1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại câu lạc bộ thanh niên khuyết tật, hội liên hiệp thanh niên việt nam tỉnh hải dương

114 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Hoạt Động Trợ Giúp Thanh Niên Khuyết Tật Tại Câu Lạc Bộ Thanh Niên Khuyết Tật, Hội Liên Hiệp Thanh Niên Việt Nam Tỉnh Hải Dương
Tác giả Vũ Thị Thu
Người hướng dẫn PGS.TS Nguyễn Thị Kim Hoa
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Công tác xã hội
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 114
Dung lượng 3,2 MB

Cấu trúc

  • 1. Biểu Tháp nhu cầu của Abraham Maslow (0)
  • 2. Biểu 1. Sơ đồ CLB Thanh niên khuyết tật (0)
  • 3. Biểu 2.1. Trình độ học vấn (0)
  • 4. Biểu 2.2. Công tác tư vấn giới thiệu việc làm (0)
  • 5. Biểu 2.3. Suy nghĩ về cuộc sống hôn nhân của NKT đã kết hôn (0)
  • 6. Biểu 2.4. Nhu cầu giao tiếp (0)
  • 7. Biểu 2.5. Thái độ của cộng đồng với người khuyết tật (0)
  • 8. Biểu 2.6. Hành vi phân biệt, đối xử với NKT (0)
  • 9. Biểu 2.7. Nhu cầu được tôn trọng (0)
  • PHẦN I. MỞ ĐẦU (9)
    • 1. Lý do chọn đề tài (9)
    • 2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu (11)
    • 3. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn (14)
      • 3.1. Ý nghĩa lý luận (14)
      • 3.2. Ý nghĩa thực tiễn (14)
    • 4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu (15)
      • 4.1. Mục đích (15)
      • 4.2. Nhiệm vụ (15)
    • 5. Đối tƣợng, khách thể, phạm vi nghiên cứu (16)
      • 5.1. Đối tượng nghiên cứu (16)
      • 5.2. Khách thể nghiên cứu (16)
      • 5.3. Phạm vi nghiên cứu (17)
        • 5.3.1 Phạm vi nội dung nghiên cứu (17)
        • 5.3.2 Phạm vi không gian (17)
        • 5.3.3 Phạm vi thời gian (17)
    • 6. Câu hỏi nghiên cứu (17)
    • 7. Giả thuyết nghiên cứu (17)
    • 8. Phương pháp nghiên cứu (18)
      • 8.1 Cách tiếp cận (18)
      • 8.2 Phương pháp thu thập thông tin (18)
        • 8.2.1. Phỏng vấn sâu (18)
        • 8.2.2. Thảo luận nhóm (19)
        • 8.2.3. Phương pháp quan sát (20)
  • PHẦN II. NỘI DUNG (21)
    • Chương 1. Cơ sở lý luận và thực tiễn (21)
      • 1.1 Một số khái niệm công cụ trong nghiên cứu (21)
        • 1.1.1 Khuyết tật (21)
        • 1.1.2 Người khuyết tật (22)
        • 1.1.3 Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật (25)
        • 1.1.4 Công tác xã hội với người khuyết tật (26)
      • 1.2 Một số lý thuyết vận dụng trong nghiên cứu (27)
        • 1.2.1 Thuyết vai trò (27)
        • 1.2.2 Thuyết nhu cầu Abraham H. Maslow (28)
      • 1.3 Cơ sở pháp lý về trợ giúp người khuyết tật (30)
      • 1.4 Vài nét về địa bàn nghiên cứu (33)
        • 1.4.1 Điều kiện tự nhiên (33)
        • 1.4.2 Điều kiện kinh tế xã hội (33)
        • 1.4.3 Vài nét về Hội liên hiệp thanh niên tỉnh Hải Dương (34)
        • 1.4.5 Mô hình Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật (34)
    • Chương 2. Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật (36)
      • 2.1 Nhu cầu của thanh niên khuyết tật (36)
        • 2.1.1 Nhu cầu về học tập, học nghề và việc làm (36)
        • 2.1.2 Nhu cầu giao tiếp với bạn bè, những người xung quanh và xây dựng hạnh phúc gia đình (44)
        • 2.1.3 Nhu cầu được tôn trọng, được thừa hưởng, phát huy được khả năng của bản thân (48)
      • 2.2 Đánh giá các hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại CLB thanh niên khuyết tật (54)
        • 2.2.1 Hoạt động tư vấn giới thiệu, hỗ trợ học nghề và giới thiệu việc làm cho (55)
        • 2.2.2 Hoạt động truyền thông nâng cao vị thế thanh niên khuyết tật thông qua các hoạt động xã hội (60)
        • 2.2.3 Hoạt động tổ chức phát triển mạng lưới câu lạc bộ thanh niên khuyết tật (62)
        • 2.2.4 Hoạt động chăm sóc sức khỏe, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao (64)
        • 2.2.5 Hoạt động xã hội hóa các hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật (67)
      • 2.3 Một số vấn đề trong trợ giúp thanh niên khuyết tật (68)
    • Chương 3. Một số yếu tố tác động và đánh giá giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật (75)
      • 3.1 Một số yếu tố tác động đến hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật (75)
        • 3.1.1 Yếu tố chủ quan (76)
        • 3.1.2 Yếu tố khách quan (78)
      • 3.2 Đánh giá giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật (82)
        • 3.2.1. Phát triển mạng lưới, phát triển hội viên (83)
        • 3.2.2. Dạy, truyền nghề gắn với tư vấn tạo việc làm cho TNKT (85)
        • 3.2.3. Truyền thông phổ biến chính sách pháp luật về người khuyết tật và nâng cao nhận thức thông qua các hoạt động tình nghĩa (88)
        • 3.2.4. Xây dựng quỹ hội hoạt động tình nghĩa (89)
        • 3.2.5. Tổ chức các hoạt động chăm sóc sức khỏe, tổ chức các hoạt động văn hóa, thể thao cho thanh niên khuyết tật (91)
  • PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ (93)

Nội dung

NỘI DUNG

Cơ sở lý luận và thực tiễn

1.1 Một số khái niệm công cụ trong nghiên cứu

1.1.1 Khuyết tật Định nghĩa khuyết tật là gì đến nay vẫn còn là một vấn đề vì có rất nhiều nhóm khuyết tật khác nhau và có sự khác biệt lớn giữa các cá nhân trong các nhóm này Vì vậy định nghĩa khuyết tật rất phức tạp và thường gây nhiều tranh cãi, Nhiều người với một số khiếm khuyết không tự nhận mình là người khuyết tật Một số người khiếm thính sử dụng ngôn ngữ ký hiệu để giao tiếp với nhau, sẽ không khi nào cho rằng mình là người khuyết tật, mà là một thành viên của nhóm sử dụng ngôn ngữ thiểu số (ngôn ngữ ký hiệu) và chịu đựng sự phân biệt đối xử như nhiều nhóm ngôn ngữ thiểu số khác Một số người lại thích thuật ngữ “có khả năng khác” Trong nghiên cứu luận văn, tác giả tìm hiểu 2 mô hình chính nhìn dưới góc độ y học va xã hội nhằm tìm hiểu khái niệm khuyết tật, cụ thể như sau:

Mô hình y học của khuyết tật định nghĩa khuyết tật là tình trạng suy giảm thể chất và tinh thần, ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng cuộc sống của cá nhân Việc chữa trị và kiểm soát khuyết tật bao gồm xác định, tìm hiểu và tác động đến các vấn đề liên quan Đầu tư của chính phủ, khu vực tư nhân và xã hội vào chăm sóc sức khỏe và dịch vụ liên quan sẽ giúp người khuyết tật có cuộc sống bình thường hơn Mô hình này nhấn mạnh bản chất của chính khuyết tật.

Mô hình xã hội của khuyết tật nhấn mạnh rằng những rào cản và định kiến từ xã hội, dù có chủ ý hay vô ý, là nguyên nhân chính xác định ai là người khuyết tật Theo mô hình này, những khác biệt về tâm lý, trí tuệ hoặc thể chất, mặc dù có thể được xem là khiếm khuyết, không nhất thiết dẫn đến khó khăn trong cuộc sống nếu xã hội có sự hỗ trợ và có thái độ tích cực.

Mô hình xã hội nhấn mạnh tới sự bình đẳng và chú trọng đến những thay đổi cần thiết của xã hội

Trong nghiên cứu của tôi, tôi áp dụng định nghĩa về khuyết tật theo hệ thống phân loại Quốc tế về khiếm khuyết, giảm khả năng và tàn tật (ICF) của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) Theo đó, khuyết tật được hiểu là tình trạng khiếm khuyết, hạn chế vận động và tham gia, phản ánh mối quan hệ tương tác giữa tình trạng sức khỏe của cá nhân và các yếu tố hoàn cảnh, bao gồm cả môi trường và các yếu tố cá nhân khác.

Trên toàn cầu và tại các quốc gia khác nhau, quan điểm về người khuyết tật (NKT) bị ảnh hưởng bởi nhiều yếu tố như lịch sử, kinh tế và văn hóa xã hội Hiện tại, chưa có khái niệm chung nhất về NKT, điều này gây khó khăn trong việc định nghĩa rõ ràng về nhóm đối tượng này Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số khái niệm nổi bật liên quan đến NKT.

Theo Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật – 2006 thì

Người khuyết tật là những cá nhân có khiếm khuyết lâu dài về thể chất, trí tuệ, thần kinh hoặc giác quan Những khiếm khuyết này, khi kết hợp với các rào cản xã hội, có thể hạn chế khả năng tham gia đầy đủ và hiệu quả của họ trong cộng đồng, khiến họ không được đối xử công bằng như những người khác.

Theo Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật (DDA) của Quốc hội Anh, khiếm khuyết kéo dài hoặc có khả năng kéo dài dưới 12 tháng không được coi là khuyết tật, trừ khi tình trạng này tái phát Một số người có khiếm khuyết kéo dài hơn một năm vẫn được xem là thuộc diện DDA, ngay cả khi họ có khả năng phục hồi hoàn toàn.

Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA) định nghĩa người khuyết tật là những cá nhân có sự suy yếu về thể chất hoặc tinh thần, ảnh hưởng đáng kể đến một hoặc nhiều hoạt động quan trọng trong cuộc sống Theo ADA, các ví dụ cụ thể về khuyết tật bao gồm khiếm khuyết về vận động, thị giác, nói và nghe, cũng như các tình trạng như chậm phát triển tinh thần, bệnh cảm xúc, bại não, động kinh, teo cơ, ung thư, bệnh tim, tiểu đường và các bệnh lây nhiễm như lao và HIV Sự thống nhất trong định nghĩa về khuyết tật giữa các đạo luật này được ghi nhận.

Theo Tổ chức Y tế Thế giới, có ba mức độ suy giảm: khiếm khuyết, khuyết tật và tàn tật Khiếm khuyết đề cập đến sự mất mát hoặc bất thường của cấu trúc cơ thể, trong khi khuyết tật là sự giảm thiểu chức năng hoạt động do khiếm khuyết gây ra Tàn tật liên quan đến tình thế bất lợi của người khiếm khuyết do tác động của môi trường Tổ chức Quốc tế người khuyết tật nhấn mạnh rằng người khuyết tật trở thành tàn tật do thiếu cơ hội tham gia xã hội Khuyết tật là hiện tượng phức tạp, phản ánh sự tương tác giữa tính năng cơ thể và xã hội Trước khi Luật người khuyết tật năm 2010 ra đời, các văn bản pháp luật tại Việt Nam thường sử dụng thuật ngữ “người tàn tật” và tiếp cận vấn đề từ góc độ y tế.

Theo quy định của Pháp lệnh, người tàn tật được xác định không phân biệt nguyên nhân gây ra tàn tật, bao gồm cả khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể Những người này có thể gặp khó khăn trong hoạt động lao động, sinh hoạt và học tập do các dạng tật khác nhau làm suy giảm khả năng của họ.

Qua đây người nghiên cứu đã thấy rằng các khái niệm trên đều chỉ ra một số đặc trưng sau về người khuyết tật

+ Là người có khuyết tật Đó là thiếu hỏng, không bình thường về thể chất hoặc tâm thần do nhiều nguyên nhân khác nhau

Khả năng hoạt động của cơ thể bị suy giảm do khuyết tật, dẫn đến các chức năng như vận động, thính giác, thị giác và nhận thức không được thực hiện đầy đủ hoặc bị mất hoàn toàn.

Người khuyết tật là những cá nhân có sức khỏe không bình thường do các khuyết tật, bệnh tật hoặc chấn thương, dẫn đến khó khăn trong cuộc sống và cần sự quan tâm, hỗ trợ từ xã hội Nhiều người khuyết tật, khi được chăm sóc đúng cách, đã trở thành những công dân có ích, có khả năng sống, sinh hoạt và đóng góp cho cộng đồng Khó khăn lớn nhất mà họ phải đối mặt không phải chỉ là những khiếm khuyết về chức năng cơ thể, mà chủ yếu là những rào cản tâm lý và xã hội.

Ngày 17 tháng 6 năm 2010, Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã thông qua Luật Người khuyết tật, có hiệu lực từ 01 tháng 01 năm 2011, chính thức sử dụng khái niệm “người khuyết tật” thay cho khái niệm “tàn tật” hiện hành, phù hợp với khái niệm và xu hướng nhìn nhận của thế giới về vấn đề khuyết tật Theo quy định của Luật Người khuyết tật thì người khuyết tật được hiểu là “người bị khiếm khuyết một hoặc nhiều bộ phận cơ thể hoặc bị suy giảm chức năng được biểu hiện dưới dạng tật khiến cho lao động, sinh hoạt, học tập gặp khó khăn” Đây là sự thể hiện quan điểm và nhận thức của Đảng và Nhà nước ta về NKT, họ cũng được hưởng mọi quyền như người bình thường, họ có thể khiếm khuyết nhưng không phải đã tàn và phế, tạo điều kiện cho NKT thể hiện nỗ lực đóng góp của bản thân cho việc thay đổi nhận thức này Trong phạm vi luận văn, tôi nghiên cứu sử dụng khái niệm người khuyết tật theo luật người khuyết tật được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 17/06/2010

1.1.3 Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật

Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật nhằm đảm bảo các yếu tố vật chất và tinh thần cho sự phát triển toàn diện của họ Những yếu tố này bao gồm việc bảo vệ quyền lợi, sức khỏe thể chất và tâm lý, cũng như các chế độ chính sách dành riêng cho thanh niên khuyết tật Đồng thời, việc tạo ra một môi trường sống an toàn và lành mạnh cũng là một phần quan trọng trong công tác hỗ trợ này.

Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại Hội liên hiệp thanh niên tỉnh Hải Dương tập trung vào việc xây dựng mô hình câu lạc bộ thanh niên khuyết tật, nhằm tạo ra sự đoàn kết và hỗ trợ tinh thần cho các thành viên Mô hình này không chỉ nâng cao tri thức mà còn phát huy tiềm năng của thanh niên khuyết tật, giúp họ vượt qua khó khăn Đối tượng thụ hưởng chủ yếu là những thanh niên khuyết tật có hoàn cảnh sống tương đồng, đồng thời hầu hết trong số họ đều đang thiếu thốn về các nhu cầu cơ bản.

Hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật

2.1 Nhu cầu của thanh niên khuyết tật

2.1.1 Nhu cầu về học tập, học nghề và việc làm

Thanh niên khuyết tật đối mặt với nhiều khó khăn trong học tập, việc làm, hôn nhân và sự kỳ thị, tạo thành một vòng luẩn quẩn giữa nguyên nhân và kết quả Đặc biệt, những người khuyết tật trí tuệ hoặc khiếm khuyết cảm giác như khiếm thính, khiếm thị gặp nhiều trở ngại trong việc tiếp thu tri thức, trong khi người khuyết tật vận động ít bị ảnh hưởng hơn Để hỗ trợ họ, cần có hình thức giáo dục đặc biệt phù hợp với từng loại khiếm khuyết, điều này đòi hỏi đầu tư cơ sở vật chất lớn hơn so với giáo dục thông thường Nếu không có sự hỗ trợ từ chính quyền, cơ quan giáo dục và gia đình, việc duy trì học tập và phát triển cá nhân gần như không thể thực hiện.

Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hiệp Quốc, 90% trẻ em khuyết tật ở các nước đang phát triển không được đến trường Quỹ Nhi đồng Liên Hiệp Quốc cho biết 30% thanh niên đường phố là trẻ khuyết tật Nghiên cứu của Chương trình hỗ trợ phát triển của Liên Hiệp Quốc (UNDP) năm 1998 cho thấy tỷ lệ biết đọc, biết viết ở người trưởng thành khuyết tật toàn cầu chỉ dưới 3%, và chỉ 1% ở phụ nữ khuyết tật Mặc dù tỷ lệ sinh viên khuyết tật có trình độ cao ở các nước OECD vẫn còn thấp, nhưng con số này đang có xu hướng tăng.

Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội Việt Nam, trình độ học vấn của người khuyết tật rất thấp, với 41% chỉ biết đọc biết viết và 19,5% hoàn thành cấp một Chỉ 2,75% có trình độ trung học chuyên nghiệp hoặc chứng chỉ nghề, trong khi chưa đến 0,1% đạt bằng đại học hoặc cao đẳng Tổng cộng, chỉ khoảng 3% được đào tạo nghề chuyên môn, và hơn 4% có việc làm ổn định Đáng chú ý, hơn 40% người khuyết tật sống dưới chuẩn nghèo (Bộ LĐTBXH, 2005).

Tỉnh Hải Dương hiện có 13.526 người khuyết tật trong độ tuổi thanh niên từ 16 đến 30, chiếm 38% tổng số người khuyết tật toàn tỉnh Trong số này, khoảng 8.120 người (60%) đang có việc làm và tự nuôi sống bản thân, đồng thời đóng góp cho xã hội qua nhiều công việc khác nhau Tuy nhiên, vẫn còn 5.406 người khuyết tật (40%) có nhu cầu nhưng chưa tìm được việc làm.

Nhiều người khuyết tật vẫn có khả năng lao động nhưng gặp khó khăn trong việc tìm kiếm công việc phù hợp để tự lập Theo khảo sát của Sở Lao động Thương binh và Xã hội, trình độ học vấn của người khuyết tật còn thấp: tỷ lệ thanh niên khuyết tật mù chữ là 26,7%, hết cấp 1 là 36,3%, hết cấp 2 là 24,5%, và hết cấp 3 là 8% Chỉ có 4,5% thanh niên khuyết tật đạt trình độ trung cấp, cao đẳng, và không có ai có trình độ đại học hoặc trên đại học.

Khó khăn trong học tập ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng xin việc của người khuyết tật, dẫn đến trình độ học vấn của họ thấp hơn so với cộng đồng Nhiều công việc có yêu cầu mà người khuyết tật khó đáp ứng, như những công việc cần di chuyển nhiều đối với người khuyết tật ở chân Bên cạnh đó, những công việc yêu cầu ngoại hình và sức khỏe tốt cũng khiến họ gặp khó khăn trong việc tiếp cận Hơn nữa, người khuyết tật có ít cơ hội tìm việc làm phù hợp và chưa nhận được sự hỗ trợ tối đa từ các cơ quan chức năng và chính quyền địa phương Tác giả đã thực hiện phỏng vấn sâu và tìm hiểu hai trường hợp cụ thể để làm rõ vấn đề này.

* Trường hợp 1: Ít cơ hội

Khi mới 2 tuổi, anh Nguyễn Văn Quân ở xã Đông Xuyên (Ninh Giang) đã mắc bệnh sốt cao, dẫn đến tình trạng teo và liệt nửa trên cánh tay phải Dù gặp nhiều khó khăn trong việc học tập và di chuyển, anh vẫn kiên trì và tốt nghiệp Khoa Điện dân dụng Trường Cao đẳng Nghề công nghiệp Hải Phòng năm 2012 Tuy nhiên, khi tìm việc, anh gặp phải sự từ chối từ nhiều doanh nghiệp chỉ vì anh là người khuyết tật, khiến anh cảm thấy nản lòng sau một năm không xin được việc Cuối cùng, anh quyết định cất bằng tốt nghiệp và làm phu hồ, nhưng công việc này cũng mang lại cho anh nhiều đau đớn do chỉ có thể làm bằng tay trái.

Vào đầu năm 2015, anh Quân đã đăng ký học lớp tin học tại Trung tâm Bảo trợ xã hội tỉnh theo chương trình tuyển sinh dạy nghề cho người khuyết tật Sau 6 tháng học tập, anh đã nhận chứng chỉ tốt nghiệp nhưng vẫn gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm Dù được giới thiệu đến làm việc tại một xưởng may ở Gia Lộc, mức lương chỉ vài ba chục nghìn đồng mỗi ngày không đủ để anh trang trải chi phí đi lại, buộc anh phải xin nghỉ sau 2 ngày Anh Quân tiếp tục hành trình xin việc và được giới thiệu đến làm phục vụ tại một quán ăn Trong quá trình học tin học, anh còn có 2 bạn học khác, một người vẫn ở nhà và một người phải lên Cao Bằng làm việc cho người thân.

Tại TP Hải Dương, anh Nguyễn Văn Hữu, 27 tuổi, quê Hà Tây (cũ), đã quen thuộc với hình ảnh mời mua tăm bông và hàng hóa lặt vặt dù chân đi tập tễnh Dù đã học nghề mộc theo dự án dành cho người khuyết tật và có chứng chỉ, anh Hữu không thể tìm được việc làm ổn định do bị từ chối ở nhiều nơi Những nơi nhận anh vào làm chỉ trong thời gian ngắn rồi cũng cho anh nghỉ vì anh không thể làm việc nhanh như người bình thường hoặc không đủ sức bưng vác nặng Cuối cùng, anh đành phải bán hàng rong để kiếm sống và không dám chia sẻ công việc hiện tại với gia đình vì sợ họ lo lắng.

Hải Dương hiện có hơn 35.000 người khuyết tật, trong đó hơn một nửa trong độ tuổi lao động, nhưng việc tạo điều kiện cho họ làm việc trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh vẫn rất hạn chế Nhiều người khuyết tật chỉ có thể tìm việc qua gia đình hoặc nỗ lực cá nhân, do gặp khó khăn khi xin việc, ngay cả khi đã được đào tạo nghề Hội NKT tỉnh đang cố gắng giới thiệu việc làm, nhưng chủ yếu phải vận động từng doanh nghiệp, vì không có doanh nghiệp nào tự nguyện nhận người khuyết tật Các cơ sở sản xuất dành riêng cho người khuyết tật rất ít, chủ yếu là các cơ sở tư nhân với quy mô nhỏ Một chủ cơ sở cho biết mặc dù Nhà nước có ưu đãi như cho vay vốn lãi suất thấp và miễn giảm thuế, nhưng ít người muốn thành lập vì lợi nhuận không cao và thủ tục hành chính phức tạp.

Hiện nay, tại Hải Dương, nhiều ngành và đoàn thể như Sở Lao động, Tỉnh đoàn Hải Dương, Hội Chữ thập đỏ và Hội Phụ nữ đã triển khai các chương trình đào tạo nghề và giới thiệu việc làm cho người khuyết tật (NKT) Tuy nhiên, số lượng NKT được đào tạo còn hạn chế và hiệu quả giới thiệu việc làm chưa cao Dự án "Hỗ trợ hòa nhập kinh tế - xã hội và việc làm cho NKT" do Hội Chữ thập đỏ Tây Ban Nha tài trợ chỉ đào tạo 90 NKT ở hai huyện Cẩm Giàng và Thanh Hà, và sau khi hoàn thành, chỉ một số ít NKT tìm được việc làm Trung tâm dịch vụ việc làm thuộc Tỉnh đoàn Hải Dương cũng mở các lớp dạy nghề cho khoảng 80 NKT mỗi năm, nhưng chưa đầy 50% trong số họ làm việc theo chuyên ngành đào tạo Theo Điều 14, Nghị định 81 của Chính phủ, doanh nghiệp phải nhận từ 2-3% NKT vào làm việc, nhưng nhiều doanh nghiệp lại chọn nộp tiền vào quỹ hỗ trợ thay vì tuyển dụng do lo ngại ảnh hưởng đến sản xuất Để có cái nhìn khách quan hơn về công tác tư vấn học nghề và giải quyết việc làm cho NKT, nghiên cứu đã tham khảo ý kiến 30 thanh niên khuyết tật đang sinh hoạt tại câu lạc bộ, nhằm đánh giá thực trạng và tìm kiếm giải pháp hiệu quả hơn.

STT Nội dung phỏng vấn Số lượng Tỷ lệ

2 Từ phương tiện thông tin đại chúng

3 Từ Hội Liên hiệp Thanh niên tỉnh Hải Dương

Theo phỏng vấn sâu, 53% thành viên câu lạc bộ nhận thông tin việc làm từ Hội Liên hiệp thanh niên Việt Nam, 24% từ người quen, và chỉ 10% qua thông tin đại chúng Điều này cho thấy vai trò của Hội Liên hiệp thanh niên trong tư vấn việc làm đã được nâng cao, nhưng vẫn chỉ dừng lại ở những thanh niên khuyết tật thường xuyên tham gia câu lạc bộ Đối với những thanh niên khuyết tật chưa tham gia, con số thông tin việc làm còn rất hạn chế Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Hội Liên hiệp thanh niên, trung tâm giới thiệu việc làm và các đoàn thể để mở rộng tuyên truyền, cung cấp thông tin hữu ích cho thanh niên khuyết tật trên toàn tỉnh, nhằm đáp ứng nhu cầu tìm kiếm việc làm lớn và vượt qua những thách thức hiện tại.

Mong muốn học tập, học nghề và tìm việc làm là nguyện vọng hàng đầu của thanh niên khuyết tật, thể hiện sự tự lập và nỗ lực vươn lên, mặc dù thu nhập có thể rất thấp Tuy nhiên, họ vẫn phải đối mặt với nhiều rào cản trong việc tiếp cận giáo dục và việc làm Do đó, sau khi triển khai các chương trình đào tạo nghề cho người khuyết tật, cần đặt mục tiêu hỗ trợ họ tìm việc làm ổn định, nhằm tránh lãng phí nguồn lực đào tạo và giúp họ tự tin đứng vững, không trở thành gánh nặng cho gia đình và xã hội.

2.1.2 Nhu cầu giao tiếp với bạn bè, những người xung quanh và xây dựng hạnh phúc gia đình

Người khuyết tật thường cảm thấy tự ti và mặc cảm về khuyết tật của mình, đồng thời phải đối mặt với sự phân biệt và kỳ thị từ xã hội Họ khao khát được giao tiếp và nhận sự sẻ chia, thân thiện từ bạn bè và những người xung quanh Tuy nhiên, sự kỳ thị và phân biệt đối xử từ gia đình và cộng đồng là rào cản lớn nhất trong hôn nhân của họ Nhiều người vẫn có quan niệm tiêu cực về việc kết hôn với người khuyết tật, cho rằng điều này sẽ mang lại khó khăn cho chính bản thân người khuyết tật Do đó, bên cạnh nhu cầu giao tiếp và sẻ chia, người khuyết tật cũng rất mong muốn tìm được người hiểu và đồng cảm để cùng nhau xây dựng hạnh phúc gia đình.

Người khuyết tật thường gặp khó khăn trong việc lập gia đình hơn so với người bình thường, do nhiều nguyên nhân khác nhau Họ thường bị xem là lựa chọn "dưới tiêu chuẩn" vì xã hội có xu hướng chọn bạn đời dựa trên bộ gene tốt Quan điểm cho rằng người khuyết tật chỉ nên kết hôn với nhau thể hiện sự phân biệt đối xử rõ ràng Thêm vào đó, nhiều gia đình, đặc biệt là của người không khuyết tật, phản đối mối quan hệ này vì lo ngại cho hạnh phúc của con cái họ Những lo lắng về di truyền, khả năng chăm sóc con cái và tình hình kinh tế cũng góp phần làm tăng sự kỳ thị Người khuyết tật thường cảm thấy mặc cảm, tin rằng họ sẽ làm khổ người yêu và rằng người yêu họ sẽ hạnh phúc hơn nếu kết hôn với người lành lặn Dư luận xã hội thường có cái nhìn phiến diện, coi mối quan hệ giữa người khuyết tật và người khỏe mạnh là không bình thường Đặc biệt, phụ nữ khuyết tật chịu thiệt thòi nhiều hơn, với tỷ lệ không kết hôn cao (70% nữ, 47% nam) theo báo cáo của Sở Lao động Thương binh & Xã hội tỉnh Hải Dương Khoảng một nửa số người khuyết tật cho rằng lý do họ không thể kết hôn là do sức khỏe, trong khi phần còn lại là do sự thiếu thông cảm từ cộng đồng và sự không ủng hộ từ gia đình.

Một số yếu tố tác động và đánh giá giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật tại Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật

3.1 Một số yếu tố tác động đến hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật

Người khuyết tật, đặc biệt là thanh niên khuyết tật, đang đối mặt với nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ nhằm nâng cao năng lực và hòa nhập cộng đồng Họ cần sự hỗ trợ từ gia đình, cộng đồng và xã hội để có thể hòa nhập hiệu quả Chị V, 30 tuổi, khuyết tật vận động, chia sẻ rằng mỗi dạng khuyết tật có những khó khăn riêng, nhưng nhìn chung, họ gặp trở ngại do ít cơ hội hòa nhập Chị cũng đã trải qua sự kỳ thị và thiếu đồng cảm từ người xung quanh, nhưng nhờ tham gia CLB thanh niên khuyết tật, chị đã tìm thấy sự kết nối và cơ hội để phát triển bản thân Điều này cho thấy rằng ước mơ hòa nhập cộng đồng là mong muốn chung của tất cả người khuyết tật, và mặc dù khiếm khuyết về thể chất không làm giảm giá trị của họ, nhưng rào cản từ xã hội và sự mặc cảm vẫn khiến việc hòa nhập trở nên khó khăn.

Trong những năm qua, nhờ sự quan tâm của Đảng, nhà nước và các tổ chức xã hội, công tác chăm sóc và hỗ trợ người khuyết tật (NKT) đã có những cải thiện đáng kể, từ dinh dưỡng, chăm sóc sức khỏe đến việc làm, giáo dục và hoạt động văn hóa thể thao Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu này, việc trợ giúp NKT, đặc biệt là thanh niên khuyết tật, vẫn gặp một số bất cập Luận văn này nghiên cứu và chỉ ra hai yếu tố tác động đến hoạt động trợ giúp thanh niên khuyết tật, bao gồm yếu tố chủ quan và yếu tố khách quan.

Nhiều thanh niên khuyết tật thường cảm thấy mặc cảm và tự đánh giá thấp bản thân so với người bình thường, đặc biệt là về ngoại hình Tuy nhiên, không phải ai cũng như vậy; nhiều người đã nỗ lực vượt qua khó khăn, hòa nhập và sống cuộc sống đầy đủ như những người không khuyết tật Anh T.T.Q, một thành viên của CLB TNKT, là một ví dụ điển hình Mặc dù bị mù từ nhỏ và từng cảm thấy bất lực, anh đã vượt qua khó khăn nhờ sự động viên của gia đình và bạn bè, tốt nghiệp khoa tiếng Anh và tự học tin học Anh đã chứng minh rằng thanh niên khuyết tật cũng có thể sống một cuộc sống ý nghĩa, thậm chí còn mạnh mẽ hơn về mặt ý chí và nghị lực.

Thanh niên khuyết tật thường gặp khó khăn do hạn chế về sức khỏe và kinh tế, dẫn đến cảm giác mặc cảm và tự ti Họ có xu hướng ỷ lại vào chính sách của Nhà nước, thiếu chủ động trong việc vươn lên trong cuộc sống, thậm chí có thể buông xuôi Qua các cuộc trò chuyện, tác giả nhận thấy rằng nhiều thanh niên khuyết tật cảm thấy bị coi thường và thiếu tôn trọng, cho thấy nhận thức của họ về bản thân đã bị bóp méo và không phản ánh đúng thực tế khách quan.

Nhiều người khuyết tật (NKT) thường cảm thấy mặc cảm và không nhận thức rõ nhu cầu thực sự của bản thân Họ gặp khó khăn trong việc xác định danh tính, có cái nhìn tiêu cực về chính mình và người khác Sự ngại giao tiếp, thích ngồi yên, sợ đi lại và tránh xa đám đông khiến họ cảm thấy thua kém trong các mối quan hệ xã hội.

Sự phân biệt đối xử trong cộng đồng là nguyên nhân chính cản trở người khuyết tật có cuộc sống tốt đẹp Kỳ thị là rào cản vô hình nhưng tàn nhẫn, đẩy nhiều người ra ngoài lề xã hội Nhiều thanh niên khuyết tật cảm thấy tự ti và không dám đến nơi công cộng vì sợ bị chú ý Dù tại các doanh nghiệp, người khuyết tật có vẻ được ưu đãi, nhưng thực tế họ phải đối mặt với nhiều khó khăn như cơ sở vật chất không phù hợp, thời gian làm việc không linh hoạt và thiếu cơ hội nghề nghiệp.

Nhiều cán bộ và người dân vẫn chưa nhận thức đầy đủ về vấn đề người khuyết tật, cho rằng công tác hỗ trợ người khuyết tật chỉ là trách nhiệm của ngành Lao động, Thương binh và Xã hội, và xem các hoạt động trợ giúp này chỉ là hoạt động từ thiện.

Một số địa phương vẫn chưa triển khai hiệu quả Luật Người khuyết tật, dẫn đến sự chậm trễ và thiếu tính sâu sát trong công tác chỉ đạo Tình trạng kỳ thị và phân biệt đối xử với người khuyết tật vẫn còn tồn tại, ảnh hưởng đến quyền lợi và sự hòa nhập của họ trong xã hội.

Các yếu tố chủ quan ảnh hưởng đến người khuyết tật chủ yếu đến từ sự tự ý thức và nhận thức của họ về bản thân, hình thành trong quá trình tiếp xúc với thực tế cuộc sống Khi bị gán nhãn khuyết tật, họ thường cảm thấy như nạn nhân của những dịch vụ không thể tiếp cận, dẫn đến cảm giác không được coi trọng và trở thành gánh nặng cho xã hội Những nhận thức tiêu cực này gây khó khăn cho họ trong việc học hỏi và biểu đạt thông qua ngôn ngữ, đồng thời làm méo mó cách nhìn nhận về bản thân và tương lai Hệ quả là cảm xúc tiêu cực và hành động của họ bị cản trở, khiến họ khó khăn trong việc đạt được mục tiêu và giải quyết các vấn đề Từ đó, họ càng thu mình lại trong những nhận thức tiêu cực và phát sinh mặc cảm tự ti về chính mình.

Việt Nam đã xây dựng một hệ thống an sinh xã hội và các chính sách hỗ trợ cho người khuyết tật (NKT) như chăm sóc sức khỏe, phục hồi chức năng và giáo dục Tuy nhiên, những chính sách này chưa được triển khai một cách đồng bộ, khiến NKT, đặc biệt là thanh niên khuyết tật, vẫn bị hạn chế trong không gian gia đình và gặp khó khăn khi tiếp xúc với môi trường bên ngoài Tình trạng này dẫn đến việc thanh niên khuyết tật không có tầm nhìn rộng và không thể tham gia đầy đủ vào các hoạt động tại địa phương của họ.

Tỷ lệ thanh niên khuyết tật (TNKT) được học nghề vẫn còn thấp, chủ yếu ở trình độ sơ cấp, trong khi kinh phí dạy nghề chưa được bố trí riêng Mức hỗ trợ tiền ăn và đi lại cũng không phù hợp, dẫn đến việc nhiều TNKT có việc làm không ổn định, chủ yếu tự tạo việc làm hoặc làm việc trong các tổ chức từ thiện Sau khi ra trường, nhiều thanh niên khuyết tật gặp khó khăn trong việc tìm kiếm việc làm do nhà tuyển dụng lo ngại về khả năng lao động của họ Hơn nữa, TNKT tự tạo việc làm và hộ gia đình chưa được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Chính sách xã hội để phát triển sản xuất, kinh doanh Nhiều địa phương cũng chưa thực hiện hỗ trợ cho các cơ sở sản xuất, kinh doanh sử dụng từ 30% lao động là người khuyết tật trở lên Nhiều TNKT còn thiếu tự tin và chưa khẳng định được tiếng nói của mình trong xã hội Anh N.V.H, 34 tuổi, một thành viên Câu lạc bộ thanh niên khuyết tật, đã chia sẻ về những khó khăn này.

Trước khi nộp đơn xin việc, tôi đã xem xét cẩn thận tính phù hợp của công việc với bản thân Tuy nhiên, nhà tuyển dụng lại so sánh khả năng nhanh nhẹn của tôi với những ứng viên khác, dẫn đến việc tôi không được chọn.

Chương trình đào tạo hiện tại chưa hợp lý, với nội dung nặng về lý thuyết và thiếu thực hành, không có giáo trình phù hợp cho người khuyết tật Các ngành nghề đào tạo chủ yếu ngắn hạn và ở trình độ thấp, không đáp ứng nhu cầu thị trường lao động Dịch vụ hỗ trợ việc làm cho người khuyết tật chủ yếu tập trung vào dạy nghề và giới thiệu việc làm, trong khi tư vấn nghề và hỗ trợ tại nơi làm việc còn hạn chế Bà N.T.N, Chủ nhiệm CLB Thanh niên khuyết tật, cho biết nhiều gia đình không muốn cho con em họ đi học do tự ti và mặc cảm, dẫn đến trình độ học vấn thấp Xã hội cũng thiếu niềm tin vào khả năng học nghề của người khuyết tật Đời sống của nhiều thanh niên khuyết tật còn gặp khó khăn, nhiều gia đình thuộc hộ nghèo và chưa tiếp cận đầy đủ các chính sách ưu đãi của Nhà nước về y tế, giáo dục và việc làm.

Hoạt động xác định mức độ khuyết tật (NKT) hiện nay chưa đạt hiệu quả cao, do công tác thống kê và quản lý NKT còn nhiều bất cập Dữ liệu về NKT tại tỉnh và các địa phương cấp huyện, xã chưa được cập nhật đầy đủ, vẫn dựa vào kết quả của Tổng điều tra dân số và nhà ở năm 2009, dẫn đến việc không phản ánh đúng quy mô và thực trạng NKT từ năm 2010 đến nay.

Người khuyết tật (NKT) vẫn gặp khó khăn trong việc tiếp cận các hoạt động văn hóa, giải trí và thể dục thể thao tại địa phương Việc miễn, giảm giá vé và dịch vụ cho NKT chưa được thực hiện đồng bộ, với nhiều doanh nghiệp không tuân thủ quy định Mặc dù Hội Liên hiệp Thanh niên hàng năm phát động phong trào văn hóa, thể thao cho thanh niên khuyết tật và tổ chức các giải đấu, nhưng hoạt động này vẫn chỉ phát triển ở mức độ ban đầu, chủ yếu tại khu vực thành thị, trong khi khu vực nông thôn và các xã khó khăn chưa được chú ý đầy đủ.

Số lượng NKT tiếp cận sử dụng Internet thấp, nhất là ở các vùng nông thôn, miền núi

Ngày đăng: 02/07/2022, 16:16

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Bộ LĐ-TB&XH - VNAH – CRS (2015), Dạy nghề/việc làm đối với người khuyết tật ở Việt Nam - Chính sách và thực tiễn, NXB Quân đội nhân dân - Hà Nội 2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dạy nghề/việc làm đối với người khuyết tật ở Việt "Nam - Chính sách và thực tiễn
Tác giả: Bộ LĐ-TB&XH - VNAH – CRS
Nhà XB: NXB Quân đội nhân dân - Hà Nội 2015
Năm: 2015
2. Báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương (2015), Báo cáo “về rà soát, đánh giá việc thực hiện các chính sách, pháp luật hỗ trợ đối với người khuyết tật trên toàn tỉnh” Sách, tạp chí
Tiêu đề: “về rà soát, đánh giá việc thực hiện các chính sách, pháp luật hỗ trợ đối với người khuyết tật trên toàn tỉnh
Tác giả: Báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương
Năm: 2015
3. Viện nghiên cứu phát triển xã hội (2013), nghiên cứu “Chi phí kinh tế của sống với khuyết tật và sự kỳ thị ở Việt Nam”, NXB Lao động - Hà Nội 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Chi phí kinh tế của sống với khuyết tật và sự kỳ thị ở Việt Nam”
Tác giả: Viện nghiên cứu phát triển xã hội
Nhà XB: NXB Lao động - Hà Nội 2013
Năm: 2013
4. Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) (2008), nghiên cứu “Khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam”, Văn phòng ILO tại Việt Nam – In theo đặt hàng của tổ chức Lao động Quốc tế tháng 8/2008 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Khảo sát về đào tạo nghề và việc làm cho người khuyết tật tại Việt Nam”
Tác giả: Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO)
Năm: 2008
5. Quỹ dân số Liên hiệp quốc (UNFPA) (2009) Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009, NXB Thống Kê – Hà Nội 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số kết quả chủ yếu từ Tổng điều tra Dân số và Nhà ở Việt Nam năm 2009
Nhà XB: NXB Thống Kê – Hà Nội 2009
6. Ban điều phối các hoat động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam (2013) Báo cáo về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt Nam, Báo cáo thường niên năm 2013 của Ban điều phối các hoat động hỗ trợ người khuyết tật Việt Nam – Hà Nội ngày 13/3/2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Báo cáo về hoạt động trợ giúp người khuyết tật Việt Nam
7. Tiến sĩ Trần Văn Kham (2011), Công tác xã hội với người khuyết tật ở Úc - cách tiếp cận hội. Hội thảo về Đổi mới Công tác xã hội trong nền kinh tế thị trường, Trường ĐH KHXH&NV Hà Nội, 22/9/2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công tác xã hội với người khuyết tật ở Úc - cách tiếp cận hội
Tác giả: Tiến sĩ Trần Văn Kham
Năm: 2011
8. Tiến sĩ Trần Văn Kham (2011), Mô hình xã hội về khuyết tật và áp dụng trong công tác xã hội với người khuyết tật ở Việt Nam. In tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Viện Hàn lâm khoa học xã hội Việt Nam. Số tháng 2/2015 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mô hình xã hội về khuyết tật và áp dụng trong công tác xã hội với người khuyết tật ở Việt Nam
Tác giả: Tiến sĩ Trần Văn Kham
Năm: 2011
9. Victor Santiago – Chủ tịch quỹ Victor Pineda (2008), Cuốn sách “Chúng ta có thể” - giải thích công ước về Quyền Người Khuyết tật, do bộ phận truyền thông của UNICEF biên tập và in ấn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cuốn sách "“Chúng ta có thể” - giải thích công ước về Quyền Người Khuyết tật
Tác giả: Victor Santiago – Chủ tịch quỹ Victor Pineda
Năm: 2008
12. Tổ chức y tế thế giới (WHO) (1999), Bảng phân loại Quốc tế về khiếm khuyết, giảm khả năng và tàn tật (International Classification of Functioning, Disability and Health-ICF) của tổ chức y tế thế giới (WHO) Sách, tạp chí
Tiêu đề: -ICF)
Tác giả: Tổ chức y tế thế giới (WHO)
Năm: 1999
10. Vũ Thị Thu Ngà (2008), Vấn đề người khuyết tật qua sự phản ánh của báo chí hiện nay. Luận văn thạc sĩ khoa học báo chí - Hà Nội 2008, Đại học Quốc gia Hà Nội, Trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn khoa Báo chí - Truyền thông Khác
11. Hội trợ giúp người khuyết tật Việt Nam (VNAH) (2015), Chính sách trợ giúp người khuyết tật, quyền và quy trình thực thi quyền của người khuyết tật Khác
13. Liên hiệp quốc (2006), Công ước quốc tế về quyền của người khuyết tật do Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã thông qua Công ước Quốc tế về các Quyền của Người Khuyết tật A/RES/61/106, Ngày 13 tháng 12 năm 2006 Khác
14. DDA (Disability Discrimination Atc – Đạo luật chống phân biệt đối xử với người khuyết tật do Quốc hội Anh ban hành), Định nghĩa về người khuyết tật Khác
15. Đạo luật về người khuyết tật của Hoa Kỳ năm 1990 (ADA Americans with Disabillities Act of 1990), Định nghĩa người khuyết tật Khác
16. Hiệp hội nhân viên Công tác xã hội Quốc tế (2000), Định nghĩa về công tác xã hội Khác
17. Trần Đình Tuấn (2010), Công tác xã hội - Lý thuyết và thực hành. NXB Đại Học Quốc Gia 2010 Khác
18. Báo cáo Sở Lao động Thương binh và Xã hội tỉnh Hải Dương (2015), Báo cáo đánh giá về nhu cầu hòa nhập xã hộ của người khuyết tật trên địa bàn tỉnh Khác
19. Quốc hội (2005), Luật Thanh niên, NXB Thanh niên 2005 20. Quốc hội (2012), Bộ Luật lao động, NXB Lao động 2012 21. Quốc hội (2006), Luật Dạy nghề, NXB Tư pháp 2007 Khác
22. Quốc hội (2010), Luật Người khuyết tật, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia 2010 Khác

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w