Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài
Dự báo nhu cầu nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin (CNTT) đã được nhiều nghiên cứu và khảo sát tổng hợp, phản ánh sự phát triển kinh tế - xã hội và thị trường lao động Một số công trình tiêu biểu đã chỉ ra xu hướng tăng trưởng trong nguồn nhân lực CNTT, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc chuẩn bị và phát triển kỹ năng cho nhân viên trong ngành này.
Từ năm 1984, nghiên cứu của Đỗ Văn Chấn (1984) “Dự đoán nhu cầu triển vọng cán bộ chuyên môn của nước ta”, Viện Nghiên cứu Đại học và
THCN đã đưa ra cái nhìn tổng quát về nhu cầu nhân lực trong các ngành, đặc biệt là lĩnh vực kỹ thuật, nhằm phục vụ cho sự phát triển đất nước Điều này cũng nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đào tạo cán bộ chuyên môn phù hợp với quy mô, cơ cấu và trình độ phát triển của nền kinh tế Nhu cầu nhân lực tăng lên theo sự phát triển của nền kinh tế và để dự báo cơ cấu đội ngũ cán bộ theo các ngành kinh tế quốc dân, cần phải xem xét cơ cấu sản xuất, vì nó quyết định cơ cấu quản lý.
Nghiên cứu “Đảm bảo chất lƣợng đào tạo nguồn nhân lực CNTT đáp ứng nhu cầu xã hội” của tác giả Ngô Thị Kim Dung và Hà Xuân Quang
Báo cáo Hội thảo quốc gia năm 2008 về đào tạo nhân lực CNTT&TT nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo chất lượng giáo dục và đào tạo trong lĩnh vực CNTT tại các cơ sở đào tạo CĐ, ĐH Báo cáo cũng đề cập đến các giải pháp nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, dựa trên dự báo về sự tăng trưởng của cung và cầu nhân lực CNTT trong bối cảnh phát triển nhanh chóng của ngành.
Tiếp đó nghiên cứu của nhóm tác giả Trần Minh Tiến, Phạm Mạnh Lâm, Trần Minh Tuấn, Ngô Quốc Thái, Cao Trần Việt Nga, Bùi Thu Hà, và
Lê Thị Thanh Hà (2008), Xây dựng quy hoạch nguồn nhân lực CNTT quốc gia giai đoạn 2006-2010 và định hướng 2015, Báo cáo đề tài cấp bộ, Viện
Chiến lược BCVT & CNTT là một nghiên cứu quan trọng, đánh giá chi tiết hiện trạng và nhu cầu nhân lực CNTT quốc gia Nghiên cứu xác định quy mô, cơ cấu, trình độ và chất lượng nguồn nhân lực CNTT, nhằm đảm bảo chất lượng và đồng bộ, đồng thời tăng nhanh tỷ lệ nhân lực có trình độ cao theo lộ trình phát triển.
Nghiên cứu của Nguyễn Thế Hà (2011) trong bài viết “Công tác dự báo thị trường lao động Việt Nam, mô hình và kết quả dự báo đến năm 2020” đã đánh giá chất lượng công tác dự báo thị trường lao động tại Việt Nam Nghiên cứu chỉ ra rằng sẽ có sự thiếu hụt lớn về nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân lực trong lĩnh vực công nghệ thông tin.
Nghiên cứu về nguồn nhân lực trong ngành CNTT đã được thực hiện với nhiều khía cạnh, bao gồm công nghiệp phần mềm, lãnh đạo CNTT và nguồn nhân lực tại các đơn vị hành chính cấp tỉnh Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là của Nguyễn Đình Thắng (2009), cung cấp cái nhìn sâu sắc về tình hình và dự báo nguồn nhân lực trong các phân khúc này.
Báo cáo Hội thảo hợp tác phát triển CNTT - TT VN lần XIII của Chu Tiến Dũng (2009) nêu rõ hiện trạng và nhu cầu nguồn lực cho ngành công nghiệp phần mềm và dịch vụ CNTT tại Việt Nam Một số khía cạnh quan trọng về bức tranh tổng thể của CNTT và công nghiệp phần mềm Việt Nam cũng được đề cập, phản ánh sự phát triển và thách thức mà ngành này đang đối mặt.
2009, Tham luận tại Hội thảo Toàn cảnh CNTT VN 2009, Hội Tin học
Tp.HCM Nguyễn Hoàng Nhiên (2008), Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực CNTT của Tp.HCM đến năm 2020, Luận văn thạc sĩ, ĐH Kinh tế
Tp.HCM Cao Hào Thi (2011), Đề tài: Dự báo nguồn nhân lực CNTT của Tp.HCM trong giai đoạn 2011 đến 2020, Sở Khoa học và Công nghệ Tp HCM
Nghiên cứu lý thuyết dự báo, đặc biệt là tài liệu "Elements of Forecasting" của Francis X Diebold, cung cấp kiến thức cơ bản về dự báo và các mô hình dự báo Mặc dù cuốn sách chủ yếu tập trung vào dự báo kinh tế, gần đây đã có nhiều nghiên cứu về dự báo nhân lực trong ngành CNTT Khảo sát của Trung tâm giới thiệu việc làm số 2 (Sở LĐ-TB-XH Hà Nội) cho thấy ngành CNTT dẫn đầu về nhu cầu lao động ở các trình độ ĐH, CĐ và trung cấp, với 93% người tìm việc có bằng cấp từ CĐ trở lên Tại hội thảo "Bong bóng nhân sự ngành công nghệ thông tin – Đâu là lối ra để phát triển?" do Liên minh Vnito tổ chức, nghiên cứu của Vietnamworks cho biết nhu cầu tuyển dụng ngành CNTT đang cao và dự kiến sẽ tăng trong những năm tới Trong 3 năm qua, số lượng việc làm đăng tải đã tăng gấp đôi, và dự báo Việt Nam sẽ cần 400.000 nhân lực vào cuối năm 2018, trong khi hiện tại chỉ có khoảng 250.000 kỹ sư đang làm việc trong ngành này.
Liên quan đến vấn đề xây dựng CPĐT, nghiên cứu tập hợp đƣợc ở 3 nhóm vấn đề
Nhóm nghiên cứu thứ nhất tập trung vào việc tổng quan về chính phủ điện tử (CPĐT), cung cấp những kiến thức cơ bản và nền tảng về lĩnh vực này Một số công trình tiêu biểu trong xu hướng này có thể được nêu ra để minh chứng cho sự phát triển và hiểu biết sâu sắc hơn về CPĐT.
Chính phủ điện tử (2006) của Nhà xuất bản Bưu điện là nghiên cứu đầu tiên ở
Việt Nam đã đề cập đến Chính phủ điện tử (CPĐT) từ nhiều khía cạnh như định nghĩa, lợi ích, mục tiêu, thách thức và cơ hội triển khai Nghiên cứu "Chính phủ điện tử" năm 2010 của các tác giả Nguyễn Đăng Hậu, Nguyễn Hoài Anh và Ao Thu Hoài khẳng định rằng CPĐT là giải pháp hiệu quả để nâng cao chất lượng dịch vụ công, tăng cường vai trò của Chính phủ và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Trước đó, công trình “Thế giới của Chính phủ điện tử” của Greygory
In the realm of e-government studies, G Curtin's 2003 publication, "The World of E-Government," and Latif Al Hakim's 2006 work, "Global E-Government: Theory, Application and Benchmarking," are well-known resources among scholars in Vietnam.
Nghiên cứu tổng quan về chuyển đổi số (CPĐT) là một hướng đi cơ bản, nhằm đưa ra những đề xuất ứng dụng CPĐT tại Việt Nam Mặc dù nhiều nghiên cứu hiện nay tập trung vào lợi ích của CPĐT, nhưng vẫn còn thiếu sót trong việc xem xét các nguồn lực cần thiết để xây dựng CPĐT, đặc biệt là nguồn lực con người.
Nhóm thứ hai bao gồm các nghiên cứu và đánh giá về quá trình triển khai cũng như kinh nghiệm xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT) của các quốc gia Một trong những công trình tiêu biểu là cuốn sách “Chính phủ điện tử ở Châu Á” (E-Government in Asia) của tác giả James SL Yong, được xuất bản bởi Times Editions - Marshall Cavendish năm 2005 Tác giả đã thực hiện các khảo sát và phỏng vấn với lãnh đạo chính phủ, chính quyền và các bên liên quan của 10 quốc gia và vùng lãnh thổ ở châu Á, bao gồm Brunei và Trung Quốc.
Quốc, Hồng Kông, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore, Đài Loan và Thái Lan đều có những mục tiêu cụ thể trong việc triển khai Chính phủ điện tử (CPĐT) Mỗi quốc gia và vùng lãnh thổ này đang nỗ lực xây dựng và thực hiện các chiến lược khác nhau nhằm nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân thông qua công nghệ thông tin.
Cuốn sách “Chính phủ điện tử ở châu Âu” của Paul Nixon và Vassiliki N Koutrakou (2007) mô tả sự phát triển và ứng dụng của chính phủ điện tử (CPĐT) tại châu Âu, nhấn mạnh vai trò của công nghệ thông tin trong bối cảnh chính sách Tương tự, nghiên cứu “Chính phủ điện tử ở Mỹ: Những bước tiến tới thành công” của Kim Mathew (2010) khái quát lịch sử CPĐT tại Mỹ, từ khi Chính phủ Mỹ thành lập cơ quan chuyên trách vào năm 2001, cùng với các dịch vụ, chi phí, thách thức và khuyến cáo về chính sách và an toàn thông tin Tại Việt Nam, cuốn sách “Chính phủ điện tử Việt Nam – Tổng quan quá trình xây dựng và mô hình phát triển tại các nước” do tổ chức IDG phát hành năm 2012 đã đánh giá mối quan hệ giữa cải cách hành chính và xây dựng CPĐT, đồng thời phân tích thực trạng và bài học kinh nghiệm từ các quốc gia khác, đưa ra các đề xuất cho việc triển khai CPĐT trong tương lai.
Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của nghiên cứu là dự báo nguồn nhân lực CNTT phục vụ xây dựng CPĐT tại Bộ Nội vụ đến năm 2025 Cụ thể:
- Đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực CNTT của Bộ Nội vụ (năm 2017);
- Xác định mục tiêu và nhiệm vụ xây dựng CPĐT của Bộ Nội vụ đến năm 2025;
- Xác định cầu nhân lực CNTT phục vụ xây dựng CPĐT của Bộ Nội vụ đến năm 2025 qua một số mô hình dự báo.
Mẫu khảo sát
Đánh giá hiện trạng nguồn nhân lực CNTT của Bộ Nội vụ chủ yếu dựa vào dữ liệu thứ cấp, kết hợp với việc tổng hợp các báo cáo và kế hoạch ứng dụng CNTT từ Bộ và các cơ quan trực thuộc.
Để dự báo nguồn nhân lực CNTT phục vụ xây dựng Chính phủ điện tử của Bộ Nội vụ, đề tài đã thu thập dữ liệu liên quan đến các mô hình dự báo nguồn nhân lực CNTT Đồng thời, nghiên cứu cũng xây dựng các mô hình dự báo và dự báo nguồn nhân lực CNTT dựa trên mục tiêu và nhiệm vụ của Bộ Việc điều tra xã hội học được thực hiện đối với cán bộ chuyên môn CNTT và cán bộ lãnh đạo về CNTT (CIO) nhằm thu thập thông tin cần thiết cho quá trình này.
Câu hỏi nghiên cứu
Để đạt được các mục tiêu xây dựng Chính phủ điện tử của Bộ Nội vụ đến năm 2025, cần dự báo nhu cầu nhân lực công nghệ thông tin với thành phần và cấu trúc nhân lực rõ ràng.
Giả thuyết nghiên cứu
Theo mục tiêu xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT) của Bộ Nội vụ đến năm 2025, số lượng cán bộ chuyên môn và lãnh đạo về công nghệ thông tin (CNTT) cần phải tăng lên Tỷ lệ tăng trưởng này sẽ phụ thuộc vào chất lượng nguồn nhân lực CNTT hiện có và cách thức tổ chức thực hiện các nhiệm vụ ứng dụng CNTT trong việc xây dựng CPĐT.
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu áp dụng các phương pháp phân tích, so sánh, đối chiếu và tổng hợp nhằm làm rõ các khái niệm liên quan đến dự báo nhu cầu nhân lực CNTT Mục tiêu là xác lập cơ sở lý luận phục vụ cho việc xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT) của Bộ Nội vụ.
Bài viết tập trung vào việc thu thập và phân tích số liệu thống kê về nguồn nhân lực CNTT của Bộ Nội vụ Dựa trên những dữ liệu này, chúng tôi sẽ xây dựng các mô hình dự báo nhu cầu nhân lực CNTT Các mô hình này sẽ được áp dụng để dự báo nhu cầu nhân lực CNTT nhằm hỗ trợ việc phát triển Chính phủ điện tử của Bộ Nội vụ.
Bài viết thực hiện điều tra xã hội học nhằm xác định nhu cầu nguồn nhân lực công nghệ thông tin (CNTT) phục vụ cho việc xây dựng Chính phủ điện tử (CPĐT) của Bộ Nội vụ Nghiên cứu này tập trung vào công chức và viên chức tại Trung tâm Thông tin – Tổ chức chuyên trách về CNTT thuộc Bộ Nội vụ.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo luận văn được kết cấu làm 3 chương:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DỰ BÁO NHÂN LỰC CNTT VÀ XÂY DỰNG CPĐT Ở VIỆT NAM
Một số khái niệm cơ bản liên quan
Dự báo, theo cách hiểu thông thường, là việc thông báo trước về những sự kiện có khả năng xảy ra trong tương lai Thuật ngữ này có nguồn gốc từ Hy Lạp, "Prognosis," mang ý nghĩa là dự đoán tương lai thông qua các phương pháp hoặc kết quả dự đoán cụ thể.
Trong quá trình phát triển tư duy, dự báo được coi là năng lực tự nhiên của con người khi tương tác với môi trường Bộ não thực hiện các thao tác tổng hợp, quy nạp, diễn dịch và phân tích, kèm theo kiểm thử liên tục Nguyên tắc cơ bản là khi có thêm thông tin và dữ liệu về bản chất của sự vật, hiện tượng, khả năng dự báo của con người sẽ chính xác hơn Qua thời gian, hoạt động dự báo đã hình thành các nguyên tắc và phương pháp khoa học.
Dựa trên mục tiêu tương lai, hoạt động dự báo được thực hiện để xác định triển vọng phát triển của đối tượng hoặc quá trình cụ thể, từ đó đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến mục tiêu đã đề ra.
Dự báo là một hoạt động dựa trên cơ sở khoa học, mang tính xác suất cao Với sự phát triển của khoa học, con người ngày càng tích lũy nhiều kiến thức và thông tin, đồng thời khả năng phân tích, tính toán và mô phỏng cũng được cải thiện nhanh chóng nhờ vào hệ thống máy tính và các phương pháp dự đoán hiện đại, giúp giảm thiểu xác suất sai số trong dự báo.
Mặc dù có những yếu tố địa lý và nhân văn ảnh hưởng đến tư duy cá nhân, không thể phủ nhận khả năng dự báo chính xác từ những nhà tiên tri nổi tiếng như Vanga, Nostradamus hay Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm Họ sử dụng các phương pháp huyền bí như bói toán, soi cầu và rút lá bài để đưa ra những dự đoán về tương lai xa xôi.
Dự báo có thể được chia thành hai loại chính: định tính và định lượng, với những con số cụ thể Các hiện tượng cần dự báo chịu ảnh hưởng từ nhiều yếu tố bên trong và bên ngoài hệ thống Do đó, việc dự báo cần dựa trên việc tổng hợp và phân tích nhiều yếu tố tác động, đặc biệt là những yếu tố cơ bản có ảnh hưởng lớn đến đối tượng được dự báo.
Trong luận văn này, dự báo được định nghĩa là hoạt động khoa học nhằm thu thập, phân tích và xử lý dữ liệu liên quan đến sự phát triển của sự vật và hiện tượng Qua đó, nó cho phép xác định các biến thể trong tương lai với xác suất thấp nhất Hoạt động này là sự vận dụng lý luận phản ánh và lý luận nhận thức Mác - Lênin, đồng thời ứng dụng các khoa học khác vào quá trình dự báo.
Nhu cầu đã từ lâu trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học, bao gồm sinh học - xã hội và kinh tế Từ góc độ sinh học - xã hội, nhu cầu được xem như một hiện tượng tâm lý, phản ánh đòi hỏi và mong muốn của con người về vật chất và tinh thần để tồn tại và phát triển Mỗi cá nhân có nhu cầu khác nhau tùy thuộc vào trình độ nhận thức, môi trường sống và đặc điểm tâm sinh lý Nhu cầu thúc đẩy hoạt động của con người, với những nhu cầu cấp bách có khả năng chi phối hành vi mạnh mẽ hơn Trong kinh tế học, nhu cầu được hiểu là cảm giác thiếu hụt mà con người cảm nhận và đo lường, thường liên quan đến mong muốn tiêu dùng hay sở thích tiêu dùng.
Thuyết Tháp nhu cầu của Maslow, được phát triển bởi nhà tâm lý học Abraham Maslow vào năm 1943, phân chia nhu cầu của con người thành hai nhóm chính: nhu cầu cơ bản và nhu cầu bậc cao Nhu cầu cơ bản, nằm ở đáy tháp, phải được thoả mãn trước khi con người có thể hướng tới các nhu cầu bậc cao hơn Khi tất cả các nhu cầu cơ bản được đáp ứng, nhu cầu bậc cao sẽ phát sinh và trở nên mạnh mẽ hơn Tháp nhu cầu của Maslow bao gồm 5 tầng, bắt đầu từ các nhu cầu cơ bản nhất.
Nhu cầu cơ bản của con người được chia thành năm tầng: Tầng thứ nhất là nhu cầu thể lý, bao gồm thức ăn, nước uống, nơi trú ngụ, tình dục, bài tiết, thở và nghỉ ngơi Tầng thứ hai là nhu cầu an toàn, đòi hỏi cảm giác yên tâm về an toàn thân thể, công việc, gia đình, sức khỏe và tài sản Tầng thứ ba là nhu cầu giao lưu tình cảm và thuộc về một cộng đồng, với mong muốn có gia đình ấm áp và bạn bè tin cậy Tầng thứ tư là nhu cầu được quý trọng và kính mến, nơi con người cần cảm giác được tôn trọng và tin tưởng Cuối cùng, tầng thứ năm là nhu cầu tự thể hiện bản thân, khát khao phát triển và hoàn thiện chính mình.
Sáng tạo và thể hiện bản thân là yếu tố quan trọng trong quản trị kinh doanh, đặc biệt trong quản trị nhân sự và marketing, giúp cá nhân đạt được sự công nhận và thành công.
Thuyết nhu cầu của Maslow đã được một số học giả mở rộng, đặc biệt trong bối cảnh phát triển của công nghệ thông tin Họ cho rằng, trong thời đại số, nhu cầu về internet là một nhu cầu rất đặc thù và có thể được bổ sung thêm vào tháp nhu cầu của Maslow như một tầng mới.
Hiện tại, chưa có định nghĩa chung nhất cho khái niệm nhu cầu Nhu cầu có thể được hiểu là đặc điểm của cơ thể sống, thể hiện trạng thái thiếu hụt của cá thể và phân biệt nó với môi trường xung quanh Khi nhìn nhận trong bối cảnh xã hội, trạng thái thiếu hụt không chỉ thuộc về cá nhân mà còn liên quan đến cộng đồng hoặc tổ chức xã hội, nơi nhu cầu trở thành những gì mà cộng đồng hoặc tổ chức đó cần tìm kiếm.
Theo quá trình phát triển có nhiều định nghĩa khác nhau về CNTT, từ đó cũng hình thành các khái niệm về nhân lực CNTT theo các giai đoạn
Trước năm 2000, Công nghệ Thông tin (CNTT) được hiểu là tập hợp các phương pháp khoa học và công cụ kỹ thuật hiện đại nhằm tổ chức và khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên thông tin phong phú trong mọi lĩnh vực CNTT bao gồm nghiên cứu, thiết kế, phát triển, triển khai, hỗ trợ và quản lý hệ thống thông tin dựa trên máy tính, đặc biệt là phần mềm và phần cứng Nhân lực CNTT là lực lượng lao động thực hiện các công việc liên quan đến sáng tạo, cất giữ, trao đổi và sử dụng thông tin qua công nghệ Ngành CNTT hiện nay được định nghĩa là việc sử dụng các công nghệ điện, điện tử, kỹ thuật số và các công nghệ tích hợp để tạo ra, xử lý, truyền dẫn và lưu trữ thông tin CNTT được chia thành 5 chuyên ngành phổ biến: khoa học máy tính, kỹ thuật máy tính, hệ thống thông tin, mạng máy tính truyền thông và kỹ thuật phần mềm.
Nguồn nhân lực CNTT bao gồm không chỉ nhân viên làm việc trong các doanh nghiệp viễn thông và công nghiệp CNTT, mà còn cả những người tham gia vào ứng dụng CNTT, đào tạo CNTT, điện tử, viễn thông và người dùng các ứng dụng CNTT.
Trong nghiên cứu này, nguồn nhân lực CNTT đƣợc hiểu là lực lƣợng lao động làm công tác chuyên môn về CNTT theo 05 chuyên ngành phổ biến
(như đã nêu ở trên) và đội ngũ lãnh đạo CNTT, giám đốc CNTT
Về đặc thù riêng của ngành CNTT, theo Nguyễn Hoàng Nhiên [25], nguồn nhân lực này có các đặc điểm chính là:
- Trình độ Anh ngữ tốt
- Tƣ duy toán học tốt
- Trình độ cao (để bắt kịp sự phát triển của ngành)
- Năng suất lao động và hiệu quả kinh tế cao
- Năng động, sáng tạo và lòng say mê nghiên cứu
- Trẻ và nam giới chiếm đa số
Xây dựng CPĐT ở Việt Nam và nhu cầu về nguồn nhân lực CNTT phục vụ xây dựng CPĐT ở Việt Nam
1.2.1 Thực trạng quá trình xây dựng CPĐT ở Việt Nam
Từ những năm 90, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách quan trọng nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội, phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
CNTT đóng vai trò quan trọng trong hoạt động của các cơ quan nhà nước, với sự điều chỉnh phù hợp theo điều kiện thực tế và mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội Đảng và Nhà nước đã ban hành các chủ trương, chính sách nhằm thúc đẩy và hướng tới phát triển Chính phủ điện tử (CPĐT) Quá trình này có thể được khái quát thành nhiều giai đoạn khác nhau.
Giai đoạn 1994-2000, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết số 49/CP ngày 4/8/1993 nhằm phát triển công nghệ thông tin (CNTT) Mục tiêu của giai đoạn này là xây dựng hệ thống máy tính và phương tiện truyền thông liên kết trong mạng lưới, với phần mềm mạnh mẽ và cơ sở dữ liệu phục vụ quản lý nhà nước và các hoạt động kinh tế Việc ứng dụng CNTT được mở rộng để tăng năng suất, chất lượng và hiệu quả sản xuất, đồng thời hiện đại hóa các ngành dịch vụ quan trọng và đảm bảo an ninh, quốc phòng Ngoài ra, CNTT cũng được tăng cường trong các hoạt động điều tra, khảo sát tài nguyên thiên nhiên, môi trường và nghiên cứu khoa học Cuối cùng, việc phổ cập "văn hoá thông tin" trong xã hội được coi là cần thiết để tạo môi trường thuận lợi cho sự phát triển bền vững.
Vào ngày 7/4/1995, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 211/TTg phê duyệt Chương trình quốc gia về CNTT với kế hoạch tổng thể đến năm 2000, nhằm thực hiện Nghị quyết 49/CP của Chính phủ Chương trình này xác định các dự án chủ chốt để tin học hóa quản lý nhà nước, bao gồm: Dự án nghiên cứu thiết kế tổng thể và hệ thống tin quản lý tại Văn phòng Chính phủ, Dự án xây dựng hệ thống thông tin kinh tế - xã hội phục vụ công tác kế hoạch và quản lý kinh tế, cùng với Dự án hệ thống thông tin tài chính.
Dự án hiện đại hoá hệ thống ngân hàng; Các dự án về các hệ thống thông tin thống kê nhà nước
Trong giai đoạn hiện tại, ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong các cơ quan nhà nước đã đạt được những kết quả quan trọng, bao gồm việc trang bị máy tính, kết nối mạng và đào tạo cán bộ sử dụng máy tính, từ đó tạo nền tảng vững chắc cho các giai đoạn phát triển tiếp theo.
Giai đoạn 2001-2006, theo Chỉ thị số 58-CT/TW ngày 17/10/2000 của Ban chấp hành Trung ương Đảng, CNTT được xác định là yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh - quốc phòng Để thực hiện mục tiêu này, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành nhiều quyết định như Quyết định số 112/2001/QĐ-TTg phê duyệt Đề án Tin học hóa quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001-2005, và Quyết định số 95/2002/QĐ-TTg về kế hoạch ứng dụng CNTT đến 2005 Các quyết định này nhấn mạnh việc ứng dụng CNTT trong các cơ quan nhà nước, bao gồm phát triển mạng viễn thông, xây dựng hệ thống tin học hóa quản lý hành chính, và tích hợp cơ sở dữ liệu quốc gia nhằm nâng cao hiệu quả phục vụ người dân và doanh nghiệp.
Trong giai đoạn này, các cơ quan nhà nước đã triển khai tin học hóa quản lý hành chính thông qua việc xây dựng phần mềm dùng chung, nâng cấp mạng diện rộng của Chính phủ, đào tạo cán bộ công chức về công nghệ thông tin, và bắt đầu xây dựng các cơ sở dữ liệu quốc gia.
Giai đoạn từ 2007 đến 2011, Chính phủ Việt Nam đã nỗ lực kiện toàn hệ thống văn bản và chính sách nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của các cơ quan nhà nước Mục tiêu là xây dựng Chính phủ điện tử, trong đó Nghị định số 64/2007/NĐ-CP được ban hành để quy định về ứng dụng CNTT Ngày 24 tháng 3 năm 2008, Quyết định số 43/2008/QĐ-TTg cũng đã được phê duyệt, tiếp tục củng cố nền tảng cho việc triển khai CNTT trong các cơ quan nhà nước.
Kế hoạch ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2008-2010 được xác định qua các văn bản quan trọng như Chỉ thị số 34/2008/CT-TTg và Quyết định số 48/2009/QĐ-TTg Các nội dung trọng tâm cần triển khai bao gồm nâng cao năng lực quản lý và điều hành thông qua ứng dụng CNTT nội bộ, cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp, xây dựng nền tảng cho Chính phủ điện tử, cũng như phát triển các hệ thống thông tin và cơ sở dữ liệu chuyên ngành.
Sau khi dừng triển khai Đề án 112, các văn bản của Chính phủ và Thủ tướng Chính phủ đã tạo ra định hướng rõ ràng cho các cơ quan, giúp ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trở nên ổn định và đồng bộ Hệ thống thư điện tử và hệ thống quản lý văn bản đã được triển khai rộng rãi trong nội bộ cơ quan nhà nước, đồng thời nhiều dịch vụ công trực tuyến cũng đã được cung cấp.
Từ năm 2011 đến nay, để thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước và phát triển Chính phủ điện tử Việt Nam, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1605/QĐ-TTg vào ngày 27/8/2010 Quyết định này phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT giai đoạn 2011-2015, xác định rõ mục tiêu, nội dung, giải pháp và trách nhiệm triển khai ứng dụng CNTT trên toàn quốc, nhằm hiện đại hóa các cơ quan nhà nước và thúc đẩy cải cách hành chính.
Vào ngày 06 tháng 11 năm 2009, Chính phủ đã ban hành Nghị định 102/2009/NĐ-CP nhằm hoàn thiện cơ sở pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước Nghị định này đánh dấu sự chấm dứt của giai đoạn dài các dự án CNTT với nhiều đặc trưng riêng, yêu cầu tổ chức triển khai theo các quy định tương tự như các dự án xây dựng cầu, đường và nhà cửa, từ đó nâng cao hiệu quả quản lý đầu tư ứng dụng CNTT sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước.
Ngày 30 tháng 12 năm 2014, Thủ tướng Chính phủ vừa ban hành Quyết định số 80/2014/QĐ-TTg quy định thí điểm về thuê dịch vụ CNTT trong cơ quan nhà nước mở ra một hướng mới trong bối cảnh khó khăn về ngân sách đầu tƣ cho các dự án ứng dụng CNTT hiện nay Đặc biệt, ngày 01/7/2014, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 36-NQ/TW về đẩy mạnh ứng dụng, phát triển CNTT đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững và hội nhập quốc tế (Nghị quyết 36) Đây là văn bản hết sức quan trọng, mang tầm chiến lƣợc, đề ra những định hướng lớn cho sự phát triển ngành CNTT nước ta trong thời kỳ mới Ngay sau đó, ngày 15/4/2015, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 26/NQ-CP về Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 36-NQ/TW ngày 1/7/2014 của Bộ Chính trị, Nghị quyết 36a/NQ-CP về CPĐT, ngày 26/10/2015, Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình quốc gia về ứng dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước giai đoạn 2016 – 2020 với mục tiêu đẩy mạnh phát triển CPĐT, nâng cao chất lƣợng, hiệu quả hoạt động của các cơ quan nhà nước, phục vụ người dân và doanh nghiệp ngày càng tốt hơn Nâng vị trí của Việt Nam về CPĐT theo xếp hạng của Liên Hợp quốc Công khai, minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước trên môi trường mạng Tập trung đẩy mạnh cải cách hành chính gắn với tăng cường ứng dụng CNTT trong quản lý và cung cấp dịch vụ công trực tuyến, rút ngắn quy trình xử lý, giảm số lƣợng và đơn giản hóa, chuẩn hóa nội dung hồ sơ, giảm thời gian và chi phí thực hiện thủ tục hành chính Các giao dịch trong quá trình xử lý hồ sơ và cung cấp dịch vụ được thực hiện trên môi trường mạng
Chính phủ đã ban hành nhiều Thông tư hướng dẫn và quy định liên quan đến tài chính và chuẩn kỹ thuật Các Bộ như Thông tin và Truyền thông, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư đã phối hợp để phát triển các Thông tư liên tịch, nhằm đảm bảo sự đồng bộ và hiệu quả trong quản lý.
Thông tư 19/2012/TTLT-BTC-BKH&ĐT-BTTTT ngày 15 tháng 02 năm 2012 hướng dẫn quản lý và sử dụng kinh phí cho Chương trình quốc gia về ứng dụng công nghệ thông tin (CNTT) trong hoạt động của cơ quan nhà nước Bên cạnh đó, Thông tư số 01/2011/TT-BTTTT ngày 04 tháng 01 năm 2011 công bố danh mục tiêu chuẩn kỹ thuật về ứng dụng CNTT trong cơ quan nhà nước Thêm vào đó, Thông tư số 03/2014/TT-BTTTT ngày 11 tháng 3 năm 2014 quy định chuẩn kỹ năng sử dụng CNTT cho cán bộ, công chức, viên chức, nhằm nâng cao hiệu quả ứng dụng CNTT trong quản lý nhà nước.