1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Thế giới nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

130 44 1

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thế Giới Nghệ Thuật Tiểu Thuyết Lê Lựu Thời Kỳ Đổi Mới
Tác giả Lê Thị Mến
Người hướng dẫn TS. Nguyễn Văn Nam
Trường học Đại học quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Lý luận văn học
Thể loại luận văn thạc sỹ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 130
Dung lượng 1,2 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • PHẦN MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1: LÊ LỰU VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI

  • 1.1. Một vài khái niệm về thế giới nghệ thuật

  • 1.2. Cuộc đời và quá trình sáng tác của Lê Lựu

  • 1.3. Quan niệm nghệ thuật của Lê Lựu

  • 1.3.1. Lê Lựu - "Tôi không thể viết được nếu không bám vào sự thật"

  • 1.3.2. Nhu cầu nhận thức lại thực tại

  • CHƯƠNG 2 CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

  • 2.1. Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

  • 2.1.1. Đặc điểm nhân vật trong giai đoạn văn học trước và sau 1975

  • 2.1.2. Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

  • 2.2. Các kiểu nhân vật

  • 2.2.1. Nhân vật bi kịch

  • 2.2.2. Nhân vật tha hoá

  • 2.2.3. Nhân vật lưỡng hoá

  • 2.2.4. Nhân vật hướng thiện

  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

  • 3.1. Nghệ thuật khắc hoạ nhân vật

  • 3.1.1. Nhân vật được đặc tả ở tính cách và số phận

  • 3.1.2. Khai thác quá trình tự ý thức của nhân vật

  • 3.1.3. Khám phá nhân vật qua những tình hu ng xung đột gay cấn, giàu kịch tính

  • 3.2. Không gian- thời gian nghệ thuật

  • 3.2.1. Không gian nghệ thuật

  • 3.2.2. Thời gian nghệ thuật

  • 3.3. Giọng điệu trần thuật

  • 3.3.1. Giọng điệu giễu nhại, hài hước

  • 3.3.2. Giọng điệu triết lý, ngậm ngùi xót xa

  • 3.3.3. Giọng phê phán, lên án, tố cáo

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Lê Lựu là một trong những nhà văn có ảnh hưởng lớn trong văn học Việt Nam, với nhiều tác phẩm phản ánh sâu sắc cuộc sống và xã hội thời bấy giờ Các nhà phê bình văn học đã chỉ ra rằng, qua những tác phẩm của ông, độc giả không chỉ thấy được bộ mặt xã hội mà còn cảm nhận được những biến chuyển tinh tế trong tư tưởng con người Tác phẩm của Lê Lựu không chỉ tồn tại trong không gian văn học mà còn góp phần làm phong phú thêm đời sống văn học nước nhà, cùng với những tác giả nổi bật như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp và Bảo Ninh, tạo nên một bức tranh văn học sôi động và đa dạng.

Lịch sử văn học cho thấy rằng sự quan tâm của giới phê bình và độc giả đến các nhà văn thường làm tăng độ nổi tiếng của tác phẩm Lê Lựu là một ví dụ điển hình, với những sáng tác đầu tay đã thu hút sự chú ý của giới phê bình, ghi nhận anh là một người luôn tìm tòi sáng tạo Các tác phẩm của Lê Lựu mang đến những nét tính cách mới và cách tiếp cận vấn đề độc đáo, nhờ vào khả năng quan sát nhạy bén và bút lực mạnh mẽ, giúp anh khắc họa những mảnh đời đa dạng và sinh động.

Từ tác phẩm "Thời xa vắng" của Lê Lựu, sức hút của ông đối với độc giả và giới nghiên cứu phê bình văn học ngày càng gia tăng Mỗi tiểu thuyết của ông đều thu hút sự chú ý lớn từ dư luận, với những tác phẩm nổi bật nhờ nội dung đặc sắc như "Thời xa vắng", hay gây tranh cãi như "Hu n àng u i" Một số tác phẩm, như "Ng đá sông", chỉ được công nhận sau khi chuyển thể thành phim truyền hình, dẫn đến sự kiện nhân vật kiện nhà văn Dưới đây là tổng quan về các nghiên cứu liên quan đến tiểu thuyết của Lê Lựu.

Nghiên cứu về Lê Lựu và tiểu thuyết của ông đã được đề cập qua nhiều công trình, bài viết và đánh giá, trong đó có bài viết "Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút truyện ngắn" của Phong Vũ Bài viết này cùng với các tài liệu khác đã góp phần làm rõ hơn về tác giả và tác phẩm của Lê Lựu, được giới thiệu trong báo Văn nghệ tháng 12.

1986, M t đ ng g p vào vi c nhận di n con người hôm nay của Vương Trí Nhàn,

Lê Lựu và ranh giới của Lê Tất Cứ, Khu nh hướng triết ý trong tiểu thu ết-

Nguyễn Ngọc Thiện đã có những tìm tòi và thể hiện sự ngưỡng mộ đối với nhà văn Lê Lựu qua các bài viết của Nguyễn Hữu Sơn Các nhà nghiên cứu đánh giá cao những thành công và đóng góp của Lê Lựu trong việc đổi mới văn học đương đại, nhưng cũng không ngần ngại đưa ra những nhận xét về phong cách viết của ông Dư luận có sự khen chê đa dạng; nhà nghiên cứu Đinh Quang Tốn nhận xét rằng văn của Lê Lựu có giọng điệu và sự duyên dáng riêng, mặc dù không rõ ràng và mạch lạc Ông khẳng định rằng nếu chọn ra một trong số sáu mươi nhà văn tiêu biểu từ Hội nhà văn Việt Nam, Lê Lựu sẽ là một trong số đó.

Nhà văn Lê Lựu thể hiện tính cách quyết liệt trong cả cuộc sống và sáng tác của mình, như được chỉ ra bởi tác giả Lê Hồng Lâm Ông viết với sự tận tâm, thể hiện rõ ràng tình cảm yêu ghét và luôn đi sâu vào bản chất nhân vật, điều này tạo nên sức hấp dẫn trong các tác phẩm của ông.

Trần Bảo Hưng nhận định rằng tác phẩm của Lê Lựu mang đậm chất thô mộc và hồn nhiên, thể hiện sự sống động ngay cả trong những suy ngẫm triết lý Những triết lý này dường như xuất phát trực tiếp từ đời sống thực tiễn, tạo nên phong cách và cá tính riêng biệt của tác giả.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa đã có những nhận xét sâu sắc về Lê Lựu, cho rằng tác phẩm của ông cuốn hút người đọc bằng một văn phong không nhạt nhòa Dù là những câu chuyện bình thường, độc giả vẫn tìm thấy giá trị trong từng trang viết Lê Lựu không chấp nhận sự tầm thường và luôn gửi gắm những vấn đề quan trọng trong mọi tác phẩm của mình Từ Nam Cao, Kim Lân đến Nguyễn Khắc Trường, Lê Lựu tiếp tục phát triển hình ảnh của một nhà văn nông thôn chân chính.

Lê Lựu là một nhà văn tâm huyết, luôn cống hiến hết mình cho nghề viết Tác phẩm của ông mang đến cho độc giả những giá trị sâu sắc và ý nghĩa Trong bối cảnh văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Lê Lựu đã khẳng định được vị trí quan trọng và đáng nể của mình.

Thời xa vắng, một tác phẩm tiêu biểu của thời kỳ đổi mới, đã thu hút sự chú ý của các nhà nghiên cứu văn học nhờ cách nhìn hiện thực mới mẻ Giáo sư Phong Lê nhận định rằng tác phẩm này thể hiện yêu cầu nhìn thẳng vào sự thật và tái nhận thức lịch sử, như được đề ra tại Đại hội V vào cuối năm 1986 Tác giả Nguyễn Văn Lưu khẳng định rằng tác phẩm phản ánh sinh động và chân thực quá trình chuyển biến trong cách đánh giá thực tại Trong khi đó, Nguyễn Hòa cho rằng Thời xa vắng là hành trình tìm kiếm những giá trị chân thực đã bị đánh mất và lãng quên.

Viên đại bác đã phá vỡ những lớp màn vô hình, giúp chúng ta khám phá những điều bí ẩn mà lâu nay vẫn chưa rõ Quá khứ không chỉ mang đến những kỷ niệm ngọt ngào mà còn chứa đựng cả những nỗi đau và khó khăn.

Nhà thơ Trần Đăng Khoa nhận định rằng "Thời xa vắng" phản ánh lịch sử qua số phận bi thảm của nhân vật Giang Minh Sài Tác giả Hoàng Ngọc Hiến chỉ ra rằng tác phẩm này chạm đến một vấn đề lớn của nhân loại: sự ra đời của cá nhân là một quá trình đau khổ kéo dài trong lịch sử Trong văn học Việt Nam, từ Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương đến Hoàng Ngọc Phách, Xuân Diệu, và Lê Lựu, đều đã góp phần ghi lại những trăn trở về lịch sử đau khổ này.

Lê Lựu là một tác giả nổi bật với nhiều tác phẩm, trong đó "Thời xa vắng" được xem là cuốn tiểu thuyết thành công nhất của ông Sau đó, ông tiếp tục ra mắt "Đại tá không biết đùa", một tác phẩm mang tính triết lý, được Nguyễn Ngọc Thiện đánh giá là một sự thử nghiệm đáng hoan nghênh, mặc dù không còn mới mẻ so với các nước khác Tác phẩm khám phá những vấn đề muôn thuở như tình yêu tuổi trẻ và xung đột giữa hai thế hệ cha-con, già-trẻ, cùng với những hệ lụy xã hội liên quan.

Năm 1993, tác phẩm "hu n àng u i" đã thu hút sự chú ý của dư luận, nhưng phần lớn độc giả và giới phê bình không tìm được tiếng nói chung với tác giả Trần Bảo Hưng nhận xét rằng tác phẩm này thể hiện một cái nhìn bối rối, đôi khi u uất và cay đắng về xã hội Dương Trọng Dật cho rằng tác phẩm phản ánh sự kém bản lĩnh của tác giả trước những yếu tố mà mình tạo ra Trong khi đó, Nguyễn Thị Bình cảm nhận được tiếng kêu của nhân tính bị chà đạp trong tác phẩm, nhưng cho rằng "hu n àng u i" là một bước lùi so với "Thời xa vắng".

Lê Lựu tiếp tục khai thác đề tài gia đình qua tác phẩm "Ng đá sông" (1994) và "Hai nhà" (2000), trong đó "Hai nhà" được nhiều nghiên cứu ca ngợi nhờ khả năng phân tích tâm lý tinh tế của tác giả Ông không chỉ dự báo mà còn đi sâu vào phân tích nguyên nhân dẫn đến sự tan rã của gia đình, được xem là tế bào của xã hội và là pháo đài cuối cùng chống lại thói vô cảm và đạo đức giả.

Giới hạn, phạm vi nghiên cứu …

Luận văn khảo sát và nghiên cứu nghệ thuật tiểu thuyết Lê Lựu trong thời kỳ đổi mới, nhằm làm rõ các đặc điểm nổi bật về nội dung và nghệ thuật, bao gồm bức tranh về đời sống con người và thế giới nhân vật Đồng thời, luận văn cũng tìm kiếm những nét đặc sắc riêng biệt trong cách thể hiện của Lê Lựu trong bối cảnh văn học sau 1975 Để đạt được mục tiêu này, luận văn tập trung khảo sát các tiểu thuyết của Lê Lựu được sáng tác từ sau năm 1975.

- Đại tá không biết đùa (1989)

Để có cái nhìn toàn diện về văn phong của Lê Lựu, luận văn sẽ khảo sát và so sánh các tác phẩm của ông trước năm 1975.

Phương pháp nghiên cứu

4.1 Phương pháp nghiên cứu tác gia văn học

4.2 Phương pháp phân tích tác phẩm

4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu và kết luận, ở đề tài này, luận văn được triển khai với ba chương:

Chương 1: Lê Lựu và quan niệm nghệ thuật về cu c s ng và con ngư i

Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu th i kỳ đổi mới

Chương 3: M t s phương diện nghệ thuật

LÊ LỰU VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI

Cuộc đời và quá trình sáng tác của Lê Lựu

Để có cái nhìn toàn diện về văn phong của Lê Lựu, luận văn đã tiến hành khảo sát các tác phẩm trước năm 1975 nhằm thực hiện việc so sánh và đối chiếu.

4.1 Phương pháp nghiên cứu tác gia văn học

4.2 Phương pháp phân tích tác phẩm

4.4 Phương pháp so sánh, đối chiếu

Ngoài phần mở đầu và kết luận, ở đề tài này, luận văn được triển khai với ba chương:

Chương 1: Lê Lựu và quan niệm nghệ thuật về cu c s ng và con ngư i

Chương 2: Các kiểu nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu th i kỳ đổi mới

Chương 3: M t s phương diện nghệ thuật

CHƯƠNG 1: LÊ LỰU VÀ QUAN NIỆM NGHỆ THUẬT

VỀ CUỘC SỐNG VÀ CON NGƯỜI

1.1 M t vài hái niệm về thế giới nghệ thuật

Thế giới nghệ thuật là một khái niệm rộng lớn, phản ánh sự sáng tạo của con người Nó có điểm tương đồng với thế giới nói chung, như sự thống nhất giữa các yếu tố và quy luật vận động nội tại Trong khi thế giới nói chung bao gồm vũ trụ và tất cả những gì thuộc về tự nhiên và xã hội, thế giới nghệ thuật lại là sản phẩm độc đáo từ trí tưởng tượng và cảm xúc của con người.

Thế giới nghệ thuật bao gồm tất cả các yếu tố cấu thành tác phẩm cùng với các quy luật tạo nên phong cách của tác giả Nó không chỉ phản ánh kinh nghiệm cá nhân mà còn thể hiện trình độ tư duy nghệ thuật của một thời đại.

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, thế giới nghệ thuật là khái niệm chỉ tính chỉnh thể của sáng tác nghệ thuật bao gồm nhiều cấp độ:

- Cấp độ một tác phẩm

- Cấp độ một loại hình tác phẩm

- Cấp độ sáng tác của một tác giả

- Cấp độ một trào lưu

Mỗi thế giới nghệ thuật phản ánh cách nhìn nhận và giải thích về thế giới, bao gồm quan niệm nghệ thuật về con người, không gian và thời gian nghệ thuật riêng Nó cũng thể hiện một hệ thống ngôn ngữ tương ứng, tạo thành một chỉnh thể với quan niệm thẩm mỹ và các đề tài theo khuynh hướng nghệ thuật nhất định.

Thế giới nghệ thuật có không gian, thời gian, quy luật tâm lý và giá trị riêng biệt, thể hiện qua các sáng tác nghệ thuật Trong truyện cổ tích, con người, động vật và thiên nhiên giao tiếp bằng một thứ tiếng chung, cho phép những điều kỳ diệu như đôi hài đi một bước bảy dặm hay sự hóa kiếp của con người Văn học lãng mạn thường xây dựng mối quan hệ nhân vật dựa trên cảm xúc, trong khi văn học cách mạng phân chia rõ ràng giữa nhân vật địch và ta Mỗi thế giới nghệ thuật phản ánh thực tại theo cách riêng, do đó việc đánh giá tác phẩm không thể chỉ dựa vào sự so sánh đơn giản giữa hình tượng và thực tế, mà cần xem xét trong tổng thể của tác phẩm và thực tại Các yếu tố hình tượng chỉ có giá trị trong bối cảnh của thế giới nghệ thuật mà chúng thuộc về.

Mỗi ngành nghệ thuật đều có những thế giới nghệ thuật đặc thù, nhưng chung quy lại, chúng đều phản ánh sự ước lệ về nội dung và hình thức của tác phẩm Thế giới nghệ thuật giúp hình dung tính độc đáo trong tư duy sáng tạo của nghệ sĩ Trong văn học, nó là thành quả sáng tạo của nhà văn, phản ánh quan niệm về thế giới và cách hiểu của họ Theo Chu Văn Sơn, thế giới nghệ thuật của nhà văn là một hình tượng sống động, phong phú và tinh vi, xây dựng trên trục tư tưởng nghệ thuật xuyên suốt Nó vừa là sản phẩm vừa là hiện thân của tư tưởng và thi pháp của nhà văn, luôn vận động và mang bản sắc riêng Để hiểu một nhà văn và tác phẩm của họ, cần tiếp cận thế giới nghệ thuật với tính thống nhất toàn vẹn Thế giới nghệ thuật là một chỉnh thể có cấu trúc nội tại riêng, được xây dựng theo nguyên tắc và quy luật riêng, luôn dựa trên hệ thống quan niệm của nghệ sĩ.

Mỗi giai đoạn và trào lưu văn học đều tạo ra một thế giới nghệ thuật riêng biệt, từ thần thoại với sự biến hóa của các sự vật đến sáng tác hiện thực xã hội chủ nghĩa, nơi có sự tương tác giữa tính cách và môi trường Thế giới nghệ thuật trong văn học rất phong phú với nhiều nội dung và hình thức khác nhau Đặc biệt, tiểu thuyết của Lê Lựu thể hiện một tổng thể nghệ thuật phức tạp, khiến cho việc nghiên cứu toàn bộ trở nên khó khăn Chúng tôi sẽ tập trung vào một số yếu tố chủ chốt để phân tích.

1.2 Cu c đ i và quá trình sáng tác của Lê Lựu

Lê Lựu, sinh ngày 12/12/1942 tại xã Tân Châu, huyện Khoái (nay là Châu Giang, Hưng Yên), lớn lên trong một gia đình nông dân ở vùng đồng bằng Bắc Bộ Quê hương ông là một vùng đất nghèo, nơi mà những vụ lúa thường không đủ nuôi sống người dân, buộc họ phải trồng thêm củ đót để chống đói Câu ngạn ngữ "oai oái như phủ Khoái xin tương" đã phần nào phản ánh sự khó khăn của vùng quê này Chính vì vậy, Lê Lựu đã tạo ra những trang văn chân thực về cuộc sống nghèo khổ và công việc làm thuê của người nông dân ở làng Hạ Vị.

Từ những năm 60, Lê Lựu đã rời ghế nhà trường để gia nhập quân đội, tham gia phong trào ba nhất với tinh thần thi đua sôi nổi Ông bắt đầu sự nghiệp làm lính thông tin và sau đó chuyển sang báo chí, trở thành phóng viên cho báo Quân khu Ba từ 1963 đến 1972 Trong cuộc sống thường nhật, Lê Lựu là người chân thật, hồn nhiên và cởi mở, dù có phần lôi thôi Gần đây, ông đã rời toà soạn để đảm nhận vị trí giám đốc Trung tâm văn hóa doanh nhân trên đường Nguyễn Tam Trinh, vẫn giữ phong cách giản dị và gần gũi.

Từ những trang viết đầu tiên, Lê Lựu luôn thể hiện sự cần mẫn và nghiêm túc trong sự nghiệp văn chương Để đạt được vị trí trên văn đàn, ông đã trải qua một quá trình khổ luyện không ngừng Nhà văn không chấp nhận sự nhạt nhòa tầm thường và luôn mong muốn gửi gắm ý nghĩa sâu sắc vào từng tác phẩm, dù lớn hay nhỏ Ông viết một cách vất vả, không phải vì thiếu cảm xúc hay tài năng, mà vì ông đặc biệt chú trọng đến cách thức viết Chính vì vậy, tốc độ viết của ông chậm, mỗi ngày chỉ hoàn thành vài trang hoặc thậm chí chỉ mấy mươi dòng.

Lê Lựu là một nhà văn – chiến sỹ, nổi bật với những tác phẩm phản ánh sâu sắc trải nghiệm từ thời kỳ chiến tranh Ông bắt đầu sự nghiệp viết lách từ khi còn là một lính trẻ và đã từng sáng tác nhiều truyện ngắn trước khi trở thành tiểu thuyết gia Với vốn sống phong phú từ những năm tháng chiến đấu ở Trường Sơn, tác phẩm của Lê Lựu thường mang đậm dấu ấn chiến tranh và chứa đựng nhiều suy tư về tình người, tình đời Những tình huống trong truyện thường gợi nhớ kỷ niệm cá nhân, giúp tác phẩm của ông để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng độc giả, với nội dung thấm đẫm nhân văn và hiện thực cuộc sống.

Cuộc sống riêng tư của ông không hề bình lặng như mọi người vẫn tưởng, chủ yếu do hoàn cảnh chi phối Ông đã trải qua hai cuộc hôn nhân, với người vợ đầu tiên ở quê và một đứa con chung, nhưng sau nhiều năm thì li dị Cuộc sống với người vợ thứ hai, một cô gái thành phố, cũng không mang lại sự ổn định Điều này có thể đúng với câu nói: "được cái này mất cái kia", cho thấy không ai có thể có được tất cả Mặc dù không may mắn trong hạnh phúc gia đình, ông lại thành công trong sự nghiệp viết văn Những éo le trong cuộc sống riêng tư chính là nguồn cảm hứng mạnh mẽ, góp phần tạo nên những tác phẩm giá trị của nhà văn Lê Lựu.

Quá trình sáng tác của Lê Lựu

Lê Lựu là một trong những tác giả nổi bật trong làng văn Việt Nam, được biết đến qua những tác phẩm truyện ngắn như "Tết àng Mụa" (Văn nghệ quân đội 2/1964), "Những người ại hậu phương" (Văn nghệ quân đội 5/1964), và "Gan g c Bạch Long Vĩ" (Văn nghệ quân đội) Những sáng tác này thể hiện sâu sắc tâm tư và tình cảm của con người trong bối cảnh xã hội đặc biệt.

7/1965), Những người đi nối mạch cầu (Văn nghệ- 10/1966), ác chiến sĩ tí hon

Năm 1967, tác phẩm "Người cầm súng" của Lê Lựu đã giành giải nhì trong cuộc thi truyện ngắn do báo Văn nghệ tổ chức, thu hút sự chú ý của độc giả Tiếp nối thành công này, ông cho ra mắt các tác phẩm như "Phía trước mặt trời", "Tru kể từ đêm hôm trước" và "Người về đồng c i", khẳng định vị thế của mình như một cây bút viết văn kỳ cựu Trần Đăng Khoa đã nhận xét rằng, với truyện ngắn "Người về đồng c i", Lê Lựu đã thể hiện dấu ấn tiểu thuyết, chứng tỏ ông là một nhà tiểu thuyết tài năng.

Quá trình sáng tác của Lê Lựu được thể hiện qua nhiều tác phẩm, mặc dù chưa phải là xuất sắc nhưng vẫn được công nhận trong văn học Việt Nam những năm 70 Tiểu thuyết M rừng, với nhan đề gợi mở, khám phá số phận của những con người trong chiến tranh, thể hiện nghị lực và ý chí mạnh mẽ của họ Mỗi nhân vật đều có một con đường riêng dẫn đến cuộc chiến bi tráng, tạo nên sự gắn bó chặt chẽ Tiếp nối M rừng là tiểu thuyết Ranh giới, cả hai tác phẩm đều khắc họa hình ảnh con người trong chiến tranh, vừa oai hùng vừa bi thảm, đồng thời đơn giản nhưng cũng phức tạp.

CÁC KIỂU NHÂN VẬT TRONG TIỂU THUYẾT LÊ LỰU THỜI KỲ ĐỔI MỚI

Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thời kỳ đổi mới

2.1.1 Đặc điểm nhân vật trong giai đoạn văn học trước và sau 1975

Truyện ngắn và tiểu thuyết đều phụ thuộc vào nhân vật, vì nhân vật là phương tiện quan trọng giúp nhà văn khái quát hiện thực qua hình tượng Văn học không thể thiếu nhân vật, vì chúng đóng vai trò cốt lõi trong việc truyền tải ý nghĩa và cảm xúc của tác phẩm.

Nhân vật văn học đóng vai trò then chốt trong tác phẩm, thể hiện đề tài, chủ đề và tư tưởng của tác giả Nhà văn sáng tạo nhân vật để bày tỏ nhận thức về con người và các vấn đề của hiện thực Nhân vật chính dẫn dắt người đọc vào thế giới riêng của một thời kỳ lịch sử nhất định Theo Từ điển thuật ngữ văn học, nhân vật văn học là hình tượng nghệ thuật về con người, không đồng nhất với con người thật Nhân vật trong văn học mang tính ước lệ, không sao chép hoàn toàn mà chỉ nêu bật những nét đặc trưng tiêu biểu Chức năng cơ bản của nhân vật là khái quát tính cách con người, phản ánh hiện tượng xã hội và lịch sử Nhân vật có thể được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như vai trò, tư tưởng và cấu trúc, nhưng sự phân loại này không phải lúc nào cũng rõ ràng Trong thực tế sáng tác, nhân vật có thể mang đặc điểm của nhiều loại hình khác nhau, tạo nên sự phong phú và đa dạng trong văn học.

Trước thời kỳ đổi mới, nhân vật văn học chịu ảnh hưởng của cách xây dựng nhân vật trong văn học truyền thống, gắn liền với các vấn đề chính trị và xã hội lớn lao của đất nước Văn học thời kỳ này lấy lịch sử làm điểm quy chiếu, khiến con người luôn "khoác chiếc áo trùng khít với chính bản thân mình" và được xem như chủ nhân của lịch sử, của ý thức cộng đồng Trong văn học kháng chiến, nhân vật văn học mang trọng trách lịch sử, thường được gọi bằng những danh từ chung như "Chúng ta" và "Nhân dân".

"Đất nước" là một khái niệm không phân biệt giữa thơ ca và văn xuôi, nơi mà cả nhân vật trữ tình lẫn hiện thực đều nằm trong khuôn khổ văn học lịch sử Do đó, nhân vật văn học trong giai đoạn này thường mang hình tượng trọn vẹn và sâu sắc về tư tưởng.

Văn học từ 1975 đến nay đã trải qua sự chuyển biến mạnh mẽ, từ một nền văn học chịu ảnh hưởng của chiến tranh sang một nền văn học phản ánh đời sống thường nhật Giai đoạn này đánh dấu sự thay đổi từ tư duy sử thi sang tư duy phi sử thi, với sự chú trọng đến các khía cạnh thẩm mỹ đa dạng như cái xấu và cái kệch cỡm Tiểu thuyết đã khẳng định vai trò quan trọng trong việc phản ánh hiện thực phức tạp, với con người làm trung tâm của lịch sử Các nhà văn bắt đầu chú ý đến sự tồn tại của con người cá nhân như một "nhân vị" độc lập, mang đến cái nhìn sâu sắc về giá trị và sự sống của con người, điều mà chưa bao giờ được đề cập nhiều như trong giai đoạn này.

Bức tranh của Nguyễn Minh Châu khởi nguồn cho hình ảnh con người lưỡng diện, phức tạp và đa chiều Nhân vật văn học được khắc họa một cách toàn diện, phản ánh mọi khía cạnh của cuộc sống thực tế Con người không chỉ là "chủ nhân" của lịch sử mà còn là "nạn nhân" của hoàn cảnh sống.

Bắt đầu từ năm 1986, văn học Việt Nam bước vào một giai đoạn mới, tập trung khám phá sâu sắc đời sống tinh thần con người thông qua triết học nhân bản Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đưa văn học trở lại với những giá trị nhân bản, phản ánh cả mặt tốt và xấu của tâm lý con người Trong giai đoạn này, các cây bút trẻ đã xem con người như "đối tượng nghiên cứu", khai thác khía cạnh đời tư để lý giải những phức tạp trong tâm lý cá nhân Điều này dẫn đến sự xuất hiện của những kiểu nhân vật mới trong văn học, như con người- hoàn cảnh, con người cô đơn và con người tự ý thức, điều chưa từng thấy trong văn học truyền thống.

Văn học sau năm 1975 phản ánh những quy luật đời thường và sự khác biệt trong quan niệm nghệ thuật về con người so với giai đoạn trước Tác phẩm văn học chú trọng vào con người cá thể, khai thác sâu sắc đời sống tâm hồn và tinh thần của từng nhân vật Đặc biệt, tiểu thuyết đã khắc hoạ chân dung con người đa dạng và phức tạp, thể hiện những niềm vui, nỗi buồn, khát vọng và đam mê của mỗi cá nhân Con người trong văn học trở thành một thực thể trần tục với đầy đủ "chất người," bao gồm cả tốt và xấu, lý trí và vô thức Qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã đặt ra những vấn đề nhân sinh sâu sắc của thời đại, mỗi người lại có một quan niệm riêng về con người, từ Nguyễn Minh Châu đến Phạm Thị Hoài, Lê Minh Khuê và Nguyễn Huy Thiệp, tất cả đều thể hiện hình ảnh con người cá thể trong bối cảnh văn học hiện đại.

Trong các nhà văn đương đại, Nguyễn Minh Châu đóng vai trò như một

"viên gạch nối" giữa hai giai đoan văn học, trước và sau 1975 Hơn thế ông còn là

Nguyễn Minh Châu, một "người mở đường tinh anh" trong văn học Việt Nam hiện đại, đã thể hiện rõ nét sự biến chuyển của văn học và quan niệm nghệ thuật về con người Trước 1975, ông tập trung xây dựng nhân vật lý tưởng, khám phá vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách cao thượng của con người, ca ngợi tình yêu thủy chung và sự gắn bó với cách mạng Sau 1975, ông chuyển sang miêu tả những con người bình thường với số phận cụ thể, không bỏ sót chi tiết nào trong việc xây dựng hình tượng nhân vật Sự thay đổi trong quan niệm nghệ thuật về con người của Nguyễn Minh Châu phản ánh quan niệm về con người trong văn học giai đoạn tiếp theo.

Sau năm 1986, văn học Việt Nam chứng kiến sự đột phá trong quan niệm nghệ thuật về con người, khi con người được nhìn nhận từ góc độ đời tư Họ trở thành đối tượng trung tâm, được mô tả như một "tiểu vũ trụ đầy bí ẩn" với những đột biến tâm lý, tính cách và hành động bất ngờ Quan niệm này đã góp phần đánh dấu những bước tiến quan trọng trong sự phát triển của văn học thời kỳ đổi mới.

2.1.2 Đặc điểm nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu th i ỳ đổi mới

Văn học ba mươi năm chiến tranh thường thể hiện hình ảnh con người anh hùng, chia rạch ròi giữa ta và địch, tốt và xấu Tuy nhiên, từ sau 1975, văn xuôi đã dần chuyển hướng sang việc khám phá bản chất phức tạp của con người, nơi mà mỗi cá nhân vừa có thể vĩ đại vừa bình thường, như lời Nguyễn Minh Châu: "rồng phượng lẫn rắn rết" Con người trở thành một thế giới bí ẩn, luôn phải hoàn thiện và đấu tranh giữa những khía cạnh cao thượng và thấp hèn, nhân đạo và độc ác.

MỘT SỐ PHƯƠNG DIỆN NGHỆ THUẬT

Không gian- thời gian nghệ thuật

3.2 Không gian- th i gian nghệ thuật

Không gian và thời gian nghệ thuật là những yếu tố thiết yếu trong việc hình thành thế giới nghệ thuật, không thể tách rời khỏi hình tượng nghệ thuật Chúng khác biệt với không gian và thời gian khách quan, chỉ trở thành nghệ thuật khi kết hợp với nhân vật và cốt truyện, thể hiện quan niệm của nhà văn về con người và thực tại Sự lựa chọn không gian và thời gian cho mỗi tác phẩm phụ thuộc vào sở trường và cá tính sáng tạo của từng nghệ sĩ.

Tiểu thuyết, trong thể loại văn xuôi nghệ thuật, có khả năng phản ánh sinh động và toàn diện hiện thực cuộc sống, cho phép tiếp cận gần gũi với người đọc Sự đổi mới tư duy nghệ thuật trong văn chương thời kỳ đổi mới đã làm thay đổi quan niệm của các nhà văn về con người và hiện thực, dẫn đến việc khai thác không gian và thời gian nghệ thuật theo tinh thần đổi mới này.

Tiểu thuyết Lê Lựu từ sau đổi mới 1986 đã khai thác không gian làng quê làm sân khấu chính cho các nhân vật thể hiện tâm tư và hành động Tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội qua những không gian sống gần gũi như đình làng, cánh đồng và ngôi nhà, nơi chứa đựng mâu thuẫn và xung đột Các nhà văn thời kỳ đổi mới không chỉ dồn nén nhân vật vào không gian chật hẹp mà còn tạo nên bức tranh sinh động về tình yêu, ghen tuông, sai lầm và sự thật Trong khi các nhà văn giai đoạn 1930-1945 mô tả không gian tù túng, bức bối, thì các tác giả thời kỳ đổi mới đã phản ánh sự phức tạp của cuộc sống nông thôn, thể hiện những mâu thuẫn tất yếu trong xã hội đang chuyển mình.

Lê Lựu phản ánh không gian nông thôn Việt Nam trong bối cảnh lịch sử, nhấn mạnh cuộc sống nghèo khổ và các phong tục tập quán của con người Ông đề cập đến những sự kiện lịch sử quan trọng như hợp tác hoá nông nghiệp và cải cách ruộng đất, nhưng cảm nhận chúng qua tâm hồn con người Từ những mốc lịch sử này, nhà văn mong muốn thể hiện chân thực bức tranh thời đại với những mảng màu sáng tối đan xen, nhằm nêu bật những vấn đề sâu sắc về con người và cuộc sống.

Lê Lựu không chỉ tập trung vào không gian xã hội mà còn chú trọng đến không gian thiên nhiên, phản ánh hồn cốt của làng quê Việt Nam Tiểu thuyết của ông mang đến hình ảnh nông thôn đầy biến động, nhưng cũng không kém phần sinh động với thiên nhiên tươi mới Trong khi không gian xã hội là bối cảnh chính cho nhân vật thể hiện tính cách và số phận, thì thiên nhiên lại đóng vai trò nền tảng, che chở cho những mầm sống tình yêu, như tình yêu của Sài Hương.

Một tình yêu mãnh liệt đã nảy nở giữa không gian thiên nhiên bao la, nơi có sự đối lập rõ rệt với xã hội chật hẹp Không gian thiên nhiên mang đến cảm giác thoáng đãng, bình yên, trái ngược hoàn toàn với sự ngột ngạt của cuộc sống Trong tác phẩm "Thời xa vắng," thiên nhiên không chỉ đẹp mà còn khắc nghiệt và đầy thử thách, phản ánh những gian truân mà con người phải đối mặt.

Đói nghèo không chỉ ảnh hưởng đến đời sống của người dân mà còn tác động sâu sắc đến thiên nhiên Thời tiết khắc nghiệt và thất thường là nguyên nhân chính gây khó khăn cho cuộc sống vật chất của người dân nông thôn Việt Nam Trong tiểu thuyết "Thời xa vắng," nhà văn Lê Lựu khắc họa hình ảnh thiên nhiên cằn cỗi, với làng quê bập bềnh trong đêm sương muối và cây cối chịu đựng cái lạnh thấu xương Nỗi lo về thời tiết đã hình thành thói quen cày thuê cuốc mướn của người dân làng Hạ Vị, phản ánh chân thực hiện thực nghèo đói của nông thôn qua những không gian thiên nhiên đầy sinh động.

Lê Lựu không chỉ khắc họa không gian nông thôn nghèo khổ mà còn phản ánh bức tranh đô thị tù túng, ngột ngạt với nhiều mâu thuẫn Không gian đô thị đa dạng, từ cảnh người dân chen chúc xếp hàng mua thực phẩm đến những cuộc xô xát vì nước sinh hoạt Gia đình giàu có ở thành phố, như gia đình ông Đại, chỉ làm nổi bật sự phân chia giữa đủ đầy và thiếu thốn Sự khác biệt trong không gian sống giữa nông thôn và thành phố tạo ra nhiều kiểu sống khác nhau; có những người thành thị văn minh nhưng vẫn khinh người Nhà văn thể hiện rõ rệt ranh giới giữa người xuất thân nông thôn và người sống lâu năm ở thành phố, như hình ảnh Sài- Tâm, những người đàn ông coi trọng tình nghĩa, đối lập với Châu và Linh Anh, những phụ nữ thành thị tính toán trong mọi mối quan hệ.

Tiếp tục xu hướng thu hẹp không gian, trong bối cảnh không gian đô thị đ ,

Lê Lựu khéo léo đưa nhân vật vào những không gian nhỏ hẹp để khám phá và bộc lộ tính cách của họ Tác giả thể hiện sự chuyển biến từ không gian đô thị rộng lớn đến không gian căn phòng trong "Thời xa vắng", không gian khu tập thể trong "Hai nhà", và khu phố nước sôi trong "Người đá sông".

Cuộc đời của nhân vật Núi, từ những không gian rộng lớn như Hải Phòng, Hà Nội đến Bắc Giang, cuối cùng đã đưa hắn vào không gian nhà tù, nơi cuộc sống của hắn có sự thay đổi Trong xã hội đầy cám dỗ, vẫn còn những người tốt đẹp mang lại hi vọng cho hắn để làm lại cuộc đời Lê Lựu không chỉ khắc họa không gian bối cảnh xã hội mà còn xây dựng một không gian tâm tư, nơi tâm trạng nhân vật được bộc lộ tự do Không gian hiện thực giúp phản ánh bộ mặt xã hội, trong khi không gian tâm tưởng thể hiện chiều sâu tâm lý nhân vật Kiểu không gian này không chỉ tái hiện mà còn biểu hiện, với sự hiện hữu của ranh giới thực ảo, thường xuất hiện qua hồi tưởng, ký ức, giấc mơ, và trong nhật ký, thư từ Qua việc tạo dựng kiểu không gian này, Lê Lựu muốn sâu sắc khám phá thế giới tâm hồn con người, từ đó giải thích hiện thực cuộc sống và bản chất nhân vật.

Không gian tâm tưởng của nhân vật Sài được thể hiện qua nỗi nhớ quê và những trang nhật ký về tình yêu không thành với Hương Bà Đất lại mang nỗi đau nhục nhã khi chồng bị quy kết là địa chủ, cùng với nỗi xót xa khi chồng bị xử bắn và nỗi đau từ chính đứa con ruột thịt lừa dối Núi sống trong ký ức buồn về tình yêu dở dang với Hiền Lê Lựu khéo léo khai thác không gian tâm tư của nhân vật, giúp họ nhận ra bản thân qua những cảm xúc sâu sắc Sài nhận ra sự khập khiễng trong mối quan hệ với Châu, trong khi nhật ký của Linh Anh khiến Tâm nhận ra bản chất cơ hội của vợ, biến anh thành một người chồng hờ Cuộc đời Núi là chuỗi ngày ăn cắp và vào tù ra tội, nhưng trong hành trình nhục nhã ấy, anh luôn thức tỉnh và sám hối Qua việc đặt nhân vật vào không gian tâm tưởng, Lê Lựu khẳng định rằng chất người trong mỗi người không bao giờ mất đi, mà cần được nâng niu và trân trọng dù trong hoàn cảnh nào.

Thế giới nhân vật trong tiểu thuyết Lê Lựu thể hiện những hệ tư tưởng đối lập, khiến số phận của họ bị trói buộc trong vòng luẩn quẩn Để làm nổi bật những xung đột và bi kịch, Lê Lựu tổ chức không gian theo nguyên tắc tương phản Không gian u tối, chật chội của những tư tưởng phong kiến cổ hủ, như trong nhà ông đồ Khang hay gia đình ông Đại, đối lập với không gian rộng lớn, tự do của những đôi trẻ khao khát yêu thương và hòa nhập Những ngôi nhà cổ mang không khí nặng nề, lo lắng, đầy mưu mô, trong khi không gian thiên nhiên lại tràn đầy sức sống và niềm vui Việc đặt nhân vật vào những không gian tương phản này bộc lộ những mâu thuẫn tư tưởng trong gia đình và xã hội thời kỳ đó.

Không gian trong tiểu thuyết của Lê Lựu được tổ chức linh hoạt, phản ánh sự dịch chuyển của nhân vật Giang Minh Sài qua các giai đoạn khác nhau trong cuộc đời Cuộc sống của Sài gắn liền với không gian quê hương, từ ngôi nhà gia đình đến những ngày lụt lội và chiến trường Sau đó, không gian chuyển lên Hà Nội và cuối cùng trở về làng Hạ Vị, nơi Sài trở thành chủ nhiệm hợp tác xã Sự mở rộng và thu hẹp không gian sống của nhân vật thể hiện một cuộc đời đầy bế tắc, không lối thoát.

Không gian trong "Hu n àng u i" có sự tương đồng với "Thời xa vắng", khi Lê Lựu khéo léo khép lại cuộc đời nhân vật bằng hình ảnh dòng sông quê hương – nơi ghi dấu những kỷ niệm ngọt ngào và đắng cay Dòng sông như một biểu tượng của sự bao dung, ôm trọn nỗi bất hạnh của người phụ nữ, mong muốn cuốn trôi đi những đau khổ Ngược lại, không gian trong "Ng đá sông" lại mở rộng theo hành trình của nhân vật Núi, từ thành phố đến nông thôn, phản ánh cuộc sống trộm cắp với những dấu chân tội lỗi Mặc dù nhiều lần vào tù, Núi không rơi vào bế tắc như những nhân vật khác, nhờ gặp được những người nhân ái và có cơ hội làm lại cuộc đời Qua nghệ thuật luân chuyển không gian, Lê Lựu khẳng định tính ưu việt của nhà tù thời đại mới, ca ngợi tình cảm nhân ái và khả năng vượt lên số phận của con người.

Lê Lựu khéo léo thể hiện sự luân chuyển không gian qua hồi ức của Châu trong "Thời xa vắng" và nhật ký của Linh Anh trong "Hai nhà", phản ánh những mối tình vụng trộm Không gian nghệ thuật được miêu tả trực tiếp qua những lời văn về làng Hạ Vị, nhưng thường mang tính khép kín, khiến số phận nhân vật như Sài và Tâm trở nên bế tắc trong cuộc sống gia đình Bà Đất tự tử trên dòng sông làng Cuội, và cuộc đời Núi là chuỗi lặp lại của tội lỗi và tù tội, mặc dù cuối cùng Núi tìm được lối thoát Từ không gian bên ngoài đến không gian tâm tưởng, tất cả đều mang tính hạn chế, làm cho bức tranh hiện thực trở nên tăm tối và ngột ngạt Qua khắc họa không gian nghệ thuật, Lê Lựu không chỉ thể hiện quan niệm về con người và thế giới mà còn bộc lộ tài năng trong phân tích xã hội và miêu tả tâm lý nhân vật.

Ngày đăng: 02/07/2022, 09:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
16. Lê Lựu (2002), Tôi viết Sóng ở đáy sông in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tôi viết Sóng ở đáy sông
Tác giả: Lê Lựu
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
17. Thiếu Mai (2002), Nghĩ về một Thời xa vắng , in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghĩ về một Thời xa vắng
Tác giả: Thiếu Mai
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
18. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), on đường đi vào thế giới ngh thuật của nhà văn, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: on đường đi vào thế giới ngh thuật của nhà văn
Tác giả: Nguyễn Đăng Mạnh
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1996
19. M.Bkhrapchenco (1968), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học
Tác giả: M.Bkhrapchenco
Nhà XB: Nxb Tác phẩm mới Hà Nội
Năm: 1968
20. Nhiều tác giả (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2002
21. Nhiều tác giả (1992), Từ điển ngh thuật văn học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển ngh thuật văn học
Tác giả: Nhiều tác giả
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1992
22. Mai Hải Oanh (2010), Những cách tân ngh thuật trong tiểu thuyết Vi t Nam đương đại giai đoạn 1968-2006, Nxb Hội nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những cách tân ngh thuật trong tiểu thuyết Vi t Nam đương đại giai đoạn 1968-2006
Tác giả: Mai Hải Oanh
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 2010
23. Hoàng Ngọc Phê (chủ biên)(1997), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển thuật ngữ văn học
Tác giả: Hoàng Ngọc Phê (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Đà Nẵng
Năm: 1997
24. Pospelov (chủ biên)(1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dẫn luận nghiên cứu văn học
Tác giả: Pospelov
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1998
25. Trần Đình Sử (1998), Dẫn luận thi pháp học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Dẫn luận thi pháp học
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1998
26. Trần Đình Sử (chủ biên), Lý luận văn học (tái bản lần 3), Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học
Tác giả: Trần Đình Sử
Nhà XB: Nxb Giáo dục
27. Trần Đình Sử (chủ biên) (2007), Tự sự học – m t số vấn đề lý luận và lịch sử, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tự sự học – m t số vấn đề lý luận và lịch sử
Tác giả: Trần Đình Sử (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Đại học sư phạm Hà Nội
Năm: 2007
28. Hồng Thái (2002), Tâm sự phim sóng ở đáy sông , in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tâm sự phim sóng ở đáy sông
Tác giả: Hồng Thái
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
29. Ngô Thảo (2001), Về truyện ngắn Lê Lựu , in trong Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học về người lính
Tác giả: Ngô Thảo
Nhà XB: Nxb Quân đội nhân dân
Năm: 2001
30. Nguyễn Ngọc Thiện (2002), Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết – những tìm tòi và thử nghiệm , in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khuynh hướng triết lý trong tiểu thuyết – những tìm tòi và thử nghiệm
Tác giả: Nguyễn Ngọc Thiện
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
31. Lý Hoài Thu (viết chung) (1993), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý luận văn học
Tác giả: Lý Hoài Thu
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1993
32. Lý Hoài Thu (2005), Đồng cảm và sáng tạo (phê bình và tiểu luận), Nxb Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đồng cảm và sáng tạo (phê bình và tiểu luận)
Tác giả: Lý Hoài Thu
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 2005
33. Đinh Quang Tốn (2002), Lê Lựu Thời xa vắng , in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê Lựu tạp văn
Tác giả: Đinh Quang Tốn
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2002
34. Hà Xuân Trường (1984), Trên m t chặng đường, Nxb Văn hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Trên m t chặng đường
Tác giả: Hà Xuân Trường
Nhà XB: Nxb Văn hóa
Năm: 1984
35. Phong Vũ, Tiểu thuyết đầu tiên của một cây bút viết truyện ngắn , in trong Lê Lựu tạp văn, Nxb Văn hóa thông tin.II. Báo, tạp chí Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lê Lựu tạp văn
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin. II. Báo

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN