NỘI DUNG
Một số giải pháp
3, Tổ chức thực hiện vào các bài toán
1 Cơ sở lý luận và thực tiễn
Mục tiêu đào tạo của các trường phổ thông Việt Nam là xây dựng nền tảng vững chắc cho con người mới, nhằm phát triển toàn diện phù hợp với yêu cầu và điều kiện của đất nước và con người Việt Nam.
Trong bối cảnh hiện nay, mục tiêu đào tạo tại các trường phổ thông Việt Nam đã được xác định rõ ràng thông qua các văn kiện của Đảng và đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, cùng với những kết luận từ hội nghị trung ương khóa.
Mục tiêu giáo dục và đào tạo hiện nay liên quan chặt chẽ đến sự phát triển kinh tế và khoa học kỹ thuật, nhằm xây dựng một nền văn hóa mới và con người mới Chính sách giáo dục mới tập trung vào việc bồi dưỡng nhân lực, nâng cao dân trí và phát triển nhân tài, từ đó hình thành đội ngũ lao động có tri thức và tay nghề Trong bối cảnh này, môn Toán tại trường phổ thông đóng vai trò quan trọng như một công cụ, vì nếu học tốt môn Toán, học sinh sẽ có được kiến thức và phương pháp làm việc cần thiết để học tốt các môn học khác.
Môn Toán không chỉ cung cấp kiến thức và kỹ năng cần thiết mà còn phát triển nhân cách học sinh, rèn luyện các phẩm chất như cẩn thận, chính xác, kỷ luật, phê phán, sáng tạo và thẩm mỹ Hình học không gian, với cấu trúc chặt chẽ và nội dung phong phú hơn hình học phẳng, là một môn học quan trọng trong việc trang bị cho học sinh những kỹ năng và đức tính của người lao động mới Để học tốt môn này, học sinh cần có trí tưởng tượng và kỹ năng vẽ hình trong không gian Nhiều giáo viên đã chuyển đổi các vấn đề hình học không gian thành hình học phẳng hoặc chia nhỏ kiến thức, giúp học sinh rèn luyện tư duy giải toán thông qua mối liên hệ giữa hai loại hình học Cách tiếp cận này không chỉ đúng đắn mà còn hỗ trợ quá trình nhận thức, phát triển năng lực lập luận, sự sáng tạo và khả năng liên tưởng từ hình học phẳng sang hình học không gian.
Trong mối quan hệ giữa hình học phẳng và hình học không gian, mặt phẳng được xem là một phần của không gian Việc tách biệt các bộ phận phẳng khỏi không gian thông qua hình vẽ, như thiết diện và giao tuyến, giúp học sinh dễ dàng liên tưởng đến các bài toán hình học phẳng Từ đó, học sinh có thể áp dụng kiến thức để giải quyết các bài toán ban đầu một cách hiệu quả hơn.
Trong quá trình giảng dạy, tôi nhận thấy học sinh thường e ngại môn hình học không gian do nghĩ rằng nó trừu tượng và thiếu tính thực tế Điều này dẫn đến việc nhiều học sinh học yếu môn này, gây khó khăn cho giáo viên trong việc truyền đạt kiến thức Sau nhiều năm giảng dạy, tôi đã đúc kết một số kinh nghiệm giúp học sinh tiếp thu kiến thức tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng giảng dạy và học tập.
Hình học không gian trong chương trình toán phổ thông thường gây khó khăn cho học sinh, kể cả những em học giỏi, do yêu cầu nắm vững kiến thức cơ bản và khả năng tưởng tượng phong phú Để giải quyết hiệu quả các bài toán hình học không gian, học sinh cần liên hệ giữa hình học phẳng và hình học không gian, sử dụng phương pháp tương tự hóa để tìm ra mối liên hệ với các bài toán đã học Nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc vẽ hình, hiểu các khái niệm và định lý, cũng như nhận diện các bài toán tương tự Việc kết hợp kiến thức giữa hai lĩnh vực này là yếu tố quan trọng giúp học sinh ghi nhớ lâu và vận dụng tốt kiến thức hình học.
1.1 Các kiến thức cơ bản về hình học không gian
Tất cả các bề mặt như bàn, bảng và mặt hồ đều phản chiếu hình ảnh của mặt phẳng, tương tự như mặt phẳng không có độ dày và giới hạn Để vẽ hình biểu diễn cho một hình không gian, chúng ta cần tuân theo các quy tắc nhất định.
- Hình biểu diễn của đường thẳng là đường thẳng, tương ứng của đoạn thẳng thì sẽ là đoạn thẳng
- Hình biểu diễn của hai đường thẳng song song là hai đường thẳng song song, tương tự của hai đường thẳng cắt nhau là hai đường thẳng cắt nhau
- Hình biểu diễn phải giữ nguyên quan hệ giữa điểm và đường thẳng
- Dùng nét vẽ liền để biểu diễn các đường nhìn thấy và dùng nét đứt để vẽ những đường bị che khuất
Hai mặt phẳng song song khi đáp ứng yêu cầu không có điểm chung thì ta nói hai mặt phẳng song song với nhau
- Nếu đường thẳng (α) chứa hai đường thẳng cắt nhau là a b và a, b cùng song song với mặt phẳng (β) thì (α) và (β) song song với nhau
- Qua một điểm nằm ngoài mặt phẳng cho trước ta chỉ vẽ được một và chỉ một mặt phẳng song song với mặt phẳng đã cho
Hai mặt phẳng song song sẽ không giao nhau Khi một mặt phẳng cắt một trong hai mặt phẳng này, nó cũng sẽ cắt mặt phẳng còn lại, và hai giao tuyến của chúng sẽ luôn song song với nhau.
- Định lý Ta-lét: ba mặt phẳng đôi một song song chắn trên hai cát tuyến bất kỳ những đoạn tương ứng tỷ lệ
Ví dụ: nếu d, d’ là hai cát tuyến bất kỳ cắt ba mặt phẳng song song thì
α , β , γ lần lượt tại các điểm A,B,C và A',B',C' thì AB = BC = AC
Vector trong không gian được định nghĩa là đoạn thẳng có hướng cụ thể, ký hiệu bằng mũi tên chỉ rõ điểm đầu và điểm cuối Các quy tắc sử dụng vector bao gồm quy tắc 3 điểm, quy tắc hình bình hành, quy tắc trung điểm, quy tắc trung tuyến, quy tắc trọng tâm và quy tắc hình hộp, tất cả đều được trình bày trong sách giáo khoa hình học lớp 11 Để ba vectơ được coi là đồng phẳng trong không gian, chúng phải có giá song song với một mặt phẳng.
Trong bài tập về quan hệ vuông góc, cần nắm vững kiến thức cơ bản về điều kiện để một đường thẳng vuông góc với mặt phẳng Bài viết này sẽ trình bày các định nghĩa, tính chất và lý thuyết liên quan đến quan hệ vuông góc, cũng như phương pháp chứng minh đường thẳng vuông góc với mặt phẳng.
1.1.4 Bài toán về góc Đối với bài tập về góc cần xác định được các yếu tố về góc giữa hai đường thẳng chéo nhau Góc giữa đường thẳng và mặt phẳng, góc giữa cạnh bên và mặt đáy, cách tính góc giữa cạnh bên và mặt phẳng chứa đường cao, góc giữa đường cao và mặt bên, công thức, lý thuyết về góc giữa hai mặt phẳng, Nhìn chung bài tập và kiến thức về hình học không gian là rất rộng và bao la Nếu chỉ học trong sách giáo khoa thôi là không đủ, học sinh cần phải làm bài tập thường xuyên và nhiều để rèn luyện kỹ năng về phản xạ với hình không gian
1.2 Các kiến thức cơ bản về hình học phẳng
Cho tam giác ABC, các điểm D, E, F theo thứ tự nằm trên các đường thẳng BC, CA, AB Khi đó D, E, F thẳng hàng khi và chỉ khi
Chú ý : Định lý Menelaus có thể mở rộng cho đa giác lồi n cạnh
Trong bất kỳ tam giác ABC nào, có 9 điểm quan trọng bao gồm trung điểm các cạnh, chân các đường cao, và trung điểm các đoạn thẳng nối trực tâm với các đỉnh, tất cả đều nằm trên một đường tròn được gọi là đường tròn Euler Đường tròn Euler có bán kính bằng một nửa bán kính của đường tròn ngoại tiếp tam giác, với tâm là trung điểm của đoạn thẳng nối trực tâm và tâm của đường tròn ngoại tiếp.
Cho đường tròn (O) với I là trung điểm của dây cung AB Từ I, ta dựng hai dây cung tùy ý MN và PQ, trong đó MP và NQ cắt AB tại các điểm E và F theo thứ tự.
Với mọi tứ giác lồi ABCD nội tiếp trong một đường tròn, ta đều có đẳng thức A B.CD + AD.BC= AC.BD
Bất đẳng thức Ptolemy cho mọi tứ giác ABCD cho biết rằng AB.CD + AD.BC ≥ AC.BD Đẳng thức này chỉ xảy ra khi tứ giác ABCD là tứ giác lồi nội tiếp.
Cho tam giác ABC và một điểm M nằm trên đường tròn ngoại tiếp tam giác
Gọi X, Y, Z lần lượt là hình chiếu vuông góc của M trên các đường thẳng
BC, CA, AB Khi đó X, Y, Z thẳng hàng và đường thẳng đi qua chúng được gọi là đường thẳng Simson của điểm M đối với tam giác ABC
Tổng quát: Cho tam giác ABC và một điểm M bất kì trong mặt phẳng tam giác Gọi X, Y, Z lần lượt là hình chiếu vuông góc của M trên các đường thẳng
BC, CA, AB Khi đó điều kiện cần và đủ để M nằm trên đường tròn ngoại tiếp tam giác ABC là X, Y, Z thẳng hàng