời xóa bỏ nguyên tắc suy đoán vô tội.

Để bảo vệ quyền con người trong xét xử vụ án hình sự, Tòa án cần áp dụng những phương pháp xét xử phù hợp, đảm bảo quyền lợi của người bị buộc tội được thực hiện đầy đủ Phương pháp xét xử trực tiếp và bằng lời nói sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các bên tham gia phiên tòa thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng, đặc biệt là quyền bào chữa của người bị buộc tội Điều này giúp đảm bảo tính công khai, độc lập, khách quan, công bằng và chính xác trong hoạt động xét xử Qua đó, Tòa án thực hiện vai trò "vị trọng tài công minh", bảo vệ vững chắc quyền con người, đặc biệt là quyền của người bị buộc tội.

Tại phiên tòa, việc nhận thức chân lý khách quan và ra phán quyết của Hội đồng xét xử là một quá trình phức tạp, bao gồm thu thập, kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ, cũng như xem xét ý kiến và yêu cầu Quá trình này dựa trên quy luật nhận thức biện chứng, đi từ trực quan sinh động đến tư duy trừu tượng, và từ tư duy trừu tượng trở lại thực tiễn, nhằm khám phá bản chất của vụ án từ hiện tượng đến những khía cạnh sâu sắc hơn.

Việc xét xử cần tuân thủ các quy định của pháp luật và ý thức pháp luật của các thành viên Hội đồng xét xử Tất cả các tình tiết buộc tội, gỡ tội, lời khai và lý lẽ từ các bên tham gia tranh luận đều phải được xem xét một cách cẩn thận Xét xử được coi là một công việc sáng tạo, đòi hỏi tư duy cao từ Thẩm phán và Hội thẩm Do đó, Thẩm phán và Hội thẩm cần có trách nhiệm và sự tập trung cao độ để kiểm tra, đánh giá và sử dụng chứng cứ và ý kiến một cách khách quan và toàn diện.

Quyền được xét xử công bằng, công khai và minh bạch trước Tòa án có thẩm quyền là yếu tố cốt lõi để bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa đòi hỏi Tòa án phải thực hiện đầy đủ và chính xác các yêu cầu về tính chính xác, khách quan và toàn diện trong hoạt động xét xử Chỉ khi Tòa án tuân thủ những nguyên tắc này, quyền con người mới được bảo vệ một cách đúng đắn và đầy đủ trong quá trình tố tụng.

Trong lịch sử TTHS Việt Nam, Tòa án là cơ quan chủ yếu thực hiện hoạt động xét xử, điều này được xác nhận qua các bản Hiến pháp, bắt đầu từ Hiến pháp đầu tiên năm 1946 và tiếp tục qua Hiến pháp năm 1959 và Hiến pháp năm 1980.

Ý nghĩa của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa phiên tòa

Với vai trò quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa án, các phương pháp và cách thức tiến hành xét xử xác định trình tự, thủ tục tố tụng tại phiên tòa Điều này ảnh hưởng đến việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của Hội đồng xét xử, Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa và các bên liên quan Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa mang lại ý nghĩa pháp lý và chính trị - xã hội sâu sắc, góp phần đảm bảo tính minh bạch và công bằng trong quá trình tố tụng.

Nguyên tắc xét xử khoa học và biện chứng đảm bảo tính chính xác, dân chủ, khách quan và công bằng trong hoạt động của Tòa án, đồng thời khắc phục tư tưởng "án tại hồ sơ" Nguyên tắc này nâng cao trách nhiệm của Thẩm phán và Hội thẩm, giúp họ kiểm tra và đánh giá đầy đủ chứng cứ tại phiên tòa, kịp thời phát hiện sai sót trong điều tra và truy tố Điều này góp phần xác định chính xác các tình tiết vụ án, đảm bảo phán quyết của Tòa án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội.

Phương pháp xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo quyền và nghĩa vụ tố tụng của các bên tham gia Tòa án chỉ được ra phán quyết dựa trên các chứng cứ và ý kiến đã được xem xét trực tiếp, từ đó tôn trọng quyền bào chữa của người bị cáo và bảo đảm quyền được xét xử công bằng, quyền suy đoán vô tội Điều này không chỉ thể hiện bản chất dân chủ, khách quan và công bằng của hệ thống Tư pháp Việt Nam mà còn góp phần bảo vệ các quyền con người theo các tiêu chuẩn quốc tế.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa có mối liên hệ chặt chẽ với các nguyên tắc cơ bản của Luật TTHS như xác định sự thật khách quan, suy đoán vô tội, bảo đảm quyền bào chữa, quyền bình đẳng trước Tòa án và xét xử công khai Việc thực hiện đầy đủ nguyên tắc này là cơ sở quan trọng để hiện thực hóa các nguyên tắc trên trong quá trình xét xử Ngược lại, vi phạm nguyên tắc xét xử trực tiếp cũng đồng nghĩa với việc vi phạm các nguyên tắc cơ bản khác.

Theo Điều 18 BLTTHS 2003, xét xử tại Tòa án phải được tiến hành công khai, cho phép mọi người tham dự, trừ những trường hợp đặc biệt Việc Tòa án xác minh chứng cứ một cách liên tục và công khai, cùng với việc trình bày ý kiến và tranh luận, giúp người tham gia phiên tòa nắm bắt diễn biến và hiểu rõ các tình tiết của vụ án Điều này không chỉ tạo điều kiện cho nhân dân giám sát hoạt động xét xử mà còn nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử và ý thức tuân thủ pháp luật trong cộng đồng.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa thể hiện bản chất dân chủ và tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự, đáp ứng yêu cầu công minh, công bằng của Tòa án Điều này không chỉ củng cố lòng tin của nhân dân vào sự nghiêm minh của pháp luật mà còn nâng cao hiểu biết và ý thức chấp hành pháp luật trong cộng đồng Hơn nữa, nó giúp người dân nhận thức rõ hơn về nguy hiểm của tội phạm, khuyến khích họ tích cực tham gia vào cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm, từ đó hạn chế sự phát triển của tội phạm trong xã hội.

Sơ lược về sự hình thành và phát triển của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam

1.4.1 Giai đoạn từ sau Cách mạng tháng 8/1945 đến trước khi BLTTHS

1988 có hiệu lực thi hành

Sau Cách mạng tháng Tám năm 1945, vào ngày 02/9/1945, nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa chính thức ra đời Để củng cố chính quyền nhân dân và bảo vệ quyền lợi của họ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ban hành nhiều sắc lệnh quan trọng về tổ chức và hoạt động của cơ quan tư pháp Cụ thể, Sắc lệnh số 34/SL ngày 13/9/1945 đã bãi bỏ hai ngạch cơ quan hành chính và tư pháp cũ; Sắc lệnh số 47/SL ngày 10/10/1945 cho phép áp dụng luật lệ cũ trong xét xử, miễn là không trái với nguyên tắc độc lập của Việt Nam; và Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 duy trì tổ chức luật sư cũ với một số sửa đổi phù hợp với tình hình mới.

Trong giai đoạn 1945-1960, hoạt động xét xử tại phiên tòa chủ yếu dựa vào nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói, mặc dù chưa được ghi nhận chính thức Các nội dung và yêu cầu của phương pháp này đã được phản ánh trong nhiều quy phạm của pháp luật tố tụng hình sự trong các văn bản pháp quy đơn hành.

Sắc lệnh số 13/SL ngày 24/01/1946 quy định quy trình tố tụng tại Tòa án đệ nhị cấp, bao gồm việc nghe các bị can, nhân chứng, cáo trạng và lời cãi của bị can Sau đó, Chánh án, hai Thẩm phán và hai Phụ thẩm nhân dân sẽ thảo luận trong phòng nghị án để xét xử các vấn đề liên quan đến tội trạng, hình phạt, cũng như các trường hợp tăng hoặc giảm tội Cuối cùng, Tòa sẽ họp lại và Chánh án công bố bản án công khai Quy định tương tự cũng được áp dụng tại Tòa thượng thẩm.

Sắc lệnh số 51 ngày 17/4/1946 quy định thẩm quyền của các Tòa án và phân công nhân viên, nhấn mạnh nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói Cụ thể, Điều 25 yêu cầu biện lý phải trình bày tất cả vật chứng và triệu tập các đương sự, nhân chứng trước khi đưa vụ án ra xét xử Điều 26 quy định rằng sau khi thẩm vấn, biện lý sẽ buộc tội bị can và luôn phát biểu sau nguyên cáo, trong khi bị can có quyền nói sau cùng trước khi Tòa tuyên án, và Tòa không nhất thiết phải xử theo yêu cầu của biện lý.

Theo Thông tư số 22 – HCTP ngày 18/12/1957 của Bộ Tư pháp, tại phiên tòa, người bào chữa có quyền hỏi tất cả những người khai báo trước phiên tòa sau khi được sự cho phép của Chánh án Sau khi Công tố viện trình bày luận tội, người bào chữa có thể trình bày ý kiến của mình, nêu ra các điểm không đồng ý với Công tố viện và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị can Nếu Công tố viện phản hồi, người bào chữa có quyền trả lời lại.

Sắc lệnh số 13/SL quy định rõ ràng về trách nhiệm và nghĩa vụ của Thẩm phán và Phụ thẩm, nhấn mạnh sự độc lập, khách quan và công bằng trong xét xử Theo Điều 50, Thẩm phán phải quyết định dựa trên pháp luật và lương tâm, không để bất kỳ quyền lực nào can thiệp vào công việc của mình Điều 83 yêu cầu Thẩm phán thực hiện đầy đủ bổn phận, tham gia tất cả các phiên tòa và xử lý vụ án một cách nhanh chóng và công minh, với thanh liêm là đức tính cốt lõi Cuối cùng, Điều 24 nhấn mạnh rằng Phụ thẩm nhân dân cần sử dụng trí tuệ và lương tâm để đánh giá công bằng, không bị ảnh hưởng bởi thế lực hay lợi ích cá nhân.

Nội dung của phương pháp xét xử trực tiếp và xét xử bằng lời nói tại phiên tòa được quy định trong các sắc lệnh quan trọng, bao gồm Sắc lệnh số 163/SL ngày 23/8/1946 về tổ chức Tòa án binh lâm thời, Sắc lệnh số 190/SL ngày 01/10/1946 quy định về thẩm quyền truy tố của Tòa án, Sắc lệnh số 19 ngày 16/02/1947 quy định về tổ chức Tòa án binh trên toàn quốc, và Sắc lệnh số 150/SL ngày 12/4/1953 về việc thành lập Tòa án nhân dân đặc biệt ở những khu vực có phong trào quần chúng.

Mặc dù PLTTHS giai đoạn này chưa quy định chính thức về xét xử trực tiếp và bằng lời nói, nhưng các quy định về thủ tục xét xử tại phiên tòa đã thể hiện rõ cách thức thực hiện các nguyên tắc này Nguyên tắc xét xử liên tục vẫn chưa được đề cập trong PLTTHS Năm 1964, TANDTC đã xây dựng Đề án về trình tự xét xử sơ thẩm vụ án hình sự dựa trên các quy định pháp luật và kinh nghiệm thực tiễn, gửi đến các TAND địa phương để áp dụng thống nhất Đề án này đã trở thành tài liệu hướng dẫn quan trọng cho việc xét xử các vụ án hình sự, đảm bảo tính khách quan và chính xác, mặc dù vẫn còn một số nội dung chưa hợp lý và việc thực hiện còn nhiều hạn chế TANDTC đã tổng kết một số nhược điểm liên quan đến xét xử trực tiếp và bằng lời nói tại phiên tòa.

Trong phiên tòa, một số Thẩm phán chưa nắm rõ yêu cầu kiểm tra toàn bộ chứng cứ theo nguyên tắc xét xử công khai và trực tiếp, dẫn đến việc thẩm vấn thường sơ sài và không làm sáng tỏ các chứng cứ quan trọng Chứng cứ buộc tội thường được chú ý hơn chứng cứ gỡ tội, trong khi tài liệu và nhân chứng do bị cáo nêu ra thường bị bỏ qua Thẩm phán có xu hướng tin vào hồ sơ mà không chú trọng đến việc thẩm vấn và tranh tụng công khai Nhiều trường hợp, để thực hiện đúng chủ trương xét xử, Thẩm phán không lắng nghe lời bào chữa của bị cáo, chỉ cho phép trình bày các khai báo phù hợp với hồ sơ, dẫn đến việc quyết định của Tòa án có thể không phản ánh đúng thực tế điều tra.

Ngày 27/9/1974, TANDTC đã ban hành Bản hướng dẫn về trình tự tố tụng sơ thẩm (Thông tư số 16/TATC) dựa trên kinh nghiệm thực hiện Bản đề án Hướng dẫn này nhấn mạnh vai trò quyết định của phiên tòa trong quá trình xét xử, coi đây là giai đoạn quan trọng nhất của tố tụng hình sự, nơi TAND thẩm tra chứng cứ, nghe tranh cãi và đưa ra quyết định xử lý vụ án Để đảm bảo sự chính xác và hiệu quả giáo dục của việc xét xử, TANDTC đã quy định các nguyên tắc chung như: xét xử phải công khai, trực tiếp và bằng lời nói, cũng như phải diễn ra liên tục Những yêu cầu này được cụ thể hóa để đảm bảo tính minh bạch và hiệu quả trong hoạt động xét xử tại phiên tòa.

“ 2 Việc xét xử trực tiếp và bằng lời nói

Việc xét xử trực tiếp và bằng lời nói là cần thiết để TAND đảm bảo việc thẩm tra chứng cứ và tài liệu một cách đầy đủ và chính xác, từ đó xem xét vụ án một cách toàn diện TAND phải tiến hành xét hỏi và tranh luận chu đáo tại phiên tòa, trực tiếp nghe lời khai của bị cáo, người tham gia tố tụng, giám định viên và nhân chứng, đồng thời xem xét các tang vật, tài liệu VKSND, bị cáo và các bên liên quan có quyền tranh luận về chứng cứ và việc áp dụng pháp luật TAND chỉ được dựa vào lời khai và chứng cứ đã được xem xét trước phiên tòa để quyết định bản án, không được căn cứ vào tài liệu khác Để đảm bảo nguyên tắc xét xử trực tiếp, các Thẩm phán và Hội thẩm cần tránh coi nhẹ việc xét hỏi và tranh luận, đồng thời chuẩn bị kế hoạch thẩm vấn chu đáo, tập trung vào những vấn đề quan trọng để không lãng phí thời gian vào những vấn đề không liên quan.

3 Việc xét xử phải liên tục Việc xét xử phải liên tục nhằm bảo đảm cho hội đồng xử án và những người tham gia phiên tòa dễ dàng nhớ được những tình tiết của vụ án và giải quyết được dứt điểm từng vụ

Việc xét xử phải được thực hiện liên tục từ khi khai mạc đến khi tuyên án, chỉ có thời gian nghỉ giữa các phiên Tòa án Nhân dân chỉ được chuyển sang xét xử vụ án khác sau khi đã hoàn tất xét xử vụ án hiện tại, không được khai mạc phiên tòa cho nhiều vụ án cùng lúc hoặc tuyên án cho nhiều vụ án cùng một thời điểm.

Sau khi thẩm vấn và tranh luận, nếu vụ án phức tạp, hội đồng xử án có thể hoãn tuyên án để thảo luận thêm, nhưng phải tuyên án trong vòng 15 ngày để đảm bảo tính hợp lý.

Khi hội đồng xét án hoãn phiên xử để yêu cầu Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND) điều tra bổ sung những vấn đề cơ bản, việc thẩm vấn sẽ được tiến hành lại từ đầu khi vụ án được đưa ra xét xử tiếp Ngược lại, nếu VKSND chỉ cần điều tra thêm một số điểm mà không thay đổi thành phần hội đồng xét án, chủ tọa phiên tòa chỉ cần tóm tắt kết quả xét hỏi trước đó và tiếp tục thẩm vấn.

Sự thể hiện của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong Pháp luật tố tụng hình sự trên thế giới

1.5.1 Nguyên tắc xét xử trực tiếp và nguyên tắc xét xử bằng lời nói

Nguyên tắc xét xử trực tiếp và nguyên tắc xét xử bằng lời nói trong pháp luật tố tụng hình sự của các quốc gia trên thế giới thể hiện sự đa dạng và khác biệt rõ rệt, thậm chí có những quan điểm đối lập nhau.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói là những quy định quan trọng trong hoạt động xét xử, được quy định tại Điều 240 Bộ luật Tố tụng hình sự Liên Bang Nga Điều này nhấn mạnh sự cần thiết của việc tiến hành xét xử công khai và minh bạch tại phiên tòa.

Trong quá trình xét xử, tất cả chứng cứ của vụ án phải được kiểm tra trực tiếp, trừ những trường hợp đặc biệt theo quy định tại Chương X Bộ luật Tòa án sẽ nghe lời khai của bị cáo, người bị hại, và người làm chứng, đồng thời xem xét kết luận giám định, vật chứng, và công bố các biên bản cùng tài liệu liên quan để đảm bảo tính chính xác của chứng cứ.

2 Việc công bố lời khai trong quá trình hoạt động điều tra chỉ được thực hiện trong những trường hợp quy định tại Điều 276 và Điều 281 Bộ luật này

3 Bản án của Tòa án chỉ được căn cứ vào những chứng cứ đã được kiểm tra tại phiên tòa.” [113, tr.109]

Mặc dù không có quy định trực tiếp về nguyên tắc xét xử công khai và bằng lời nói tại phiên tòa, nhưng các quy định về trình tự, thủ tục xét xử trong BLTTHS của các quốc gia như Trung Quốc, Pháp và Nhật Bản đã thể hiện rõ những nguyên tắc này Cụ thể, BLTTHS Nhật Bản yêu cầu tòa án phải xem xét tất cả tài liệu, bao gồm kết quả thẩm vấn nhân chứng và chứng cứ thu thập được vào ngày xét xử (Điều 303) Sau khi kết thúc việc xem xét chứng cứ, công tố viện sẽ phát biểu ý kiến về vụ án, và bị cáo cùng luật sư của họ cũng có quyền phát biểu ý kiến.

Các thủ tục và trình tự tố tụng tại phiên tòa của các nước đều yêu cầu Tòa án phải trực tiếp thẩm tra chứng cứ và ý kiến của các bên Tuy nhiên, do quan niệm khác nhau về cách xác định sự thật và vai trò của Tòa án, phương pháp xét xử trực tiếp và bằng lời nói tại các phiên tòa có nhiều điểm khác biệt, thậm chí là đối lập nhau.

Các nước theo hình thức tố tụng thẩm vấn, chủ yếu là các nước thuộc hệ thống luật Châu Âu lục địa, tin rằng sự thật cần được khám phá trong quá trình thẩm vấn và điều tra Do các bên có thể có ý định giấu diếm sự thật, nên sự tham gia liên tục và sớm của nhà nước trong quá trình này là rất cần thiết.

Các cơ quan THTT, bao gồm Tòa án, đóng vai trò chủ động và tích cực trong việc điều tra và tìm ra sự thật của vụ án Thẩm phán không chỉ là người đưa ra quyết định điều tra mà còn có trách nhiệm tìm kiếm sự thật dựa trên các sự kiện và chứng cứ Họ cũng chỉ đạo toàn bộ quá trình tố tụng, bao gồm cả giai đoạn điều tra.

Tại phiên tòa, Tòa án không chỉ đóng vai trò là "trọng tài" trung lập giữa bên bào chữa và bên buộc tội, mà còn có trách nhiệm chứng minh sự thật khách quan của vụ án.

Trong quá trình xét xử, thẩm phán đóng vai trò chủ động bằng cách đặt ra hầu hết các câu hỏi và phát triển các sự kiện liên quan đến vụ án Ngược lại, các luật sư chủ yếu tập trung vào việc tranh luận nhằm giải thích những tuyên bố mà thẩm phán sẽ đưa ra dựa trên các dữ kiện của vụ việc.

Hoạt động xét xử trong tố tụng thẩm vấn được xem là cuộc điều tra công khai, trực tiếp và bằng lời nói, với vai trò quan trọng của hồ sơ vụ án Các Thẩm phán luôn có trong tay toàn bộ tài liệu điều tra và đã nghiên cứu kỹ hồ sơ trước khi xét xử Tại phiên tòa, Tòa án công khai thẩm tra lại các chứng cứ và tình tiết đã được xác nhận trong hồ sơ Tuy nhiên, để bảo đảm tính khách quan và tránh định kiến về sự có tội của bị cáo, các Thẩm phán đã tham gia điều tra trước đó không được tham gia xét xử Hoạt động xét xử được thực hiện bởi Thẩm phán xét xử, nhằm khẳng định lại các tình tiết và chứng cứ để ra bản án.

Hình thức tố tụng thẩm vấn thường bị chỉ trích vì không đảm bảo đầy đủ quyền lợi cho các bên đương sự, do họ không có nghĩa vụ chứng minh chứng cứ Thẩm phán là người điều tra và tập hợp chứng cứ, dẫn đến quan điểm cho rằng tố tụng này vi phạm nguyên tắc vô tư và khách quan Nhiều người cho rằng thẩm phán có thể đã có quyết định xét xử trước khi phiên tòa diễn ra, khiến cho việc tranh luận tại phiên tòa trở nên vô nghĩa.

Tố tụng tranh tụng, khác với hình thức thẩm vấn, có nguồn gốc từ mô hình tố tụng tố cáo và phát triển mạnh mẽ ở các nước theo hệ thống luật Án lệ như Anh và Mỹ Theo quan điểm của tố tụng tranh tụng, sự thật sẽ được khám phá thông qua sự tranh luận tự do và cởi mở giữa các bên có thông tin chính xác Quá trình tố tụng diễn ra như một cuộc đấu tranh giữa nhà nước và các bên liên quan.

Trong quá trình tố tụng, có hai bên chính: bên buộc tội và bên gỡ tội Cả hai bên không bắt buộc phải khách quan trong việc thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình Mỗi bên cần tự thu thập chứng cứ để buộc tội hoặc bào chữa cho thân chủ, phục vụ cho tranh tụng tại phiên tòa Để đảm bảo tính dân chủ và khách quan trong tố tụng, quyền lực được chia sẻ giữa Công tố viên, Luật sư, Thẩm phán và Bồi thẩm đoàn Công tố viên đại diện cho nhà nước nhằm chứng minh tội của bị cáo, trong khi Luật sư bào chữa bảo vệ quyền lợi và sự vô tội của thân chủ Thẩm phán giữ vai trò trọng tài trong quá trình xét xử.

Trong tố tụng tranh tụng, giai đoạn điều tra không tồn tại, và việc tìm ra sự thật chỉ bắt đầu chính thức tại giai đoạn xét xử Giai đoạn trước phiên tòa được gọi là tiền tố tụng, nơi các bên chuẩn bị cho cuộc tranh luận Tại phiên tòa, các bên đóng vai trò đối thủ, có quyền ngang nhau trong việc đưa ra chứng cứ, người làm chứng, và phản bác Chứng cứ chỉ được công nhận sau khi đã được thẩm tra thông qua trình bày và tranh luận tại phiên tòa Chứng cứ viết, như biên bản của cảnh sát tư pháp, không được coi là chứng cứ hợp lệ.

Tòa án đóng vai trò là người trọng tài trung lập trong vụ án, không có trách nhiệm chứng minh sự thật khách quan Thẩm phán điều khiển cuộc tranh tụng, đảm bảo các bên thực hiện đúng quyền và nghĩa vụ, đồng thời duy trì trật tự phiên tòa Bồi thẩm đoàn chỉ quan sát như những khán giả trong một buổi biểu diễn.

[110, tr.41] Họ luôn đứng ngoài quá trình tranh tụng và chứng minh tại phiên tòa

Nội dung, phạm vi và yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA

Nguyên tắc xét xử là những quy định cơ bản mà Tòa án và HĐXX phải tuân theo trong quá trình xét xử tại phiên tòa Theo Điều 184 BLTTHS 2003, việc "xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa" thể hiện những tư tưởng và quy tắc quan trọng trong hoạt động xét xử Những nguyên tắc này quy định phương pháp và cách thức tiến hành xét xử, đảm bảo sự công bằng và minh bạch trong các nội dung, phạm vi và yêu cầu cơ bản của hoạt động này.

2.1.1 Nội dung nguyên tắc Điều 184 BLTTHS 2003 quy định nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa bao gồm ba nội dung, tương ứng với ba nguyên tắc, với những nội cụ thể như sau:

Nguyên tắc xét xử trực tiếp tại phiên tòa yêu cầu Hội đồng xét xử (HĐXX) xác định các tình tiết của vụ án thông qua việc trực tiếp xem xét, kiểm tra và đánh giá các chứng cứ, tài liệu có trong hồ sơ và những chứng cứ, tài liệu mới được bổ sung tại phiên tòa.

Xét xử trực tiếp là quá trình xem xét các chứng cứ của vụ án một cách trực tiếp, không chỉ dựa vào hồ sơ Điều này giúp Hội đồng xét xử xác định chính xác các tình tiết của vụ án và phát hiện kịp thời những sai sót trong điều tra, truy tố Qua đó, đảm bảo tính chính xác và toàn diện trong hoạt động xét xử, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia tố tụng.

Tòa án không được sử dụng các chứng cứ chưa được xem xét trực tiếp tại phiên tòa để đưa ra kết luận hoặc phán quyết về vụ án, ngay cả khi những chứng cứ đó đã được thu thập Việc vi phạm quy định này sẽ ảnh hưởng đến phương pháp xét xử trực tiếp, xâm phạm quyền tố tụng của các bên tham gia, và có thể dẫn đến sai lầm trong quá trình giải quyết vụ án.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp yêu cầu hỏi và lắng nghe ý kiến từ các bên liên quan như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, nhân chứng và người giám định Việc xem xét vật chứng và hiện trường cũng là một phần quan trọng trong quá trình này Lời nói đóng vai trò thiết yếu trong việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, vì nếu không có sự giao tiếp bằng lời nói từ HĐXX và những người tham gia, nguyên tắc này sẽ không thể được thực hiện.

* Nguyên tắc xét xử bằng lời nói tại phiên tòa

Nguyên tắc xét xử bằng lời nói quy định phương pháp mà Hội đồng xét xử (HĐXX) sử dụng để kiểm tra và xem xét chứng cứ, xác định các tình tiết vụ án tại phiên tòa HĐXX có trách nhiệm hỏi và lắng nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như đại diện hợp pháp của họ và các nhân chứng Nếu người cần xét hỏi vắng mặt, HĐXX phải công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra Tòa án cũng cần lắng nghe ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa và những người tham gia khác để xem xét, đánh giá và sử dụng chứng cứ, đồng thời áp dụng pháp luật Dựa trên các lời khai và ý kiến này, Tòa án sẽ kiểm tra, đánh giá chứng cứ đầy đủ, xác định chính xác các tình tiết vụ án và ra phán quyết.

Xét xử bằng lời nói là phương pháp trực tiếp trong quá trình xét xử, nơi Hội đồng xét xử (HĐXX) kiểm tra và đánh giá chứng cứ thông qua việc hỏi và lắng nghe ý kiến của các bên liên quan như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn, bị đơn, và nhân chứng Việc trực tiếp nghe những người này trình bày giúp HĐXX thẩm tra và đánh giá tính chính xác của các chứng cứ và tài liệu có trong hồ sơ vụ án Nếu những người được hỏi vắng mặt hoặc không khai tại phiên tòa, HĐXX sẽ công bố lời khai của họ tại cơ quan điều tra để đảm bảo việc xem xét và đánh giá đầy đủ thông tin liên quan đến vụ án.

Phiên tòa không chỉ là nơi xét xử mà còn thể hiện đầy đủ ba chức năng cơ bản của Tố tụng hình sự, bao gồm chức năng xét xử, chức năng buộc tội và chức năng bào chữa Chức năng buộc tội tập trung vào việc xác định tội phạm và người phạm tội, đồng thời yêu cầu kẻ phạm tội phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật.

Chức năng thực hành quyền công tố tại phiên tòa chủ yếu do Kiểm sát viên thực hiện, đây là quyền và nghĩa vụ của họ Qua các hoạt động như đọc cáo trạng, trình bày bản luận tội, và tham gia xét hỏi, Kiểm sát viên cần làm rõ các tình tiết buộc tội, đồng thời chứng minh tính đúng đắn của việc truy tố Đối trọng với chức năng buộc tội là chức năng bào chữa, được thực hiện bởi bị cáo và người bào chữa, nhằm xác định các tình tiết minh oan hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cho người bị buộc tội.

Nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và những người có liên quan đến vụ án có quyền thực hiện việc buộc tội hoặc bào chữa cho quyền lợi hợp pháp của mình Trong tố tụng hình sự, sự hiện diện đồng thời của chức năng buộc tội và bào chữa tạo ra cơ chế kiểm tra chéo giữa các chứng cứ và quan điểm khác nhau Sự song song này là điều kiện cần thiết để hình thành tranh tụng, từ đó giúp xác định chân lý khách quan của vụ án.

Dưới sự điều khiển của HĐXX, tất cả các bên liên quan như Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đều có quyền bình đẳng trong việc trình bày chứng cứ và lập luận của mình Họ có thể đưa ra các lý lẽ để chứng minh quan điểm hoặc phản biện ý kiến của người khác về các chứng cứ và tình tiết của vụ án, đồng thời đưa ra yêu cầu liên quan đến việc giải quyết vụ án.

Dữ liệu đóng vai trò quan trọng trong việc giúp Hội đồng xét xử đánh giá và sử dụng chứng cứ một cách chính xác, từ đó xác định sự thật khách quan của vụ án Việc này giúp tránh tình trạng xét xử phiến diện, một chiều, và giảm thiểu nguy cơ xảy ra oan sai.

Theo Điều 184 BLTTHS 2003, Hội đồng xét xử (HĐXX) có trách nhiệm lắng nghe và đánh giá khách quan ý kiến của Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bảo vệ quyền lợi của đương sự và các thành phần khác tham gia phiên tòa Những ý kiến này là dữ liệu quan trọng giúp HĐXX xác định sự thật khách quan của vụ án, từ đó ra bản án hoặc quyết định giải quyết vụ án đúng pháp luật và có căn cứ.

Điều luật hiện hành yêu cầu bản án chỉ dựa vào chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, mà không bắt buộc Hội đồng xét xử (HĐXX) phải xem xét ý kiến của những người tham gia Điều này dẫn đến việc nhiều HĐXX không đánh giá đúng mức các ý kiến tranh luận và yêu cầu từ bị cáo và người bào chữa, làm cho quá trình xét xử thiếu khách quan và thuyết phục Quy định này cũng không phù hợp với định hướng cải cách tư pháp hiện nay, trong đó nhấn mạnh rằng phán quyết của Tòa án cần dựa chủ yếu vào kết quả tranh tụng và xem xét đầy đủ ý kiến của các bên liên quan Do đó, cần bổ sung quy định để các ý kiến và yêu cầu của những người tham gia phiên tòa trở thành căn cứ quan trọng cho HĐXX trong việc ra bản án.

* Nguyên tắc xét xử liên tục tại phiên tòa

Một số nguyên tắc cơ bản của Luật tố tụng hình sự có liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

SỰ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA

2.2.1 Nguyên tắc xác định sự thật khách quan của vụ án

Xác định sự thật khách quan trong vụ án hình sự là mục tiêu chính của hoạt động tố tụng, phản ánh bản chất của quá trình chứng minh tội phạm Theo Điều 10 BLTTHS 2003, các cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát và Tòa án phải sử dụng mọi biện pháp hợp pháp để làm rõ sự thật khách quan, đảm bảo tính khách quan, toàn diện và đầy đủ Điều này bao gồm việc xác định các chứng cứ có tội và vô tội, cũng như các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của bị can, bị cáo Đồng thời, trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về các cơ quan tiến hành tố tụng.

Bị can và bị cáo có quyền bảo vệ bản thân mà không phải chứng minh mình vô tội, đồng thời họ cũng không có nghĩa vụ phải chứng minh sự thật khách quan của vụ án.

Theo nguyên tắc này, trong giai đoạn xét xử tại phiên tòa, Tòa án có trách nhiệm áp dụng các biện pháp hợp pháp để chứng minh tội phạm và làm rõ sự thật khách quan của vụ án Đây là cơ sở pháp lý cho nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa Nguyên tắc xác định sự thật khách quan cung cấp nội dung và phương hướng cho nghĩa vụ chứng minh tội phạm, trong khi nguyên tắc xét xử trực tiếp quy định các phương pháp cụ thể mà Tòa án có thể áp dụng để thực hiện nghĩa vụ chứng minh tại phiên tòa.

Quy định yêu cầu Tòa án chứng minh sự thật khách quan trong vụ án đã bị chỉ trích vì giao cho Tòa án chức năng buộc tội, điều này không phản ánh đúng bản chất và vai trò của chức năng xét xử Trách nhiệm chứng minh tội phạm và làm rõ các tình tiết vụ án thuộc về Cơ quan điều tra (CQĐT) và Viện Kiểm sát nhân dân (VKSND), không phải của Tòa án Việc buộc Tòa án chứng minh tội phạm sẽ ảnh hưởng đến tính trung lập, khách quan và công bằng của Tòa án trong vai trò là người “trọng tài anh minh” Quy định này, trong một chừng mực nhất định, có thể được coi là vi hiến.

Hiến pháp 1992 quy định rằng Tòa án chỉ có chức năng xét xử, và công lý nên là tiêu chí cho hoạt động này, thay vì chỉ dựa vào sự thật khách quan Mục đích của hoạt động xét xử là giải quyết dứt điểm vụ án, đảm bảo kẻ phạm tội bị trừng trị, người vô tội được minh oan, và bảo vệ quyền lợi hợp pháp của cá nhân, tổ chức và xã hội Do đó, phán quyết của Tòa án cần phải chính xác và phù hợp với tình tiết thực tế và quy định pháp luật Nếu không xác định đúng chân lý khách quan, phán quyết sẽ không chính xác, dẫn đến việc bỏ lọt tội phạm hoặc oan sai, làm suy giảm công bằng và uy tín của hoạt động xét xử Hơn nữa, nếu Tòa án không có nghĩa vụ chứng minh, sẽ tạo ra sự bất bình đẳng giữa bên buộc tội và bên bào chữa, đặc biệt khi người dân còn hạn chế về hiểu biết pháp luật và tỷ lệ bị cáo có luật sư bào chữa thấp Vì vậy, Tòa án vẫn phải có trách nhiệm chứng minh và xác định chân lý khách quan của vụ án.

Tòa án có trách nhiệm làm sáng tỏ các tình tiết của vụ án, bao gồm cả các tình tiết buộc tội và gỡ tội, không phải chỉ để xác định tội danh của bị cáo mà nhằm mục đích xác định sự thật khách quan của vụ án Điều này giúp Tòa án đưa ra quyết định chính xác và thực hiện đúng chức năng xét xử của mình.

Tòa án cần áp dụng phương pháp xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục để đảm bảo tính khách quan và công bằng trong việc giải quyết vụ án Việc nhận thức và hoàn thiện nguyên tắc này không chỉ giúp Tòa án thực hiện đúng vai trò của mình như một "người trọng tài công minh" mà còn nâng cao hiệu quả chức năng xét xử, từ đó mang lại sự công lý chính xác cho các bên liên quan.

2.2.2 Nguyên tắc đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Quyền bào chữa của người bị buộc tội là một quyền cơ bản của con người, được công nhận trong các điều ước quốc tế về quyền con người và trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều quốc gia Nguyên tắc này đã được ghi nhận từ sớm trong Hiến pháp và pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam, hiện nay được quy định tại Điều 132 Hiến pháp năm 1992 và Điều 11 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003.

Quyền bào chữa trong tố tụng hình sự (TTHS) là tập hợp các hành vi tố tụng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo nhằm bác bỏ một phần hoặc toàn bộ cáo buộc của cơ quan tố tụng, từ đó làm giảm nhẹ hoặc loại trừ trách nhiệm hình sự Quyền bào chữa bao gồm hai khía cạnh chính: quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa, như luật sư hoặc người đại diện hợp pháp Các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát và Tòa án có trách nhiệm đảm bảo quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo quy định pháp luật Trong những trường hợp đặc biệt, như đối với người chưa thành niên hoặc người có khuyết tật, các cơ quan tố tụng phải chỉ định người bào chữa cho họ.

Tại phiên tòa, bị cáo và người bào chữa có quyền trình bày chứng cứ và lý lẽ để chứng minh sự vô tội hoặc xác định các tình tiết giảm nhẹ, đồng thời được nói lời sau cùng Những quyền này tạo ra sự phản biện cần thiết, giúp loại bỏ sự buộc tội phiến diện và đảm bảo phiên tòa diễn ra một cách dân chủ, khách quan và công bằng Qua đó, các chứng cứ và tình tiết của vụ án sẽ được xem xét một cách toàn diện, từ cả hai phía buộc tội và gỡ tội, giúp Hội đồng xét xử xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án Việc đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo có ý nghĩa quan trọng, giúp Hội đồng xét xử kiểm tra đầy đủ các chứng cứ và xác định đúng đắn các tình tiết của vụ án, từ đó đưa ra phán quyết hợp pháp và có căn cứ.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa yêu cầu Hội đồng xét xử (HĐXX) không chỉ xác định sự thật khách quan mà còn phải xem xét cả các chứng cứ và ý kiến gỡ tội cho bị cáo HĐXX có nghĩa vụ lắng nghe các lập luận bào chữa từ bị cáo và người bào chữa, điều này là cần thiết để cân nhắc khi ra phán quyết Do đó, việc xét xử trực tiếp tại phiên tòa là phương thức hiệu quả nhằm bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa có mối quan hệ chặt chẽ với quyền bào chữa của bị cáo Nếu quyền bào chữa không được đảm bảo, nguyên tắc xét xử sẽ không thể thực hiện đầy đủ Ngược lại, nếu nguyên tắc này không được thực hiện chính xác, quyền bào chữa sẽ chỉ mang tính hình thức Cả hai trường hợp đều dẫn đến hoạt động xét xử thiếu khách quan, không dân chủ và có thể gây oan sai.

2.2.3 Nguyên tắc không ai bị coi là có tội khi chƣa có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật

Nguyên tắc "suy đoán vô tội" là một thành tựu quan trọng trong văn minh pháp lý, đóng vai trò bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự Nguyên tắc này được công nhận rộng rãi trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều quốc gia và các điều ước quốc tế về quyền con người, bao gồm Tuyên ngôn chung về quyền con người năm 1948 và Công ước quốc tế về quyền chính trị và dân sự năm 1966 của Liên Hiệp Quốc.

Theo Điều 72 Hiến pháp năm 1992 và Điều 9 BLTTHS 2003, nguyên tắc suy đoán vô tội quy định rằng chỉ Tòa án mới có quyền tuyên bố một người có tội và áp dụng hình phạt Người bị tạm giữ, bị can, bị cáo chỉ được coi là có tội khi có bản án kết tội có hiệu lực pháp luật Hơn nữa, mọi sự nghi ngờ trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử phải được giải thích có lợi cho bị can, bị cáo.

Tòa án là cơ quan duy nhất có thẩm quyền kết tội và áp dụng hình phạt đối với bị cáo Việc này chỉ được thực hiện sau khi tòa án đã xem xét và đánh giá đầy đủ các chứng cứ tại phiên tòa, đảm bảo có đủ cơ sở để khẳng định hành vi của bị cáo đã cấu thành tội phạm theo quy định của Bộ luật hình sự.

Một số quy định bảo đảm thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

2.3.1 Sự có mặt của những người tiến hành tố tụng và người tham gia tố tụng tại phiên tòa

Theo quy định tại BLTTHS 2003, sự có mặt của các bên liên quan như Kiểm sát viên, bị cáo, người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, người làm chứng và người giám định là rất cần thiết tại phiên tòa Điều này đảm bảo Tòa án có đủ "dữ kiện" để kiểm tra và đánh giá chứng cứ, xác minh các tình tiết vụ án một cách chính xác và toàn diện Hơn nữa, những người tham gia tố tụng có cơ hội trực tiếp trình bày ý kiến, yêu cầu và tranh luận, từ đó bảo vệ tốt nhất quyền lợi hợp pháp của mình.

Sự vắng mặt của người tham gia tố tụng có thể ảnh hưởng đến tính chính xác và công bằng trong việc xác định sự thật khách quan của vụ án Tuy nhiên, quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 về sự có mặt của những người tham gia tố tụng còn nhiều hạn chế và mang tính tùy nghi Điều này dẫn đến việc nhiều hội đồng xét xử vẫn tiến hành xét xử mà không có đầy đủ những người tham gia tố tụng cần thiết, bao gồm cả người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, cũng như những người làm chứng về các vấn đề quan trọng.

Những hạn chế hiện tại đã dẫn đến việc nhiều chứng cứ không được thẩm tra trực tiếp và bằng lời nói tại phiên tòa, nhưng vẫn được sử dụng để xác định tội phạm Điều này cũng hạn chế quyền bào chữa của bị cáo, đặc biệt khi người bào chữa vắng mặt, gây ra sự thiếu công bằng giữa bên buộc tội và bên bào chữa Do đó, nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa không được thực hiện một cách đầy đủ và đúng đắn.

Phần lớn chứng cứ và tài liệu trong hồ sơ vụ án được CQĐT, đặc biệt là Điều tra viên, thu thập và củng cố Họ là những người nắm rõ tình tiết vụ án và có tiếp xúc trực tiếp với nhân chứng và người bị hại, do đó sự có mặt của họ tại phiên tòa là rất cần thiết để làm sáng tỏ những vấn đề chưa rõ ràng và đảm bảo tính hợp pháp của quá trình thu thập chứng cứ Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 không quy định rõ về việc tham gia của Điều tra viên tại phiên tòa, dẫn đến sự thiếu sót trong việc xác định quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình xét xử.

2.3.2 Giới hạn của việc xét xử (Điều 196 BLTTHS 2003)

Giới hạn xét xử là một yếu tố quan trọng trong Bộ luật Tố tụng hình sự, liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa Theo Điều 196 BLTTHS 2003, phạm vi xét xử sơ thẩm được xác định bởi nội dung truy tố của Viện kiểm sát và quyết định của Tòa án Tòa án chỉ được xét xử những bị cáo và hành vi theo tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố Tuy nhiên, Tòa án có thể xét xử bị cáo theo khoản khác hoặc về một tội nhẹ hơn so với cáo trạng Quy định này thể hiện sự phân định chức năng giữa Tòa án và Viện kiểm sát, đồng thời bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo và nguyên tắc nhân đạo.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói yêu cầu phiên tòa phải điều tra công khai và đầy đủ vụ án HĐXX cần độc lập, khách quan, và trực tiếp kiểm tra chứng cứ, lắng nghe ý kiến của những người tham gia để xác định các tình tiết vụ án một cách chính xác Bản án chỉ dựa vào chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, vì vậy kết quả xét xử có thể khẳng định tính đúng đắn của việc truy tố của VKSND, nhưng cũng có thể cho thấy bị cáo đã thực hiện hành vi phạm tội khác Tuy nhiên, Tòa án không được phép xét xử bị cáo về các tội danh nặng hơn so với tội danh mà VKSND đã truy tố, chỉ có thể xét xử về các tội danh bằng hoặc nhẹ hơn.

Quy định cấm Tòa án xét xử bị cáo về tội danh nặng hơn so với cáo buộc của VKSND được coi là không hợp lý Tòa án vẫn thực hiện chức năng buộc tội trong khuôn khổ đã được xác định, không xét xử những hành vi phạm tội mới mà chỉ tập trung vào những bị cáo và hành vi đã được truy tố Điều này đảm bảo quyền bào chữa của bị cáo, cho phép họ và những người bào chữa có cơ hội bảo vệ quyền lợi của mình tại phiên tòa, dựa trên chứng cứ và hành vi phạm tội đã được xác định.

Viện kiểm sát đã tiến hành truy tố dựa trên cơ sở pháp luật, không chỉ dựa vào tội danh mà còn cần xem xét bản chất của tội danh như một "quy ước" của các nhà làm luật Do đó, cần sửa đổi Điều 196 BLTTHS 2003 để mở rộng giới hạn xét xử, cho phép Tòa án có thể xét xử bị cáo với những tội danh nặng hơn so với tội danh mà Viện kiểm sát đã truy tố và Tòa án đã quyết định đưa ra xét xử.

2.3.3 Biên bản phiên tòa (Điều 200 BLTTHS 2003)

Biên bản phiên tòa là văn bản tố tụng quan trọng, ghi lại toàn bộ nội dung và diễn biến của phiên tòa từ đầu đến cuối Nó không chỉ phản ánh đầy đủ quá trình xét xử mà còn là căn cứ để Tòa án cấp trên kiểm tra và giám sát hoạt động của Tòa án cấp dưới Biên bản này giúp các bên tham gia khẳng định các sai phạm trong xét xử, từ việc bỏ sót chứng cứ đến không tuân thủ quy trình tố tụng Việc ghi chép chính xác và đầy đủ biên bản phiên tòa góp phần nâng cao trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc tuân thủ các quy định pháp luật Tuy nhiên, quy định hiện hành của BLTTHS 2003 về biên bản phiên tòa vẫn còn thiếu sót và cần được bổ sung các nội dung quan trọng.

Khoản 1 Điều 200 quy định biên bản phiên tòa phải ghi rõ “mọi diễn biến ở phiên tòa từ khi bắt đầu đến khi kết thúc.” Tuy nhiên, Khoản 2 Điều này chỉ quy định: “những câu hỏi và câu trả lời đều phải được ghi vào biên bản”; còn các ý kiến và yêu cầu của những người tham gia phiên tòa lại không được nhắc đến Trong khi đó, chúng cũng là những cơ sở quan trọng cho việc xem xét, kiểm tra chứng cứ, xác định các tình tiết và ra phán quyết giải quyết giải quyết vụ án của HĐXX

Để nâng cao tính công khai và dân chủ trong hoạt động tố tụng, cũng như bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các bên liên quan, cần bổ sung quy định yêu cầu thư ký phiên tòa công khai đọc toàn bộ biên bản tại phiên tòa Đồng thời, cần đảm bảo quyền của các bên được cung cấp biên bản phiên tòa và quyền khiếu nại về những nội dung không chính xác trong biên bản đó.

Các quy định liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa hình sự sơ thẩm và phiên tòa hình sự phúc thẩm

SƠ THẨM VÀ PHIÊN TÒA HÌNH SỰ PHÚC THẨM

Phiên tòa là giai đoạn quan trọng nhất trong tố tụng hình sự, diễn ra như một cuộc điều tra công khai và toàn diện về các chứng cứ và vấn đề của vụ án hình sự Tòa án sẽ đưa ra phán quyết cuối cùng dựa trên những chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa Tại đây, nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục được thể hiện một cách đầy đủ và toàn diện.

2.4.1 Phiên tòa hình sự sơ thẩm

* Thủ tục bắt đầu phiên tòa

Thủ tục khai mạc phiên tòa là bước quan trọng trong quy trình xét xử, nơi Tòa án kiểm tra các điều kiện cần thiết để đảm bảo phiên tòa diễn ra hợp pháp Trong giai đoạn này, Tòa án sẽ xác nhận sự có mặt của những người được triệu tập, đồng thời phổ biến quyền và nghĩa vụ của họ (Điều 201) Ngoài ra, Tòa án cũng sẽ giải quyết các đề nghị thay đổi Thẩm phán, Hội thẩm, Kiểm sát viên, thư ký Tòa án, người giám định và phiên dịch (Điều 202), cũng như giải thích quyền và nghĩa vụ của người phiên dịch và người giám định (Điều 203) Việc giải thích quyền, nghĩa vụ và cách ly người làm chứng cũng được thực hiện (Điều 204), cùng với việc xử lý các yêu cầu liên quan đến chứng cứ và trường hợp người tham gia phiên tòa vắng mặt (Điều 205).

Trong thủ tục bắt đầu phiên tòa, các điều kiện cần thiết cho hoạt động xét xử sẽ được kiểm tra một cách công khai và trực tiếp trước sự chứng kiến của mọi người có mặt Nếu đầy đủ các điều kiện theo quy định pháp luật, phiên tòa sẽ tiếp tục; ngược lại, nếu có sự vắng mặt của những người được triệu tập hoặc có thay đổi về thời gian, phiên tòa sẽ bị hoãn.

Thủ tục bắt đầu phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục được thực hiện đầy đủ Nếu không tuân thủ đúng quy định pháp luật trong thủ tục này, việc xét xử sẽ khó có thể diễn ra một cách chính xác và toàn diện Ví dụ, nếu những người cần thiết tham gia phiên tòa vắng mặt hoặc có những người tham gia không khách quan, thì quá trình chứng minh và ra phán quyết sẽ không đạt được tính khách quan và chính xác theo yêu cầu của nguyên tắc xét xử.

Yêu cầu triệu tập thêm người làm chứng và cung cấp tài liệu, đồ vật là quyền quan trọng của những người tham gia phiên tòa, giúp bảo vệ quyền lợi hợp pháp và hỗ trợ HĐXX trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ để xác định sự thật khách quan của vụ án Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 chỉ quy định hoãn phiên tòa khi có người tham gia vắng mặt, mà không đề cập đến việc hoãn hoặc tạm dừng phiên tòa để triệu tập nhân chứng hoặc thu thập chứng cứ theo yêu cầu Trong nhiều hệ thống tố tụng trên thế giới, việc này được coi là bình thường, như quy định tại Điều 246 BLTTHS Cộng Hòa Liên Bang Đức, cho phép đình chỉ phiên tòa để thu thập thông tin khi có chứng cứ hoặc nhân chứng được đưa ra muộn.

Chúng tôi cho rằng việc hoãn phiên tòa và xét xử lại từ đầu là không cần thiết nếu thời gian thu thập, kiểm tra chứng cứ hoặc triệu tập thêm người làm chứng diễn ra trong thời gian ngắn Tòa án chỉ nên xét xử lại khi thời gian này quá dài, khiến các bên tham gia quên các diễn biến đã xảy ra Do đó, Điều 205 cần được điều chỉnh để cho phép hoãn hoặc tạm ngừng phiên tòa khi cần triệu tập thêm người làm chứng hoặc thu thập và kiểm tra chứng cứ bổ sung.

* Thủ tục xét hỏi tại phiên tòa

Xét hỏi, hay còn gọi là thẩm vấn, là giai đoạn quan trọng quyết định trong việc chứng minh vụ án, nơi mọi chứng cứ được xem xét và thẩm tra công khai Tại phiên tòa, xét hỏi diễn ra dưới hình thức điều tra công khai và trực tiếp, với sự tham gia đầy đủ của những người tham gia tố tụng và người có quyền lợi liên quan Giai đoạn này nhằm kiểm tra và đánh giá lại kết quả của quá trình điều tra và truy tố, xác định các tình tiết của vụ án, đồng thời phát hiện những sai lầm và thiếu sót trong hoạt động điều tra và truy tố.

Theo nguyên tắc xét xử trực tiếp và bằng lời nói, HĐXX cần xác định các tình tiết của vụ án qua việc hỏi và lắng nghe ý kiến của bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, cũng như các bên liên quan và nhân chứng Điều này được quy định rõ trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, nhấn mạnh rằng "HĐXX phải xác định đầy đủ các tình tiết về từng sự việc và từng tội của vụ án theo thứ tự xét hỏi hợp lý" (Điều 207).

HĐXX cần phải thực hiện việc hỏi riêng từng bị cáo để họ trình bày ý kiến về bản cáo trạng cùng những tình tiết của vụ án, đồng thời làm rõ các điểm chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn (Điều 209) Ngoài ra, HĐXX cũng phải hỏi riêng từng người làm chứng, yêu cầu họ trình bày rõ ràng các tình tiết mà họ biết, và tiếp tục làm rõ những thông tin chưa đầy đủ hoặc có mâu thuẫn trong lời khai của họ (Điều 212).

Trong quá trình xét hỏi, Hội đồng xét xử (HĐXX) cần xác định đầy đủ các tình tiết liên quan đến từng sự việc và từng tội danh của vụ án HĐXX phải làm rõ liệu bị cáo có phạm tội hay không và nếu bị cáo bị truy tố về nhiều tội, cần tiến hành xét hỏi cho từng tội danh Các chứng cứ buộc tội và gỡ tội, cũng như các tình tiết tăng nặng và giảm nhẹ trách nhiệm hình sự cần được xem xét một cách chính xác và đầy đủ HĐXX cũng cần xem xét các tình tiết liên quan đến việc bồi thường thiệt hại.

Trong quá trình xét hỏi tại phiên tòa, Chủ tọa sẽ lần lượt hỏi từng người tham gia, bắt đầu từ Hội thẩm, tiếp theo là Kiểm sát viên, người bào chữa và người bảo vệ quyền lợi của đương sự Các bên tham gia có quyền đề nghị Chủ tọa hỏi thêm về những tình tiết cần làm rõ Người giám định cũng sẽ được hỏi về các vấn đề liên quan đến giám định theo quy định tại Điều 207 Điều này cho thấy rằng việc điều tra và xét hỏi tại phiên tòa chủ yếu tập trung vào Hội đồng xét xử, thể hiện nhiệm vụ bắt buộc và đáp ứng yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, như quy định tại Điều 184.

Nhiều ý kiến cho rằng quy định về trình tự xét hỏi tại phiên tòa chưa phù hợp với chức năng của các bên và Tòa án trong tố tụng hình sự Pháp luật đã giao cho Hội đồng xét xử (HĐXX) những quyền hạn và trách nhiệm của bên buộc tội và bên bào chữa, dẫn đến việc HĐXX phải chứng minh tội lỗi của bị cáo, đặc biệt là chủ tọa phiên tòa Điều này làm hạn chế vai trò chủ động của Kiểm sát viên và người bào chữa, khiến Tòa án "lấn sân" vào nhiệm vụ của các bên Hậu quả là không đảm bảo tính công bằng và trung lập giữa bên buộc tội và bên bào chữa, ảnh hưởng đến việc xác định sự thật khách quan và phán quyết của Tòa án.

Cần thiết phải sửa đổi thủ tục xét hỏi tại phiên tòa, chuyển trách nhiệm chính cho các bên buộc tội và bào chữa, trong khi vai trò của HĐXX chỉ mang tính bổ sung Điều này giúp HĐXX, đặc biệt là chủ tọa, tập trung theo dõi và đánh giá quá trình tranh tụng, từ đó đảm bảo ra phán quyết đúng đắn và chính xác về vụ án.

Theo quan điểm của chúng tôi, quy định trình tự xét hỏi trong BLTTHS 2003 không phản ánh đúng vai trò của Tòa án và Viện kiểm sát Việc xét xử hình sự bắt đầu từ chức năng buộc tội, vì “không có buộc tội thì không có xét xử” Bên buộc tội cần thu thập chứng cứ để chứng minh tính hợp pháp và căn cứ của buộc tội, trong khi bên bào chữa phải chứng minh sự vô tội của bị cáo hoặc các tình tiết giảm nhẹ HĐXX đóng vai trò là “trọng tài công minh”, không thể là người chịu trách nhiệm chính trong việc xét hỏi, vì điều này sẽ làm mất đi tính khách quan và trung lập của chức năng xét xử Do đó, cần sửa đổi thủ tục xét hỏi tại phiên tòa để chuyển trách nhiệm chính sang cho bên buộc tội và bên bào chữa.

Pháp luật không thể hoàn toàn loại bỏ quyền xét hỏi của Hội đồng xét xử (HĐXX), vì điều này có thể dẫn đến sự bất bình đẳng giữa các bên trong phiên tòa, đặc biệt là đối với những bị cáo không có người bào chữa Việc HĐXX không tham gia xét hỏi sẽ gây khó khăn trong việc xác định các tình tiết cần thiết để giải quyết vụ án Do đó, sự tham gia của HĐXX trong quá trình xét hỏi là rất quan trọng Tuy nhiên, trình tự và cách thức xét hỏi của HĐXX cần phải đảm bảo tính khách quan và công bằng, tránh việc HĐXX can thiệp vào công việc của bên buộc tội hoặc bên bào chữa.

Thực trạng thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

3.1 THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGUYÊN TẮC XÉT XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA

3.1.1 Những kết quả đạt đƣợc

Trong thời gian qua, hoạt động xét xử hình sự của Tòa án các cấp đã đạt nhiều kết quả tích cực Nhiều Hội đồng xét xử đã khắc phục tư tưởng “án tại hồ sơ” và thực hiện đầy đủ các yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp tại phiên tòa Việc xem xét, đánh giá chứng cứ và áp dụng pháp luật trong các vụ án hình sự được thực hiện đúng quy định pháp luật, nhận được sự đồng tình từ công luận và nhân dân Chất lượng xét xử ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm hiện nay tương đối tốt, với tỷ lệ bản án, quyết định hình sự bị hủy và sửa ở mức thấp: năm 2005, tỷ lệ bản án bị hủy là 0,7% và bị sửa là 4,2%.

Từ năm 2006 đến 2010, tỷ lệ các bản án và quyết định bị hủy có xu hướng tăng nhẹ, bắt đầu từ 0,6% năm 2006 và đạt 0,75% vào năm 2010 Trong khi đó, tỷ lệ các bản án và quyết định bị sửa cũng tăng từ 4,1% năm 2006 lên 5,1% năm 2010 Cụ thể, năm 2007 tỷ lệ bị hủy là 0,63% và bị sửa là 4,43%; năm 2008 tỷ lệ bị hủy giữ nguyên ở 0,6% nhưng tỷ lệ bị sửa tăng lên 4,6%; năm 2009 tỷ lệ bị hủy đạt 0,71% và bị sửa là 4,21%.

Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử, Thẩm phán và Hội thẩm đã nghiên cứu hồ sơ vụ án một cách kỹ lưỡng, xác định và triệu tập đầy đủ những người tham gia tố tụng để đảm bảo sự có mặt của họ tại phiên tòa Họ đã lên kế hoạch xét hỏi cẩn thận và dự kiến các tình huống có thể xảy ra, từ đó thực hiện đầy đủ các yêu cầu của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục Điều này giúp đảm bảo tính khách quan, công bằng, chính xác và toàn diện trong hoạt động xét xử.

Trong thủ tục xét hỏi, nhiều chủ tọa phiên tòa đã tổ chức trình tự hợp lý, tuân thủ quy định pháp luật và đưa ra những câu hỏi sắc sảo, làm sáng tỏ các tình tiết vụ án Họ đã tạo điều kiện cho người bào chữa và bảo vệ quyền lợi của đương sự tham gia xét hỏi, đồng thời chú ý lắng nghe các câu hỏi và câu trả lời, kiểm tra kỹ lưỡng chứng cứ tại phiên tòa Qua đó, nhiều Hội đồng xét xử đã làm rõ các mâu thuẫn trong hồ sơ vụ án, phát hiện sai sót trong điều tra và truy tố, như vụ án của anh PVS bị khởi tố về “Tội cố ý gây thương tích” Tại phiên tòa, lời khai của bị hại BVL cho thấy có sự mâu thuẫn với kết luận giám định, dẫn đến quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung Cuối cùng, kết luận giám định lại xác định tỷ lệ thương tật của BVL chỉ còn 1%, và vụ án đã được đình chỉ.

Trong quá trình tranh luận tại phiên tòa, nhiều Hội đồng xét xử đã thể hiện sự khách quan và công bằng, tạo điều kiện cho các bên tham gia trình bày ý kiến một cách dân chủ và bình đẳng Các chủ tọa phiên tòa thường dành thời gian để làm rõ những vấn đề chưa rõ ràng, từ đó khuyến khích các bên tranh luận nhằm làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án Một số chủ tọa đã tích cực tạo điều kiện cho bị cáo thực hiện quyền tranh luận theo quy định pháp luật, như trong phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ án trộm cắp tài sản tại TAND huyện.

Tại phiên tòa ở Dĩ An, Bình Dương, khi được hỏi về việc tranh luận, bị cáo đã ngập ngừng trả lời không Chủ tọa phiên tòa đã khuyến khích bị cáo trình bày ý kiến của mình, nhấn mạnh rằng việc học ít không phải là lý do để không bày tỏ suy nghĩ Sau khi được gợi ý, bị cáo đã tự tin hơn và cung cấp nhiều thông tin liên quan đến vụ án, thậm chí đưa ra chứng cứ phản biện lại quan điểm của Viện Kiểm sát Nhân dân Kết quả là một số ý kiến của bị cáo đã được Tòa án chấp nhận.

Nhiều Hội đồng xét xử đã tuân thủ nghiêm ngặt các quy định về nghị án và tuyên án, đảm bảo rằng bản án chỉ được căn cứ vào các chứng cứ đã được xem xét tại phiên tòa, phù hợp với nguyên tắc xét xử trực tiếp.

HĐXX chủ yếu dựa vào kết quả tranh tụng và các chứng cứ được thẩm tra tại phiên tòa để làm căn cứ nghị án Chủ tọa phiên tòa đã trình bày toàn bộ bản án cho các thành viên thảo luận, không chỉ giới hạn ở phần quyết định như trước đây.

Thông qua việc kiểm tra và đánh giá các chứng cứ tại phiên tòa, nhiều hội đồng xét xử đã xác định chính xác sự thật khách quan của vụ án, từ đó minh oan cho những người vô tội Ví dụ điển hình là vụ án của bà ĐTH tại huyện Hải Lăng, tỉnh Quảng Trị, nơi bà bị khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử với tội danh "Trộm cắp tài sản".

Năm 2007, bà ĐTH đã cùng ông HTĐ góp vốn để mua chung một lô rừng 10 ha Tuy nhiên, sau đó giữa hai bên đã xảy ra tranh chấp liên quan đến quyền khai thác lô đất rừng này Ngày 18/11/2009, Công an huyện Hải Lăng đã khởi tố vụ án và tạm giam bà ĐTH.

Vào ngày 30/8/2010, TAND huyện Hải Lăng đã xét xử và tuyên bà ĐTH không phạm “Tội trộm cắp tài sản” như cáo buộc của VKSND huyện Hải Lăng HĐXX nhận định tranh chấp lô đất rừng giữa bà ĐTH và ông HTĐ là tranh chấp quyền sở hữu tài sản, thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án, do đó việc truy tố bà ĐTH về tội này là không có cơ sở Sau đó, bản án sơ thẩm đã bị VKSND kháng nghị nhằm bảo vệ quyết định truy tố, nhưng tại phiên phúc thẩm, TAND tỉnh Quảng Trị đã bác kháng nghị và giữ nguyên bản án sơ thẩm, tuyên bố bà ĐTH vô tội.

Nguyên tắc xét xử liên tục đã được thực hiện nghiêm túc, giúp HĐXX và những người tham gia phiên tòa dễ dàng theo dõi diễn biến vụ án Điều này cho phép HĐXX có cái nhìn đầy đủ và chính xác về vụ án, từ đó đưa ra phán quyết đúng người, đúng tội và đúng pháp luật, tránh oan sai cho người vô tội và không bỏ sót tội phạm Những người tham gia phiên tòa cũng hiểu rõ và đồng tình với các phán quyết của Tòa án.

Mặc dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa vẫn còn nhiều thiếu sót và hạn chế Các vấn đề này thể hiện qua một số tồn tại chủ yếu trong quá trình áp dụng các quy định liên quan.

* Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa yêu cầu

HĐXX có trách nhiệm tiến hành xét hỏi để xác định các tình tiết vụ án và là người xét hỏi đầu tiên tại phiên tòa Trong khi đó, Kiểm sát viên không có nghĩa vụ xét hỏi, dẫn đến việc HĐXX, đặc biệt là chủ tọa, giữ vai trò chủ yếu trong việc chứng minh sự thật khách quan của vụ án Thực tế cho thấy Kiểm sát viên thường chỉ tham gia với vai trò chứng kiến, không thực hiện trách nhiệm bảo vệ cáo trạng, điều này làm giảm tính khách quan và công bằng trong quá trình xét xử Sự thiếu rõ ràng trong quy định về trách nhiệm của Tòa án và Viện Kiểm sát đã dẫn đến sự trộn lẫn vai trò của hai bên, khiến HĐXX có thể bị xem là bên buộc tội thay cho Kiểm sát viên, điều này tạo ra những hạn chế lớn trong nguyên tắc xét xử trực tiếp và liên tục tại phiên tòa.

Trong quá trình xét hỏi, nhiều Hội đồng xét xử (HĐXX) đã thể hiện cách thức xét hỏi áp đặt, phiến diện và không đầy đủ, với những câu hỏi thiếu sắc bén và không đi sâu vào trọng tâm vụ án Điều này dẫn đến việc nhiều bị cáo kêu oan hoặc thay đổi lời khai tại Cơ quan điều tra nhưng không được làm rõ tại phiên tòa Thay vì trực tiếp làm rõ mâu thuẫn trong lời khai của bị cáo, chủ tọa thường chỉ công bố lời khai và hỏi về chữ ký, từ đó đưa ra nhận xét buộc tội mà không tạo điều kiện cho việc kiểm tra chứng cứ một cách khách quan Tình trạng này khiến người tham gia phiên tòa cảm thấy rằng chủ tọa không thực sự xem xét chứng cứ mà chỉ hợp thức hóa kết quả điều tra và truy tố.

Nguyên nhân của những hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

Việc áp dụng nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa còn gặp nhiều hạn chế và thiếu sót Những vấn đề này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, bao gồm cả yếu tố lập pháp và thi hành pháp luật Để cải thiện chất lượng và hiệu quả hoạt động xét xử tại phiên tòa hình sự, cần xác định chính xác và đầy đủ các nguyên nhân này, từ đó đề ra các phương hướng khắc phục phù hợp.

3.2.1 Những nguyên nhân về lập pháp luật

Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa, cùng các quy định trong BLTTHS 2003, đã tạo nền tảng pháp lý quan trọng giúp HĐXX xác định đúng đắn các tình tiết vụ án, ra quyết định một cách khách quan và chính xác, đảm bảo tính công bằng và dân chủ của phiên tòa Điều này không chỉ giáo dục ý thức pháp luật cho quần chúng mà còn góp phần hiệu quả vào công tác phòng chống tội phạm Tuy nhiên, quy định tại Điều 184 và các quy định liên quan trong BLTTHS 2003 vẫn còn nhiều khiếm khuyết, bất cập, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng xét xử và gây ra nhiều ý kiến trái chiều giữa các chuyên gia thực tiễn và lý luận.

Nguyên tắc xét xử trực tiếp và nguyên tắc xét xử bằng lời nói yêu cầu Tòa án phải xác định trực tiếp các tình tiết của vụ án thông qua việc xét hỏi và lắng nghe ý kiến Những quy định này trong thủ tục xét hỏi tại phiên tòa đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo tính minh bạch và công bằng của quá trình xét xử.

HĐXX đóng vai trò chủ đạo trong việc xét hỏi và chứng minh sự thật khách quan của vụ án, nhưng điều này lại hạn chế tính chủ động của Kiểm sát viên và người bào chữa Việc HĐXX can thiệp vào công việc của bên buộc tội và bên bào chữa dẫn đến tình trạng quá tải, đặc biệt là đối với chủ tọa phiên tòa Hệ quả là sự phân định giữa các chức năng xét xử, buộc tội và gỡ tội trở nên mờ nhạt, khiến nhiều phiên tòa thiếu tính khách quan, công bằng và dân chủ, đồng thời quyền và lợi ích hợp pháp của những người tham gia không được bảo đảm theo quy định của pháp luật.

Nguyên tắc xét xử liên tục hiện nay vẫn còn quá khái quát và chưa phản ánh đầy đủ nội dung của nó, đặc biệt là yêu cầu các thành viên HĐXX phải tham gia xét xử liên tục cho từng vụ án Họ cần hoàn tất xét xử vụ án đang giải quyết trước khi tham gia vào vụ án khác Hơn nữa, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 không quy định về việc tạm ngừng phiên tòa, dẫn đến việc nếu phiên tòa bị gián đoạn, xét xử phải bắt đầu lại từ đầu Điều này kéo dài quá trình xét xử, ngay cả trong những trường hợp không cần thiết.

Điểm d Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, tạo cơ sở pháp lý quan trọng để chứng minh sự vô tội hoặc các tình tiết giảm nhẹ TNHS cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo Điều này góp phần đảm bảo sự công bằng, chính xác và toàn diện trong việc xác minh sự thật khách quan của vụ án Tuy nhiên, BLTTHS 2003 không quy định các cá nhân, cơ quan, tổ chức có nghĩa vụ cung cấp chứng cứ cho người bào chữa, dẫn đến việc việc cung cấp chứng cứ hoàn toàn phụ thuộc vào ý chí của các cơ quan, tổ chức đang lưu giữ chứng cứ Do đó, nếu họ từ chối, người bào chữa sẽ không thể thu thập được chứng cứ cần thiết.

Một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 vẫn chưa tạo điều kiện thuận lợi cho quyền bào chữa của người bị buộc tội, đặc biệt trong giai đoạn điều tra và truy tố, dẫn đến khó khăn trong việc kiểm tra và đánh giá chứng cứ tại phiên tòa Nhiều bị cáo phản cung và cho rằng họ bị ép cung, nhưng việc xác định vấn đề này không hề đơn giản, khiến hội đồng xét xử gặp khó khăn và đôi khi có hành vi vi phạm pháp luật, xâm phạm quyền bào chữa Sự tham gia của người bào chữa trong quá trình hỏi cung sẽ hạn chế những vấn đề này Tuy nhiên, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 không quy định rõ ràng về việc từ chối người bào chữa, dẫn đến tình trạng thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa không thống nhất, thường chậm trễ và bị từ chối vì nhiều lý do không chính đáng.

Sự có mặt đầy đủ của những người tham gia tố tụng là yếu tố cần thiết để Hội đồng xét xử thực hiện đầy đủ nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục, nhằm đảm bảo tính chính xác trong việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ và xác định sự thật khách quan của vụ án Tuy nhiên, nhiều quy định hiện hành về sự có mặt của những người này vẫn mang tính tùy nghi, cho phép Hội đồng xét xử tiến hành xét xử ngay cả khi không có đủ người tham gia cần thiết Thêm vào đó, Bộ luật Tố tụng hình sự 2003 không quy định sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa, điều này gây khó khăn cho Hội đồng xét xử trong việc xác minh các vấn đề chưa rõ ràng và tính hợp pháp của chứng cứ trong hồ sơ vụ án.

Nhiều quy định về thủ tục xét xử tại phiên tòa sơ thẩm và phúc thẩm hiện nay còn tồn tại nhiều khiếm khuyết, không đáp ứng đầy đủ nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục Điều này dẫn đến việc kiểm tra, đánh giá chứng cứ tại phiên tòa không đảm bảo tính khách quan, đúng đắn và đầy đủ, ảnh hưởng đến quyền lợi chính đáng của những người tham gia Cụ thể, biên bản phiên tòa còn sơ sài và thiếu một số nội dung quan trọng, chưa có quy định rõ ràng về các trường hợp mà Hội đồng xét xử cần phải trực tiếp xem xét vật chứng và xem xét tại chỗ, cũng như thiếu quy định về thời gian nghị án.

3.2.2 Những nguyên nhân về thi hành pháp luật

Nhiều Thẩm phán và Hội thẩm vẫn chưa nhận thức đầy đủ về nguyên tắc xét xử trực tiếp, dẫn đến việc áp dụng pháp luật không chính xác HĐXX thường giữ tư tưởng "án tại hồ sơ" và quá tin tưởng vào tài liệu của CQĐT, dẫn đến việc không thẩm vấn và xác minh công khai các tài liệu quan trọng Điều này không chỉ làm giảm tính khách quan của phiên tòa mà còn gây áp lực lên bị cáo, khi họ bị hỏi theo hướng buộc tội và không được lắng nghe ý kiến bào chữa một cách công bằng.

Nhiều cơ quan THTT chưa nhận thức đúng vai trò của người bào chữa, dẫn đến việc hạ thấp tầm quan trọng của luật sư trong quá trình xét xử Thực tế cho thấy, luật sư thường gặp khó khăn khi tiếp xúc với bị can, với nhiều trường hợp cán bộ điều tra từ chối hoặc trì hoãn Họ cũng không được thông báo về lịch xử án, và thường phải năn nỉ để có được tài liệu cần thiết Hơn nữa, nhiều HĐXX không coi trọng lý lẽ và yêu cầu của người bào chữa, tạo ra sự phiến diện trong hoạt động xét xử, vi phạm nguyên tắc xét xử trực tiếp và liên tục tại phiên tòa.

Đội ngũ Thẩm phán đã có sự phát triển đáng kể về số lượng và chất lượng, nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của hoạt động xét xử hiện nay Một số Thẩm phán chưa thể hiện tinh thần trách nhiệm trong công việc, vi phạm kỷ luật công vụ và quy chế làm việc, cũng như có hành vi ứng xử không phù hợp với vai trò của mình Tình trạng án bị hủy, sửa do lỗi chủ quan của Thẩm phán vẫn chiếm tỷ lệ cao, dẫn đến việc oan sai cho người vô tội và bỏ lọt tội phạm.

Hội thẩm không phải là những người xét xử chuyên nghiệp, dẫn đến việc họ có kiến thức pháp luật và kỹ năng xét xử hạn chế Thực tế cho thấy, số lượng Hội thẩm tham gia xét xử thường xuyên rất ít, nhiều người chỉ tham gia một vài lần trong nhiệm kỳ 5 năm, thậm chí có trường hợp không tham gia xét xử lần nào Do phải tập trung vào công việc chuyên môn, nhiều Hội thẩm không có đủ thời gian để cập nhật kiến thức pháp lý hoặc nghiên cứu hồ sơ vụ án Hơn nữa, công tác quản lý và đánh giá hoạt động của Hội thẩm chưa được thực hiện đúng mức, khiến cho những hạn chế chưa được khắc phục kịp thời.

* Tinh thần trách nhiệm, năng lực chuyên môn, kỹ năng nghiệp vụ của nhiều

Năng lực của Kiểm sát viên còn hạn chế, dẫn đến việc nghiên cứu hồ sơ không kỹ lưỡng và thiếu sâu sắc, khiến họ không nắm bắt đầy đủ chứng cứ và tài liệu trong vụ án Điều này dẫn đến sự thụ động và lúng túng trong việc xét hỏi và tranh luận, với những lý lẽ và kết luận thiếu căn cứ vững chắc, không thuyết phục Họ thường bảo thủ với quan điểm đã truy tố, không chú ý đến chứng cứ gỡ tội và không quan tâm đến việc bị cáo kêu oan, mặc dù có tình tiết tại phiên tòa chứng minh sự vô tội của bị cáo Hơn nữa, một số Kiểm sát viên có trình độ nghiệp vụ hạn chế không thể tổng hợp, phân tích và đánh giá các chứng cứ, đặc biệt là lý lẽ từ người bào chữa và bị cáo, dẫn đến việc không thể bác bỏ những lập luận sai lệch một cách hiệu quả.

Đội ngũ luật sư tại Việt Nam đã tăng trưởng về số lượng và từng bước nâng cao chất lượng, nhưng để đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế, cần có nhiều nỗ lực hơn nữa Hiện tại, tỷ lệ luật sư so với dân số vẫn còn thấp, cho thấy sự cần thiết phải phát triển hơn nữa trong lĩnh vực này.

Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

XỬ TRỰC TIẾP, BẰNG LỜI NÓI VÀ LIÊN TỤC TẠI PHIÊN TÒA

3.3.1 Yêu cầu hoàn thiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

Sau gần 30 năm đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu lớn, chuyển mình từ một quốc gia kém phát triển sang nhóm nước đang phát triển có thu nhập trung bình, với những tiến bộ đáng kể trong văn hóa và xã hội, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân Hệ thống tư pháp cũng có những đổi mới, với việc thực hiện thủ tục tố tụng ngày càng tốt hơn, hạn chế tình trạng oan sai và nâng cao chất lượng điều tra, truy tố, xét xử Tuy nhiên, trước sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế xã hội và tình hình tội phạm phức tạp, cải cách tư pháp diễn ra chậm và chưa đồng bộ, dẫn đến một số sai sót trong công tác điều tra và xét xử, gây ra án tồn đọng và giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.

Trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN, nhiệm vụ quan trọng là xây dựng một nền tư pháp trong sạch, vững mạnh, dân chủ và nghiêm minh Mục tiêu của tư pháp là bảo vệ công lý, phục vụ nhân dân và phụng sự Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.

Nhà nước pháp quyền XHCN cần khẳng định vai trò trung tâm của Tòa án và hoạt động xét xử, bởi vì đây là phương thức thực thi quyền tư pháp Hoạt động này không chỉ đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và giá trị trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền tại Việt Nam.

Hoạt động xét xử của Tòa án gắn liền với các thủ tục tố tụng, yêu cầu tính công khai, dễ hiểu, và dân chủ để bảo vệ quyền lợi hợp pháp của công dân Bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp được coi là trung tâm trong Nhà nước pháp quyền, phản ánh bản chất của Nhà nước vì dân Nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục ảnh hưởng lớn đến quy trình tố tụng và thực hiện quyền, nghĩa vụ của các bên tham gia Việc quy định và thực hiện nguyên tắc này một cách hợp lý là yếu tố quyết định chất lượng xét xử Nghị quyết số 49/NQ – TW của Bộ Chính trị đã đề ra phương hướng cải cách, nhấn mạnh việc đổi mới tổ chức phiên tòa, nâng cao chất lượng tranh tụng, nhằm đảm bảo tính công khai, dân chủ và nghiêm minh trong hoạt động tư pháp.

Việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa một cách khách quan, công bằng và dân chủ là cần thiết để nâng cao hiệu quả và độ chính xác trong hoạt động xét xử của Tòa án, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức và nhà nước trong tố tụng hình sự Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy còn nhiều khiếm khuyết và vướng mắc trong việc áp dụng nguyên tắc này, dẫn đến sự thiếu hụt trong tính dân chủ, công bằng và khách quan của phiên tòa, không đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của xã hội Do đó, việc hoàn thiện nguyên tắc xét xử cả về mặt lập pháp và thực thi pháp luật là một yêu cầu cấp thiết, nhằm nâng cao tính dân chủ, khách quan, công bằng và nghiêm minh trong hoạt động xét xử, góp phần xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và một xã hội “công bằng, dân chủ và văn minh.”

3.3.2 Một số kiến nghị nhằm nâng cao chất lƣợng, hiệu quả của nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

Chúng tôi đã xác định các nguyên nhân gây ra hạn chế và vướng mắc trong việc thực hiện nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa Trên cơ sở đó, chúng tôi đề xuất một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật và cải thiện việc thực hiện nguyên tắc này trong thực tiễn.

3.3.2.1 Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Để nâng cao tính khách quan, trung lập và công bằng trong xét xử, cần hoàn thiện quy định về nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa theo Điều 184 BLTTHS 2003 Việc này sẽ giúp phân định rõ ràng mối quan hệ giữa các chức năng bào chữa, buộc tội và xét xử, đồng thời tăng cường trách nhiệm của Hội đồng xét xử trong việc đánh giá ý kiến và yêu cầu của các bên tham gia Bên cạnh đó, cần nhanh chóng giải quyết dứt điểm vụ án để tiết kiệm thời gian và chi phí tố tụng Dựa trên định hướng cải cách từ Nghị quyết số 08/NQ – TW và Nghị quyết 49/NQ – TW của Bộ Chính trị, chúng tôi đề xuất sửa đổi, bổ sung Điều 184 cho phù hợp hơn.

Tòa án cần tiến hành kiểm tra chứng cứ một cách trực tiếp thông qua việc xét hỏi và lắng nghe ý kiến từ các bên liên quan như bị cáo, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, cũng như những người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan Việc xem xét vật chứng và ý kiến của Kiểm sát viên, người bào chữa, và người bảo vệ quyền lợi của đương sự cũng rất quan trọng Bản án chỉ được dựa trên các chứng cứ và ý kiến đã được xem xét trong phiên tòa.

2 Việc xét xử phải tiến hành liên tục, trừ thời gian nghỉ và thời gian tạm ngừng phiên tòa Các thành viên Hội đồng xét xử phải xét xử vụ án từ khi bắt đầu đến khi kết thúc phiên tòa

Trong trường hợp cần thiết, Hội đồng xét xử có quyền tạm ngừng phiên tòa nhưng không quá năm ngày làm việc Nếu sau thời gian tạm ngừng, phiên tòa không thể tiếp tục, vụ án sẽ được xét xử lại từ đầu, với thời hạn không quá ba mươi ngày kể từ ngày ra quyết định tạm ngừng.

3.3.2.1.2 Hoàn thiện các quy định có liên quan đến nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa

Để đảm bảo quyền bào chữa cho người bị tạm giữ, bị can và bị cáo, cần hoàn thiện các quy định liên quan đến quyền thu thập và cung cấp chứng cứ Điều này nhằm tạo ra sự bình đẳng và đầy đủ trong việc chứng minh sự thật khách quan của vụ án Chúng tôi đề xuất bổ sung quy định tại Khoản 2 Điều 58 BLTTHS 2003 để nâng cao hiệu quả của quyền bào chữa.

Các cá nhân, cơ quan, tổ chức lưu giữ chứng cứ có trách nhiệm cung cấp chứng cứ theo yêu cầu của người bào chữa Nếu từ chối, họ phải gửi văn bản nêu rõ lý do Người bào chữa có quyền yêu cầu các cơ quan tiến hành tố tụng thu thập chứng cứ cần thiết.

Các quy định về thủ tục cấp giấy chứng nhận người bào chữa hiện vẫn còn nhiều bất cập và chưa được áp dụng đồng nhất Do đó, cần cải cách quy trình cấp giấy chứng nhận theo hướng đơn giản và nhanh chóng, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người bào chữa tham gia tố tụng Hơn nữa, để hạn chế tình trạng cơ quan THTT từ chối cấp giấy chứng nhận với những lý do không hợp lý, pháp luật cần quy định rõ ràng các trường hợp mà cơ quan THTT có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận người bào chữa.

Thứ hai: Hoàn thiện các quy định liên quan đến sự có mặt của những người tham gia tố tụng tại phiên tòa

BLTTHS 2003 cho phép HĐXX tiến hành xét xử khi những người tham gia tố tụng (TGTT) vắng mặt, tuy nhiên quy định này mang tính tùy nghi và không cụ thể Điều này dẫn đến việc HĐXX có thể xét xử mà không đảm bảo quyền lợi của những người TGTT, bao gồm cả người bào chữa, người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự, và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan Do đó, chúng tôi kiến nghị sửa đổi các quy định để yêu cầu HĐXX hoãn hoặc tạm ngừng phiên tòa khi những người TGTT vắng mặt lần đầu và có lý do chính đáng.

Để nâng cao tính chính xác và toàn diện trong việc kiểm tra các chứng cứ tại phiên tòa, đặc biệt khi bị cáo thay đổi lời khai hoặc khi các chứng cứ trong hồ sơ vụ án không rõ ràng, có mâu thuẫn, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật trong quá trình điều tra, chúng tôi đề xuất cần bổ sung quy định về sự có mặt của Điều tra viên tại phiên tòa Điều này sẽ hạn chế việc phải trả hồ sơ để điều tra bổ sung.

Ngày đăng: 06/07/2022, 14:13

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
3. Ban chấp hành Trung ương khóa X, Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, tr.12 – 22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng
4. Bùi Kiên Điện (2001), “Khắc phục tình trạng oan, sai trong Tố tụng hình sự”, Tạp chí Luật học, (1), tr. 12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khắc phục tình trạng oan, sai trong Tố tụng hình sự”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Bùi Kiên Điện
Năm: 2001
8. Dương Thanh Biểu (2008), Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm, tr.232 - 233, Nxb Tư pháp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh luận tại phiên tòa phúc thẩm
Tác giả: Dương Thanh Biểu
Nhà XB: Nxb Tư pháp
Năm: 2008
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2010), Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020, tr.1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 – 2020
Tác giả: Đảng Cộng sản Việt Nam
Năm: 2010
10. Đào Trí Úc (1997), Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới, tr.216 – 217, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhà nước và pháp luật của chúng ta trong sự nghiệp đổi mới
Tác giả: Đào Trí Úc
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1997
11. Đinh văn Quế (2001), Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự, tr.17, Nxb Chính trị Quốc Gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thủ tục xét xử sơ thẩm trong Luật tố tụng hình sự
Tác giả: Đinh văn Quế
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Gia
Năm: 2001
12. Đào Trí Úc (2010), “Bàn về quyền Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”, Tạp chí Luật học, (8), tr.66- 67 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bàn về quyền Tư pháp trong Nhà nước pháp quyền Xã hội chủ nghĩa”, "Tạp chí Luật học
Tác giả: Đào Trí Úc
Năm: 2010
13. Đào Trí Úc và tập thể tác giả (2001), Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam, tr.101, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hệ thống tư pháp và cải cách tư pháp ở Việt Nam
Tác giả: Đào Trí Úc và tập thể tác giả
Nhà XB: Nxb Khoa học và xã hội
Năm: 2001
14. Đoàn Công Thiện (2010), “Phát triển nghề luật sư: Còn quá nhiều rào cản”, Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/11/2010, tr.12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phát triển nghề luật sư: Còn quá nhiều rào cản”, "Báo Pháp luật thành phố Hồ Chí Minh ngày 01/11/2010
Tác giả: Đoàn Công Thiện
Năm: 2010
15. Đức Minh, “Tranh tụng không có nghĩa bỏ xét hỏi”, Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh ngày 07/5/2007, tr.9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh tụng không có nghĩa bỏ xét hỏi”, "Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh
16. Đức Minh (2007), “Xử vụ PMU 18: Tranh tụng quá nhiều điểm yếu!”, Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh này 05/8/2007, tr.11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Xử vụ PMU 18: Tranh tụng quá nhiều điểm yếu!”, "Báo pháp luật thành phố Hồ Chí Minh
Tác giả: Đức Minh
Năm: 2007
17. Đinh Thế Hưng (2010), “Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng Tòa án”, Tham luận tại Hội thảo cơ chế bảo đảm và bảo vệ quyền con người, do Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức ngày 26 - 27/11/2010 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cơ chế bảo vệ quyền con người bằng Tòa án
Tác giả: Đinh Thế Hưng
Năm: 2010
18. Đinh Thế Hưng (2010), “Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (3), tr.5 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự thể hiện của nguyên tắc suy đoán vô tội trong chế định về xét xử của Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Đinh Thế Hưng
Năm: 2010
19. Đinh Thế Hưng (2010), “Một số ý kiến về nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, Tạp chí Kiểm sát, (3), tr.39 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số ý kiến về nguyên tắc suy đoán vô tội trong Luật tố tụng hình sự Việt Nam”, "Tạp chí Kiểm sát
Tác giả: Đinh Thế Hưng
Năm: 2010
20. GS. James Clause (1994), “Phân tích so sánh hai hệ thống pháp luật: Mỹ và Pháp”, Thông tin khoa học pháp lý, (10), tr.11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích so sánh hai hệ thống pháp luật: Mỹ và Pháp”, "Thông tin khoa học pháp lý
Tác giả: GS. James Clause
Năm: 1994
22. Hoàng Phê và Tập thể tác giả (2011), Từ điển Tiếng Việt, tr.442 – 1467, Nxb Từ Điển Bách Khoa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển Tiếng Việt
Tác giả: Hoàng Phê và Tập thể tác giả
Nhà XB: Nxb Từ Điển Bách Khoa
Năm: 2011
23. Hoàng Hùng Hải (2005), “Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm”, Tạp chí Tòa án nhân dân, (6), tr.19 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy ý kiến về đổi mới, nâng cao hiệu quả hoạt động của Hội thẩm”, "Tạp chí Tòa án nhân dân
Tác giả: Hoàng Hùng Hải
Năm: 2005
24. Hoàng Thị Sơn (1998), “Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong Tố tụng hình sự”, Tạp chí luật học, (2), tr.35 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các chức năng buộc tội, bào chữa và xét xử trong Tố tụng hình sự”, "Tạp chí luật học
Tác giả: Hoàng Thị Sơn
Năm: 1998
25. Hoàng Thị Sơn (2002), “Thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo”, Tạp chí luật học, (4), tr.46 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thực trạng thực hiện quyền tự bào chữa và quyền nhờ người khác bào chữa của bị can, bị cáo”, "Tạp chí luật học
Tác giả: Hoàng Thị Sơn
Năm: 2002
26. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các môn khoa học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh (1999), Giáo trình Triết học Mác - Lê Nin, tr.345, Nxb Chính trị Quốc Gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Triết học Mác - Lê Nin
Tác giả: Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình Quốc gia các môn khoa học Mác - Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc Gia
Năm: 1999

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Chuyên ngàn h: Luật Hình sự - (LUẬN văn THẠC sĩ) nguyên tắc xét xử trực tiếp, bằng lời nói và liên tục tại phiên tòa trong luật tố tụng hình sự việt nam
huy ên ngàn h: Luật Hình sự (Trang 2)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w