1. Trang chủ
  2. » Luận Văn - Báo Cáo

Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.

180 88 6

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Di Sản Văn Học Của Dòng Văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) Từ Góc Nhìn Văn Hóa
Tác giả Nguyễn Tùng Lĩnh
Người hướng dẫn PGS.TS. Biện Minh Điền
Trường học Trường Đại Học Vinh
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2022
Thành phố Nghệ An
Định dạng
Số trang 180
Dung lượng 231,19 KB

Cấu trúc

  • TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH

  • LUẬN ÁN TIẾN SĨ

  • Tác giả luận án

  • MỞ ĐẦU

  • 1. Lý do chọn đề tài

  • 2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

    • 2.1. Đối tượng nghiên cứu

    • 2.2. Phạm vi nghiên cứu

  • 3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

    • 3.1. Mục đích nghiên cứu

    • 3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

  • 4. Phương pháp nghiên cứu

  • 5. Đóng góp của luận án

  • 6. Cấu trúc của luận án

  • Chương 1

  • 1.1. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

    • 1.1.1. Việc ghi nhận, giới thiệu một số tác giả, tác phẩm của dòng văn Trường Lưu trong thư tịch cổ (thế kỷ XVII – XIX)

    • 1.1.3. Vấn đề nghiên cứu di sản văn học của dòng văn Trường Lưu từ góc nhìn văn hóa

  • 1.2. Cơ sở lý thuyết của đề tài

    • 1.2.1. Khái niệm văn hóa

    • 1.2.2. Khái niệm “dòng họ” và “văn hóa dòng họ”

    • 1.2.3. Văn hóa học và lý thuyết nghiên cứu văn học từ góc nhìn văn hóa

  • Tiểu kết

  • Chương 2

  • 2.1. Sự hình thành dòng văn Trường Lưu

    • 2.1.1. Giới thuyết một số khái niệm liên quan

    • 2.1.2. Bối cảnh hình thành dòng văn Trường Lưu

  • 2.2. Quá trình vận động, phát triển của dòng văn Trường Lưu

    • 2.2.1. Thời kỳ phôi thai

  • Phiên âm:

  • Dịch nghĩa: TỰ KỂ VỀ MÌNH

  • Dịch thơ:

    • 2.2.2. Thời kỳ phát triển

    • 2.2.3. Thời kỳ kết thúc

  • 2.3. Dòng văn Trường Lưu trong mối liên hệ với dòng văn Tiên Điền và sự hình thành “văn phái Hồng Sơn”

    • 2.3.1. Dòng văn Trường Lưu

    • 2.3.2. Dòng văn Tiên Điền

    • 2.3.3. Mối liên hệ giữa hai dòng họ - dòng văn

  • Tiểu kết chương 2

  • Chương 3

    • 3.1.1. Phụng sứ Yên Đài tổng ca

    • 3.1.2. Hoàng Hoa sứ trình đồ

    • 3.2.1. Tình hình văn bản truyện Hoa tiên

    • 3.2.2. Đặc sắc nội dung cảm hứng và nghệ thuật thể hiện của Hoa tiên

    • 3.3.1. Sự ra đời Mai đình mộng ký và tình hình văn bản tác phẩm

    • 3.3.2. Nội dung và giá trị nghệ thuật của Mai đình mộng ký

    • 3.4.1. Hoàn cảnh ra đời và tình hình văn bản tác phẩm

    • 3.4.2. Một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật thể hiện của Chung Sơn di thảo

    • 3.5. Nguyễn thị gia tàng

    • 3.5.2. Nội dung và giá trị văn hóa - văn học của Nguyễn thị gia tàng

    • 3.6. Mộc bản Trường Lưu

    • 3.6.2. Mộc bản Trường Lưu được cấu thành bởi nhiều thành tố văn hóa và có giá trị tổng hợp

  • Tiểu kết chương 3

  • Chương 4

  • 4.1. Giá trị văn hóa của di sản văn học dòng văn Trường Lưu

    • 4.1.1. Tư tưởng đề cao “đạo học”, tìm cách đưa con người đến với đạo học

    • 4.1.2. Ý thức sống và hành xử theo “đạo nhân”, gắn mọi hoạt động với việc bồi dưỡng nhân cách, lẽ sống cho con người

    • 4.1.3. Lòng thủy chung với tiền nhân và ý thức kiến tạo, lưu giữ di sản văn hóa truyền thống

    • 4.1.4. Ý thức tạo dựng, bồi đắp văn hóa dòng họ gắn với văn hóa làng và quê hương xứ sở

    • 4.1.5. Tinh thần tự tôn dân tộc, ý thức kiến tạo bản sắc và thái độ tôn trọng nét riêng vùng miền trong trước thuật và sáng tác

  • 4.2. Hướng tiếp cận, khai thác và phát huy các giá trị của di sản văn hóa - văn học dòng văn Trường Lưu

    • 4.2.1. Phát huy tinh thần hiếu học, nhân văn của dòng văn Trường Lưu trong bối cảnh mới

    • 4.2.2. Từ trường hợp dòng họ - dòng văn Trường Lưu, tìm bài học kinh nghiệm cho việc xây dựng văn hóa dòng họ và dòng họ văn hóa hiện nay

    • 4.2.3. Khai thác giá trị văn hóa của di sản văn hóa - văn học dòng văn Trường Lưu dưới góc độ sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương

  • Tiểu kết chương 4

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.

Lý do chọnđềtài

Nghiên cứu di sản văn học quá khứ là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong lĩnh vực nghiên cứu văn học, đặc biệt là lịch sử văn học Lịch sử văn học tập trung vào hai đối tượng cơ bản: hệ thống và quá trình văn học, bao gồm các thời kỳ, giai đoạn, khuynh hướng, và trào lưu văn học; và các hiện tượng văn học như tác giả, tác phẩm, thể loại, nhóm, và văn phái Dù nghiên cứu theo loại đối tượng nào, người nghiên cứu cần phân tích và khái quát diện mạo, đặc điểm, cũng như quy luật hình thành và phát triển của văn học qua các giai đoạn hoặc hiện tượng cụ thể.

"Dòng văn" của các dòng họ như "Ngô gia văn phái" hay "Hồng Sơn văn phái" đóng vai trò quan trọng trong lịch sử văn học Việt Nam Dòng văn Nguyễn Huy tại Trường Lưu, Hà Tĩnh, hay còn gọi là dòng văn Trường Lưu, là một ví dụ điển hình với khối di sản văn hóa phong phú Trong đó, hai di sản nổi bật đã được UNESCO ghi danh là Mộc bản Trường Lưu và Hoàng Hoa sứ trình đồ.

Một đặc điểm nổi bật của lịch sử, văn hóa và xã hội Việt Nam thời trung đại (từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX) là sự ghi công và tôn vinh các dòng họ, đặc biệt là những dòng họ có công với đất nước và cộng đồng, cùng với truyền thống khoa bảng và văn chương Dòng họ đóng vai trò quan trọng trong cấu trúc xã hội và văn hóa truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt là ở vùng Bắc Bộ và Bắc Trung.

Dòng họ khoa bảng có vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị và sự phát triển kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục của đất nước.

Dòng họ Nguyễn Huy, thuộc làng Trường Lưu, xã Kim Song Trường, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, là một trong những dòng họ khoa bảng nổi tiếng trong lịch sử Việt Nam Với nhiều thế hệ liên tiếp, dòng họ này đã để lại một di sản văn hóa và văn học phong phú, đóng góp xuất sắc cho lịch sử dân tộc Tính đến đầu thế kỷ XXI, dòng họ Nguyễn Huy vẫn giữ vững vị thế và tầm ảnh hưởng trong cộng đồng.

Dòng họ Nguyễn Huy có lịch sử phát triển hơn 600 năm, với nhiều nhân tài nổi bật trong lĩnh vực chính trị, ngoại giao và văn hóa Tại một làng xã nhỏ, dòng họ này đã sản sinh ra 2 đại khoa, 25 cử nhân, cùng nhiều nho sinh và tú tài, đóng góp vào các triều đại phong kiến Mỗi thế hệ của họ đều để lại những tác phẩm giá trị, trong đó Trường học Phúc Giang, một trung tâm giáo dục lớn, đã thu hút nhiều nho sinh từ khắp nơi, chỉ đứng sau Quốc Tử Giám ở Thăng Long Di sản văn hóa phong phú của dòng họ Nguyễn Huy, bao gồm cả văn học, đã được ghi nhận và tiếp nhận không chỉ trong nước mà còn trên diễn đàn quốc tế, nhưng vẫn còn nhiều điều chưa được khám phá và nghiên cứu.

Dòng văn Trường Lưu là tập hợp tác gia và tác phẩm của dòng họ Nguyễn Huy, bao gồm nhiều thế hệ như Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ, và Nguyễn Huy Vinh Cùng với các tác giả dòng họ Nguyễn Tiên Điền và một số nho sĩ vùng núi Hồng sông Lam, dòng văn Trường Lưu đã góp phần hình thành Văn phái Hồng Sơn, đóng góp quan trọng cho lịch sử văn học dân tộc, đặc biệt là trong thể loại văn học Nôm Di sản văn học của dòng họ Nguyễn ở Tiên Điền, Nghi Xuân, Hà Tĩnh đã được nghiên cứu nhiều, đặc biệt là tác phẩm của Đại thi hào Nguyễn Du Tuy nhiên, di sản văn học của dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu và mối quan hệ giữa dòng văn này với dòng văn Nguyễn Tiên Điền vẫn còn ít được tìm hiểu và nghiên cứu.

Nghiên cứu di sản văn học Trường Lưu từ góc độ văn hóa không chỉ mang ý nghĩa khoa học mà còn có giá trị thực tiễn quan trọng trong bối cảnh hiện nay Điều này đáp ứng nhu cầu tìm hiểu lịch sử văn học dân tộc và khám phá những đặc trưng độc đáo của văn hóa và văn học vùng đất này.

Đốitượngvà phạm vinghiêncứu

2.1 Đối tượng nghiêncứu Đối tượng nghiên cứu của luận án làDi sản văn học của dòng văn

TrườngLưu(Hà Tĩnh)từ góc nhìn vănhóa.

Luận án nghiên cứu di sản văn học của dòng văn Trường Lưu từ góc nhìn văn hóa, tập trung vào sự hình thành, diễn trình và các mối liên hệ văn hóa, văn học của dòng văn này Nó cũng phân tích vị thế, đóng góp, giá trị và ý nghĩa của di sản văn học Trường Lưu, đồng thời đề xuất hướng khai thác và phát huy các giá trị văn hóa - văn học trong bối cảnh hiện nay.

Văn bản tác phẩm được sử dụng để khảo sát, bao gồm toàn bộ các tác phẩm của dòng văn Trường Lưu hiện có, đã được sưu tầm và tập hợp trong các công trình nghiên cứu.

Cuốn sách "Nguyễn Huy Trường Lưu - Cuộc đời và tác phẩm" do Nguyễn Huy Mỹ chủ biên, được xuất bản bởi Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây vào năm 2012, khám phá sâu sắc cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của tác giả Nguyễn Huy Trường Lưu Tác phẩm cung cấp cái nhìn toàn diện về những đóng góp văn học của ông, đồng thời phân tích các chủ đề và phong cách nghệ thuật đặc trưng trong các tác phẩm của ông.

- Tuyển tập Thơ văn Nguyễn Huy Oánh(Lại Văn Hùng chủ biên), Nxb

-Dòng văn Nguyễn Huy ở Trường Lưu(Viện Văn học), Nxb Khoa học xã hội,2000.

-Sơ học chỉ nam(Nguyễn Huy Oánh),Nxb Đại học Vinh, NghệAn.

-Thạc Đình di cảo(Nguyễn Huy Oánh), Nxb Khoa học xã hội,2014.

-Phụngsứyên kinhtổng ca(NguyễnHuyOánh), Nxb ĐạihọcVinh,2014.

-Hoàng Hoa sứ trình đồ(Nguyễn Huy Oánh), Nxb Đại học Vinh,2018.

- Nguyễn Huy Quýnh - Cuộc đời và thơ văn(Nguyễn Huy Mỹ chủ biên),

Nxb Lao động - Trung tâm Văn hóa ngôn ngữ Đông Tây,2012.

-Hoa tiên(Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Thiện), Nxb Văn học, Hà Nội,1978.

- Nguyễn Huy Hổ với Mai đình mộng ký(Viện Văn học), Nxb Hội Nhà văn,

- Nguyễn Huy Vinh với Chung Sơn di thảo(Lại Văn Hùng chủ biên),NxbHội Nhà văn, Hà Nội,2005.

- Một số tài liệu khác có liên quan đến dòng văn và di sản văn hóa, văn học của dòng văn Nguyễn Huy TrườngLưu.

Mục đích vànhiệmvụnghiêncứu

Luận án này dựa trên khảo sát và nhận diện dòng văn Trường Lưu, nhằm phân tích và làm rõ quá trình hình thành, phát triển và đặc điểm của dòng văn cũng như di sản văn học của nó Đồng thời, nghiên cứu cũng xác định vai trò của dòng văn Trường Lưu trong lịch sử văn học dân tộc, sự hình thành Văn phái Hồng Sơn và sự phát triển của lịch sử văn hóa địa phương Hà Tĩnh Từ đó, luận án đề xuất hướng bảo tồn, phát huy và khai thác giá trị văn hóa của di sản dòng văn Trường Lưu trong bối cảnh hiện nay.

3.2.1 Tổng quan tình hình nghiên cứu dòng văn Trường Lưu và xác lập cơ sở lý thuyết cho việc thực hiện đề tàiDi sản văn học của dòng văn

TrườngLưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn vănhóa.

3.2.2 Nhận diện dòng văn Trường Lưu, khái quát bối cảnh hình thành và quá trình vận động, phát triển của dòng văn TrườngLưu.

Phân tích sâu sắc các hiện tượng tiêu biểu trong di sản văn học dòng Trường Lưu giúp xác định rõ nét các đặc điểm nổi bật Đồng thời, việc khái quát và minh định các giá trị văn hóa của di sản này sẽ làm nổi bật tầm quan trọng và ảnh hưởng của nó đối với nền văn hóa Việt Nam.

Đề xuất các phương pháp tiếp cận và khai thác giá trị văn hóa của di sản văn học dòng văn Trường Lưu nhằm phục vụ cho các hoạt động văn hóa hiện nay, góp phần bảo tồn và phát huy những giá trị văn hóa đặc sắc của di sản này trong bối cảnh phát triển xã hội Việc ứng dụng các giá trị văn học vào các hoạt động văn hóa sẽ không chỉ tạo ra sự kết nối giữa quá khứ và hiện tại mà còn thu hút sự quan tâm của cộng đồng đối với di sản văn hóa.

Phươngphápnghiêncứu

Luận án sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu khác nhau, trong đó có các phương pháp chính:

Phương pháp phân tích - tổng hợp được sử dụng để phân tích và tổng hợp các vấn đề, nội dung khảo sát theo yêu cầu của từng chương và toàn bộ luận án.

Phương pháp lịch sử đóng vai trò quan trọng trong việc nhận diện và xác định quá trình hình thành cũng như phát triển của dòng văn Trường Lưu Phương pháp này giúp tái hiện những đặc điểm chính của bối cảnh lịch sử, văn hóa và xã hội, từ đó làm rõ những ảnh hưởng và tác động đến dòng văn Trường Lưu.

Phương pháp so sánh trong nghiên cứu văn học Trường Lưu cho phép đối chiếu và phân tích những điểm tương đồng và khác biệt giữa các tác phẩm của nhiều tác giả Phương pháp này giúp làm nổi bật sự đa dạng và thống nhất trong các nội dung sáng tác thuộc dòng văn này, từ đó cung cấp cái nhìn sâu sắc về các thể loại và phương thức sáng tác khác nhau.

Phương pháp liên ngành là cách tiếp cận hữu ích trong việc huy động tri thức từ nhiều lĩnh vực như văn hóa học, triết học, lịch sử và ngôn ngữ học Phương pháp này giúp tham chiếu và làm sáng tỏ các vấn đề đang được khảo sát và nghiên cứu trong luận án.

Phương pháp cấu trúc - hệ thống giúp nhìn nhận di sản văn học của dòng văn Trường Lưu từ góc nhìn văn hóa, tạo ra một cái nhìn toàn diện về những quy luật hình thành và phát triển của nó.

Đónggóp củal u ậ n án

Luận án này là nghiên cứu đầu tiên về di sản văn học của Dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh), tiếp cận từ góc nhìn văn hóa như một vấn đề chuyên biệt Nghiên cứu được thực hiện với cái nhìn tập trung và hệ thống, nhằm làm sáng tỏ giá trị văn hóa của di sản này.

Luận án nghiên cứu sự hình thành, đặc điểm và quá trình phát triển của dòng văn Trường Lưu, đồng thời chỉ ra mối liên hệ giữa dòng văn họ Nguyễn Huy (Trường Lưu) và dòng văn họ Nguyễn (Tiên Điền) Nghiên cứu này khẳng định sự hợp lưu ban đầu của hai dòng văn, góp phần hình thành Văn phái Hồng Sơn, một trong những trụ cột văn hóa quan trọng tại đất Hồng Lam.

Luận án tập trung phân tích những hiện tượng tiêu biểu trong dòng văn Nguyễn Huy (Trường Lưu), làm nổi bật các đặc điểm của di sản văn học mà họ để lại Qua đó, luận án khẳng định đây là kết tinh của những thành tựu sáng tác trong dòng văn Trường Lưu.

Luận án tập trung vào việc khái quát và xác định các giá trị văn hóa của di sản văn học dòng Trường Lưu Từ đó, bài viết đề xuất những hướng tiếp cận và khai thác các giá trị văn hóa độc đáo từ dòng văn này, nhằm phát huy và bảo tồn di sản văn hóa quý báu cho các thế hệ sau.

Kết quả nghiên cứu từ luận án cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho việc khám phá di sản văn học của dòng văn Trường Lưu, cũng như giúp hiểu rõ hơn về sự hình thành và những đóng góp của Văn phái Hồng Sơn đối với lịch sử văn hóa và văn học dân tộc.

Cấu trúc củal u ậ n án

Tổngquanvấn đềnghiêncứu

1.1.1 Việc ghi nhận, giới thiệu một số tác giả, tác phẩm của dòng vănTrường Lưu trong thư tịch cổ ( thế kỷ XVII –XIX )

Dòng văn Trường Lưu, thuộc dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, đã phát triển hơn 600 năm với nhiều tác giả nổi bật qua các thế hệ Các thành viên trong dòng họ như Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Quýnh, và Nguyễn Huy Tự không chỉ là nhà văn mà còn là chính trị gia và nhà ngoại giao Trường học Phúc Giang của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, với hàng vạn quyển sách, được coi là trung tâm giáo dục lớn, thu hút nhiều nho sinh từ khắp nơi đến học tập.

Văn bản cổ xưa nhất ghi nhận các danh nhân của dòng văn Trường Lưu là hai tấm văn bia hiện đang được trưng bày tại Văn miếu Quốc Tử Giám Hà Nội Bia số 71 khắc tên Nguyễn Huy Oánh, được soạn thảo bởi Hàn lâm viện Thừa chỉ Dương Công Thụ, ghi nhận ông đã đỗ Đệ nhất giáp Tiến sĩ với thứ hạng cao Bia số 79 khắc tên Nguyễn Huy Quýnh, thể hiện sự tôn vinh đối với những đóng góp của các nhân vật này trong nền văn học và giáo dục của đất nước.

Tử Giám Tư nghiệp Phan Trọng Phiên ghi nhận rằng có 11 người đỗ Đệ tam giáp Đồng tiến sĩ, trong đó có Nguyễn Quýnh, đến từ xã Lai Thạch, huyện La Sơn, Tri huyện, người đã đỗ Giải nguyên ở tuổi 39 Thông tin này cũng được Ngô Đức Thọ dịch và công bố trong sách Văn bia Tiến sĩ Văn Miếu Quốc Tử Giám.

ThăngLong(2010) nhân Kỷ niệm 1000 năm Thăng Long HàNội.

Sách Bắc sứ thông lục của Lê Quý Đôn ghi nhận rằng, sau 11 năm đỗ Tiến sĩ và khi đang giữ chức Tham chính xứ Sơn Nam, Nguyễn Huy Oánh đã được đề cử làm phó sứ cho chuyến đi sứ Trung Hoa vào năm 1761 Mặc dù ông không tham gia chuyến đi này, nhưng sự đề cử này đã tạo điều kiện quan trọng cho việc ông được cử làm Chánh sứ, dẫn đầu đoàn sứ bộ Việt Nam sang Trung Hoa vào năm 1766.

Bài viết giới thiệu tác giả và tác phẩm tiêu biểu của dòng văn Trường Lưu, cụ thể là "Lịch triều hiến chương loại chí" của Phan Huy Chú Trong tác phẩm này, phần Văn tịch chí, Phan Huy Chú đã ghi nhận: "Tính lý toản yếu, 2 quyển; Tứ thư ngũ kinh toản yếu, 15 quyển - Thám hoa Nguyễn Huy Oánh soạn, nhặt tất cả các bản của các danh gia và soạn chép những điều cốt yếu, nhưng tựu trung sửa chữa rất nhiều." Bên cạnh đó, ông cũng đề cập đến "Nguyễn Thám hoa thi tập, 1 quyển" do Nguyễn Huy Oánh soạn, chứa các bài thơ được sáng tác trong thời gian đi sứ.

Cùng vớiLịch triều hiến chương loại chí,các sách khác nhưĐỉnh KhiếtĐại

Việt lịch triều đăng khoa lục, Đại Việt lịch đại đăng khoa, Liệt huyện đăng khoa bị khảo, Tam khôi lục và Tam khôi bị lục đều ghi chép tóm tắt tiểu sử của Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Huy Quýnh.

Sách Đại Việt sử ký tục biên ghi nhận rằng vào tháng ba, kỳ thi Hội đã diễn ra với sự tham gia của các cống sĩ, trong đó có 13 người được chọn từ bọn Vũ Miên Kết quả thi Điện đã vinh danh Nguyễn Huy Oánh với danh hiệu tiến sĩ cập đệ tam danh (thám hoa), cùng với Trịnh Xuân Chú và 11 người khác từ Vũ Miên cũng đạt tiến sĩ xuất thân Thông tin này được ghi lại vào năm 1765, khoảng thời gian tháng 10 - 11.

"Sai Chính sứ Nguyễn Huy Oánh, phó sứ Lê Doãn Thân, Nguyễn Thưởng đi sứ sang nhà Thanh" [202; 314].

Sách Việt Hoa thông sứ sử lược của Sông Bằng - Vân Hạc ghi lại hành trình đi sứ Trung Hoa của Nguyễn Huy Oánh, bắt đầu từ ngày 9 tháng Mạnh xuân năm Bính Dần (1766) và kết thúc tại Bắc Kinh vào ngày 20 tháng Quý đông cùng năm Chuyến đi kéo dài 11 tháng 21 ngày, vượt qua quãng đường 1.600 dặm (gần một vạn cây số) Sau khi hoàn thành nhiệm vụ dâng quốc thư, cống phẩm và tham dự lễ triều kiến, chánh sứ Nguyễn Huy Oánh cùng các tùng viên nhận quà tặng từ Bắc triều và chuẩn bị trở về nước, mất khoảng một năm để trở lại Thăng Long.

Sách Đại Nam thực lục, Tập 5, ghi chép về Nguyễn Huy Hổ, cho biết rằng Trưởng sử Nguyễn Văn Bảng và Giám chính Hoàng Công Dương đều giữ một hàm, trong khi sỹ nhân Nguyễn Huy Hổ được nhắc đến với vai trò Linh đài lang ở Khâm thiên giám.

Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Huy Quýnh là hai nhân vật nổi bật trong lịch sử triều đình Lê Hiển Tôn Nguyễn Huy Oánh, người xã Lai Thạch, huyện La Sơn, đỗ Thám hoa vào năm 1748, đã từng giữ chức Thị lang bộ Lại và sau đó là Thượng thư bộ Công Em trai ông, Nguyễn Huy Quýnh, cũng đỗ Tiến sĩ và đạt chức Đốc thị Thuận Khánh, cả hai cùng phục vụ trong một triều đại Nguyễn Huy Oánh đã xây dựng một lầu sách chứa hàng vạn quyển, nơi ông dạy học cho hàng chục ngàn học trò, trong đó có khoảng 30 người đỗ cùng triều và nhiều người khác giữ chức vụ Tri châu, Tri huyện.

Sách Vũ Trung tùy bút của Phạm Đình Hổ ghi lại câu chuyện của Nguyễn Huy Quýnh trong kỳ thi Hội năm Nhâm Thìn (1772) Mặc dù ông nộp nhầm quyển thi, nhưng nhờ sự giúp đỡ của "quỷ thần", ông vẫn đỗ đại khoa Nguyễn Quýnh, em trai của thám hoa Nguyễn Oánh, đã phát hiện ra sự nhầm lẫn khi nộp quyển thi, nhưng cuối cùng vẫn được công nhận Ông tin rằng có sự trợ giúp siêu nhiên, vì vậy sau này, khi làm quan, ông thường ghé thăm gia đình đã giúp đỡ mình.

Năm 1851, Trương Quốc Dụng trong tác phẩm Thoái thực ký văn đã kể một câu chuyện thú vị về Nguyễn Huy Oánh thời niên thiếu, không đề cập đến tiểu sử hay sự nghiệp của ông Tác phẩm cũng nhấn mạnh tình bạn giữa Phan Kính và Nguyễn Huy Oánh, cho biết sau khi thi Hương đỗ Cử nhân, Nguyễn Huy Oánh quyết định bỏ học để làm đạo sĩ, mặc cho sự khuyên can của Phan Kính Cuối cùng, Phan Kính đã dùng cách chọc giận để thúc đẩy Oánh quay lại học tập, và sau đó, Nguyễn Huy Oánh đã đỗ Tiến sĩ cập đệ, phục hồi tình bạn như trước.

Bùi Dương Lịch trong Nghệ An đã ghi chép về Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Huy Quýnh, trong đó nhấn mạnh rằng Nguyễn Huy Oánh đã từng giữ chức quan đến Cửu phẩm nhưng chưa được phát huy hết khả năng Ông đã thành lập một thư viện với hàng vạn quyển sách và đào tạo hàng nghìn học trò, trong đó có hơn 30 người đỗ Tiến sĩ và cùng làm quan trong triều Số lượng học trò đỗ Hương cống và đảm nhận các chức vụ trách nhiệm thì không thể đếm xuể.

Tại làng Trường Lưu, dòng họ Nguyễn Huy đang lưu giữ gần 70 bản sắc phong, lệnh chỉ và văn chỉ Hán Nôm từ các triều đại phong kiến, vinh danh các thành viên như Nguyễn Công Ban, Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Thị Đài, Nguyễn Huy Cự và Nguyễn Huy Trác Sắc phong sớm nhất được ghi nhận vào năm Chính Hòa (1693) và sắc phong muộn nhất vào năm Bảo Đại (1943) Trong số đó, Nguyễn Huy Oánh là người nhận nhiều sắc phong nhất, với các sắc phong vào năm Cảnh Hưng.

15 (1754), Cảnh Hưng thứ 21 (1761), Cảnh Hưng thứ 28 (1767), Cảnh Hưngthứ

Dòng họ Nguyễn Huy hiện đang lưu giữ hai cuốn gia phả quan trọng là Lai Thạch Nguyễn thị gia tàng và Phượng Dương Nguyễn tông thế phả Đặc biệt, cuốn Phượng Dương Nguyễn tông thế phả được soạn thảo bởi Nguyễn Huy Tự, thể hiện sự quan tâm đến việc bảo tồn di sản văn hóa gia đình.

Nguyễn Huy Vinh, Nguyễn Huy Toản tục biên (chép tiếp), Nguyễn Huy Chương sao lục cuối cùng, nội dung gồm cácphần:

- Phượng Dương Nguyễn tông thế phảtự

- Phượng Dương Nguyễn tông thế phảđồ

Lai Thạch Nguyễn thị gia tàng- được hiểu là tàng thư của họ Nguyễn

[Huy] ở Lai Thạch, do Nguyễn Huy Vinh biên soạn dựa trên những tư liệu của dòng họ mà ông đã sưu tầm được Nội dung gồm các phần:

- Hạ Nguyễn quý hầu cập đệ gia môn vinh thịnhtự.

- Hạ Nguyễn tiến triều quý hầu gia môn vinh thịnhtự.

- Ghi chép một số bài thơ tặng trong dịp đisứ.

SựhìnhthànhdòngvănTrườngLưu

2.1.1 Giới thuyết một số khái niệm liênquan

Khái niệm “dòng văn” thường được sử dụng trong xã hội để phân biệt với các thể loại nghệ thuật khác như dòng nhạc, hội họa, thơ thiền và thơ ca cách mạng.

“dòng” trong tiếng Việt chỉ “chuỗi sự vật, hiện tượng đang chuyển động hoặc đang xẩy ra nối tiếp nhau”) [188;269].

Khái niệm “dòng văn” được sử dụng để chỉ các tác phẩm văn chương của một gia tộc hay dòng họ trong thời kỳ trung đại ở Việt Nam, tương tự như khái niệm “văn phái” cũng xuất hiện trong giai đoạn này.

Trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm "dòng văn" hay "văn phái" để áp dụng cho các trường hợp như dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu, dòng văn họ Nguyễn Tiên Điền, "Văn phái Ngô gia" và "Văn phái Hồng Sơn", nhằm làm rõ sự khác biệt giữa các khái niệm này.

“dòng văn học”, “lưu phái văn học”, “trường phái văn học”, “trào lưu văn học” trong hệ thống thuật ngữ nghiên cứu văn học hiệnđại.

Dòng văn (hay dòng văn học) được hiểu là sự kế thừa và tiếp nối trong sáng tác của các thế hệ tác giả trong một dòng họ, cụ thể là dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu Những thành viên trong dòng họ này chia sẻ huyết thống và tuân thủ các quy định về “gia pháp”, “gia phong”, đồng thời có quan điểm sáng tác và thẩm mỹ chung Trần Thị Băng Thanh và Lại Văn Hùng trong tác phẩm "Tìm hiểu quan niệm và sự hình thành dòng văn trong văn học Việt Nam" đã chỉ ra rằng dòng văn thuộc về một dòng họ văn chương, có sự tập trung sáng tác từ thế hệ này sang thế hệ khác với những đặc điểm thẩm mỹ và phong cách riêng Theo Trần Thị Băng Thanh, có ba tiêu chí để nhận diện dòng văn: thành tựu trước tác của một dòng họ, sự truyền nối trong ít nhất vài thế hệ tác giả, và các đặc điểm chung về quan niệm, phong cách và thể loại.

Võ Hồng Hải nhấn mạnh rằng để một dòng họ văn hóa được công nhận là dòng họ văn học, cần có nhiều yếu tố khác nhau Điều này bao gồm thi cử, nền nếp Nho phong, sự hiện diện của trường học và giáo viên, cùng với hệ thống giáo dục và tài liệu học tập Đặc biệt, cần có một đội ngũ tác giả đông đảo, những người kế thừa di sản văn học từ các thế hệ trước, có trách nhiệm bảo tồn và phát triển các tác phẩm mới Quan điểm này hoàn toàn phù hợp với các dòng văn Việt Nam nói chung và dòng văn Trường Lưu nói riêng.

Khái niệm "vùng văn học" liên quan mật thiết đến "dòng văn", chỉ vị trí địa lý nơi một dòng văn, văn phái hay chi phái hiện hữu Vùng văn học cũng đề cập đến các loại hình văn học đặc trưng của các địa phương như "văn học Kinh Bắc", "văn học Tây Nguyên", "văn học Nam Bộ", hay "văn học vùng bị tạm chiếm" Hiện tại, chưa có định nghĩa cụ thể cho "vùng văn học"; khái niệm này thường được xác định dựa trên các vấn đề nghiên cứu cụ thể.

Khái niệm“văn phái” cũng đã từng xuất hiện trong văn học Việt Nam trung đại.

Theo Biện Minh Điền, từ giữa thế kỷ XVIII, vấn đề tác giả, bao gồm nhà thơ, nhà văn và nhà trước tác, mới thực sự được thảo luận sâu sắc, với các khái niệm như nhà thơ, nhà văn, tác giả và các trường phái văn học được phân biệt rõ ràng Đến cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, khái niệm “văn phái” xuất hiện, đánh dấu sự hình thành các văn phái như “Văn phái Ngô gia” và “Văn phái Hồng Sơn” Ngô Thì Trí giải thích rằng “văn phái” thể hiện ơn của Thi, với sự sáng tạo văn chương như dòng nước chảy không ngừng Phan Huy Ích cũng đã phân biệt giữa “gia” và “phái” để xác định nghĩa của “văn phái”.

“gọi là văn phái phải cùng hợp ý mọi người, không phải chỉ riêng một nhà mình”(Ngô gia văn phái tự) [34;4].

Trần Thị Băng Thanh cho biết rằng trong lịch sử văn học Việt Nam, thuật ngữ "văn phái" chưa từng được sử dụng trước khi bộ Ngô gia văn phái xuất hiện Bà nhấn mạnh rằng Phan Huy Ích đã đề cập đến tính nhất quán giữa các tác giả trong văn phái, nhưng thực tế ông và Ngô Thì Trí vẫn chưa nhận thức được sự tồn tại của một nhóm nhà văn có cùng khuynh hướng tư tưởng, phong cách hay phương pháp sáng tác Họ vẫn giữ quan niệm truyền thống của Nho gia, xem văn phái chỉ là những người có học vấn và tài năng viết sách, không phân biệt thể loại, thuộc các thế hệ trong cùng một dòng họ, và khuynh hướng tư tưởng của các nhà văn trong văn phái không phải là yếu tố quan trọng.

Năm 1943, Hoàng Xuân Hãn đã nghiên cứu các tác phẩm văn học nổi tiếng từ hai dòng họ khác nhau dưới chân núi Hồng, bao gồm dòng họ Nguyễn ở làng Tiên Điền - Nghi Xuân và dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu - Can Lộc, từ đó đưa ra khái niệm Hồng Sơn văn phái Khái niệm này không chỉ liên hệ với Ngô gia văn phái, mà còn mở rộng khái niệm về các tác giả thuộc nhiều dòng họ khác nhau.

“Văn phái” được hiểu là tập hợp các tác giả có điểm chung về không gian địa lý và thời đại, mặc dù không cùng dòng họ Đề xuất của Hoàng Xuân Hãn nhận được sự đồng thuận cao từ giới nghiên cứu, cho thấy đây là một hướng nghiên cứu đầy triển vọng Chúng tôi xem Hồng Sơn văn phái là sự hợp lưu của hai dòng văn nổi bật thế kỷ XVIII - XIX: dòng văn Nguyễn Huy Trường Lưu và dòng văn họ Nguyễn Tiên Điền Hai dòng văn này không chỉ nổi bật mà còn có mối quan hệ gắn bó, liên thuộc với nhau, mở ra khả năng khám phá thêm những dòng văn khác trong cùng bối cảnh.

Dòng văn Trường Lưu là một trong những dòng văn học lớn, được duy trì qua nhiều thế hệ với những tác giả tiêu biểu như Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Quýnh, Nguyễn Huy Tự, Nguyễn Huy Hổ và Nguyễn Huy Vinh Trong bối cảnh phồn thịnh của nền văn học dân tộc vào cuối thời trung đại, dòng văn này thể hiện những đặc trưng riêng biệt Hiện nay, việc nghiên cứu và tìm hiểu về dòng văn Trường Lưu đã trở nên cấp thiết và cần thiết hơn bao giờ hết.

2.1.2 Bối cảnh hình thành dòng văn TrườngLưu

2.1.2.1 Bối cảnh lịch sử, xãhội

Dòng văn Trường Lưu không thể tách rời khỏi bối cảnh lịch sử xã hội mà nó hình thành và phát triển Hà Tĩnh, từ xa xưa, đã đóng vai trò quan trọng trong lịch sử dân tộc, thuộc bộ Cửu Đức thời Hùng Vương Vùng đất này bao gồm các khu vực đồng bằng, núi rừng, ven biển và sông nước, hình thành tự nhiên và phản ánh thực trạng xã hội bộ tộc trước khi bị người phương Bắc xâm chiếm.

Trong suốt nghìn năm Bắc thuộc và các triều đại tiếp theo, các tổ chức hành chính và tên gọi địa giới liên tục thay đổi Năm 598, nhà Tùy đã chinh phục nước Vạn Xuân và đổi tên nhiều châu, quận, trong đó vùng Nghệ Tĩnh được gọi là Hoan Châu Đến năm 1036, triều đại Lý đã chính thức đổi tên Hoan Châu thành châu Nghệ An.

Năm 1831, dưới triều vua Minh Mạng, châu Nghệ An được chia thành hai tỉnh Nghệ An và Hà Tĩnh Tỉnh Hà Tĩnh lúc này bao gồm 2 phủ và 6 huyện, cụ thể là phủ Đức Thọ với các huyện La Sơn, Thiên Lộc, Hương Sơn và Nghi Xuân; phủ Hà Hoa với huyện Thạch Hà và Kỳ Hoa, hiện nay là hai huyện Cẩm Xuyên và Kỳ Anh Đến năm 1852, vua Tự Đức đã bỏ tỉnh Hà Tĩnh và thành lập đạo Hà Tĩnh với các huyện Thạch Hà, Cẩm Xuyên và Kỳ Anh Năm 1874, vua Tự Đức tiếp tục điều chỉnh hành chính trong khu vực này.

Hà Tĩnh được tái lập vào năm 1991 sau khi tách ra từ tỉnh Nghệ Tĩnh, vốn được hình thành từ sự hợp nhất của Nghệ An và Hà Tĩnh vào năm 1976 Sự kiện này đánh dấu một bước quan trọng trong việc khôi phục và phát triển tỉnh Hà Tĩnh.

Quátrìnhvậnđộng,pháttriểncủadòngvănTrườngLưu

Dòng họ Nguyễn Huy bắt đầu định cư tại làng Tràng Lưu từ giữa thế kỷ XV, nơi đã có sự hiện diện của các dòng họ khác như Trần, Lê, Phan, và Trịnh Việc chọn lựa Tràng Lưu, với phong thủy tốt, đất đai màu mỡ và cảnh quan đẹp, cho thấy sự tính toán kỹ lưỡng của những người đầu tiên định cư tại đây nhằm xây dựng cuộc sống ổn định và thịnh vượng.

Cụ Nguyễn Uyên Hậu có con trai là Nguyễn Hàm Hằng (1454 - ?), hiệu Thận Minh, thụy Thận Tiết Ông đỗ Hương cống năm 15 tuổi (1468) và thi Hội đậu Tam trường năm 16 tuổi (1469) Nguyễn Hàm Hằng kết hôn với con gái đầu của Tiến sĩ Nguyễn Tâm Hoằng, người làng Vĩnh Gia Sự kết nối thông gia giữa hai họ Nguyễn đã tạo điều kiện cho sự phát triển mạnh mẽ của các thế hệ sau Từ đây, con cháu ngày càng đông đúc, số người có học và đỗ đạt tăng lên, góp phần làm cho làng Tràng Lưu trở nên trù phú và văn hóa phát triển.

Trong gần 180 năm đầu tiên, từ đời thứ nhất đến đời thứ bảy, dòng họ Nguyễn đã phát triển vượt trội so với các dòng họ khác trong vùng, với nhiều cá nhân đảm nhận các chức vụ trong triều đình và địa phương như Nguyễn Uyên Hậu, Nguyễn Hàm Hằng, Nguyễn Công Ban, và Nguyễn Công Phác Đặc biệt, cụ Nguyễn Uyên Hậu được coi là người khởi xướng việc học hành tại đất Tràng Lưu, đánh dấu thời kỳ định hình và đặt nền móng cho sự phát triển của dòng văn Trường Lưu.

Thời kỳ phôi thai của dòng văn Trường Lưu kéo dài khoảng 50 năm, từ cuối thế kỷ XVI đến giữa thế kỷ XVII, với những tác giả nổi bật như Nguyễn Công Ban (1630 - 1711), người viết bài thơ "Trí sĩ tạ triều đường thi" để cảm tạ triều đình, Nguyễn Công Phác (1649 - 1706) với tác phẩm "Thái Sơn công tiến triều trướng văn" mừng Thái Sơn công được tiến triều, và Nguyễn Huy Tựu (1690 - 1750).

Trong thời kỳ chiến tranh giữa hai lực lượng Lê - Trịnh ở Đàng Ngoài và chúa Nguyễn ở Đàng Trong, Hà Tĩnh trở thành một vùng đất chiến lược Dù văn hóa và văn học gặp nhiều khó khăn, sự phát triển của dòng họ Nguyễn Huy ở Trường Lưu cùng các dòng họ khác tại Hà Tĩnh thể hiện nỗ lực lớn trong bối cảnh này Tuy nhiên, do chưa có người đỗ đạt cao và ít tiếp xúc với văn hóa kinh kỳ, văn hóa Trung Hoa, các tác phẩm của dòng văn Trường Lưu thời kỳ này chủ yếu chỉ dừng lại ở những bài thơ tự sự và cảm tác, chưa đạt giá trị nghệ thuật cao.

Về Nguyễn Công Ban:Ông hiệu là Lỵ Pháp, thụy Trung Cần, sinh ngày

Vào ngày 20 tháng Bảy năm Canh Ngọ (1630), Nguyễn Công Ban, thế hệ thứ bảy của dòng họ Nguyễn tại làng Trường Lưu, ra đời Cha của ông, Nguyễn Như Thạch (1579 - 1662), là một người có học vấn, đỗ Hương giải năm 1602 và từng giữ chức Lang trung bộ Hình, được phong tặng Đặc tiến kim tử vinh lộc đại phu cùng tước hiệu Mỹ Lương tử Mẹ của ông cũng thuộc dòng họ Nguyễn, trong khi ông nội, Nguyễn Thừa Hưu, là một Hiệu sinh và từng đảm nhiệm chức Tham tướng thần sự.

Vợ Nguyễn Công Ban là Dương Thị Xa, con gái thứ năm của Dương Trí Trạch

Người làng Yên Huy, nay thuộc xã Khánh Vĩnh Yên, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh, sinh năm 1586 và mất năm 1662, đã đỗ Tiến sĩ khoa Kỷ Mùi vào năm 1619 Ông từng giữ chức vụ quan trọng là Lại bộ Thượng thư và Thái bảo, được phong tước Bạt quận công Mẹ của ông, Dương Thị Xa, là con gái thứ 10 của Tể tướng, Quận công Nguyễn Văn Giai, một nhân vật nổi bật trong lịch sử Việt Nam (1554-1628).

Tiểu sử của Nguyễn Công Ban được con trai trưởng là Nguyễn Công Phác (1649 -

Vào năm 1706, Nho sinh được phong tặng chức Đông các Đại học sĩ và tước Lộc Thọ nam, đại diện cho Hội Văn huyện La Giang soạn bài Trướng mừng nhân dịp Nguyễn Công Ban được tiến triều năm Giáp Tuất, niên hiệu Chính Hòa thứ 14 (1693) Bài Trướng này được Bồi tụng, Tả thị lang bộ Hộ Nguyễn Tiến Tài (1642 - 1698) soạn thảo, ông quê ở xã Nhân Vực, huyện Thanh Chương, nay thuộc tỉnh Nghệ An.

An, từng đi sứ nhà Thanh, tước Yên Dũng nam, hiệu đính.

Nguyễn Công Ban bắt đầu học từ năm sáu tuổi dưới sự dạy dỗ của Tri huyện Hoàng Trần Sĩ Triêm và người anh họ Nguyễn Thế Bình Năm 15 tuổi, ông ra Bắc để tiếp tục học tập Đến năm Giáp Ngọ (1654), ông tham gia kỳ thi Hương và đỗ tứ trường Ba năm sau, vào năm Đinh Dậu (1657), ông tham gia kỳ thi do vua ra đề và được chọn vào hạng “ưu”, chính thức bước vào con đường quan trường.

Nguyễn Công Ban, một nhân vật quan trọng trong triều đình, đã có nhiều bước thăng tiến trong sự nghiệp quan trường từ năm 1658 đến 1692 Ông được thăng chức Hàn lâm Tu soạn vào năm 1658, tiếp theo là đỗ khoa Sĩ vọng năm 1665 và trở thành Hiến sát phó sứ Năm 1670, ông thăng chức Lang trung bộ Hình, và đến năm 1674, ông giữ chức Tán trị Thừa chính sứ Tham nghị xứ Hưng Hóa Đến năm 1686, ông trở thành Đô tổng binh sứ tại Cao Bằng và được thăng chức Đồng tri Đô tổng binh năm 1688 nhờ những công lao quân sự Năm 1689, ông được giao nhiệm vụ xem xét quy định thuế cho dân bốn châu ở Cao Bằng, và năm 1692, ông trở lại làm quan tại triều giữ chức Giám sát ngự sử đạo Lạng Sơn, thay mặt triều đình giải quyết công việc địa phương Nguyễn Công Ban cũng để lại dấu ấn với bài thơ nổi tiếng "Trí sĩ tạ triều đường" trong thời kỳ đó.

Nguyễn Công Phác, hiệu Tri Học, sinh năm 1649, là con trai trưởng của Nguyễn Công Ban và bà Dương Thị Xa Ông có hai vợ đều là người Bắc Ninh: vợ cả Nguyễn Thị Giang, còn gọi là bà Tuyết Nương, người Văn Giang, sinh ra Nguyễn Công Xuân (1688 - ?), và vợ thứ Nguyễn Thị Bẩm (1669 - 1743), còn gọi là bà Đức Cẩn, người phủ Thuận An, sinh ra Nguyễn Huy Tựu (1690 - 1750).

Hiện chưa có tài liệu cụ thể về quá trình học hành, thi cử và hoạt động xã hội của Nguyễn Công Phác, chỉ biết rằng ông được ghi nhận là Nho sinh trong gia phả mà không có thông tin về các kỳ thi mà ông tham gia Tuy nhiên, qua bài viết "Nguyễn Thám hoa gia phổ ký" của Nguyễn Huy Oánh, ta biết rằng Nguyễn Huy Tựu sinh ra ở kinh thành, điều này gợi ý rằng Nguyễn Công Phác có thể đã sống ở miền Bắc trong một thời gian dài Ông mất vào ngày 3 tháng 10 năm 1706, thọ 58 tuổi.

Thơ văn của Nguyễn Công Phác hiện đã được khám phá với bài Trướng nóitrên, chia thành ba phần Phần đầu giới thiệu về gia thế của Nguyễn Công Ban, trong khi phần hai cung cấp tiểu sử và hành trạng của ông từ khi bắt đầu đi học vào năm 1635, cho đến khi thi đỗ các khoa Hương cống, Sĩ vọng, và Hoànht.

Sau 40 năm cống hiến trong sự nghiệp, tôi đã quyết định xin về nghỉ hưu Nhân dịp này, Hội Văn huyện La Giang đã gửi lời chúc mừng, trong đó có sự hiện diện của nhiều bạn bè đồng nghiệp và đồng khoa.

Nguyễn Công Phác, cùng với cha là Nguyễn Công Ban và con là Nguyễn Huy Tựu, đã đóng góp quan trọng vào sự hình thành của dòng văn Trường Lưu.

Về Nguyễn Huy Tựu:Ông sinh ngày 7 tháng 6 năm Canh Ngọ (1690), hiệu Túy

PhụngsứYênĐàitổngcavàHoàngHoasứtrìnhđồcủaNguyễnHuyOánh

3.1.1 Phụng sứ Yên Đài tổngca

3.1.1.1 Tình hình văn bản của tácphẩm

Phụng sứ Yên đài tổng ca, còn được biết đến với tên gọi "Nguyễn Thám Hoa thi tập" do Phan Huy Chú đặt, là một tập nhật ký thơ của Nguyễn Huy Oánh Tác phẩm này được sáng tác trong chuyến đi sứ sang Bắc Kinh vào năm 1766, bao gồm 470 câu thơ lục bát viết bằng chữ Hán.

"Tổng ca" ghi lại toàn bộ cuộc hành trình của sứ bộ sang Bắc Kinh năm 1766, kết hợp với 120 bài thơ chữ Hán không tiêu đề nhưng có lời dẫn cụ thể Ví dụ, vào ngày lên đường, tác giả đã ghi lại những cảm xúc và suy nghĩ của mình.

Chuyên cần lao khổ chí không mòn,Đường thẳm vời xa thắng ngựa bon Vạn dặm quan hà chân đã nhẵn, Tấc lòng sắc đá đỏ nhưson

Nguyễn Huy Oánh đã ghi chép lại một cách chi tiết những sự kiện diễn ra trong hành trình đi sứ của mình Ông thường sáng tác thơ ca để thể hiện cảm xúc mỗi khi đặt chân đến các vùng miền khác nhau.

Phụng sứ Yên đài tổng cado Nguyễn Huy Tự chép lại, Nguyễn Huy

Vượng, người làng Hồng Lục, Hải Dương, đã khắc in ba bản, trong đó có hai bản chép tay lưu giữ tại thư viện Viện Hán Nôm và một bản in tại Thư viện Quốc gia Phụng sứ Yên đài tổng đã được Trần Bá Chí dịch vào năm 1997, sau đó được Lại Văn Hùng và Nguyễn Thanh Tùng biên dịch và xuất bản bởi Nhà xuất bản Khoa học xã hội vào năm 2014.

Trong suốt 10 năm qua, việc nghiên cứu Phụng sứ Yên đài tổng ca đã thu hút sự chú ý đáng kể, đặc biệt khi Nguyễn Huy Mỹ bắt đầu công bố các tư liệu về dòng văn Trường Lưu Hiện tại, Phụng sứ Yên đài tổng ca đã được công bố rộng rãi và nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau, đồng thời nhận được sự quan tâm từ các cơ quan ngoại giao của Việt Nam.

3.1.1.2 Giá trị và ý nghĩa nhiều mặt của Phụng sứ Yên đài tổngca

Phụng sứ Yên đài tổng cacó là một tập thơ có dung lượng lớn và chứa đựng nhiều thông tin phong phú về nhật ký hành trình, quan niệm bang giao, và miêu tả thiên nhiên, xã hội Trung Hoa Tập thơ này không chỉ mang tính chất ký sự mà còn thể hiện cảm xúc sâu sắc của tác giả Nguyễn Huy Oánh trước cảnh vật Theo Đinh Khắc Thuân, tác phẩm có giá trị sử liệu quan trọng, giúp người đọc hiểu rõ hơn về hành trình đi sứ trong quá khứ.

Phụng sứ Yên đài đã ghi nhận cuộc đấu tranh của Nguyễn Huy Oánh nhằm khẳng định vị thế của mình ngang hàng với sứ thần Cao Ly Vào ngày 23, ông đã dâng biểu để thể hiện yêu cầu này.

Vào ngày Mồng 1 tháng Giêng năm Đinh Hợi (1767), sứ thần Việt Nam đã được phép tiến lễ cùng với sứ thần Cao Ly, đánh dấu một bước tiến quan trọng khi Việt Nam được nâng lên ngang hàng với Cao Ly, điều chưa từng xảy ra trước đây Quan Tả thị Bộ Lễ đã thông báo rằng sứ thần nước ta sẽ vào hàng phẩm sơn thứ 4, cùng bái chầu với sứ thần Cao Ly.

Trong các cuộc gặp gỡ với sứ giả và văn sĩ Nhật Bản, Nguyễn Huy Oánh không chỉ trao đổi thơ văn mà còn khéo léo đề cập đến các vấn đề chính trị giữa hai nước Ngoài nhiệm vụ ngoại giao với Trung Quốc, ông còn mở rộng mối quan hệ với các nước đồng văn khác, nhờ vào sự tương quan chính trị gần gũi Điều này đã giúp cải thiện đáng kể vị thế của Việt Nam trong các mối quan hệ ngoại giao trước đây.

Phụng sứ Yên đài tổng cacho đã ghi nhận những nét đẹp và tinh tế trong văn hóa ứng xử của Nguyễn Huy Oánh và đoàn sứ bộ Việt Nam đối với các nước đồng văn như Nhật Bản, Triều Tiên và đặc biệt là Trung Hoa Nguyễn Huy Oánh không chỉ thể hiện bản lĩnh vững vàng và tri thức uyên bác mà còn luôn tôn trọng và thể hiện tinh thần hòa hiếu, hòa bình khi giao tiếp với các sứ thần nước ngoài.

Phụng sứ Yên đài tổng ca được viết bằng chữ Hán nhưng theo thể lục bát, một thể loại thuần Việt Lục bát, thường được viết bằng chữ Nôm hoặc chữ Quốc ngữ trong thời hiện đại, được Nguyễn Huy Oánh sáng tạo khi kết hợp lục bát vào thơ chữ Hán, thể hiện ý thức Việt hóa và tinh thần dân tộc Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh giao lưu văn hóa của thời kỳ đó.

Phụng sứ Yên đài tổng cavilà một tác phẩm mang đậm tính miêu thuật và tự sự, thể hiện tâm hồn nhạy cảm của tác giả trước vẻ đẹp của thiên nhiên và tình người Tập thơ gợi lên những cảm xúc dào dạt, đặc biệt là nỗi nhớ quê hương khi ở đất khách Ví dụ, vào ngày Trung Thu 15 tháng Tám, Nguyễn Huy Oánh đã viết về không khí thu tại phủ Bình Lạc, tạo nên sự xúc động sâu sắc trong lòng người đọc.

Quy tâm tự hỏa bất thành miên, Huống phục trung thu nguyệt chính viên.Vi phú tra thi tiêu thử tịch, Cưỡng miêu hảo cảnh chí đương niên

(Lòng muốn về như lửa đốt khiến ta không ngủ được, Huống chi lại gặp đêm trung thu trăng tròn quá.

Làm bài thơ trên bè nổi trôi cho qua đêm nay, Gắng miêu tả cảnh đẹp để ghi nhớ năm này)

(Trần Hải Yến dịch nghĩa)

Thể thơ lục bát, cùng với thể thơ song thất lục bát, được viết bằng chữ Hán, là sản phẩm độc đáo của văn học Việt Nam Sự xuất hiện của thể thơ này không chỉ làm phong phú thêm văn học viết Việt Nam thời trung đại mà còn mở rộng phạm vi sử dụng của cả hai thể thơ Điều này khẳng định vị trí quan trọng của lục bát trong lịch sử phát triển văn học dân tộc.

3.1.2.1 Tình hình văn bản Hoàng Hoa sứ trìnhđồ

Hoàng Hoa sứ trình đồ là một tập bản đồ quý giá ghi lại hành trình đi sứ của sứ thần Đại Việt thế kỷ XVIII, được biên tập và chú thích bởi Nguyễn Huy Oánh từ năm 1765 đến 1768 Tài liệu này không chỉ chứa đựng hình ảnh và thông tin phong phú, mà còn bổ sung những chi tiết quan trọng về chuyến đi sứ năm 1766 - 1767, trong đó ông giữ vai trò Chánh sứ.

Từ năm 1758, Nguyễn Huy Oánh đã chuẩn bị kỹ lưỡng cho chuyến đi sứ năm 1765 bằng cách sưu tầm tư liệu từ các đoàn sứ bộ trước, bao gồm cả tư liệu của thầy ông là Nguyễn Tông Quai Trong thời gian đi sứ, ông đã dành nhiều thời gian để nghiên cứu, chỉnh sửa và biên tập thành một tập bản đồ mang tên Hoàng Hoa sứ trình đồ Tập bản đồ này không chỉ ghi chép dưới dạng sách mà còn thể hiện sự kế thừa và sáng tạo lớn của Chánh sứ Nguyễn Huy Oánh trong giai đoạn 1765-1767.

Hoàng Hoa sứ trình đồgồm các nội dung chính:Hoàng Hoa dịch lộ đồthuyết/皇華 驛路 圖說(Thuyếtminhhànhtrình),Lưỡngkinhtrìnhlộca/兩京 程路

Hoatiên củaNguyễnH u y Tự

3.2.1 Tình hình văn bản truyện Hoatiên

Tác phẩm "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự, được viết trong thời trẻ, thể hiện một cảm hứng trữ tình sâu sắc, khát khao tự do yêu đương và hạnh phúc lứa đôi, vượt ra ngoài khuôn khổ lễ giáo Mặc dù cốt truyện xuất phát từ một tác phẩm Trung Quốc, nhưng Nguyễn Huy Tự đã sáng tạo nên một truyện thơ độc đáo với nhiều trang tả cảnh, tả tình đặc sắc Bản Nôm "Hoa tiên ký" do Đào Duy Anh tìm thấy vào năm 1943 vẫn giữ nguyên giá trị, mặc dù đã qua một số lần chỉnh sửa Tác phẩm không chỉ giữ nguyên cốt truyện mà còn chuyển thể từ thể văn “kể và thuật” sang thể loại “tả và gợi”, thể hiện sự sáng tạo lớn của tác giả Hệ thống nhân vật trong "Hoa tiên ký" được khắc họa sâu sắc, sinh động và chân thật, với ngôn ngữ đạt bước tiến đáng kể so với truyện Nôm trước đó, chứng minh khả năng biểu cảm của tiếng Việt vào giữa thế kỷ XVIII.

Ngay sau khi tác phẩm "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự ra đời, Nguyễn Thiện đã tiếp cận và thực hiện việc nhuận chính đầu tiên trong khoảng 10 năm cuối thế kỷ XVIII Đến đầu thế kỷ XIX, tác phẩm này đã được lưu hành rộng rãi Hoàng Xuân Hãn đã đặt ra câu hỏi về mức độ nhuận sắc của tác phẩm, nhưng hiện nay không thể xác định rõ ràng.

Nguyễn Thiện đã chỉnh sửa và bổ sung hơn 230 câu so với bản Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, cho thấy sự phát triển rõ rệt trong tác phẩm Ông không chỉ bỏ qua việc phân chia theo các hồi như bản gốc mà còn tinh lọc ngôn ngữ, tạo nên sự sinh động và uyển chuyển Kết cấu tác phẩm trở nên hoàn chỉnh và gần gũi với hiện đại hơn Do đó, trong khi Nguyễn Huy Tự là người khởi thảo, thì Nguyễn Thiện chính là người hoàn thiện và nâng tầm Hoa tiên.

Tiếp theo Nguyễn Thiện là Vũ Đãi Vấn cũng tham gia nhuận sắcHoa tiêntruyện.Trong bài tựaHoa tiên kýviết năm 1829, Vũ Đãi Vấn ghi rõ: “Nguyễn

Công ở tổng Lai Thạch huyện La Sơn được thực hiện lần đầu bằng quốc âm, với Nguyễn Thiện từ làng Tiên Điền tham gia Tuy nhiên, Vũ Đãi Vấn không hài lòng với công phu của những người trước, nên đã quyết định "không quản mình thiển lậu mà đem thêm bớt, thay đổi, sửa chữa" để hoàn thiện bản nhuận sắc Bản nhuận sắc của Vũ Đãi Vấn có độ dài 1860 câu.

Sau hai lần chỉnh sửa của Nguyễn Thiện và Vũ Đãi Vấn, tác phẩm "Hoa Tiên" còn được Cao Bá Quát (1808 - 1855) sửa đổi và đề tựa vào năm 1843 Ông cho rằng "Hoa Tiên" có ảnh hưởng lớn đến sự ra đời của "Kim Vân Kiều", nhấn mạnh rằng chính nhờ "Hoa Tiên" mà "Kim Vân Kiều" mới được sáng tác sau này.

Sau khi Hoa Tiên ra đời, Nguyễn Thiện chỉ chú trọng vào việc nhuận sắc mà không đưa ra bất kỳ lời bình luận nào Tiếp theo, Vũ Đãi Vấn và Cao Bá Quát cũng có những đóng góp đáng chú ý trong lĩnh vực này.

Tản Đà, Nguyễn Khắc Hiếu và Dương Quảng Hàm đã có những nhận định sâu sắc về tác phẩm "Hoa tiên", coi đây là một thiên tình sử đẹp giữa Lương Phương Châu và Dương Dao Tiên Cao Bá Quát trong lời tựa đã nhấn mạnh rằng câu chuyện phản ánh sự gắn bó giữa các mối quan hệ như cha con, vua tôi, bạn bè và anh em, đồng thời đề cập đến những vấn đề lớn nhỏ trong xã hội Đặng Thanh Lê cũng khẳng định rằng "Hoa tiên" không chỉ là một ca khúc tình yêu mà còn là bản dạo đầu cho thể loại thơ Nôm thời kỳ trung đại, đánh dấu sự chuyển mình của văn học trong giai đoạn này.

Trong quá khứ, việc nghiên cứu và phổ biến tác phẩm của Hoa Tiên còn hạn chế, thậm chí có lúc bị lãng quên Hoài Thanh đã chỉ ra rằng, mặc dù Hoa Tiên được biết đến bởi một bộ phận công chúng, nhưng lý do chính có thể không chỉ vì ngôn ngữ của tác phẩm chưa phổ cập Thái Kim Đỉnh cũng có những quan điểm riêng về vấn đề này, nhấn mạnh sự cần thiết phải nhìn nhận lại giá trị của tác phẩm trong bối cảnh văn học.

Nguyên bản Hoa Tiên ký của Nguyễn Huy Tự đã không được phổ biến rộng rãi, có thể do tác giả không cho phép vì ông coi đây là “sự sai lầm” của mình Ở tuổi cao, ông thường nhắc nhở con trai Nguyễn Huy Vinh rằng: “Taxưa từng đọc lầm, hay để lại di loạn tính tình, anh với con cháu thì chớ, thì chớ!” Điều này cũng lý giải cho việc Luận án tập trung nghiên cứu sâu sắc hơn về tác phẩm này.

3.2.2 Đặc sắc nội dung cảm hứng và nghệ thuật thể hiện của Hoatiên Hoa tiênkể về mối tình giữa Lương Phương Châu và Dương Dao Tiên Lương sinh, con quan tể tướng người Tô Châu, thông minh, học giỏi Chàng đến trọ học tại nhà người cậu ở Tràng Châu Một đêm, dạo bước dưới ánh trăng, chàng tình cờ gặp mấy cô gái đánh cờ bên đình, trong đó có Dao Tiên, con quan đô đốc họ Dương đang trị nhậm ở Tràng Châu, bèn đem lòng thương nhớ Chàng nhờ hai cô hầu gái của Dao Tiên là Vân Hướng và Bích Nguyệt giúp đỡ làmquen.

Trong một lần đến thăm nhà họ Dương, Lương sinh đã cảm hứng sáng tác bài thơ gửi gắm tình cảm của mình đến Dao Tiên, khi thấy bài thơ của nàng trên tường Đọc bài thơ của Lương sinh, Dao Tiên cảm động và hai cô hầu gái cũng tích cực ủng hộ Vào một đêm trăng đẹp, Lương sinh đã mạnh dạn bày tỏ tình cảm với Dao Tiên Sau những phút ngại ngùng ban đầu, cả hai đã thề nguyền bên nhau, có sự chứng giám của hai cô hầu gái, và lời thề được ghi lại trên giấy hoa tiên.

Lương công trên đường về trí sĩ đã gặp Lưu công và hỏi về con gái ông, Lưu Ngọc Khanh, để gả cho Lương Sinh Dù rất đau khổ, Lương Sinh không thể trái lời cha và phải tuân theo gia pháp Khi biết tin Lương Sinh đính hôn với người khác, Dao Tiên cảm thấy uất ức và trách móc chàng bội ước Trong thời gian này, Dương công phải lên kinh đô nhậm chức và đưa mẹ con Dao Tiên đến ở nhờ người cậu họ Tiền Lương Sinh quay lại Tràng Châu tìm Dao Tiên nhưng không gặp, khiến chàng chán nản và bỏ bê học hành Nhờ sự khuyên nhủ của Diêu Sinh, Lương Sinh đã thi đậu và được bổ làm quan ở kinh đô, tình cờ sống gần nhà Dao Tiên Hai người gặp nhau và kể lại mọi chuyện Lúc này, Dương công đang chiến đấu ở chiến trường và bị giặc vây Lương Sinh xin ra trận để giải vây cho Dương công, nhằm thể hiện tấm lòng với người yêu cũ, nhưng không may cũng bị giặc vây.

Ngọc Khanh, nghe tin Lương sinh tử trận, quyết thề thủ tiết nhưng bị mẹ ép tái giá Trong lúc tuyệt vọng, nàng nhảy xuống sông tự vẫn nhưng được thuyền của quan Long Đề học đi qua cứu sống Diêu sinh, không chịu ngồi yên, xin ra trận và liên lạc với Lương sinh cùng Dương công để phối hợp đánh bại quân địch.

Trong buổi tiệc ăn mừng chiến thắng, vua biết được mối tình giữa Lương sinh và Dao Tiên, đồng thời nhận tin Lưu Ngọc Khanh đã tự tử, nên quyết định cho Lương sinh và Dao Tiên kết hôn Khi thuyền của quan Long Đề học đến kinh đô, Lưu Ngọc Khanh dự định đi tu sau khi biết tin Lương sinh đã cưới Dao Tiên Tuy nhiên, Long Đề học đã dâng sớ lên vua, và vua lại cho Lưu Ngọc Khanh kết duyên với Lương sinh Nhận thấy công lao của hai nàng hầu Vân Hướng và Bích Nguyệt, Lương sinh cũng đã cưới hai nàng làm vợ lẽ Từ đó, gia đình họ sống trong hạnh phúc và đoàn viên.

Trong lịch sử văn học Việt Nam, tác phẩm Hoa tiên nổi bật với chủ đề tình yêu đôi lứa và khát vọng tự do yêu đương, điều mà trước đó ít tác phẩm nào đề cập đến Được viết bằng thể lục bát dưới hình thức truyện thơ Nôm, Hoa tiên được coi là câu chuyện tình yêu tự do đầu tiên trong kho tàng văn học thành văn nước ta Sự hấp dẫn của tác phẩm nằm ở cách mà Nguyễn Huy Tự khéo léo xử lý những mâu thuẫn giữa cá nhân và lễ giáo phong kiến, mặc dù bị chi phối bởi tư tưởng của một nhà nho Tác phẩm phản ánh sự đấu tranh giữa con người cá nhân và những ràng buộc của xã hội, cho thấy rằng trong bối cảnh gia đình và lễ giáo, con người vẫn có khát vọng tự do yêu thương.

Maiđìnhmộng ký củaNguyễnHuyHổ

3.3.1 Sự ra đời Mai đình mộng ký và tình hình văn bản tácphẩm

"Mai đình mộng ký" của Nguyễn Huy Hổ được sáng tác cách đây hơn 200 năm, vào khoảng năm 1809 Thời điểm này trùng với giai đoạn tác giả sống tại quê nhà, trước khi ông vào cung làm thuốc khi đã 40 tuổi Tác phẩm phản ánh những trải nghiệm và tâm tư của ông trong thời kỳ này.

Trong cuốn "Nguyễn Huy Hổ với Mai đình mộng ký" do Lại Văn Hùng phiên âm và dịch chú, tác phẩm ra đời trong một chuyến du xuân vào mùa xuân năm Kỷ Tỵ (1809) Tác giả đã đến thăm người anh Nguyễn Huy Vinh ở Nam Đàn để chúc mừng nhà học mới dựng ở núi Chung Sơn Trên đường đi, tác giả dừng chân tại phố Phù Thạch và được người thân chở thuyền dọc sông Lam Với bầu trời trong xanh, gió mát và ánh trăng sáng, tác giả đã cùng bọn trẻ thưởng thức rượu, không ngờ say thiếp đi và mơ về Đình Mai Tác phẩm nhấn mạnh rằng nam nhi sống trong trời đất cần phải có công danh trước khi nghĩ đến những điều khác, như Lương Sinh và Kim Trọng.

Trong bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời kỳ này, việc lập công danh trở nên vô cùng khó khăn Công danh của nho sĩ không có lựa chọn nào khác ngoài việc thi đỗ và làm quan Tuy nhiên, từ khi nhà Lê tổ chức khoa thi Hội cuối cùng vào năm 1787 cho đến khi nhà Nguyễn mở khoa thi Hội đầu tiên vào năm 1822, đã có 35 năm không có đại khoa nào Thời gian này chứng kiến sự mất phương hướng, khủng hoảng và sự suy giảm học phong của kẻ sĩ Những người có tài năng như Nguyễn Huy Hổ và Nguyễn Huy Vinh không có cơ hội để thể hiện khả năng của mình, khi những năm tuổi trẻ của họ trôi qua trong hoàn cảnh khó khăn như vậy.

Theo quan niệm của Hoàng Xuân Hãn và những nhà nho như Nguyễn Huy Hổ, việc mơ thấy người đẹp được xem là mơ gặp thánh nhân Trong Nho giáo, thánh nhân là người tài đức, xứng đáng làm vua Cô gái đẹp trong giấc mơ tượng trưng cho những phẩm hạnh cao quý và lý tưởng lãnh đạo.

Giấc mơ Đình Mai thể hiện khát khao lập công danh và ước vọng gặp người đẹp chung tình của tác giả, phản ánh hình ảnh một kẻ sĩ không gặp thời Đây chính là nguyên nhân khiến cho giấc mơ của Mai đình chỉ còn là một ước mơ đẹp, không thể trở thành hiện thực.

Mai đình mộng ký là một tác phẩm văn học ít được biết đến, mặc dù Hoàng Xuân Hãn đã nhấn mạnh rằng nhiều người biết đến Kiều và Hoa tiên Ông bày tỏ sự ngạc nhiên trước việc một áng văn hay lại bị lãng quên trong suốt gần một thế kỷ rưỡi Điều này đặt ra câu hỏi về sự công bằng trong việc bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, và chúng ta cần xem xét lại sự thiếu sót này để đưa tác phẩm trở lại với độc giả.

3.3.2 Nội dung và giá trị nghệ thuật của Mai đình mộngký

Câu chuyện "Mai đình mộng ký" được Hoàng Xuân Hãn tóm lược, kể về một tác giả lạc vào một lâu đài đẹp đẽ, nơi có đình Thưởng Mai với một thiếu nữ đề thơ Khi tác giả quyết định vào trong đình, cảnh vật như cõi tiên và gặp một tiểu hoàn cùng phu nhân Tác giả chia sẻ về quê quán và thân thế, phu nhân khuyên ông nên học hành để có duyên với con gái bà Mặc dù nội dung đơn giản, nhưng qua ngòi bút của Nguyễn Huy Hổ, tác phẩm đã trở thành một truyện thơ Nôm có giá trị, nổi bật với cốt truyện độc đáo, ngôn từ tinh tế, bút pháp tả cảnh đặc sắc và khả năng tạo dựng không gian kỳ ảo.

Nguyễn Huy Hổ, một nhà nho tâm hồn nghệ sĩ, luôn trăn trở về quê hương với nhiều thắng cảnh nổi tiếng, chắc chắn đã có những chuyến du lịch thú vị Giữa khung cảnh thiên nhiên tuyệt đẹp, ông đã trải qua những giấc mộng đẹp trong lúc say sưa giữa dòng sông nước hữu tình.

Giang thành đã vang lên tiếng canh gà, trong giấc mơ, tôi bất chợt thấy một tình huống lạ lùng Tôi tưởng mình lạc lối giữa nguồn Đào, nơi mà những kỷ niệm và cảm xúc ùa về, khiến lòng tôi tràn đầy hoài niệm.

Khi ra động khẩu, khi vào Bồng, Doanh.

Trong giấc mơ, tác giả lạc vào một nơi có lâu đài và cảnh vật tuyệt đẹp, đến đình "thưởng mai" nơi có giấy bút và một tiểu thư vừa sáng tác thơ Khi thấy tác giả, nàng lướt về mái Tây hiên, để lại hương thơm khiến khách thơ cảm thấy luyến tiếc Không kìm lòng, tác giả sáng tác một bài thơ đối đáp và quyết định vào đình, nơi khung cảnh như cõi tiên Tại đây, gặp một tiểu hoàn, tác giả nhờ gửi bài thơ và chờ đợi hồi đáp Tiểu hoàn quay lại thông báo phu nhân mời tác giả vào sảnh Sau khi trình bày về quê quán và thân thế, phu nhân cảm thông với tác giả và khuyên nên học hành, thi đỗ để có duyên với con gái bà.

Theo lời phu nhân, bà rất hài lòng về cuộc nhân duyên giữa chàng và con gái bà.

Bà tin rằng sự xuất hiện của Nguyễn Huy Hổ tại nơi đây là do duyên trời định Đọc hai bài thơ xướng họa của họ, bà càng nhận thấy sự tâm đầu ý hợp giữa hai người, khẳng định rằng trai tài gái sắc thật sự là một cặp xứng đôi.

Giấc mộng của thi nhân, giống như giấc mộng của Chu sinh về việc trở thành phò mã và lấy công chúa, cũng mang đến vẻ đẹp huyền ảo Không gian trong giấc mộng ấy là một miền tiên cảnh, nơi con người và thiên nhiên đều tỏa sáng vẻ đẹp thanh tao, khác biệt hoàn toàn với thế giới hỗn loạn và ô nhiễm hiện tại.

Tưởng mình lạc lối nguồn Đào, Khi ra Động Khẩu, khi vào Bồng, Doanh

Biển đâu nét tạc rành rành, Đề ba chữ “Thưởng Mai Đình” vàng tương.

Thi nhân mô tả một nơi như động đào nguyên, với cửa vào vách cao và dòng suối ngăn cách cảnh tiên với thế giới trần tục Lối vào động rực rỡ hoa cỏ và tiếng chim muông chào đón, dẫn vào cảnh non tiên huyền ảo với rừng tùng, rừng mai, và các công trình kiến trúc như lầu các bảo đài, đình Thưởng Mai Nơi đây không biết đến sự thịnh suy, biến đổi, mà sống thanh thản theo lẽ tự nhiên Hình ảnh "mấy trang lão tùng" tượng trưng cho kiếp sống lâu dài của tiên tử, trái ngược với kiếp sống phù du của cõi trần Các công trình như gác Nghinh phong và lầu túc tiểu gợi nhớ đến cuộc sống thanh cao, không vướng bận trần tục Đặc biệt, hình tượng hoa mai biểu trưng cho vẻ đẹp thanh khiết và cao quý, tượng trưng cho mùa xuân và sự sống sinh sôi theo nhịp tuần hoàn của vũ trụ, trong khi vườn mai và đình thưởng mai chỉ dành cho những tâm hồn cao đẹp, không có chỗ cho kẻ ô trọc.

Người con gái ở đình thưởng mai sở hữu vẻ đẹp tuyệt trần, không được miêu tả chi tiết mà thông qua những hình ảnh ước lệ và biểu trưng như “ngọc chuốt”, “giá thanh”, “báu Triệu”, “châu Tần” Những nét ví von ẩn dụ như “bút thần đã vẽ”, “cõi trần chưa ai”, và “sắc nước hương trời” càng làm nổi bật vẻ đẹp huyền ảo của nàng.

So sánh hai tác phẩm "Hoa tiên" của Nguyễn Huy Tự và "Truyện Kiều" của Nguyễn Du, ta nhận thấy sự khác biệt rõ rệt trong kết cấu, điều này phản ánh tư tưởng của các tác giả Trong khi "Hoa tiên" chỉ là một giấc mơ đẹp và kết thúc ở đó, điều này đặt ra câu hỏi tại sao tác phẩm lại chỉ dừng lại ở một giấc mơ như vậy?

Mở đầuMai đình mộng ký,tác giả viết:

Cuộc phù sinh có bao lăm,Nỡ qua đầu bạc mà lầm tuổixanh.

Duyên tế ngộ, hội công danh,Là hai, với nghĩa chung tình làba.

Chung Sơn di thảo củaNguyễnHuyVinh

3.4.1 Hoàn cảnh ra đời và tình hình văn bản tácphẩm

Chung Sơn di thảo là một tập sách chữ Hán, được chép tay trên giấy dó với kích thước 14cm x 25cm Hiện tại, sách đã bị mục nát ở hai mép gáy mặt trước, dẫn đến việc từ tờ 1 đến tờ 7 có một số bài thơ bị mất chữ, khó có thể phục chế nguyên văn Tờ 1a ghi rõ tên sách là Chung Sơn di thảo, dưới đó ghi chú rằng tác phẩm này do Trà Lĩnh bá Chung Sơn tiên sinh, hiệu là Hy Nhân sáng tác, và con trai thứ Nguyễn Huy Toản, hiệu là Hy Lễ, là người sưu tập.

Nguyễn Huy Vinh (1770 - 1818) là con trai thứ hai của Nguyễn Huy Tự và là anh trai của Nguyễn Huy Hổ Mặc dù thông tin về con đường học vấn và hành trạng của ông còn hạn chế, nhưng có thể khẳng định rằng ông đã có một tuổi thơ êm đềm trong thời kỳ thịnh vượng của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, điều này cho thấy ông được giáo dục và dạy dỗ chu đáo từ các thế hệ trước.

Cuối thế kỷ XVIII, dòng họ Nguyễn Huy phải đối mặt với nhiều biến cố lớn Năm 1785, Nguyễn Huy Quýnh qua đời, tiếp theo là cái chết của ông nội Nguyễn Huy Oánh vào năm 1789, và chỉ một năm sau, cha của ông, Nguyễn Huy Tự, cũng mất Năm 1786, quân Tây Sơn tấn công Bắc Bộ, gây ra sự tàn phá ở vùng Nghệ An và dinh cơ họ Nguyễn ở Tiên Điền Những sự kiện này đã ảnh hưởng sâu sắc đến con đường khoa hoạn và ý thức trách nhiệm phục vụ đất nước của Nguyễn Huy Vinh.

Chung Sơn di thảotập hợp những sáng tác của Nguyễn Huy Vinh được con trai ông là Nguyễn Huy Toản sưu tập trong khoảng năm 1847 – 1865, gồm

Bài viết tổng hợp 54 tác phẩm văn học cổ, bao gồm 26 bài thơ, 2 bài phú, 4 bài tựa, 7 bức thư, 3 bài ký, 1 bài bạt, 1 bài văn tế, 1 truyện và 9 bài tạp trứ, phản ánh sự đa dạng của các thể loại trong nền văn học này.

Chung Sơn di thảohiện đã được in trongNguyễn Huy Vinh với ChungSơn di thảo(do Lại Văn Hùng chủ biên), Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội,2005.

QuaChung Sơn di thảota phản ánh hình ảnh tác giả Nguyễn Huy Vinh, một người tài năng nhưng có lẽ không hợp thời Câu nói “Người cùng thì thơ mới hay” thật sự đúng với trường hợp của ông, thể hiện sự không hanh thông trong sự nghiệp, đặc biệt là việc không ra làm quan Trong bài Tiễn Hạnh Am Phutử tựu Phú Xuân kinh triều yết IV, ông đã thể hiện rõ điều này.

Cùng thông thả dị lộ,Hội hợp an khả thường.

(Người cùng, kẻ đạt vốn đã chia hai ngả khác Gặp được nhau đâu phải dễ dàng)

Hoàn cảnh lịch sử xã hội trong khoảng 15 năm (1787 - 1802) với những

"Cơn phong ba dữ dội" đã làm phân hóa sâu sắc tầng lớp kẻ sĩ, đặc biệt là con cháu các cựu thần nhà Lê - Trịnh Nguyễn Huy Vinh, kế thừa truyền thống gia đình, vừa đối mặt với thuận lợi lẫn thách thức, không khỏi băn khoăn trước thời cuộc Trong khi nhiều người chọn con đường hợp tác với triều đại mới để hưởng vinh quang, ông lại quyết định theo đuổi việc dạy học và sống ẩn dật.

Phiếm phiếm hư chu thâm vị thâm,Cố viên quy khứ ngọa tùng lâm.

(Một chiếcthuyềnnhẹ nổinênh trêndòngnướcnửa sâunửa nông,Quay về nơi vườn cũ nằm khểnh trong rừng tùng)…

3.4.2 Một số đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật thể hiện củaChung Sơn di thảo

Nguyễn Huy Vinh, dù sống ẩn dật, vẫn luôn theo dõi và lắng nghe thời cuộc Trong bài thơ "Hữu cảm", tâm trạng của ông thể hiện rõ nét qua những suy tư về gia thế và thân phận Ông tự hỏi về nguồn cội và ý nghĩa cuộc đời mình, cảm nhận sự đối lập giữa tài năng và hoàn cảnh khắc nghiệt Ông nhớ về những bậc tiền nhân, cảm thấy hổ thẹn khi so sánh với họ, đồng thời nhận ra rằng văn chương và tài năng của người Việt xứng đáng được trân trọng Cuộc sống đầy thử thách như sóng gió, khiến ông băn khoăn không biết phải bám víu vào đâu giữa dòng đời biến động.

Ta cũng đành mặc đẩy đưa chìm nổi/ Cũng phải tùy cảnh ngộ/ Đưa mắt dõi mây trắng/ Động lòng nhớ cõi xưa).

Chung sơn di thảo cho thấy Nguyễn Huy Vinh là người có chí lớn và khí phách Trong một lần gặp gỡ Tử Kính (Nguyễn Hành) cùng các bạn ở Đông Thành, ông đã đáp ứng yêu cầu làm thơ bằng cách cất bút sáng tác.

Viễn du trùng phỏng cựu sơn xuyên.Nam châu vụ tích báo phươngẩn,

Kiều mộc phùng xuân oanh chính thiên.Nghĩ lục tao phùng bôi phiếmhải, Thô hào huy sái khí hoànhthiên

Nhân dịp trở về thăm lại quê hương, những cảnh sắc núi sông xưa hiện lên trong tâm trí Tại miền Nam, sương mù dày đặc che phủ, loài báo đang ẩn mình chờ thời cơ Mùa xuân đến, cây cối đâm chồi nảy lộc, và tiếng chim oanh bay lượn mang lại sức sống mới cho không gian.

Bạn bè gặp gỡ rượu sủi tăm uống tràn như biểnVẫy ngọn bút lông, khí phách ngang trời)…

Nguyễn Huy Vinh cho rằng sự thành bại của một nền chính trị phụ thuộc vào việc xuất phát từ phong tục và truyền thống văn hóa Ông nhấn mạnh rằng, dù có địa lý thuận lợi và tài nguyên phong phú, nếu không đổi mới dân tục, chính trị sẽ không thể thành công Theo ông, động lực chính để cải cách xã hội là dựa vào sĩ phong, tức là tinh thần của tầng lớp trí thức Nếu tầng lớp này yếu kém, xã hội sẽ mãi mãi ở trong tình trạng lạc hậu và kém phát triển.

Nguyễn Huy Vinh, mặc dù sống ẩn dật và chán ghét danh lợi, nhưng ông vẫn mang trong mình khí phách và chí hướng mạnh mẽ Ông không hề thờ ơ với cuộc sống xung quanh, thể hiện tâm trạng của một người tài năng nhưng chưa đạt được ước mơ Đôi khi, ông tự coi mình như một kẻ điên rồ, thể hiện sự tự ti qua câu thơ: “Cuồng giản tự tàm nan trắc cứu”, nhưng cũng có lúc ông tìm thấy niềm vui trong sự say mê của bản thân.

Dưới bóng tùng xanh, có một người đứng độc lập, lặng lẽ ngâm nga bài thơ “Cử tửu trường ca” của Lương Phủ Nỗi buồn xưa cũ như một vết thương, khiến tâm hồn anh trĩu nặng.

Nâng chén ca mãi bàiLương Phủ ngâm.

Vì chàng nối thêm một khúc

Ta có thể làm tiêu tan mối sầu đau đời nay và nhớ tiếc đời xưa của chàng).

Nguyễn Huy Vinh, một người sống ẩn dật giữa núi rừng và thôn quê, luôn hòa mình vào thiên nhiên và cảnh vật xung quanh Ông tìm thấy sự bình yên khi ngắm nhìn những cây thông và đá trắng, đồng thời cảm nhận âm thanh trong trẻo của chim muông Qua những khoảnh khắc tĩnh lặng, ông kết nối với vẻ đẹp vĩnh cửu của thiên nhiên, từ đó nuôi dưỡng tâm hồn và cảm xúc của mình.

(Du Bắc Sơn phú) (Dựa tùng xanh, ngồi đá trắng chừ, lắng tiếng đàn ngàn sáo trong veo

Chao ôi! Ngàn xưa dằng dặc chừ, sao riêng ta một cõi lòng đeo).

Nguyễn Huy Vinh là một tài năng thơ văn bẩm sinh, với bài thơ đầu tay được sáng tác khi mới 9 tuổi, được ghi lại trong tập "Chung Sơn" Trong cùng tập thơ, ông cũng có tác phẩm "Nghĩ cổ" với bài thơ "Trường tương tư" gửi đến Tố Như công, thể hiện sự sáng tạo và cảm hứng nghệ thuật từ sớm.

“Trường tương tư” và “Ký Tố Như” là hai tư liệu quan trọng liên quan đến Nguyễn Du Bài thơ “Nghĩ cổ” của ông Tố Như chứa đựng những suy tư sâu sắc về tình yêu và nỗi nhớ, phản ánh tâm trạng của nhân vật trong tác phẩm Những tác phẩm này không chỉ góp phần làm phong phú thêm di sản văn học Việt Nam mà còn thể hiện tài năng sáng tạo của Nguyễn Du.

Nhớ ngày trước chàng là Trường Lưu hiệp khách,Nay là bậc quý cách Tràng An.

Ngồi khung cửi cầm thoi chẳng dệt,Mải trong mơ thấy thiếp bên chàng.

Nguyễnthịgiatàng

3.5.1 Tình hình văn bản Nguyễn thị giatàng

Mộc bản Trường Lưu, đặc biệt là Mộc bản Trường học Phúc Giang, là một phần không thể thiếu khi nhắc đến dòng văn Trường Lưu Trong đó, Nguyễn Thị Gia Tàng nổi bật với tác phẩm độc đáo, tập hợp nhiều loại hình sáng tác của các tác giả trong dòng văn này, phản ánh giá trị văn học và văn hóa phong phú của dòng họ Trường Lưu.

Trong quá trình thực hiện luận án tại thư viện Viện Sử học, chúng tôi đã phát hiện thêm bản sách Nguyễn thị gia tàng (bản C) Như vậy, Nguyễn thị gia tàng hiện có ba bản: bản A là sách gốc của Nguyễn Huy Vinh, bản B là bản chép lại, và bản C là bản chép tay lưu tại Thư viện Viện Sử học Hai bản A và B được dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu bảo quản.

Vào năm 2019, Nguyễn Thanh Tùng, Lại Văn Hùng và Lê Hữu Nhiệm đã thực hiện việc phiên âm, dịch nghĩa, chú thích và xuất bản sách "Nguyễn thị gia tàng" (bản A), trong đó chứa đựng nhiều nội dung phong phú và ý nghĩa.

Trong lịch sử giáo dục Việt Nam, hai kỳ thi bi ký danh Tiến sĩ Khoa Mậu Thìn 1748 và Khoa Nhâm Thìn 1772 đã ghi dấu ấn quan trọng Khoa Mậu Thìn 1748 nổi bật với sự kiện Nguyễn Huy Oánh đỗ Đình nguyên Thám hoa, trong khi Khoa Nhâm Thìn 1772 ghi nhận thành tích của Nguyễn Huy Quýnh khi ông đạt Tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân Những kỳ thi này không chỉ phản ánh sự phát triển của nền giáo dục mà còn khẳng định tài năng và trí tuệ của các sĩ tử thời bấy giờ.

Bài viết trình bày 6 bài trướng mừng ý nghĩa: Đầu tiên, trướng mừng Nguyễn Công Ban tiến triều do Nguyễn Công Phác soạn tại Văn hội huyện La Sơn Tiếp theo, trướng của các học trò mừng Nguyễn Huy Oánh được khởi phục Thứ ba, trướng của gia đình mừng thọ Nguyễn Huy Oánh 70 tuổi do Nguyễn Huy Quýnh soạn Thứ tư, trướng của nhà thông gia Nguyễn Nghiễm mừng thọ thân mẫu Nguyễn Huy Oánh, bà Phan Thị Trừu, 80 tuổi Thứ năm, trướng của gia đình mừng thọ song thân Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Thị Khoát do Nguyễn Huy Tự soạn Cuối cùng, trướng mừng Nguyễn Huy Quýnh thi đỗ Tiến sĩ do Phạm Nguyễn Du soạn.

Bài viết gồm hai phần trần thuật nổi bật: phần đầu kể về sự kiện gia môn vinh thịnh khi Nguyễn Huy Oánh đỗ Nhất giáp Tiến sĩ cập đệ tam danh (Thám hoa), do Đặng Trần Côn soạn thảo Phần thứ hai mô tả các quan triều đường chúc mừng Nguyễn Huy Oánh về thành tích tri thức của ông, trong đó có hai bài thơ của chính Nguyễn Huy Oánh và 76 bài thơ họa từ các quan trong triều, thể hiện lòng ngưỡng mộ và chúc mừng đối với tài năng của ông.

- 2 bài hành trạng: 1, Hành trạng Nguyễn Huy Oánh do Nguyễn Huy Vinh soạn; 2, Hành trạng Nguyễn Huy Quýnh do Nguyễn Huy Hàosoạn.

- 2 gia truyện: 1, Gia truyện về tiên quân Đốc đồng (Nguyễn Huy Tự) và Gia truyện Liệt phu nhân (Nguyễn Thị Bành) do Nguyễn Huy Vinhsoạn.

- 2 bài thơ đặc tứ của chúa Trịnh (1 bài Hán văn và 1 bài Quốcâm).

- 1bài thơ hộitiễnvà12 bài tặngriêngcủacác quanđồngtriềutặngNguyễnCông Banvềtrí sĩ; 1bài củacụCông Banhọa lại đáp tạ;1lời đềtặngcủaquanTổngđốcLưỡngGiang (Trung Quốc) trongdịpNguyễnHuyOánhđisứ;

Bài viết đề cập đến 8 câu đối được viết trên cờ thêu khi Nguyễn Huy Oánh trở về trí sĩ, cùng với một bài thơ Nôm của con dâu Nguyễn Thị Đài để chúc thọ bà Thám (Nguyễn Thị Khoát) Ngoài ra, còn có một bài thơ và một bài phú của Nguyễn Huy Vinh, thể hiện sự kính trọng và lòng tri ân đối với các bậc tiền bối trong gia đình.

Theo thống kê, đây là một nguồn tài liệu phong phú, được sáng tác qua nhiều hình thức và tích lũy qua nhiều thời gian, thế hệ.

Mỗi hình thức sáng tác đều mang trong mình những giá trị nhận thức và phản ánh văn hóa, lịch sử, phong tục, tập quán cũng như hiện thực xã hội Nguyễn Thị Gia Tàng được coi là một bảo tàng thành văn thu nhỏ của dòng văn Trường Lưu.

3.5.2 Nội dung và giá trị văn hóa - văn học của Nguyễn thị giatàng

Nguyễn Thị Gia Tàng không chỉ mang giá trị lịch sử to lớn mà còn là một di sản văn học quý giá Tác phẩm bao gồm 96 bài thơ Đường luật, trong đó có 15 bài tiễn mừng đi sứ, 80 bài tiễn mừng trí sĩ (gồm 2 bài về Nguyễn Công Ban và 78 bài về Nguyễn Huy Oánh), cùng 1 bài mừng thọ Các trướng mừng được xem như những tác phẩm nghệ thuật nhỏ nhắn, tinh tế với nghệ thuật đối và dụng điển độc đáo.

Nguyễn Thị Gia Tàng là một tập sách chữ Hán ghi chép tư liệu quan trọng về dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu Theo Lê Hữu Nhiệm, đây là một bộ tài liệu văn bản phong phú, bắt đầu từ bức trướng mừng cụ Thái Sơn Nam và kết thúc với gia truyện của Nguyễn Huy Tự và phu nhân, trong đó Nguyễn Huy Oánh được nhắc đến nhiều Tập hợp này bao gồm các thể loại như trướng, câu đối, thơ và đề từ, được sử dụng trong các dịp chúc mừng, thi đỗ và các sự kiện quan trọng khác Nội dung phong phú của tài liệu không chỉ giúp con cháu hiểu biết về truyền thống của tổ tiên mà còn phục vụ cho những ai nghiên cứu về lịch sử và văn hóa của vùng đất Hồng Lam nổi tiếng.

Lại Văn Hùng khẳng định rằng giá trị của Nguyễn thị gia tàng nằm ở việc văn bản hóa các chứng tích văn hóa vật chất, góp phần lưu giữ và truyền lại cho thế hệ sau Trong bối cảnh nhiều tác phẩm như bức trướng, câu đối, và đại tự gỗ đang bị hủy hoại, việc sưu tập và bảo tồn chúng với ý thức văn hóa cao đã giúp cứu vãn tình trạng này Nguyễn thị gia tàng còn lưu giữ gần 100 tác phẩm thơ của các danh sĩ đương thời, tạo thành một thi tập quý giá Nếu không có sự ghi chép của Nguyễn Huy Vinh, những tác phẩm này có thể sẽ bị lãng quên Ngoài giá trị thông tin, Nguyễn thị gia tàng còn chứa đựng nhiều giá trị văn chương đáng nghiên cứu, với việc sử dụng thể văn biền ngẫu và điển tích đạt trình độ nghệ thuật cao, mang lại hứng thú cho người đọc.

Ý thức và truyền thống gìn giữ di sản văn hóa của dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu rất cao và đáng trân trọng Trong vài chục năm qua, Nguyễn Huy Mỹ, hậu duệ đời thứ 16 của dòng họ, đã nỗ lực sưu tầm, biên dịch, biên soạn, in ấn và xuất bản lại các tác phẩm của dòng văn Trường Lưu Nhờ những cố gắng này, nhiều tác phẩm của dòng văn Trường Lưu đã được giới nghiên cứu trong và ngoài nước biết đến, thể hiện sự nối tiếp truyền thống tốt đẹp của dòng họ từ xưa đến nay.

Mộc bảnT r ư ờ n g Lưu

3.6.1 Mộc bản Trường Lưu - một loại “sách” đặc biệt do nhiều thế hệtác giả dòng văn Trường Lưu tạolập

Mộc bản Trường Lưu, hay còn gọi là mộc bản Trường học Phúc Giang, là một loại sách cổ đặc biệt được in từ các bản gỗ tại làng Trường Lưu, huyện Can Lộc, tỉnh Hà Tĩnh Duy nhất chỉ có dòng họ Nguyễn Huy ở làng Trường Lưu sở hữu loại sách này Mộc bản Trường học Phúc Giang đã được UNESCO công nhận và ghi vào danh sách di sản văn hóa.

Di sản ký ức thế giới khu vực châu Á - Thái Bình Dương được công nhận vào tháng 5/2016, đánh dấu sự ghi nhận cho truyền thống hiếu học của người dân Hà Tĩnh và tôn vinh những tinh hoa bác học của dòng họ Nguyễn Huy Mộc bản Trường học Phúc Giang là khối mộc bản duy nhất về văn hóa, giáo dục của một dòng họ còn được lưu giữ tại Việt Nam cho đến nay.

Trước khi công nghệ in giấy phương Tây du nhập vào Việt Nam, người Việt đã sử dụng ván gỗ khắc chữ ngược để in ra văn bản chữ thuận Nội dung khắc trên các mộc bản có thể là văn thơ, kinh nghiệm dân gian, hoặc các tác phẩm như Tứ thư, Ngũ kinh Chữ khắc thường là chữ Hán hoặc chữ Nôm Khi cần in ấn, người ta bôi mực lên mộc bản và ốp giấy trắng lên trên, tạo ra trang in khi giấy được gỡ ra Phương pháp này không chỉ giúp truyền bá thông tin và tri thức mà còn phục vụ cho việc giảng dạy và học tập, tương tự như cách đóng dấu văn bản hành chính ngày nay, nhưng đây là công nghệ in sách độc đáo của người Việt và các nước đồng văn xưa.

Tại làng Tràng Lưu, xã Kim Song Trường, vào giữa thế kỷ XV, cụ Nguyễn Uyên Hậu đã thành lập trường học Phúc Giang để dạy học cho con em trong họ và học sinh trong làng Đến giữa thế kỷ XVIII, Trường Lưu đã trở thành một trung tâm văn hóa lớn với Phúc Giang Thư viện chứa hàng ngàn quyển sách và thu hút hàng trăm học trò, danh sĩ Trong gia đình dòng họ Nguyễn Huy, năm người thuộc ba thế hệ đã khắc in tài liệu giảng dạy và thu thập sách vở từ Thăng Long cũng như trong các chuyến đi sứ Trung Hoa, góp phần xây dựng Thư viện Phúc Giang.

Mộcbản Trường học Phúc Giang được chế tác từ gỗ thị trồng lâu năm, nổi bật với ưu điểm mềm mại, bền chắc và dễ dàng chạm khắc Kích thước mỗi mộcbản dao động từ 25 - 30cm chiều dài, 15 - 18cm chiều rộng và 1 - 2cm độ dày Chữ khắc trên mộcbản chủ yếu là chữ Hán, với các kiểu chữ phong phú như lệ, thảo, giản, cổ tự Hầu hết các tấm mộcbản đều có khắc một mặt, với khung viền và vị trí khắc tiêu đề rõ ràng Một số mộcbản còn ghi chú thông tin về thời gian, người khắc và địa điểm lưu trữ, giúp cung cấp thông tin quý giá về nguồn gốc và thời gian ra đời của các tài liệu kinh điển Nội dung Mộcbản Trường Lưu được chia thành 12 tập, hiện chỉ còn 7 tập.

1.Tính lý toản yếu đạitoàn:

- Quyển hạ: Nguyên bản do Nguyễn Huy Tựu, Nguyễn Huy Oánh viết chữ, Nguyễn Huy Tự khảoduyệt.

2 Thi kinh toản yếu đại toàn

- Quyển 1: Nguyễn Huy Oánh biên soạn, Nguyễn Huy Cự viếtchữ

3 Thượng thư toản yếu đại toàn, hayThư kinh toản yếu đạitoàn

- Quyển 2: Nguyễn Huy Oánh soạn, Nguyễn Huy Quýnh viếtchữ.

5.Dịch kinh toản yếu đại toàn: Nguyễn Huy Oánhsoạn

6.Xuân thu toản yếu đại toàn:

- Quyển 1 và quyển 2 do Nguyễn Huy Oánh hiệu chỉnh, Nguyễn Huy Quýnh viếtchữ.

Thư viện quy lệ của Nguyễn Huy Oánh và Nguyễn Huy Vượng từng sở hữu hàng ngàn mộc bản Trường học Phúc Giang, nhưng hiện tại chỉ còn gần 400 bản do mất mát, hỏng hóc và một số bị đốt cháy hoặc sử dụng vào mục đích khác Đặc biệt, các mộc bản khắc các tác phẩm văn học thuần túy hầu như đã bị mất, trong khi phần lớn còn lại chỉ là các bài thơ rút, chọn từ Kinh thi.

Hiện nay, dòng họ và cộng đồng địa phương đã nâng cao ý thức trong việc bảo tồn Mộcbản Trường học Phúc Giang, và số lượng di sản còn lại đã được bảo quản một cách cẩn thận.

3.6.2 Mộc bản Trường Lưu được cấu thành bởi nhiều thành tố vănhóa và có giá trị tổng hợp

Cấu thành nênMộc bản Trường Lưu- một loại “sách” đặc biệt gồm nhiều thành tố:bản gỗ (mộc bản) để khắc chữ, người khắc chữ (phải là những người

Bút pháp tinh tế của các nghệ sĩ tài hoa đã khắc họa nội dung chữ viết, phản ánh nhiều loại tri thức trong các lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, lịch sử, văn học và địa lý “Ấn phẩm” từ Mộc bản Trường Lưu là những tác phẩm tổng hợp, thể hiện sự giao thoa giữa văn học, sử học và triết học của thời trung đại Những tài liệu đặc biệt này đã góp phần đào tạo nhân tài cho quê hương, đồng thời hình thành các mối liên hệ văn hóa - văn học Các kẻ sĩ, trí thức từ nhiều vùng miền đã tìm đến Trường Lưu để giao lưu, trao đổi và đàm đạo về văn chương thông qua những tài liệu quý giá này.

Bùi Dương Lịch trongNghệ An kýcho biết,Mộc bản Trường học PhúcGiangvà

Thư viện Phúc Giang đã đóng góp quan trọng trong việc đào tạo hơn 30 Tiến sĩ cùng nhiều Hương cống, Cử nhân Sách Đại Nam nhất thống chí ghi nhận rằng Nguyễn Huy Oánh đã xây dựng một lầu sách với hàng vạn quyển, giảng dạy cho hàng nghìn học trò, trong đó có tới 30 người đỗ cùng một triều Nguyễn Huệ Chi nhận định rằng ông đã xây dựng một trung tâm học vấn tại quê hương, thu hút tinh hoa văn hóa Thăng Long và áp dụng những phương pháp giáo dục tiên tiến từ Trung Quốc Ninh Viết Giao cũng đánh giá cao những đóng góp của ông trong việc phát triển văn hóa giáo dục địa phương.

Thư viện Phúc Giang không chỉ lưu giữ hàng ngàn cuốn sách cho con em họ Nguyễn Huy và làng Trường Lưu mà còn là trung tâm thẩm định kiến thức, khắc in tài liệu có giá trị Đây là nơi hội tụ của các danh sĩ trong vùng, nơi diễn ra các buổi đàm đạo, bình luận và thưởng thức văn chương, như "Liên Trì nguyệt sắc" và "Nguyễn trang hoa mỹ" Thư viện còn đóng vai trò quan trọng trong việc giáo dục, đào tạo nhân tài cho cộng đồng.

Các “ấn phẩm”, tác phẩm được tạo ra từMộc bản

Trường học Phúc Giang không chỉ phục vụ giảng dạy và giáo dục Nho học mà còn mang giá trị văn hóa tổng hợp cao Nhiều tác phẩm tại đây được xem là tư liệu gốc quan trọng cho nghiên cứu về giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và Trung Hoa, đóng vai trò là minh chứng cho giai đoạn hoạt động văn hóa giáo dục của một dòng họ đã không còn tồn tại Đặc biệt, Mộc bản Trường học Phúc Giang thể hiện tinh thần tiên phong sáng tạo và ý thức giáo dục, cũng như việc gìn giữ và truyền đạt tri thức của dòng họ Nguyễn Huy.

Từ thế kỷ XVIII trở về trước, nhiều nơi ở Việt Nam đã tổ chức chế tác và in sách bằng mộc bản, chủ yếu tại các cơ sở tôn giáo như chùa Vĩnh Nghiêm, chùa Bổ Đà, chùa Quài, chùa Vạn Đức, và cung đình Huế Tuy nhiên, chỉ có dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu thực hiện khắc in mộc bản phục vụ cho giảng dạy và giáo dục khoa cử Mộc bản Trường Lưu được xem là khối mộc bản duy nhất và cổ nhất về giáo dục của một dòng họ còn tồn tại ở Việt Nam, với mỗi tấm mộc bản là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo, không có bản sao.

Mộc bản Trường Lưu mang giá trị “nguyên hợp” nhờ sự kết hợp đa dạng của nhiều yếu tố như văn hóa, lịch sử, văn học, giáo dục, mỹ thuật, kỹ thuật và công nghệ.

Dòng văn Trường Lưu, do các tác giả thuộc dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu ở Can Lộc, Hà Tĩnh, nổi bật với nhiều nhân vật lịch sử và danh nhân văn hóa có uy tín, đã đóng góp xuất sắc cho văn hóa và văn học dân tộc Các tác phẩm của họ phong phú, đa dạng trong nhiều lĩnh vực như văn hóa, giáo dục, văn học, lịch sử và ngoại giao, với những tác phẩm “thuần văn học” giữ vai trò quan trọng trong lịch sử văn học dân tộc Dòng văn này được xem là “một dòng văn quý phái, bác học”, thể hiện truyền thống của một dòng họ có học Các tác giả mang phong cách của những bậc văn nhân trí thức, với tâm hồn và ý thức bảo tồn văn hóa cao, đã tạo ra một kho tàng tác phẩm lớn, đặc biệt là tác phẩm Hoa tiên của Nguyễn Huy Tự, được coi là đỉnh cao của văn học trung đại Dòng văn Trường Lưu còn nổi bật với chất trữ tình, lãng mạn, đặc biệt là cảm hứng về tình yêu đôi lứa, và có công lớn trong việc phát triển thể lục bát cũng như thể loại truyện thơ Nôm.

Trong di sản văn học của dòng Trường Lưu, bên cạnh các tác phẩm thuần túy, còn có những tác phẩm kết hợp nhiều loại hình như văn hóa, giáo dục và đồ họa Tất cả các tác phẩm này đều được sáng tạo từ ý thức sâu sắc về truyền thống văn hóa quê hương, con người và cuộc sống, mang đậm tư tưởng nhân văn và tính trữ tình, lãng mạn độc đáo.

GiátrịvănhóacủadisảnvănhọcdòngvănTrườngLưu

Khái niệm “đạo học” được rút từ “diễn ngôn” của các tác giả dòng văn Trường Lưu, đồng thời phản ánh tư tưởng nổi bật trong di sản văn hóa và văn học của dòng văn này Nhiều nhà nho Việt Nam, như Trần Tế Xương vào cuối thế kỷ XIX, đã chỉ trích sự suy tàn của nền học vấn, thể hiện qua câu thơ chua chát về tình hình học hành bế tắc Trong khi đó, Nho giáo, đặc biệt là Tống Nho, cũng đề cập đến “đạo học” như một khái niệm về học vấn lý tính Các tác phẩm của tác giả dòng văn Trường Lưu khẳng định nội dung chân chính, nghiêm túc và tiến bộ của “đạo học”, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học hành và tri thức mà con người cần hướng tới.

Trong bài viết “Biện chứng của các giá trị văn hóa từ di sản văn học dòngvăn

Trường Lưu”, Biện Minh Điền xác định: “Bao quát di sản văn học của dòng văn

Nguyễn Huy thể hiện một tư tưởng thống nhất về việc sống và ứng xử theo chuẩn mực của “đạo” ( 道 ), bao gồm đạo học, đạo nhân và hành đạo Khái niệm này không chỉ xuất hiện thường xuyên trong văn chương mà còn phản ánh chiều sâu cảm xúc của nhiều thế hệ tác giả Đạo học Nho giáo và đạo lý truyền thống dân tộc đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành tư tưởng này Các tác giả dòng văn Nguyễn Huy đã nỗ lực chuyển tải và ứng dụng đạo lý sống vào thực tiễn, gắn kết với cộng đồng và hướng tới nghĩa lớn của sơn hà xã tắc, nhằm mục đích “dụng thế, giúp đời”.

Nguyễn Khản đã khẳng định rằng Đạo La San có nguồn gốc vững chắc, như Nguyễn Huy Oánh đã chia sẻ: "Đạo lớn như dòng sông cuồn cuộn chảy mãi." Điều này cho thấy sức mạnh và sự bền vững của Đạo La San trong bối cảnh lịch sử và văn hóa.

Biểu hiện rõ nét của cáibản thể Đạo La Sanấy chủ yếu nằm ở đạo học, trong đó Đổng công và Minh Đạo đóng vai trò quan trọng.

Trong bài viết, Nguyễn Huy Oánh nhấn mạnh sự quan trọng của "nghĩa đen" và "nghĩa bóng" trong việc thể hiện đạo học qua những cái tên đẹp Ông đặc biệt đề cập đến Đổng công và Minh Đạo như những biểu trưng sinh động, thể hiện lý tưởng và khát vọng vươn lên, đồng thời phản ánh tính thực tiễn và khả dụng của đạo học Những hình ảnh này không chỉ gợi nhớ về giá trị văn hóa mà còn khuyến khích sự phấn đấu trong cuộc sống.

Cảm hứng - triết luận của Nguyễn Huy Oánh khi qua miếu Trọng Phu tử - bậc

“can thành chí thánh” có sức khái quát lớn triết lý sống ấy:

Bậc kiêm nhân không phải bàn luận, khí tượng hiên ngang,Bẩm chất hàm chứa ánh sáng tự nhiên nên đạo đức ngời ngời.

Lêngiảngđường khơimởnhững điềucaosâu nghìn nămcủa đạohọc,Khắc vào đỉnh vạclàmgươngsángcho đời, vạn tuếngáthương/Bồi đắp cho nền tư văn, ý trời thâm hậu

(Phụng sứ Yên đài tổng ca)

Tư tưởng tôn trọng và đề cao đạo học là động lực cho các tác giả dòng văn Nguyễn Huy không ngừng nỗ lực trong việc thực thi đạo học thông qua việc soạn sách, lập trường học, mở thư viện và đào tạo nhân tài Đạo học không chỉ cung cấp vốn văn hóa và tri thức mà còn định hình cách ứng xử cho mọi người, từ đế vương đến kẻ sĩ và thần dân Sự lựa chọn ứng xử trước các thách thức của cuộc sống phụ thuộc vào khả năng và bản lĩnh của từng cá nhân, nhưng tất cả đều phải dựa trên nền tảng đạo học Câu nói “Bất học, bất tri lý” vẫn luôn đúng trong mọi thời đại.

Theo các tác giả dòng văn Nguyễn Huy, bậc đế vương cần thực hiện hai nhiệm vụ lớn để trung hưng sự nghiệp: cứu nạn trong nước và chống giặc từ bên ngoài Vai trò của hoàng đế là giữ gìn trật tự, khảo sát phong tục và dân tình, miễn thuế khóa để phát triển nông nghiệp Bên cạnh đó, hoàng đế cần hợp nhất các yếu tố như Ngũ hành và Ngũ lễ, tuân theo Ngũ giáo và Ngũ hình, đồng thời ban bố đức hạnh, thăng chức cho người tài và gần gũi với các giá trị nhân văn.

Nhân, Nhâm, Tuất được tuyên dương và mở rộng Tứ môn, với tầm nhìn bao quát bốn phương và lắng nghe khắp nơi, nhằm gieo rắc tiếng thơm mãi mãi Trong những năm thiếu đói, cần ban Ngũ phúc cho tất cả mọi người.

Nguyễn Huy Oánh nổi bật với sự tôn trọng nghề nông, nhưng đồng thời cũng mang đến cái nhìn mới về thương nghiệp Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích thương nhân, cho rằng hành động này thể hiện lòng nhân đức của nhà vua.

Nguyễn Huy Oánh, Nguyễn Huy Quýnh và các tác giả sau này đều nhất trí về quan niệm rằng việc xử lý công việc cần phải lắng nghe ý kiến của người dân, thể hiện qua câu nói “Thính sự cận dân thoại” Họ nhấn mạnh tầm quan trọng của việc không để người dân phải kêu ca vì đói, với quan điểm “Nhật bất tái đề cơ” Cuối cùng, họ khẳng định rằng trong công tác lãnh đạo và xử lý công việc, chỉ có một đạo duy nhất, được thể hiện qua câu “Thống chế tài nhất đạo”.

Đối với các nhà Nho, đạo học không chỉ mang lại tri thức mà còn giúp họ áp dụng kiến thức của mình vào những công việc của bậc thánh minh, từ đó được tham gia vào hàng công quyền.

Bậc rường cột của quốc gia, gần gũi ánh mặt trời, thể hiện vinh dự và niềm hạnh phúc lớn lao của những người sống trong thời đại đó Theo Nguyễn Huy Oánh trong bài khải "Từ chối chức tham tụng", điều này không chỉ là trách nhiệm mà còn là niềm tự hào của những nhà nho.

Không khó để nhận thấy tinh thần ngợi ca nồng nhiệt đạo học của các tác giả dòng văn Nguyễn Huy:

Hoàng thiên bất phụ độc thư nhân.

(Trời cao chẳng phụ người đọc sách)

(Nguyễn Huy Oánh,Thạc Đình dicảo) Hay:

Huyền hà sách bão uyên nguyên phú.

Việc biện luận không ngừng xuất phát từ nguồn kiến thức phong phú và dồi dào Nguyễn Huy Oánh, trong tác phẩm "Phụng sứ Yên đài tổng ca", nhấn mạnh tầm quan trọng của việc học và tri thức, khẳng định rằng học vấn là cần thiết để trở thành người và thực hiện những việc lớn Ông khuyến khích con cháu lập “ruộng khoa danh”, tức là sử dụng nguồn quà biếu thầy để khen thưởng và biểu dương những người học hành đỗ đạt Điều này không chỉ có ý nghĩa trong việc cổ vũ tinh thần học tập của dòng tộc mà còn góp phần nâng cao ý thức tôn kính và tìm về đạo học trong một vùng rộng lớn.

MộcbảntrườnghọcPhúccGiangdo 5tác giả dòng vănNguyễnHuy, trong đóNguyễnHuyOánhlàtácgiảchính, đã được nghiên cứu từ nhiều góc độ khác nhau Những khía cạnh như vật liệu, chất liệu văn khắc, hình thức, kiểu chữ, nội dung, tính xác thực và tính độc đáo của các bản khắc đã được bàn luận sâu sắc.

Các bài viết, bài bạt và chứng tích liên quan đến các tác giả, tác phẩm văn học trong và ngoài nước đều thể hiện tính hiện đại của chủ trương coi trọng kiến thức và sự học Các tác giả dòng văn Nguyễn Huy nhấn mạnh việc cổ vũ khuyến học với mục tiêu cung cấp tri thức, yêu cầu học để làm người, và vận dụng sở học vào công việc để "dụng thế" nhằm giúp đời Học còn để giao lưu, chia sẻ và kết nối với mọi người trong và ngoài quốc gia.

Hướng tiếp cận,khai thácvàpháthuy cácgiátrị củadi sảnvănhóa- vănhọcdòngvănT r ư ờ n g Lưu

4.2.1 Phát huy tinh thần hiếu học, nhân văn của dòng văn Trường Lưutrong bối cảnhmới

Cóthểnóinhư Biện Minh Điền, rằng: “Trong bối cảnh phức tạp hiệnnay, khiđạohọc,đạolàm ngườiđang cónguycơkhủnghoảnggiátrị,biện chứngcủacác giá trịvănhóa từdisảnvănhọccủadòngvănNguyễnHuyTrườngLưu càng có ýnghĩalớn.Cũngtrongbốicảnhhiệnnay,chưabaogiờtư tưởng khởi nghiệp

(Startup)đượckhơidậymạnhmẽ vàmang tínhtoàncầuđếnthế.Khôngthểkhởinghiệpnếuthiếuchuẩnbị vềtrithức, họcvấn (theo cáchn ó i củacáct á c giảdòngvănNguyễnHuyl à thiếunềntảngđ ạ o học).

Khởinghiệpcũng cóthểthànhcôngnhưngsẽtrởnênthựcdụng, vônghĩanếuthiếuýthứcvề nhânvăn,vềđạolàmngười(theocách nóicủacác tácgiảdòngvănNguyễnHuy làthiếuýthứcvề đạonhân" [35;120].

Nhìn từ góc độ thế kỷ XXI, di sản văn học dòng Trường Lưu cho thấy rõ ràng tầm quan trọng và tính thời sự của "đạo học", hay còn gọi là ý thức về sự học, tri thức và học vấn Vấn đề này không chỉ mang ý nghĩa lịch sử mà còn phản ánh những giá trị thiết thực trong bối cảnh hiện đại.

Đạo nhân, hay ý thức nhân văn, thể hiện mối quan hệ gắn kết và biện chứng với cuộc sống hiện đại, đang trở thành vấn đề quan trọng trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp lần thứ tư Người Hà Tĩnh nổi bật với tinh thần vươn lên làm chủ cuộc sống, luôn coi trọng việc học tập Hình ảnh “Ông đồ Nghệ” và “Cá gỗ” tượng trưng cho sự kiên trì và hiếu học của người dân nơi đây Dòng họ Nguyễn Huy, đặc biệt là Nguyễn Huy Oánh, đã thể hiện tinh thần hiếu học, nhân văn, với nhiều cá nhân xuất sắc trong gần 1000 năm chế độ khoa cử Nho học, ghi nhận 148 đại khoa Hiện nay, Hà Tĩnh có hơn 130 giáo sư, 500 phó giáo sư và 1.500 tiến sĩ, chiếm khoảng 11% trí thức bậc cao cả nước Tại xã Kim Song Trường, dòng họ Nguyễn Huy nổi bật với 1 giáo sư, 13 phó giáo sư và 44 tiến sĩ Những tấm gương này đại diện cho tinh thần hiếu học và ý chí vươn lên của người Hà Tĩnh, được hình thành từ truyền thống tốt đẹp của dòng họ.

4.2.2 Từ trường hợp dòng họ - dòng văn Trường Lưu,tìmbài học kinhnghiệm cho việc xây dựng văn hóa dòng họ và dòng họ văn hóa hiệnnay

Việc xây dựng văn hóa dòng họ là một vấn đề toàn cầu, không chỉ giới hạn ở các nước Đông Á hay riêng Việt Nam Đặc biệt, văn hóa Việt Nam có căn cốt từ văn hóa làng, hay còn gọi là văn hóa làng xã, mà có thể xem là một hình thái đặc sắc của văn hóa cộng đồng.

Lịch sử và văn hóa Hà Tĩnh gắn liền với sự phát triển văn hóa làng, phản ánh giá trị các dòng họ Dòng họ Nguyễn Huy Trường Lưu, từ khi được thành lập bên núi Phượng Lĩnh, đã đóng góp quan trọng cho quê hương, không chỉ trong lĩnh vực văn hóa mà còn trong giáo dục và phát triển cộng đồng Đặc điểm nổi bật của dòng họ này là ý thức tự học và vươn lên, tạo lập giá trị văn hóa và lịch sử Nguyễn Huy Oánh đã thành lập Hội Trường ân, xây dựng thư viện, góp ruộng học điền và thiết lập quy ước về việc nghĩa, đồng thời chủ trì việc lập chợ làng và tôn tạo các công trình văn hóa Thời kỳ thịnh vượng nhất của hát Ví phường vải Trường Lưu cũng trùng với sự phát triển mạnh mẽ của dòng họ Nguyễn Huy.

Vào năm 1759, Nguyễn Huy Cự đã hỗ trợ cộng đồng bằng cách xuất thóc lúa và tiền bạc để lập kho Nghĩa Thương, nhằm cứu trợ dân nghèo trong những năm mất mùa Ông cũng cúng 12 mẫu ruộng cho làng để phục vụ cho việc ruộng binh Gia phả của dòng họ ghi lại những lời dạy quý báu cho con cháu về việc giữ gìn huyết thống và mệnh mạch của gia tộc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tôn trọng người lớn tuổi, gắn kết tình thân, và nuôi dưỡng thế hệ trẻ Những giá trị này không chỉ tạo nên sự đoàn kết bền vững trong gia đình mà còn khắc sâu ý thức về nghĩa vụ và trách nhiệm đối với tổ tiên và cộng đồng.

Làng Trường Lưu luôn ghi nhận sự tham gia tích cực của con em dòng họ Nguyễn Huy trong việc gìn giữ và phát triển các giá trị văn hóa truyền thống Tấm gương của Nguyễn Huy Oánh, với triết lý "Giúp đỡ, yêu thương họ hàng, vỗ về cứu trợ làng xóm, chú ý đến việc dạy dỗ con người và cải thiện phong tục tập quán," đã truyền cảm hứng cho thế hệ sau Ngày nay, con cháu dòng họ Nguyễn Huy tiếp tục vun đắp nhiều giá trị văn hóa mới cho quê hương Người Trường Lưu tự hào về mảnh đất của mình, với phương châm sống "lấy cần kiệm để thành gia, lấy kính yêu để sống hòa thuận với họ hàng." Điều này phản ánh bản chất tốt đẹp của dòng họ Nguyễn Huy, cần được nhân rộng Họ nhấn mạnh rằng "con ta, cháu ta đến chắt cháu ta, nên biết dựa vào phúc đức tiền nhân để lại, làm vẻ vang đức nghiệp của tổ tiên," nhằm khẳng định vị thế của mình trong cộng đồng.

Xây dựng dòng họ văn hóa là một yếu tố quan trọng trong việc phát triển đời sống văn hóa, đặc biệt ở nông thôn, thu hút sự quan tâm của cộng đồng và giới nghiên cứu Dòng họ văn hóa đã trở thành mô hình nổi bật trong công cuộc xây dựng đời sống văn hóa mới, góp phần tích cực vào các phong trào vì sự nghiệp chung của đất nước Qua lịch sử, dòng họ và văn hóa dòng họ luôn giữ vai trò quan trọng, ảnh hưởng lớn đến sự phát triển xã hội Theo điều tra năm 2019, Hà Tĩnh có hơn 45 dòng họ, như Nguyễn, Trần, Lê, Võ - Vũ, Phan, Phạm, Bùi, Đặng, và nhiều dòng họ khác, thể hiện sự đa dạng và phong phú trong văn hóa dòng họ.

Hà Tĩnh có gần 700 dòng họ khác nhau, bao gồm các họ như Thái, Kiều, Tăng, Phùng, Trịnh, Nghiêm, Đoàn, Chu, Biện, Lưu, Lý, La, Bạch, Tôn, Tống, Cù, Dư, Vi, Sử, Từ Trong suốt lịch sử, các dòng họ này đã đóng góp to lớn vào công cuộc bảo vệ và xây dựng đất nước Nhiều dòng họ đã trở thành những cự tộc nổi tiếng, như họ Nguyễn Huy Trường Lưu, Nguyễn Tiên Điền, Hà, Đặng Tùng Lộc, Ngô Trảo Nha, Phan Thu Hoạch, Phan Đông Thái, Đinh, Đào Hương Sơn, Lê Kỳ Anh, Võ, và Trần Hậu Thạch Hà.

4.2.3 Khaithácgiátrịvănhóacủadisảnvăn hóa -văn họcdòngvănTrường Lưudướigócđộsảnphẩmdulịch đặcthùcủađịa phương

Tiếp cận và khai thác các dòng văn hóa vật thể đang trở thành xu hướng nghiên cứu được chú trọng hiện nay Sự tìm kiếm cội nguồn và bản sắc văn hóa dân tộc đang diễn ra mạnh mẽ, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành du lịch cộng đồng.

Du lịch cộng đồng là mô hình kinh doanh tận dụng tài nguyên thiên nhiên và văn hóa đặc trưng của từng địa phương Dựa trên những nguồn lực sẵn có, các nhà kinh doanh du lịch cung cấp sản phẩm địa phương phù hợp với nhu cầu của du khách Loại hình du lịch này không chỉ thúc đẩy phát triển kinh tế mà còn bảo tồn văn hóa truyền thống, đồng thời yêu cầu ít đầu tư vào cơ sở hạ tầng, chỉ cần duy trì vẻ đẹp hoang sơ và tự nhiên của địa phương.

Di sản văn hóa Trường Lưu, với hơn sáu thế kỷ phát triển, là tài sản quý giá của tỉnh Hà Tĩnh, mang đến kho tàng di sản phong phú và đa dạng Được khai thác như một sản phẩm du lịch cộng đồng, du khách có thể tham quan các di tích lịch sử, thưởng thức các làn điệu Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, và tham gia vào các hoạt động hàng ngày của người dân địa phương Dòng văn Trường Lưu nổi bật với nhiều di sản văn hóa có thể trở thành sản phẩm du lịch, như tái hiện các hoạt động sản xuất mộc bản và chế tác các món quà lưu niệm Hiện nay, Trung tâm bảo tồn văn hóa Trường Lưu đang lưu giữ và trưng bày nhiều hiện vật quý giá về dòng họ Nguyễn Huy và di sản văn Trường Lưu, nhằm bảo tồn và phát huy giá trị di sản này.

Hà Tĩnh đã triển khai nhiều chính sách hiệu quả nhằm bảo tồn các di sản văn hóa, bao gồm việc ban hành nghị quyết về bảo tồn các di sản như Dân ca Ví, Giặm Nghệ Tĩnh, Cả trù, Truyện Kiều, Mộc bản Trường học Phúc Giang và Hoàng Hoa sứ trình đồ Đồng thời, địa phương cũng tổ chức nhiều đề tài khóa học liên quan đến việc nghiên cứu và phát huy các giá trị văn hóa làng.

Trường Lưu đang tích cực xây dựng mô hình làng văn hóa du lịch, bảo tồn Mộc bản Trường Lưu và nghiên cứu giá trị tư liệu lịch sử của dòng họ Nguyễn Huy, liên quan đến biên giới và biển đảo Đồng thời, tổ chức thực hiện việc tu bổ, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, bảo tồn các nhà cổ, khôi phục các lễ hội truyền thống và tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá.

Trong 5 năm qua, tỉnh Hà Tĩnh đã đầu tư hơn 5 tỷ đồng cho các dự án bảo tồn dòng văn Trường Lưu Hiện tại, tỉnh đang chỉ đạo huyện Can Lộc lập quy hoạch tổng thể bảo tồn Làng văn hóa Trường Lưu giai đoạn 2021 - 2030 và hướng tới những năm tiếp theo Đồng thời, tỉnh cũng đang triển khai kế hoạch đưa Làng văn hóa Trường Lưu vào khai thác như một điểm tham quan du lịch.

Tỉnh Hà Tĩnh đang nỗ lực bảo tồn và khai thác các giá trị di sản văn hóa, đặc biệt là di sản dòng văn Trường Lưu, thông qua các chính sách linh hoạt và hiệu quả Sự phát triển này không chỉ phục vụ cho kinh tế - văn hóa xã hội địa phương mà còn thu hút sự quan tâm từ nhiều đoàn khách tham quan, đoàn làm phim, và các tổ chức nghiên cứu trong và ngoài nước Di sản văn hóa của dòng văn Trường Lưu ngày càng được biết đến rộng rãi và lan tỏa mạnh mẽ.

Ngày đăng: 04/07/2022, 06:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh (1943), "Nguồn gốcHoa tiên ký", Tạp chíTri Tân,số91 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn gốcHoa tiên ký
Tác giả: Đào Duy Anh
Năm: 1943
2. Đào Duy Anh (1943), "Nguồn gốcHoa tiên ký", Tạp chíTri Tân,số92 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn gốcHoa tiên ký
Tác giả: Đào Duy Anh
Năm: 1943
3. Đào Duy Anh (1943), "Nguồn gốcHoa tiên ký", Tạp chíTri Tân,số93 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguồn gốcHoa tiên ký
Tác giả: Đào Duy Anh
Năm: 1943
4. Đào Duy Anh (1992),Việt Nam văn hoá sử cương, Tái bản, Nxb ThànhphốHồ ChíMinh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn hoá sử cương
Tác giả: Đào Duy Anh
Nhà XB: Nxb ThànhphốHồ ChíMinh
Năm: 1992
5. Trần Hoài Anh (2020), “Sự hợp lưu giữa văn hóa và văn học từ góc nhìn ứng dụng”, Tạp chíKhoa học, Đại học Văn hóa Sài Gòn, số tháng6 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự hợp lưu giữa văn hóa và văn học từ góc nhìn ứngdụng”, Tạp chí"Khoa học
Tác giả: Trần Hoài Anh
Năm: 2020
6. Toan Ánh (2002),Văn hóa Việt Nam những nét đại cương, Tái bản, Nxb Văn học, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn hóa Việt Nam những nét đại cương
Tác giả: Toan Ánh
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2002
8. Lại Nguyên Ân (chủ biên), Bùi Văn Trọng Cường (2018),Từ điển văn họcViệt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX,Tái bản, Nxb Văn học, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn họcViệt Nam từ nguồn gốc đến hết thế kỷ XIX
Tác giả: Lại Nguyên Ân (chủ biên), Bùi Văn Trọng Cường
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2018
9. Lại Nguyên Ân (1998),Đọc lại người trước, đọc lại người xưa, Nxb Hội Nhà văn, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đọc lại người trước, đọc lại người xưa
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 1998
10.Huỳnh Công Bá (2019),Cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam, Nxb Thuận Hóa,Huế Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cội nguồn và bản sắc văn hóa Việt Nam
Tác giả: Huỳnh Công Bá
Nhà XB: Nxb Thuận Hóa
Năm: 2019
11. Bảo tàng Hà Tĩnh (2015),Sắc phongHàTĩnh, HàTĩnh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sắc phongHàTĩnh
Tác giả: Bảo tàng Hà Tĩnh
Năm: 2015
12. Bảo tàng Hà Tĩnh (2017),Văn bia Hà Tĩnh,Nxb Khoa học xã hội, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn bia Hà Tĩnh
Tác giả: Bảo tàng Hà Tĩnh
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 2017
13.SôngBằng-VânHạc(2014),ViệtHoathôngsứ sửlược,Tái bản, Nxb Hồng Đức, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ViệtHoathôngsứ sửlược
Tác giả: SôngBằng-VânHạc
Nhà XB: Nxb Hồng Đức
Năm: 2014
16.NguyễnĐổngChi(2003),TácphẩmđượctặngGiải thưởngHồ ChíMinh, (TrungtâmKhoahọcxãhội vàNhân vănQuốc giatuyển chọn), Nxb Khoahọcxãhội, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: TácphẩmđượctặngGiải thưởngHồ ChíMinh
Tác giả: NguyễnĐổngChi
Nhà XB: NxbKhoahọcxãhội
Năm: 2003
17.Nguyễn Huệ Chi (2013),Văn học Cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn vănhóa đến các mã nghệ thuật, Nxb Giáo dục, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Cổ cận đại Việt Nam - Từ góc nhìn vănhóađến các mã nghệ thuật
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2013
18.Nguyễn Từ Chi (2020),Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người , Tái bản, Nxb Văn hóa dân tộc, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Góp phần nghiên cứu văn hóa và tộc người
Tác giả: Nguyễn Từ Chi
Nhà XB: Nxb Văn hóa dân tộc
Năm: 2020
19.Phan Huy Chú (2014),Lịch triều hiến chương loại chí,Tập 1, Tái bản, Nxb Trẻ, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch triều hiến chương loại chí
Tác giả: Phan Huy Chú
Nhà XB: NxbTrẻ
Năm: 2014
20.Chris Barker (2011),Nghiên cứu văn hóa, lý thuyết và thực hành, (Đặng Tuyết Anh dịch; Nguyễn Thị Huyền, Đoàn Thị Tuyến hiệu đính), NxbVănhóa - Thông tin, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu văn hóa, lý thuyết và thực hành
Tác giả: Chris Barker
Nhà XB: NxbVănhóa - Thông tin
Năm: 2011
21.Nguyễn Văn Dân (2006),Phương pháp luận Nghiên cứu văn học,Nxb Khoa học xã hội, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương pháp luận Nghiên cứu văn học
Tác giả: Nguyễn Văn Dân
Nhà XB: Nxb Khoahọc xã hội
Năm: 2006
22. NguyễnVănDân(2020), Vănhóa-vănhọcdướigócnhìnliênkhônggian,Nxb Thế giới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: NguyễnVănDân(2020),"Vănhóa-vănhọcdướigócnhìnliênkhônggian
Tác giả: NguyễnVănDân
Nhà XB: Nxb Thế giới
Năm: 2020
23.Phan Hữu Dật (2018),Mấy tiếp cận về văn hóa Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, HàNội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy tiếp cận về văn hóa Việt Nam
Tác giả: Phan Hữu Dật
Nhà XB: Nxb Khoa học xãhội
Năm: 2018

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng thống kê tác giả, tác phẩm thời kỳ kết thúc của dòng văn Nguyễn Huy: - Di sản văn học của dòng văn Trường Lưu (Hà Tĩnh) từ góc nhìn văn hóa.
Bảng th ống kê tác giả, tác phẩm thời kỳ kết thúc của dòng văn Nguyễn Huy: (Trang 70)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w