CHƯƠNG 1: GIỚI THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM HẬU HIỆN ĐẠI1.1Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại1.1.1Hoàn cảnh chính trị xã hội – khoa học Chính trịThế kỉ XX, nhân loại phải chới với vì những cuộc đại chiến thế giới với những thiệt hại to lớn về người và của. Chiến tranh thế giới kết thúc nhưng những nguy cơ tiềm ẩn cho một cuộc chiến khác vẫn còn hiện hữu trong đời sống, đó là những mâu thuẫn sắc tộc, sự đối đầu âm ỉ của hai khối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa. Chiến tranh lạnh với sự đứng đầu và đại diện cho hai khối đối lập nhau là Hoa Kỳ và Liên Xô đã khiến thế giới luôn trong một tình trạng căng thẳng tột độ về khả năng một cuộc chiến kinh hoàng sắp sửa xảy ra, trái đất và nhân loại sẽ bị hủy diệt trước những vũ khí tối tân của cả hai phe.Bên cạnh sự đối đầu của những siêu cường, bên trong mỗi dân tộc vẫn còn sự thống trị của các “Nhà nước giai cấp” (Nguyễn Tấn Hùng, 2014, p. 3), do đó trong lòng mỗi dân tộc vẫn còn sự xung đột giữa các giai cấp, các dân tộc, các cuộc chiến tranh khu vực. Ở các nước thế giới thứ ba nổi lên phong trào chống sự xâm lược, cai trị của các đế quốc xã hội. Ở các nước tư bản phát triển, các phong trào đấu tranh cho quyền lợi con người, đặc biết là “những con người bị bỏ rơi bên lề xã hội (the marginalized – đồng tính luyến ái – khuyết tật bẩm sinh, bệnh tâm lý)” (Trần Quang Thái, 2005, p. 10) đã dẫn đến sự ra đời của các chủ nghĩa, phong trào chủ nghĩa nữ quyền, chủ nghĩa sinh thái, phong trào công nhân,…Xã hộiĐầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản ra sức nỗ lực mở rộng quy mô, lực lượng sản xuất bằng cách gia tăng năng suất lao động thông qua việc đầu tư cho tư liệu sản xuất và gia tăng cường độ lao động. Theo Trần Quang Thái (2005), bất luận sự tàn phá khủng khiếp của hai cuộc chiến tranh thế giới, kinh tế tư bản vẫn trên đà tăng trưởng nhanh chóng, bằng chứng được thể hiện qua những tòa nhà chọc trời, các xa lộ, các trung tâm mua sắm,.. mọc lên hàng loạt ở các nước phát triển như Pháp, Đức, Italia, Mỹ,… (Trần Quang Thái, 2005, p. 8).Một mặt kinh tế tư bản ngày càng bành trướng và có những bước phát triển vượt bậc, nhưng mặt khác, trong chính quá trình tích lũy tư bản ấy đã tạo ra nhiều mâu thuẫn. Cuộc khủng hoảng dầu mỏ 1973 do cuộc cấm vận của các nước Arab trong chiến tranh Arab Israel, lượng vàng dự trữ của Hoa Kỳ giảm,… những cuộc khủng hoảng đó đã làm gián đoạn quá trình sản xuất, phân phối hàng hóa của các nước tư bản, từ đó dẫn đến lạm phát, khủng hoảng kinh tế,… Chính những bất ổn về đời sống đã hình thành bên trong con người lúc bấy giờ những cảm quan hoài nghi, bi quan, những cảm quan mới về đời sống và con người.Khoa họcThế kỉ XX đánh dấu sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ vô cùng mạnh mẽ. Mặc dù thành tựu khoa học không phải là yếu tố trực tiếp chi phối đến đời sống văn học, nhưng bằng một cách gián tiếp, nó tác động đến ý thức hệ của những con người trong thời đại đó, trong đó có những nhà văn và những nhà tư tưởng.Các tri thức khoa học thời Newton, Darwin không còn đáp ứng được những phát triển của thời đại mới. Những phát kiến khoa học mới như Marie Curie và chồng là Pierre Curie được trao giải Nobel vì đã tìm ra chất phóng xạ (1903), Thuyết tương đối (1916) của Albert Einstein, Thuyết Big Bang (1927) của nhà thiên văn người Bỉ Georges Lemaitre, dự án bản đồ gen người được hoàn thành cơ bản (2000),… cùng với vô số những thành tựu khoa học khác liên tục ra đời một mặt khiến con người càng thêm tự hào vào năng lực chiếm lĩnh tri thức của mình, nhưng mặt khác, nó cũng tạo ra một sự hoài nghi, hoang mang vào tính chân xác của khoa học, từ đó dẫn đến thái độ “bất tín nhận thức” (Huỳnh Như Phương, 2019, p. 170).Đây cũng là khoảng thời gian có nhiều lý thuyết mới ra đời như điều khiển học (cybernetics), lý thuyết phức hợp (complexity theory), lý thuyết hỗn độn (chaos theory),… Ngoài ra còn có sự xuất hiện của internelàt, truyện thông đa phương tiện, công nghệ thông tin,… đã góp phần hình thành chủ nghĩa hậu hiện đại. Lê Huy Bắc (2019) nhận định về sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại trong mối liên hệ với sự phát triển của khoa học như sau:Chủ nghĩa hậu hiện đại là sản phẩm của kỉ nguyên truyền thông đại chúng (mass media) và công nghệ thông tin (information technology). Đây là hai tác nhân có sức mạnh mê hoặc con người bậc nhất. … Tại đó, con người có thể thực hiện được những gì mà họ không thể hoặc khó có thể làm trong thế giới thực. (Lê Huy Bắc, 2019, p. 15)Có thể thấy rằng sự phát triển của khoa học – công nghệ đã phần nào tác động đến cảm quan về thời gian, không gian của người sáng tạo lẫn người tiếp nhận.1.1.2Hoàn cảnh tư tưởngNền triết học phương Tây trong giai đoạn cuối thế kỉ XIX, đầu thế kỷ XX phát triển hết sức sôi nổi với chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng học, chủ nghĩa thực chứng,… Có thể nhận định rằng sự thăng hoa của các tư tưởng triết học này được đặt nền tảng từ quan điểm duy lý từ thế kỉ XVII gắn liền với tên tuổi của René Descartes và kế đó là thời đại Khai sáng ở phương Tây – thế kỉ ấy theo cách nói của Hegel là thời đại mà “người ta dùng đầu để đứng”.Friedrich Nietzsche (18441900) là triết gia người Đức, ông luôn là cái tên đầu tiên mỗi khi người ta kể về những tư tưởng tiền đề của chủ nghĩa hậu hiện đại. Ông có một số tác phẩm triết học đã được giới thiệu và dịch tại Việt Nam như Frederic Nietzsche và chủ nghĩa đi lên con người, Zarathustra đã nói như thế, Buổi hoàng hôn của các biểu tượng,… Trần Quang Thái (2010) đã chỉ ra những nét khái quát trong triết học của Nietzsche. Triết gia người Đức cho rằng “mọi chân lý đều là những ẩn dụ, hoán dụ, hình ảnh và biểu tượng”. Nietzsche khước từ những diễn giải tri thức như một chân lí nhất thành bất biến mà đối với ông, tri thức, chân lý còn phụ thuộc vào những cảnh huống, môi trường khác nhau (Trần Quang Thái, Nhận thức luận của chủ nghĩa hậu hiện đại, 2010, p. 26).Ludwig Wittgenstein (18891951) là một triết gia người Áo đã sáng lập nên triết học ngôn ngữ cùng với người cộng sự của mình là Bertrand Russell, hai triết gia đã góp phần tạo nên một bước ngoặt của triết học phương Tây. Theo Wittgenstein, mọi chân lý hay những mệnh đề triết học, khoa học, tôn giáo đều chỉ là những “tuyên xưng chân lý” (truth claims) mà thôi. Điều này giống với quan điểm của những triết gia trước và sau ông (Nietzsche trước ông và Foucault sau ông) ở chỗ, họ đều tin rằng khoa học như là cái chưa tìm thấy hoàn toàn, không bao giờ có thể tìm thấy hết và do đó phải không ngừng đi kiếm tìm nó ; tất cả đều là “những tầm mức và bản sắc phiên giải từ góc độ nhân văn và quyền lực, hay sự hiểu lầm về chức năng, khả thể của ngôn từ” (Nguyễn Hữu Liêm, 2018).Wilhelm Dilthey (1833 – 1911) là nhà sử học, nhà tâm lý học, nhà triết học người Đức, là người giữ chức Chủ tịch Triết học của G. W. F. Hegel tại Đại học Berlin. Ông là một trong những người đầu tiên bác bỏ chủ nghĩa thực chứng trong ngành khoa học nghiên cứu xã hội nhân văn. Dilthey cho rằng:Xã hội bao gồm những hoạt động, kinh nghiệm, suy nghĩ vừa mang tính xã hội vừa mang tính cá nhân của những chủ thể có ý thức, tự giác. Mặc dù việc từng cá nhân tồn tại trong mối quan hệ trong mối quan hệ phức tạp với những cá nhân khác là một sự kiện kinh nghiệm, song không thể nghiên cứu một cách cô lập, tách rời những mối quan hệ đó chỉ bằng sự quan sát bên ngoài. (Trần Quang Thái, Nhận thức luận của chủ nghĩa hậu hiện đại, 2010, p. 31)Ngoài Wilhelm Dilthey còn có những cái tên khác trong khuynh hướng phê phán chủ nghĩa thực chứng như: Edmund Husserl (1859 1938), Franz Brentano (1838 – 1917), William James (1842 – 1910),… Đi sâu vào khuynh hướng phê phán chủ nghĩa thực chứng của từng nhà nghiên cứu kể trên, chúng ta lại phát hiện ra mỗi nhà nghiên cứu lại có một hướng tìm tòi khác nhau, tuy vậy ở họ có một điểm chung là đều tỏ ra hoài nghi những tri thức khoa học hiển nhiên được xem là chân lý từ trước đến nay, đồng thời thừa nhận sự ảnh hưởng của hoàn cảnh cảnh xã hội, văn hóa đến sự sản sinh sinh tri thức.Sigmund Freud (1856 – 1939) là một bác sĩ về thần kinh và là một nhà tâm lý học người Áo, ông là người có công lao lớn nhất trong việc phát triển học thuyết phân tâm học. Những lý thuyết về phân tâm học của Freud góp phần lí giải thế giới đan cài, trộn lẫn đầy phức tạp bên trong con người thông qua công cuộc lí giải những bề sâu tâm lý như vô thức, ý thức, tiềm thức. Những thành tựu của thuyết phân tâm học giúp con người dễ dàng hơn trong việc cắt nghĩa, lí giải thế giới bên trong mình và đồng thời cũng góp phần giúp hình thành những quan điểm của chủ nghĩa hậu hiện đại về bản ngã, con người.Jacques Derrida (1930 – 2004) là một trong những triết gia đã khởi xướng chủ nghĩa giải cấu trúc một sự cách phản biện lại chủ nghĩa cấu trúc lúc bấy giờ. Một số tác phẩm đặt nền tảng cho chủ nghĩa hậu cấu trúc, sau này trở thành cơ sở cho chủ nghĩa hậu hiện đại, hậu thực dân, nữ quyền luận của Derrida mà ta có thể kể đến như: “Writing and Difference”, “Of Grammatology”, “Speech and Phenomena”, “Margins of Philosophy”, “Positions”, “Glas”, “The Postcard”. Quan điểm của ông hướng tới việc giải trung tâm, hoài nghi những chân lý được cho là tối hậu hay tin rằng chẳng có một nghĩa tuyệt đối nào cả. Đồng thời, nhắc đến Derrida, ta không thể không nhắc đến quan niệm “văn bản” trong sự đối sánh với “tác phẩm”, với một câu nói nổi tiếng: “Không có gì tồn tại ngoài văn bản”. Đó chính là những tiền đề để chủ nghĩa hậu hiện đại kế thừa và tiếp nối.Bên cạnh Jacques Derrida, Michel Foucault (1926 – 1984) là triết gia người Pháp có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển của chủ nghĩa giải cấu trúc, dù trước đó ông theo chủ nghĩa cấu trúc luận. Quan điểm gắn liền với tên tuổi của Foucault là “diễn ngôn”, cụ thể là mối quan hệ giữa diễn ngôn và cái thực. Ông cho rằng con người là sản phẩm của diễn ngôn, bị diễn ngôn chi phối, cho nên mặc dù có một khu vực ngoài diễn ngôn (tức cái thực) nhưng con người không cách nào chạm được vào thế giới khách thể một cách trực tiếp, bởi ta chỉ nhận diện được nó thông qua hệ thống diễn ngôn (Sara Mills, 2017). Điều này sẽ được Jean Baudrillard phát triển thành khái niệm hiện thực thậm phồn phì thực giả phỏng (hyperreality) trong chủ nghĩa hậu hiện đại. Cùng với Jacques Derrida và Michel Foucault, Roland Barthes (1915 – 1980) cũng là người xây dựng và phát triển chủ nghĩa hậu cấu trúc để sau này chủ nghĩa hậu hiện đại kế thừa. Ông là triết gia đã “giải” quyền lực của tác giả nhà văn đang được các nhà phê bình tôn sùng đến mức cực đoan hóa lúc bấy giờ để đặt quan tâm đến người đọc, đến vấn đề tiếp nhận và đồng sáng tạo của độc giả, mà như ông nói: “Sự ra đời của Người đọc phải trả giá bằng cái chết của Tác giả” (Roland Barthes, 2011, đoạn 7).Bối cảnh chính trị xã hội – khoa học lúc bấy giờ, cộng với bối cảnh tư tưởng của thời đại đã góp phần tạo nên những tiền đề cho sự hình thành của chủ nghĩa hậu hiện đại.1.2.Những trụ cột của chủ nghĩa hậu hiện đại1.2.1.Ihab HassanIhab Hassan (19252015) là nhà lý luận văn học người Mỹ gốc Ai Cập. Ông là nhà phê bình đầu tiên chú ý đến văn hóa hậu hiện đại ở Hoa Kỳ. Đến những năm 70 của thế kỳ XX, ông bắt đầu sử dụng từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” trong các tiểu luận của mình (Bùi Văn Ba, 2020) mặc dù còn rất mơ hồ. Ihab Hassan từ rất sớm đã chú ý đến việc đối chiếu giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Trong tác phẩm The Dismemberment of Orpheus, Ihab Hassan đã đề xuất một bảng so sánh để giải thích sự khác nhau đi từ cụ thể đến trừu tượng của chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại. Nếu như chủ nghĩa hiện đại được thể hiện qua chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng thì chủ nghĩa hậu hiện đại được thể hiện qua chủ nghĩa Đa đa. Nếu như chủ nghĩa hiện đại xem trọng cái trung tâm thì chủ nghĩa hậu hiện đại đề cao sự phân tán. Nếu chủ nghĩa hậu hiện đại tập trung vào cái biểu đạt thì chủ nghĩa hậu hiện đại tập trung vào cái được biểu đạt,… Tuy vậy, hậu hiện đại và hiện đại là những khái niệm vừa rộng lớn vừa trừu tượng, sự phân biệt của Ihab Hassan chỉ có thể chỉ ra được phần nào chứ chưa thể chỉ ra toàn bộ những điểm khác biệt giữa hiện đại và hậu hiện đại.1.2.2.JeanFrançois LyotardJeanFrançois Lyotard (19281998) là triết gia, nhà lý luận văn học người Pháp. Ông được giới nghiên cứu biết đến với những nghiên cứu về chủ nghĩa hậu hiện đại và sự tác động của nó đến tri thức đời sống. Ông được xem là người đầu tiên đưa khái niệm hậu hiện đại vào triết học. Tác phẩm Hoàn cảnh hậu hiện đại của ông trở thành cuốn sách kinh điển cho những ai muốn nghiên cứu về chủ nghĩa hậu hiện đại. Đúng như lời đề tựa ở bìa cuốn sách của nhà triết học, dịch giả Bùi Văn Nam Sơn: “Quyển sách mang tính chất của một cương lĩnh. Nó mô tả sự biến chuyển từ hiện đại sang hậu hiện đại: về phương diện xã hội học, những biến đổi nhanh chóng của xã hội tất yếu dẫn đến sự khủng hoảng về “tâm trạng” và hình thành nên một tâm thức (esprit)”. Trong tác phẩm này, ông đề cập đến khái niệm về tâm thức hậu hiện đại, hoàn cảnh hậu hiện đại, sự khủng hoảng của các đại tự sự, các tri thức hậu hiện đại,…Tác phẩm được chia làm 14 chương bên cạnh chương dẫn luận trình bày về số phận của tri thức trong xã hội vi tính hóa, chứng minh tính cách áp đặt của khoa học đối với văn bản trong quá khứ và hiện đại, hậu hiện đại là tình trạng mất thẩm quyền của các siêu văn bản và sự hiện hữu của các vi văn bản, số phận của khoa học hậu hiện đại với những bấp bênh, vô thường,…Lyotard dành nhiều dung lượng cuốn sách đề làm rõ vấn đề tri thức trong hoàn cảnh hậu hiện đại. Ông chú ý đến hai hình thức của tri thức là tri thức khoa học và tri thức “tiểu tự sự” (narrative). Ông cho rằng hai loại hình tri thức này đối lập với nhau. Bên cạnh đó, Lyotard sử dụng thuật ngữ “trò chơi ngôn ngữ” của Ludwig Wittgenstein để bàn về bản chất của các loại nhận thức, quá trình nghiên cứu, hợp thức hóa và giảng dạy các loại nhận thức này.Trong Hoàn cảnh hậu hiện đại, Lyotard đề xuất những khái niệm như đại tự sự (grand narrative) và tiểu tự sự (petit narrative). Ông dùng khái niệm đại tự sự để chỉ “những tham vọng bá chủ, muốn độc tài trí thức, kinh nghiệm, tư tưởng nào đó vào một mối và dùng nó để chi phối tất thảy đời sống con người” (Dẫn theo Lê Huy Bắc, 2019, p. 49). Đại tự sự theo định nghĩa của Lyotard có thể xem là những chân lí được tin là phổ quát, tuyệt đối chính xác, và dùng để hợp thức hóa một tri thức vì một mục đích nào đó. Kinh thánh, truyền thuyết về vua Arthur chính là những đại tự sự. Triết gia người Pháp cho rằng đặc điểm nổi bật nhất của thời kỳ hậu hiện đại là sự hoài nghi đối với các đại tự sự. Tác phẩm Hoàn cảnh hậu hiện đại của Lyotard là một đóng góp to lớn cho cả triết học lẫn văn học. Tuy vậy, tác phẩm này cũng hạn chế ở một số điểm là “quá cường điệu vai trò của ngôn ngữ, của trò chơi ngôn ngữ” (Nguyễn Tấn Hùng Dương Thị Phượng, 2018, p. 9) và đồng thời tác phẩm cũng không tránh được khỏi hạn chế chung của triết học hậu hiện đại đó là: chủ nghĩa chủ quan, chủ nghĩa hoài nghi và chủ nghĩa tương đối (Nguyễn Tấn Hùng Dương Thị Phượng, 2018, p. 9).1.2.3.Jurgen HabermasJurgen Habermas sinh năm 1929, ông là nhà xã hội học và triết học người Đức. Ông chuyên nghiên cứu về các lý thuyết của nhận thức luận, các lý thuyết xã hội. Tuy nhiên, yếu tố khiến ông trở thành một trong những trụ cột của hậu hiện đại chính là những tranh luận về chủ nghĩa hậu hiện đại với Lyotard. Hoàn cảnh hậu hiện đại của Lyotard ra đời năm 1979, năm 1980 J. Habermas liền cho ra đời tác phẩm Tính hiện đại đối với tính hậu hiện đại để đối thoại và phản biện lại với những quan điểm của Lyotard.Cuộc tranh luận này chủ yếu xoay quanh mô hình “đồng thuận phổ biến” của J. Habermas. Lyotard thì nhấn mạnh sự khác biệt, tính dị chất. Habermas thì nhấn mạnh dù có khác biệt cũng cần thông qua giao lưu, thảo luận để đạt đến nhận thức chung. Lyotard cho rằng: “Đồng thuật chỉ là một trạng thái của sự thảo luận chứ không phải là mục đích của nó; mục đích phải là sự nghịch luận” (Lyotard, 2019, p. 46). Cả Lyotard lẫn Habermas đều mang tinh thần hậu hiện đại như nhau, tuy nhiên, M. Frank trong Die Grenzen der Verständigung (1988) (Những ranh giới của việc cảm thông) cho rằng giữa hai người có sự khác biệt trong tư duy, một bên nhấn mạnh đến sự đồng thuận, một bên lại cho rằng sự đồng thuận duy nhất đáng quan tâm là sự đồng thuận nào khuyến khích tính dị đồng và sự “bất đồng thuận” (Dẫn theo Lyotard, 2019, p. 51).1.3.Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đạiNhà nghiên cứu Nga Mikhail Epstein trong cuốn “Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Nga: Văn học và lý thuyết” đã chỉ ra nguồn gốc của từ “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại” như sau: Thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” được xuất hiện lần đầu vào năm 1917 trong nghiên cứu của nhà triết học người Đức Rudolf Pannwitz (18811969) để chỉ chủ nghĩa hư vô trong văn hóa thế kỉ XX. Đến năm 1934, thuật ngữ chủ nghĩa hậu hiện đại tiếp tục được nhà phê bình Tây Ban Nha Federico de Onis (18881966) dùng để chỉ những phản ứng chống lại chủ nghĩa hiện đại. Nhà tâm thần học người Anh Bernard Iddings Bell vào năm 1939 đã dùng “chủ nghĩa hậu hiện đại” để biểu thị phản ứng chống lại chủ nghĩa thế tục hiện đại và sự mở đầu một cao trào tôn giáo mới. Cũng trong năm 1939, nhà sử học người Anh Arnold Joseph Toynbee dùng từ “chủ nghĩa hậu hiện đại” để chỉ thời kỳ xuất hiện xã hội đại chúng sau thế chiến thứ nhất (Dẫn theo Một nhầm lẫn hậu hiện đại, 2010). Càng về sau, khái niệm “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại” ngày càng xuất hiện trong nhiều các tác phẩm nghiên cứu hơn, điều này đã góp phần khắc họa diện mạo hậu hiện đại một cách hoàn chỉnh hơn dù vô cùng khó khăn để có thể bao quát hết khái niệm rộng lớn này.Trong cuốn sách “vỡ lòng” của chủ nghĩa hậu hiện đại, Lyotard hai lần định nghĩa hậu hiện đại. Định nghĩa đầu tiên được tác giả viết ngay từ dòng đầu tiên của cuốn sách: “Đối tượng của công trình nghiên cứu này là hoàn cảnh của tri thức trong các xã hội phát triển nhất. Chúng tôi gọi hoàn cảnh đó là ‘hậu hiện đại’” (Lyotard, 2019, p. 55). Lyotard bổ sung thêm về rằng khái niệm này: “Chỉ trạng thái của văn hóa sau những biến đổi tác động đến các quy tắc trò chơi các luật chơi của khoa học, văn học và nghệ thuật từ cuối thế kỷ XIX” (Lyotard, 2019, p. 55). Định nghĩa thứ hai liên quan đến khái niệm “đại tự sự”, “tiểu tự sự” mà triết gia đã đề cập trước đó: “Nói một cách đơn giản, “hậu hiện đại” là sự hoài nghi đối với các siêu tự sự. Nó hiển nhiên là kết quả của sự tiến bộ của các khoa học, nhưng sự tiến bộ này đến lượt nó lại tiền giả định sự hoài nghi đó” (Lyotard, 2019, p. 56).Trong Tiến trình văn học (Khuynh hướng và trào lưu) (2019), GS Huỳnh Như Phương đã gọi tên chủ nghĩa hậu hiện đại như sau:Chủ nghĩa hậu hiện đại là một khuynh hướng nghệ thuật tiềm ẩn trong khoảng cuối Chiến tranh thế giới lần thứ nhất, xuất hiện trước hết trong nghệ thuật kiến trúc, tới đầu những năm 80 thế kỷ XX mới được thừa nhận như một hiện tượng thẩm mỹ của văn hóa phương Tây, bao gồm các lĩnh vực âm nhạc, điện ảnh, văn học, sân khấu, hội họa, truyền thông đại chúng. Hai cuộc chiến tranh thế giới đã hủy diệt niềm tin của con người vào ý nghĩa lịch sử vốn đặt cơ sở trên những nhân tố lý trí và tiến bộ (Huỳnh Như Phương, 2019, p. 170)Trong Văn học hậu hiện đại (2019), Lê Huy Bắc đã đề xuất một cách hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại như sau:Bắt đầu từ cuối thập niên 1910 với thơ Đa đa (1916), văn xuôi của Franz Kafka (Biến dạng, 1915) và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi Godot, 1952), Chủ nghĩa hậu hiện đại tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên 1950 và thực sự phát triển mạnh từ 1960 trở đi. Đây là khuynh hướng đối nghịch với chủ nghĩa hiện đại về bản chất, ở chỗ chấp nhận tính hư vô (nothing), hỗn độn (chaos), trò chơi (game), trì biệt (différance) và liên văn bản (intertextuality)… của tồn tại, hòng giải quyết những bất cập của chủ nghĩa hiện đại với tham vọng dùng khoa học và tư tưởng nhân văn đích thực để giải phóng tối đa con người thoát khỏi cuộc sống tù túng và tín điều tăm tối (Lê Huy Bắc, 2019, p. 42).Lê Huy Bắc giải thích thêm về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại:Chủ nghĩa hậu hiện đại gắn với sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học công nghệ thông tin, sự phát triển kinh tế, khoa học kĩ thuật vượt bậc, của thành tựu đô thị hóa,.. được thể hiện ở cả ba phương diện thơ, kịch, văn xuôi với các đặc điểm chính: đa trị, huyền ảo, lắp ghép, mảnh vỡ, cực hạn, phi trung tâm, phi mạch lạc, hạn chế tối đa vai trò thống trị của người kể chuyện, không quan tâm đến cốt truyện, kịch và văn xuôi mang nhiều đặc điểm của thơ (Lê Huy Bắc, 2019, p. 42).Hậu hiện đại hay chủ nghĩa hậu hiện đại là là một khái niệm trừu tượng, khó có thể định nghĩa một cách toàn diện. Tuy vậy, nhìn chung các quan điểm trên đều có một điểm chung khi nói về hậu hiện đại, đó chính là thái độ hoài nghi, chất vấn, giễu cợt những tri thức vốn được xem là chân lý và tối hậu. Chủ nghĩa hậu hiện đại hướng đến cái đa nguyên, sự tương đối, sự bất định và hỗn loạn. Trong văn học, chủ nghĩa hậu hiện đại có liên quan mật thiết đến giải cấu trúc (deconstruction ) và hậu cấu trúc luận (post structuralism).
GIỚI THUYẾT VỀ KHÁI NIỆM HẬU HIỆN ĐẠI
Hoàn cảnh ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại
1.1.1 Hoàn cảnh chính trị - xã hội – khoa học
Thế kỷ XX chứng kiến những cuộc đại chiến thế giới gây thiệt hại nặng nề về người và của Mặc dù chiến tranh thế giới đã kết thúc, nhưng những nguy cơ tiềm ẩn cho một cuộc xung đột mới vẫn tồn tại, bao gồm mâu thuẫn sắc tộc và sự đối đầu giữa hai khối tư bản chủ nghĩa và xã hội chủ nghĩa Cuộc chiến tranh lạnh, với Hoa Kỳ và Liên Xô đại diện cho hai bên đối lập, đã tạo ra một bầu không khí căng thẳng, khiến nhân loại lo ngại về khả năng xảy ra một cuộc chiến kinh hoàng có thể hủy diệt trái đất và con người bằng những vũ khí tối tân.
Trong bối cảnh đối đầu giữa các siêu cường, sự thống trị của các "Nhà nước giai cấp" vẫn tồn tại, dẫn đến xung đột giữa các giai cấp và dân tộc, cũng như các cuộc chiến tranh khu vực Tại các nước thế giới thứ ba, phong trào chống lại sự xâm lược và cai trị của các đế quốc xã hội đang nổi lên Trong khi đó, ở các nước tư bản phát triển, các phong trào đấu tranh cho quyền lợi con người, đặc biệt là cho những nhóm bị bỏ rơi bên lề xã hội như người đồng tính, người khuyết tật và người mắc bệnh tâm lý, đã thúc đẩy sự hình thành của các chủ nghĩa và phong trào như nữ quyền, chủ nghĩa sinh thái và phong trào công nhân.
Đầu thế kỷ XX, chủ nghĩa tư bản nỗ lực mở rộng quy mô sản xuất và tăng năng suất lao động thông qua đầu tư vào tư liệu sản xuất và gia tăng cường độ lao động Mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề từ hai cuộc chiến tranh thế giới, kinh tế tư bản vẫn phát triển mạnh mẽ, thể hiện qua sự xuất hiện của nhiều tòa nhà chọc trời, xa lộ và trung tâm mua sắm tại các nước phát triển như Pháp, Đức, Italia và Mỹ (Trần Quang Thái, 2005).
Kinh tế tư bản đang phát triển mạnh mẽ nhưng cũng đồng thời tạo ra nhiều mâu thuẫn Cuộc khủng hoảng dầu mỏ năm 1973, do cấm vận của các nước Arab trong chiến tranh Arab - Israel, cùng với sự sụt giảm dự trữ vàng của Hoa Kỳ, đã làm gián đoạn quá trình sản xuất và phân phối hàng hóa Hệ quả là lạm phát và khủng hoảng kinh tế diễn ra, dẫn đến bất ổn trong đời sống, hình thành nên cảm giác hoài nghi và bi quan trong con người.
Thế kỷ XX chứng kiến sự bùng nổ của khoa học và công nghệ, ảnh hưởng sâu sắc đến tư duy và ý thức hệ của con người, bao gồm cả các nhà văn và nhà tư tưởng Mặc dù thành tựu khoa học không trực tiếp chi phối đời sống văn học, nhưng chúng đã tạo ra những tác động gián tiếp, định hình cách nhìn nhận và sáng tác của giới văn nghệ sĩ trong thời đại này.
Các tri thức khoa học thời Newton và Darwin đã không còn phù hợp với sự phát triển của thời đại mới Những phát kiến nổi bật như việc Marie và Pierre Curie nhận giải Nobel cho phát hiện chất phóng xạ (1903), Thuyết tương đối của Albert Einstein (1916), Thuyết Big Bang của Georges Lemaitre (1927), và hoàn thành dự án bản đồ gen người (2000) đã khẳng định khả năng chiếm lĩnh tri thức của con người Tuy nhiên, sự bùng nổ của các thành tựu khoa học cũng gây ra hoài nghi về tính chân xác của khoa học, dẫn đến thái độ "bất tín nhận thức" (Huỳnh Như Phương, 2019, p 170) Thời kỳ này cũng chứng kiến sự ra đời của nhiều lý thuyết mới như điều khiển học, lý thuyết phức hợp và lý thuyết hỗn độn.
Sự xuất hiện của internet, truyện thông đa phương tiện và công nghệ thông tin đã đóng góp vào việc hình thành chủ nghĩa hậu hiện đại Theo Lê Huy Bắc (2019), sự ra đời của chủ nghĩa hậu hiện đại có mối liên hệ chặt chẽ với sự phát triển của khoa học.
Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện từ kỷ nguyên truyền thông đại chúng và công nghệ thông tin, hai yếu tố có sức ảnh hưởng mạnh mẽ đến con người Trong môi trường này, con người có khả năng thực hiện những điều mà họ không thể hoặc gặp khó khăn trong thế giới thực.
Sự phát triển của khoa học và công nghệ đã ảnh hưởng đáng kể đến cảm nhận về thời gian và không gian của cả người sáng tạo lẫn người tiếp nhận.
Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, triết học phương Tây chứng kiến sự phát triển mạnh mẽ với các trường phái như chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa hiện sinh, hiện tượng học và chủ nghĩa thực chứng Sự thăng hoa của những tư tưởng triết học này được xây dựng trên nền tảng của quan điểm duy lý từ thế kỷ XVII, đặc biệt gắn liền với tên tuổi của René Descartes Thời kỳ Khai sáng ở phương Tây, được Hegel mô tả là thời đại “người ta dùng đầu để đứng”, đã đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển này.
Friedrich Nietzsche (1844-1900) là một triết gia người Đức, nổi bật trong tư tưởng của chủ nghĩa hậu hiện đại Nhiều tác phẩm của ông đã được giới thiệu tại Việt Nam, như "Frederic Nietzsche và chủ nghĩa đi lên con người", "Zarathustra đã nói như thế", và "Buổi hoàng hôn của các biểu tượng" Theo Trần Quang Thái (2010), Nietzsche cho rằng "mọi chân lý đều là những ẩn dụ, hoán dụ, hình ảnh và biểu tượng", khước từ những diễn giải tri thức như chân lý bất biến Ông nhấn mạnh rằng tri thức và chân lý phụ thuộc vào các bối cảnh và môi trường khác nhau.
Ludwig Wittgenstein (1889-1951) là triết gia người Áo nổi bật trong triết học ngôn ngữ, cùng với Bertrand Russell, đã tạo nên bước ngoặt quan trọng trong triết học phương Tây Ông cho rằng mọi chân lý và mệnh đề triết học, khoa học, tôn giáo chỉ là những "tuyên xưng chân lý" Quan điểm này tương đồng với những triết gia như Nietzsche và Foucault, những người cũng tin rằng khoa học chưa bao giờ hoàn thiện và luôn cần được khám phá, đồng thời nhấn mạnh rằng mọi thứ đều là "những tầm mức và bản sắc phiên giải từ góc độ nhân văn và quyền lực".
Wilhelm Dilthey (1833 – 1911) là một nhà sử học, tâm lý học và triết học nổi tiếng người Đức, từng giữ chức Chủ tịch Triết học của G W F Hegel tại Đại học Berlin Ông là một trong những người tiên phong bác bỏ chủ nghĩa thực chứng trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, nhấn mạnh tầm quan trọng của trải nghiệm con người trong việc hiểu biết về xã hội.
Xã hội bao gồm những hoạt động và trải nghiệm mang tính xã hội lẫn cá nhân của các chủ thể có ý thức Mặc dù mỗi cá nhân tồn tại trong mối quan hệ phức tạp với những người khác, việc nghiên cứu các mối quan hệ này không thể chỉ dựa vào quan sát bên ngoài mà cần xem xét trong bối cảnh tổng thể.
Ngoài Wilhelm Dilthey, còn nhiều nhà tư tưởng khác như Edmund Husserl, Franz Brentano và William James cũng thuộc khuynh hướng phê phán chủ nghĩa thực chứng Mỗi nhà nghiên cứu có cách tiếp cận riêng trong việc khám phá vấn đề này, nhưng họ đều chia sẻ sự hoài nghi đối với các tri thức khoa học vốn được coi là chân lý Họ cũng thừa nhận rằng hoàn cảnh xã hội và văn hóa có ảnh hưởng lớn đến sự hình thành tri thức.
Những trụ cột của chủ nghĩa hậu hiện đại
Ihab Hassan (1925-2015) là một nhà lý luận văn học người Mỹ gốc Ai Cập, nổi bật với vai trò là nhà phê bình đầu tiên nghiên cứu văn hóa hậu hiện đại tại Hoa Kỳ Vào những năm 1970, ông đã có những đóng góp quan trọng cho lĩnh vực này.
Ihab Hassan đã bắt đầu sử dụng thuật ngữ "chủ nghĩa hậu hiện đại" trong các tiểu luận của mình, mặc dù khái niệm này còn mơ hồ Trong tác phẩm "The Dismemberment of Orpheus," ông đã đưa ra bảng so sánh giữa chủ nghĩa hiện đại và chủ nghĩa hậu hiện đại, chỉ ra rằng chủ nghĩa hiện đại thể hiện qua chủ nghĩa lãng mạn và chủ nghĩa tượng trưng, trong khi chủ nghĩa hậu hiện đại biểu hiện qua chủ nghĩa Đa đa Chủ nghĩa hiện đại chú trọng vào cái trung tâm, còn chủ nghĩa hậu hiện đại lại đề cao sự phân tán Mặc dù sự phân biệt giữa hai khái niệm này của Ihab Hassan giúp làm rõ một số điểm khác biệt, nhưng vẫn chưa thể bao quát toàn bộ các khía cạnh phức tạp của hiện đại và hậu hiện đại.
Jean-François Lyotard (1928-1998) là một triết gia và nhà lý luận văn học nổi tiếng người Pháp, được biết đến với những nghiên cứu sâu sắc về chủ nghĩa hậu hiện đại và ảnh hưởng của nó đến tri thức Ông là người đầu tiên đưa ra khái niệm hậu hiện đại trong triết học, với tác phẩm "Hoàn cảnh hậu hiện đại" trở thành một tài liệu kinh điển cho những ai muốn tìm hiểu về chủ nghĩa này Theo lời đề tựa của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn, cuốn sách mang tính chất cương lĩnh, mô tả sự chuyển biến từ hiện đại sang hậu hiện đại, nhấn mạnh sự thay đổi nhanh chóng của xã hội dẫn đến khủng hoảng tâm trạng và hình thành một tâm thức mới Trong tác phẩm, Lyotard cũng đề cập đến khái niệm tâm thức hậu hiện đại, hoàn cảnh hậu hiện đại, và sự khủng hoảng của các đại tự sự cùng tri thức hậu hiện đại.
Tác phẩm được chia thành 14 chương, bao gồm chương dẫn luận về số phận của tri thức trong xã hội vi tính hóa Nó chứng minh sự áp đặt của khoa học đối với văn bản trong quá khứ và hiện đại, đồng thời nêu rõ tình trạng mất thẩm quyền của các siêu văn bản trong thời hậu hiện đại, nơi vi văn bản trở nên phổ biến Bên cạnh đó, tác phẩm cũng khám phá số phận bấp bênh và vô thường của khoa học hậu hiện đại.
Trong cuốn sách của mình, Lyotard tập trung làm rõ vai trò của tri thức trong bối cảnh hậu hiện đại, đặc biệt nhấn mạnh hai hình thức tri thức chính: tri thức khoa học và tri thức khác.
Ông cho rằng "tiểu tự sự" (narrative) và tri thức có hai loại hình đối lập nhau Lyotard đã áp dụng khái niệm "trò chơi ngôn ngữ" của Ludwig Wittgenstein để phân tích bản chất của các loại nhận thức, cũng như quá trình nghiên cứu, hợp thức hóa và giảng dạy chúng.
Trong bối cảnh hậu hiện đại, Lyotard giới thiệu khái niệm đại tự sự và tiểu tự sự, trong đó đại tự sự được hiểu là những tham vọng độc quyền tri thức nhằm chi phối đời sống con người Ông cho rằng đại tự sự là những chân lý được xem là phổ quát và được sử dụng để hợp thức hóa tri thức cho những mục đích nhất định, như Kinh thánh hay truyền thuyết về vua Arthur Đặc điểm nổi bật của thời kỳ này là sự hoài nghi đối với các đại tự sự Tác phẩm "Hoàn cảnh hậu hiện đại" của Lyotard đã có những đóng góp quan trọng cho triết học và văn học, nhưng cũng gặp phải một số hạn chế, như việc cường điệu hóa vai trò của ngôn ngữ và không tránh khỏi những đặc điểm chung của triết học hậu hiện đại như chủ nghĩa chủ quan, hoài nghi và tương đối.
Jurgen Habermas, sinh năm 1929, là một nhà xã hội học và triết học người Đức nổi bật với các nghiên cứu về nhận thức luận và lý thuyết xã hội Ông trở thành một trong những nhân vật quan trọng trong lĩnh vực hậu hiện đại nhờ vào những tranh luận với Lyotard Sau khi Lyotard công bố tác phẩm về hoàn cảnh hậu hiện đại vào năm 1979, Habermas đã phản biện lại quan điểm của ông này bằng tác phẩm "Tính hiện đại đối với tính hậu hiện đại" vào năm 1980.
Cuộc tranh luận giữa J Habermas và Lyotard xoay quanh mô hình “đồng thuận phổ biến”, trong khi Habermas nhấn mạnh tầm quan trọng của giao lưu và thảo luận để đạt được nhận thức chung, Lyotard lại tập trung vào sự khác biệt và tính dị chất Lyotard cho rằng đồng thuận chỉ là trạng thái của thảo luận, không phải mục đích, mà mục tiêu thực sự là sự nghịch luận Mặc dù cả hai đều mang tinh thần hậu hiện đại, M Frank trong tác phẩm "Die Grenzen der Verständigung" chỉ ra rằng Habermas chú trọng vào sự đồng thuận, trong khi Lyotard lại nhấn mạnh sự đồng thuận khuyến khích tính dị đồng và bất đồng thuận.
Khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại
Nhà nghiên cứu Nga Mikhail Epstein trong cuốn sách “Chủ nghĩa hậu hiện đại ở Nga: Văn học và lý thuyết” đã phân tích nguồn gốc của thuật ngữ “hậu hiện đại” và “chủ nghĩa hậu hiện đại”.
Thuật ngữ “chủ nghĩa hậu hiện đại” lần đầu xuất hiện vào năm 1917 trong nghiên cứu của triết gia Rudolf Pannwitz, nhằm chỉ ra chủ nghĩa hư vô trong văn hóa thế kỷ XX Đến năm 1934, nhà phê bình Federico de Onis sử dụng thuật ngữ này để mô tả các phản ứng chống lại chủ nghĩa hiện đại Năm 1939, nhà tâm thần học Bernard Iddings Bell đã định nghĩa “chủ nghĩa hậu hiện đại” như một phản ứng chống lại chủ nghĩa thế tục hiện đại và sự khởi đầu của một phong trào tôn giáo mới Cùng năm đó, nhà sử học Arnold Joseph Toynbee dùng thuật ngữ này để chỉ thời kỳ xuất hiện của xã hội đại chúng sau Thế chiến thứ nhất.
Chủ nghĩa hậu hiện đại đang ngày càng được phản ánh trong nhiều tác phẩm nghiên cứu, giúp làm rõ hơn diện mạo của nó Tuy nhiên, việc bao quát toàn bộ khái niệm rộng lớn này vẫn là một thách thức không nhỏ.
Trong cuốn sách "vỡ lòng" của chủ nghĩa hậu hiện đại, Lyotard đã đưa ra hai định nghĩa về hậu hiện đại, với định nghĩa đầu tiên được nêu ngay từ dòng đầu tiên của tác phẩm.
Đối tượng nghiên cứu của công trình này là hoàn cảnh tri thức trong các xã hội phát triển, được gọi là ‘hậu hiện đại’ (Lyotard, 2019, p 55) Lyotard định nghĩa khái niệm này là trạng thái văn hóa sau những biến đổi ảnh hưởng đến các quy tắc của khoa học, văn học và nghệ thuật từ cuối thế kỷ XIX (Lyotard, 2019, p 55) Ông cũng nhấn mạnh rằng “hậu hiện đại” thể hiện sự hoài nghi đối với các siêu tự sự, một kết quả của sự tiến bộ trong các khoa học, đồng thời sự tiến bộ này cũng dựa trên sự hoài nghi đó (Lyotard, 2019, p 56).
Trong Tiến trình văn học (Khuynh hướng và trào lưu) (2019), GS Huỳnh Như Phương đã gọi tên chủ nghĩa hậu hiện đại như sau:
Chủ nghĩa hậu hiện đại là một xu hướng nghệ thuật bắt đầu xuất hiện vào cuối Chiến tranh thế giới thứ nhất, ban đầu trong lĩnh vực kiến trúc Đến đầu những năm 80 của thế kỷ XX, nó mới được công nhận như một hiện tượng thẩm mỹ trong văn hóa phương Tây, ảnh hưởng đến nhiều lĩnh vực như âm nhạc, điện ảnh, văn học, sân khấu, hội họa và truyền thông đại chúng Hai cuộc chiến tranh thế giới đã làm suy yếu niềm tin của con người vào ý nghĩa lịch sử, vốn dựa trên lý trí và tiến bộ (Huỳnh Như Phương, 2019, tr 170).
Trong Văn học hậu hiện đại (2019), Lê Huy Bắc đã đề xuất một cách hiểu về chủ nghĩa hậu hiện đại như sau:
Chủ nghĩa hậu hiện đại bắt đầu từ cuối thập niên 1910 với những tác phẩm nổi bật như thơ Đa đa (1916), văn xuôi của Franz Kafka (Biến dạng, 1915) và kịch của Samuel Beckett (Chờ đợi Godot, 1952) Xu hướng này tồn tại song song với chủ nghĩa hiện đại cho đến đầu thập niên 1950 và phát triển mạnh mẽ từ 1960 Chủ nghĩa hậu hiện đại thể hiện sự đối kháng với chủ nghĩa hiện đại, chấp nhận những khía cạnh như tính hư vô, hỗn độn, trò chơi, trì biệt và liên văn bản, nhằm giải quyết những bất cập của chủ nghĩa hiện đại và giải phóng con người khỏi cuộc sống tù túng và tín điều tăm tối (Lê Huy Bắc, 2019, p 42).
Lê Huy Bắc giải thích thêm về khái niệm chủ nghĩa hậu hiện đại:
Chủ nghĩa hậu hiện đại xuất hiện trong bối cảnh bùng nổ công nghệ thông tin và phát triển kinh tế, thể hiện rõ rệt qua thơ, kịch, và văn xuôi Các đặc điểm nổi bật của nó bao gồm tính đa trị, huyền ảo, lắp ghép, và mảnh vỡ, cùng với những yếu tố như cực hạn, phi trung tâm, và phi mạch lạc Chủ nghĩa này cũng hạn chế vai trò của người kể chuyện và không chú trọng vào cốt truyện, trong khi kịch và văn xuôi thường mang những đặc điểm của thơ.
Hậu hiện đại là một khái niệm trừu tượng, khó định nghĩa một cách toàn diện, nhưng nhìn chung, nó thể hiện thái độ hoài nghi và chất vấn đối với những tri thức được coi là chân lý tối thượng Chủ nghĩa hậu hiện đại nhấn mạnh tính đa nguyên, sự tương đối, bất định và hỗn loạn Trong văn học, nó có mối liên hệ chặt chẽ với giải cấu trúc và hậu cấu trúc luận.
Đặc điểm sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại
1.4.1 Thế giới là một khối hỗn độn, ngẫu nhiên
Quan điểm về sự hỗn độn và ngẫu nhiên trong chủ nghĩa hậu hiện đại xuất phát từ lý thuyết hỗn độn của Edward Lorenz vào những năm 70, khi ông phát hiện ra rằng những biến đổi nhỏ có thể dẫn đến kết quả lớn trong dự báo thời tiết Lý thuyết này đã góp phần hình thành cách nhìn nhận thế giới như một khối hỗn độn và ngẫu nhiên Nguyễn Minh Quân cho rằng trong thời kỳ hiện đại, người ta tập trung vào việc duy trì ổn định và trật tự xã hội, dẫn đến việc bảo vệ những gì được xem là trật tự khỏi sự hỗn loạn Tuy nhiên, trong chủ nghĩa hậu hiện đại, các đại tự sự bị phân rã thành tiểu tự sự, với các tri thức và hiện tượng gắn bó một cách ngẫu nhiên mà không tuân theo bất kỳ trật tự nào.
Văn học hậu hiện đại thể hiện sự hỗn độn và ngẫu nhiên thông qua tinh thần phi trung tâm, bao gồm các kiểu phi trung tâm cốt truyện, nhân vật, phương thức trần thuật và ngôn ngữ Những đặc điểm này tạo nên một không gian sáng tạo đa dạng, phản ánh sự phức tạp của thực tại và cảm xúc con người.
Trong tác phẩm "Tướng về hưu" của Nguyễn Huy Thiệp, sự hỗn độn được thể hiện qua nhiều sự kiện khác nhau, trong đó có những vấn đề được giải quyết và những câu chuyện còn bỏ lửng Mối quan hệ bí ẩn giữa Thủy và nhà thơ Khổng, âm mưu của Khổng đối với Vi, những nghi ngờ của Thuần về "nước mắt cá sấu" của Thủy, cái chết bí ẩn của ông Thuấn trên chiến trường, và câu chuyện Thủy mang nhau thai nấu cho chó béc giê đều được đặt ra một cách mơ hồ Tất cả những yếu tố này tạo nên một âm vang trong tâm trí người đọc, dù mạch truyện đã chuyển sang một sự kiện mới.
Lê Huy Bắc nhận định rằng văn chương hậu hiện đại, đặc biệt là trong tác phẩm Tướng về hưu của Nguyễn Huy Thiệp, có đặc điểm nổi bật là sự liệt kê nhanh chóng, nơi người kể cung cấp thông tin và người đọc tiếp nhận, suy ngẫm Trong bối cảnh hậu hiện đại, vị thế của người đọc được nâng cao nhờ mỹ học tiếp nhận, mang lại quyền năng đồng sáng tạo với tác giả Tuy nhiên, để tham gia vào quá trình này, độc giả cần có kiến thức về văn học và trải nghiệm thực tế Đối với Tướng về hưu, người đọc không chỉ tiếp nhận các sự kiện mà còn phải liên kết chúng thành một khối thống nhất, cùng tác giả tạo nên ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm.
1.4.2 Phủ nhận tri thức khách quan
Trong thời đại Khai minh, tri thức và lí trí trở thành giá trị cốt lõi, với con người được xem là những cá thể tư duy độc lập René Descartes đã khẳng định quan điểm này qua câu nói nổi tiếng: “Tôi tư duy, nên tôi tồn tại” Sự phát triển của tư duy phản biện và lý luận đã định hình tư duy của con người trong xã hội thế kỷ 18.
Khi cuộc cách mạng khoa học – kỹ thuật lần thứ nhất diễn ra, khoa học trở thành công cụ quan trọng giúp con người nhận thức và đánh giá thực tại Ngày nay, thuật ngữ “khoa học” thường được sử dụng để chỉ chân lý, khiến nhiều người thay vì xem xét sự đúng đắn và hợp lý của một vấn đề, lại coi đó như một sự thật không thể chối cãi.
Khoa học được coi là tri thức khách quan, và trong chủ nghĩa hiện đại, tri thức từ khoa học được xem là sự thật tuyệt đối và vĩnh hằng Khi một điều gì đó được công nhận là sự thật, nó ngay lập tức trở thành điều hiển nhiên, hợp pháp và hợp đạo đức.
Trong sinh quyển hậu hiện đại, khi công nghệ thông tin bùng nổ, con người nhận ra rằng những gì được coi là chân lý và khoa học đều có giới hạn và khiếm khuyết Lê Huy Bắc trong tác phẩm “Văn học hậu hiện đại” chỉ ra rằng tri thức đã trở thành một “món hàng” trong xã hội tiêu dùng, nơi mà tính thương mại và quảng bá sản phẩm được đặt lên hàng đầu Lyotard cũng nhấn mạnh rằng tri thức trong bối cảnh hiện tại phụ thuộc vào các đại tự sự, đặc biệt khi chủ nghĩa tư bản chiếm ưu thế toàn cầu và kiểm soát tri thức chung của nhân loại Điều này dẫn đến việc tri thức không còn là công cụ để con người khám phá thế giới, mà trở thành công cụ phục vụ cho quyền lực và củng cố địa vị của chủ nghĩa tư bản Do đó, tri thức khách quan trong chủ nghĩa hậu hiện đại bị chất vấn, hoài nghi, và dẫn đến thái độ phủ nhận.
Chủ nghĩa hậu cấu trúc, với tuyên ngôn nổi tiếng của Jacques Derrida rằng “Không có gì tồn tại ngoài văn bản”, đã trở thành nền tảng quan trọng cho chủ nghĩa hậu hiện đại, ảnh hưởng sâu sắc đến các lĩnh vực như hậu thực dân và nữ quyền luận Các nhà hậu cấu trúc luận phân biệt giữa “văn bản” và “tác phẩm”, trong đó văn bản được coi là hệ thống ngôn ngữ do nhà văn sáng tạo, chưa được tiếp nhận và diễn giải bởi người đọc, do đó chưa thể gọi là tác phẩm Khái niệm “văn bản” đã được mở rộng, bao gồm tri thức, thế giới và văn hóa như những hệ thống văn bản lớn Họ cũng nhấn mạnh rằng văn bản không chỉ tồn tại độc lập mà còn được trình bày qua các diễn ngôn khác nhau.
Theo Michel Foucault, quyền lực luôn chi phối con người và liên tục tạo ra những diễn ngôn mới, đôi khi phủ định diễn ngôn cũ Trong khi đó, từ góc nhìn của Lyotard về “đại tự sự,” diễn ngôn được xem như một dạng đại tự sự, vì con người sống và hành xử theo các quy chuẩn của diễn ngôn, đặc biệt là diễn ngôn văn hóa Họ hiếm khi chất vấn diễn ngôn này, do nó đã ăn sâu vào vô thức cá nhân và đôi khi trở thành vô thức tập thể, khiến cho việc sử dụng diễn ngôn trở thành thói quen, từ đó gia tăng tính phổ quát và tính chân lý của nó.
Trong bối cảnh diễn ngôn trở thành những đại tự sự áp chế con người, các nhà hậu hiện đại đã nỗ lực phá vỡ những đại tự sự này để tạo ra một không gian bình đẳng và dân chủ, chấp nhận sự khác biệt và lệch chuẩn Đại tự sự không còn giữ vai trò là chân lý trung tâm hay niềm tin vững bền, mà bị mổ xẻ, chất vấn và đùa cợt, thu hẹp khoảng cách với những tiểu tự sự và các yếu tố ngoại vi.
Theo Roland Barthes trong “Cái chết của tác giả”, văn bản được xem như một tấm vải dệt từ nhiều nguồn văn hóa, điều này phủ nhận tính tự trị của văn bản và khẳng định tính mở của nó Văn bản không thể có nghĩa nếu tách rời khỏi các văn bản khác, dẫn đến việc các nhà văn hậu hiện đại thường xây dựng văn bản như một trò chơi hư cấu, tạo ra khoảng trống để người đọc tự diễn giải và đồng sáng tạo Điều này không chỉ làm phong phú thêm ý nghĩa của văn bản mà còn kéo dài đời sống văn học.
Quan niệm về trò chơi đã được bàn luận từ thời kỳ Cổ điển, đặc biệt qua triết lý của F Schiller, người đã nhấn mạnh rằng "Nghệ thuật là một thú vui chơi vì chỉ có thú vui chơi thì mới làm cho con người tự do." Mặc dù trong thời đại mà lý trí và các quy chuẩn xã hội trở nên quan trọng, Schiller vẫn khẳng định rằng tự do, đặc biệt là của những người nghệ sĩ, chỉ có thể đạt được khi nghệ thuật được coi là một trò chơi Điều này cho thấy rằng nghệ thuật sẽ thăng hoa và mang lại sự tự do cho người sáng tạo khi họ tiếp cận nó như một niềm vui.
Trong thế kỷ XX, J.P Sartre đã nhấn mạnh rằng con người chỉ thực sự tự do khi tham gia vào trò chơi, một khái niệm được mở rộng bởi triết gia Ludwig Wittgenstein qua lý thuyết “trò chơi ngôn ngữ” Ông cho rằng tri thức con người gắn liền với ngôn ngữ và nhấn mạnh tính tương tác giữa lời nói và hoàn cảnh sử dụng, dẫn đến sự thay đổi ngữ nghĩa trong từng tình huống Wittgenstein mô tả sự biến đổi này như một trò chơi ngôn ngữ, phản ánh sự bất ổn và ngẫu nhiên Tiếp theo, Derrida, người sáng lập chủ nghĩa hậu cấu trúc, cũng đề cập đến trò chơi ngôn ngữ, khẳng định rằng ngôn ngữ luôn vận động và có thể thay đổi nghĩa, tạo ra một sự đa nghĩa và phức tạp mà các nhà hậu hiện đại tiếp tục khai thác và phát triển.
Chủ nghĩa hậu hiện đại, theo Lyotard, nhấn mạnh trò chơi ngôn ngữ như một phương thức chống lại các đại tự sự, phá vỡ mọi giới hạn của ngôn ngữ và thể nghiệm những khả năng biểu đạt đa dạng Tính ngẫu nhiên và hỗn độn trong trò chơi ngôn ngữ trở thành đặc trưng quan trọng của chủ nghĩa hậu hiện đại Trong văn chương hậu hiện đại, các nhà văn thể hiện tính chất trò chơi rõ rệt, chơi đùa với văn bản và phá vỡ các quy tắc truyền thống Người đọc, trong luật chơi mà nhà văn thiết lập, cũng trở thành người chơi tiềm năng, có quyền sáng tạo ra những luật chơi mới cho tác phẩm.
Đặc điểm sáng tác của chủ nghĩa hậu hiện đại
1.5.1 Kết cấu phân mảnh (Fragmentaire)
Kết cấu trong nghệ thuật là sự sắp xếp và phân bố các thành phần hình thức, phản ánh sự cấu tạo tác phẩm dựa trên nội dung và thể tài Theo Lại Nguyên Ân (2017), kết cấu đóng vai trò như một sợi dây liên kết giữa nội dung bên trong và hình thức bên ngoài Mọi yếu tố trong tác phẩm đều bị ảnh hưởng bởi kết cấu, tạo nên sự hòa quyện giữa ý tưởng và hình thức biểu đạt.
Kết cấu phân mảnh là đặc điểm nổi bật trong các tác phẩm hậu hiện đại, thể hiện qua việc cắt xén nhiều yếu tố như cốt truyện, nhân vật, hình ảnh và thời gian Phương pháp này tạo ra một cấu trúc phức tạp và hỗn độn, buộc người đọc phải tư duy sâu sắc về nội dung tác phẩm Đồng thời, kết cấu phân mảnh kích thích sự sáng tạo của độc giả, khuyến khích họ lắp ghép và sắp xếp các thành tố để hiểu rõ hơn về bản chất của sự việc.
Vở kịch phi lý "Trong khi chờ Godot" của Samuel Beckett đã phá vỡ cấu trúc kịch truyền thống bằng cách sử dụng kết cấu vòng tròn, thể hiện sự lặp lại hành động của hai nhân vật Estragon và Vladimir trong cuộc chờ đợi vô vọng một người tên Godot Sự xuất hiện của Godot được coi là điều kiện để họ thoát khỏi vòng luẩn quẩn của Con người – Không gian – Thời gian, nhưng tác phẩm lại không làm rõ nguyên nhân và kết quả, tạo nên một ẩn dụ về sự phi lý trong cuộc sống Cuộc đấu tranh không chỉ diễn ra qua hành động mà còn là sự đấu tranh tâm lý, khi Estragon và Vladimir phải lựa chọn giữa việc tiếp tục chờ đợi hay ra đi tìm con đường riêng, và họ quyết định chờ đợi Yếu tố phân mảnh trong vở kịch được thể hiện qua nhiều yếu tố như cốt truyện, hình ảnh, nhân vật, đề tài và thời gian, cho thấy sự sáng tạo độc đáo của Beckett trong việc xây dựng tác phẩm.
Cốt truyện truyền thống trong tác phẩm tự sự thường được xây dựng theo năm phần rõ ràng: trình bày, thắt nút, phát triển, cao trào và mở nút, nhấn mạnh sự mạch lạc và giải quyết vấn đề chính Tuy nhiên, văn học hậu hiện đại đã nới lỏng cấu trúc này, với thủ pháp phân mảnh trở thành một phương pháp phổ biến Trong tác phẩm "Trong khi chờ Godot", diễn biến câu chuyện phụ thuộc vào kết cấu vòng tròn lặp đi lặp lại, nơi Estragon và Vladimir chờ đợi Godot mà không tiết lộ nguyên nhân hay kết quả rõ ràng Các nhân vật cung cấp những mảnh ghép thông tin, buộc người đọc phải tự xâu chuỗi để hiểu Câu chuyện không có cao trào, mà chỉ là sự lặp lại của những hành động và cuộc trò chuyện vô nghĩa, tạo cảm giác vô vọng Khi Pozzo và Lucky xuất hiện, câu chuyện của Estragon và Vladimir tạm ngưng, chuyển trọng tâm sang Lucky, người sống phụ thuộc vào cái nón của mình Hai câu chuyện độc lập này, khi đặt cạnh nhau, tạo ra hiệu ứng cộng hưởng, phản ánh sự bế tắc của con người trong vòng quay vô nghĩa Sự kết hợp này chính là một biểu hiện của thủ pháp phân mảnh trong văn học hậu hiện đại.
Thủ pháp phân mảnh trong tác phẩm "Trong khi chờ Godot" được thể hiện qua yếu tố thời gian nghệ thuật, không tuân theo quy luật tuyến tính Ở hồi một, nhân vật chờ đợi dưới một gốc cây trụi lá, nhưng đến màn hai, cây lại mọc đầy lá, khiến độc giả hoài nghi về mối liên hệ thời gian giữa hai màn Pozzo và Lucky cũng trải qua sự thay đổi từ "hôm qua" là cặp chủ tớ bình thường sang "hôm nay" với một kẻ câm và một kẻ mù lòa Khi Lucky nổi giận và chỉ trích Pozzo về những câu chuyện thời gian, tác giả đã khéo léo đập vỡ câu chuyện rồi xâu chuỗi lại thành một mạch Mặc dù thời gian vẫn diễn ra từ quá khứ đến tương lai, Samuel Beckett đã phá vỡ cấu trúc thời gian liên tục, cho thấy Estragon và Vladimir đã chờ Godot rất lâu, từ mùa này sang mùa khác, trong vòng luẩn quẩn vô vọng mà không thể thoát ra.
Tác phẩm "Nỗi buồn chiến tranh" của Bảo Ninh, bên cạnh "Trong khi chờ Godot", thể hiện xuất sắc yếu tố hậu hiện đại với lối viết phân mảnh độc đáo Câu chuyện không tuân theo thời gian tuyến tính mà diễn ra qua nội tâm nhân vật, cho phép người đọc trải nghiệm ký ức của Kiên một cách sâu sắc Mở đầu, Kiên cùng đồng đội đi thu gom hài cốt, và trong cơn mưa, anh bắt đầu những giấc mơ hỗn độn về những người đã khuất, từ những kỷ niệm chơi bài đến những lời nhắn đau thương Những giấc mơ này liên tục xuất hiện, phản ánh nỗi đau và ký ức về chiến tranh, như Can – một chiến sĩ đào ngũ vì mẹ già, nhưng không may đã mất mạng.
Trong tác phẩm của Bảo Ninh, giấc mơ của Kiên không phải là ngẫu nhiên mà được sắp xếp theo một quy luật tâm lý sâu sắc Những kỷ niệm về Phương được kể lại không theo trình tự thời gian thông thường, mà bắt đầu bằng khoảnh khắc đau khổ khi Phương rời xa Kiên với lý do “chúng ta phải xa nhau”, khiến anh mất đi động lực sống Hình ảnh của Phương xuất hiện dày đặc trong giấc mơ, gợi nhớ về những kỷ niệm đẹp như những ngày học cấp 3 hay những chuyến đi cùng nhau, nhưng cũng đầy ám ảnh bởi những ký ức đau thương Phương trở thành người vừa mang lại động lực sống cho Kiên, vừa cướp đi sức sống của anh Hình ảnh trinh nữ tuổi mười bảy của Phương, trẻ trung và xinh đẹp, khắc sâu vào tâm trí Kiên, mang lại cho anh nỗi nhớ và tình yêu thương da diết Dù trải qua bao nỗi đau, chỉ cần hình ảnh Phương xuất hiện, Kiên như tìm thấy phép trị liệu cho tâm hồn mình.
Bảo Ninh đã thành công trong việc áp dụng thủ pháp phân mảnh để tự sự theo lối phi tuyến tính qua cách kể của nhân vật Kiên, mặc dù có phần “hỗn độn” Lối kể này không phải là ngẫu nhiên, mà phản ánh góc độ phân tâm của Kiên, khi từng chi tiết trong giấc mộng của anh là những ấn tượng từ mạnh đến nhẹ Điều này khiến nhân vật luôn bị giằng xé giữa thực tại tăm tối và những hoài niệm về quá khứ tươi đẹp.
1.5.2 Đa điểm nhìn Điểm nhìn trần thuật là vị trí góc nhìn người kể chọn và kể lại câu chuyện cho người đọc Điểm nhìn chia thành hai loại: điểm nhìn bên trong và điểm nhìn bên ngoài (Lê Huy Bắc, 2017, tr 155) Điểm nhìn bên trong là điểm nhìn mà người kể trực tiếp tham gia vào chuyện kể, người đọc sẽ thâm nhập vào đời sống nội tâm của nhân vật, phân tích tâm lý nhân vật và để cho chúng bộc lộ cảm xúc của mình Điểm nhìn bên ngoài là góc nhìn toàn tri (thường là ngôi thứ ba) và bản thân người kể không can thiệp (hoặc can thiệp nhưng rất ít) vào hiện thực câu chuyện Chính vì vậy điểm nhìn bên ngoài mang tính khách quan hơn so với điểm nhìn bên trong.
Thế kỉ XX chứng kiến sự thay đổi đáng kể trong mối quan hệ giữa nhà văn, bạn đọc và tác phẩm Trước khi mỹ học tiếp nhận ra đời, nhà văn và văn bản là trung tâm của tiếp nhận văn học, nhưng sau đó, độc giả dần trở thành yếu tố chủ chốt Sự chuyển mình này yêu cầu các nhà văn phải sáng tạo theo cách mới, dẫn đến sự ra đời của lối viết trần thuật đa điểm nhìn Phương thức này không chỉ làm phong phú thêm cách kể mà còn mở ra nhiều góc nhìn cho độc giả, cho phép họ hình thành quan điểm riêng về câu chuyện Sự xuất hiện của lối kể chuyện đa điểm nhìn phản ánh sự phát triển tự thân của nghệ thuật, tạo nên một không gian văn học đa dạng và phong phú trong thế kỉ XX.
Trong giai đoạn thuộc chủ nghĩa hậu hiện đại, vai trò của độc giả trong tiếp cận văn học trở nên quan trọng hơn bao giờ hết Các nhà văn thường bị cuốn vào những câu chuyện mà họ sáng tác, và đôi khi tác phẩm của họ được hiểu theo cách riêng của độc giả Điều này cho thấy việc áp dụng đa điểm nhìn tự sự đã giúp giảm thiểu sự chủ quan trong tác phẩm, cho phép quá trình tiếp nhận tác phẩm vượt ra ngoài sự kiểm soát của nhà văn.
Thủ pháp đa điểm nhìn trong tác phẩm “Trong rừng trúc” của Ryunosuke Akutagawa thể hiện rõ nét qua việc sử dụng hai yếu tố chính: phân mảnh và đa điểm nhìn, nhằm làm mờ chi tiết và cốt truyện Tác phẩm xoay quanh một vụ án mạng, với cốt truyện được chia thành bảy mảnh, mỗi mảnh do một nhân vật thuật lại, tạo ra sự bình đẳng giữa các nhân vật Cấu trúc câu chuyện bị đảo lộn khi nhân chứng thuật lại trước, trong khi nạn nhân và thủ phạm được giới thiệu sau, tạo ra sự mơ hồ cho người đọc Điều đặc biệt là tác giả không áp đặt một góc nhìn chủ quan nào, để lại cái kết mở, khuyến khích người đọc tham gia suy luận và tìm ra hung thủ trong số bảy nhân vật.
Cuốn sách "150 thuật ngữ văn học" định nghĩa nhại trong văn học, âm nhạc và nghệ thuật tạo hình là sự bắt chước hài hước một hoặc nhiều tác phẩm nghệ thuật Nhại thường thể hiện sự không tương xứng giữa phong cách và đề tài của tác phẩm Trong các nền văn học châu Âu, có hai kiểu nhại kinh điển được công nhận.
Burlesque và travesty là hai khái niệm văn học thể hiện sự đối lập trong cách trình bày: Burlesque sử dụng văn phong cao để châm biếm đối tượng thấp, trong khi travesty lại dùng văn phong thấp để chế giễu đối tượng cao Sự cười giễu có thể tập trung vào cả văn phong lẫn đề tài, từ những thủ pháp thi ca khuôn sáo đến những hiện tượng đời sống dung tục không phù hợp với thi ca Điều này cho phép việc nhại lại thi pháp của một tác phẩm, tác giả, thể loại hay quan điểm tư tưởng trở nên phong phú và đa dạng.
Giễu nhại, theo định nghĩa của Lại Nguyên Ân, có nguồn gốc từ tiếng Hy Lạp là Parodia, mang nghĩa "sự điệp lại" Đây là một phương thức tái tạo phong cách và lời nói khác trong tác phẩm (Lã Nguyên, 2020) Tác phẩm được xem là khởi đầu cho "văn chương giễu nhại" là truyện ngắn Pierre Menard, autor del Quijote của Jorge Luis Borges, xuất hiện vào năm 1939 Tuy nhiên, đến nửa sau thế kỷ XX, thủ pháp giễu nhại mới thực sự nổi bật trong văn chương Việt Nam, đặc biệt từ năm 1975.
Một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu trong chủ nghĩa hậu hiện đại
Kể từ sau Thế chiến thứ hai, nhiều tác giả hậu hiện đại đã xuất hiện, mỗi người mang đến những phong cách sáng tác độc đáo và khác biệt so với những thế hệ trước Trong số đó, các tác giả nổi bật như Samuel Beckett, Gabriel García Márquez, Italo Calvino, Umberto Eco, Julio Cortázar và John M Coetzee đã góp phần định hình chủ nghĩa hậu hiện đại trên toàn cầu.
Samuel Beckett, tác giả nổi tiếng với các vở kịch phi lý, được xem là người tiên phong trong chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Sinh ra tại Dublin, Ireland, ông đã sống lang thang ở nhiều quốc gia như Anh, Đức và Pháp, điều này giúp ông tiếp thu các lý thuyết văn học mới mẻ Được mệnh danh là bậc thầy viết ngắn, tác phẩm của Beckett thường sử dụng thủ pháp khoảng trống, khơi gợi sự suy tư về triết lý cuộc sống Trong tác phẩm "Trong khi chờ Godot," ông áp dụng kỹ thuật phân mảnh không gian và thời gian, tạo ra một khoảng trống lớn với câu hỏi: Godot là ai? Liệu ông ta có đến không? Qua đó, Beckett thể hiện những trăn trở về sự bế tắc của con người trong vòng luẩn quẩn của cuộc đời.
Gabriel García Márquez là một nhà văn nổi tiếng người Colombia, được vinh danh với giải Nobel văn học vào năm 1982 nhờ tác phẩm "Tình yêu thời thổ tả." Tuy nhiên, tác phẩm "Trăm năm cô đơn" mới thực sự giúp ông ghi dấu ấn sâu sắc trong lòng độc giả.
Gabriel García Márquez, một tác giả người Colombia, đã định cư tại Mỹ Latinh và bắt đầu sự nghiệp sáng tác của mình tại đây Các tác phẩm của ông mang tính thời đại và luôn thu hút sự quan tâm của độc giả toàn cầu Tư tưởng nghệ thuật của ông chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những nhà văn như Franz Kafka, James Joyce và Ernest Hemingway García Márquez được coi là người tiên phong của thể loại văn chương hiện thực huyền ảo, một nhánh của chủ nghĩa hậu hiện đại, nơi mà các yếu tố kỳ quái hòa quyện với thực tại Những tác phẩm nổi bật của ông bao gồm "Trăm năm cô đơn", "Câu chuyện của một gã thủy thủ bị đắm tàu" và "Bão lá".
Italo Calvino là một trong những đại biểu nổi bật của văn học hậu hiện đại, nổi tiếng với sự nghiệp văn chương bắt đầu phát triển mạnh mẽ sau Thế chiến thứ hai Ông là nhà văn Ý được vinh danh với nhiều giải thưởng lớn, trong đó có giải thưởng từ Hàn lâm viện Nghệ thuật và Văn chương Hoa Kỳ.
Nhà văn được coi là biểu tượng của chủ nghĩa hậu hiện đại, với tác phẩm tiêu biểu "Nếu một đêm đông có người lữ khách" sử dụng thủ pháp siêu hư cấu Tác phẩm có cấu trúc độc đáo với hai mươi hai chương, trong đó các chương lẻ được kể bằng ngôi thứ hai, tạo cảm giác như người đọc đang giao tiếp trực tiếp với nhân vật Tuy nhiên, ở các chương chẵn, tác phẩm trở nên rời rạc với sự thay đổi về văn phong, thể loại và ngôn từ, thể hiện rõ ràng cách thức áp dụng siêu hư cấu Qua đó, tác giả nhấn mạnh mối quan hệ mong manh giữa hư cấu và thực tại, cho thấy không tồn tại “hiện thực khách quan”.
Umberto Eco là một nhà văn, triết gia và phê bình nổi tiếng người Ý, đồng thời cũng là giảng viên tại nhiều trường đại học danh tiếng Ông được coi là một trong những tên tuổi tiêu biểu trong văn học hậu hiện đại, với phong cách viết hài hước và dí dỏm Eco thường đặt tên cho các tác phẩm của mình bằng những câu hỏi thú vị, như "Làm thế nào để dắt một con cái hồi đi rong chơi?" hay "Làm thế nào để trở thành một người dẫn chương trình truyền hình?" Trong các tác phẩm, ông thường sử dụng thủ pháp khoảng trống để che giấu những chi tiết quan trọng, tạo ra những câu hỏi lớn cho người đọc về nguồn gốc câu chuyện "Khoảng trống" này không chỉ là một kỹ thuật nghệ thuật mà còn là công cụ giúp Eco làm nổi bật những vấn đề hiện đại mà con người thường gặp trong cuộc sống hàng ngày.
Julio Cortázar, một đại biểu nổi bật của văn học chủ nghĩa hậu hiện đại, là nhà thơ và tiểu thuyết gia gốc Bỉ, đồng thời cũng là một nhà vận động chính trị.
Ông được mời làm giáo sư văn học tại trường đại học Buenos Aires nhưng từ chối vì quan điểm chống chế độ độc tài Peron Các sáng tác của ông đã phá vỡ cấu trúc truyện kể và cấu trúc câu truyền thống, đồng thời thể hiện sự vận dụng thuần thục các đặc trưng thi pháp chủ nghĩa hậu hiện đại.
“Thuở nhỏ bọn mình gọi nó là “hỉa vè” và nó ưa cái cách bọn mình yêu thích nó
Trên tấm lưng trần khốn khổ của nó bọn mình đã vẽ biết bao nhiêu ô nhảy cò cò.”
Trong bài thơ “Những vỉa hè ở Buenos Aires”, tác giả khéo léo sử dụng phép nhại để tái hiện ngôn ngữ của trẻ con, tạo nên sự gần gũi và sinh động Dịch giả đã chuyển ngữ từ "vỉa hè" thành một cách diễn đạt phù hợp, góp phần làm nổi bật ý nghĩa và cảm xúc của tác phẩm.
“Hỉa vè” xuất phát từ nguyên tác, trong đó Julio đã viết “la vereda” thay vì “la vedera” Ông nhại lại cách nói ngọng của trẻ con, thể hiện rõ thủ pháp nhại (parody) trong tác phẩm.