1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích

99 50 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nghiên Cứu Văn Bản Học Hoàng Việt Thi Tuyển Của Tồn Am Bùi Huy Bích
Tác giả Nguyễn Thị Dung
Người hướng dẫn PGS.TS. Hoàng Thị Ngọ
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Hán Nôm
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2010
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 99
Dung lượng 1,34 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: BÙI HUY BÍCH VÀ HOÀNG VIỆT THI TUYỂN (16)
    • 1.1 TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA BÙI HUY BÍCH (16)
    • 1.2. SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA BÙI HUY BÍCH (23)
      • 1.2.1 Tình hình chính trị xã hội và văn học thế kỷ XVIII – XIX (23)
      • 1.2.2. Sự nghiệp sáng tác của Bùi Huy Bích (28)
    • 1.3 HOÀNG VIỆT THI TUYỂN (皇越詩選) (36)
      • 1.3.1 Niên đại hoàn thành văn bản Hoàng Việt thi tuyển (37)
      • 1.3.2. Xuất xứ của Hoàng Việt thi tuyển (37)
      • 1.3.3. Cách ghi tên tác giả, tác phẩm qua các truyền bản Hoàng Việt thi tuyển (38)
      • 1.3.4. Cấu trúc của văn bản Hoàng Việt thi tuyển (39)
    • 1.4. TIỂU KẾT (40)
  • CHƯƠNG 2: NGHIÊN CỨU CÁC TRUYỀN BẢN HOÀNG VIỆT THI TUYỂN (42)
    • 2.1 TẬP HỢP MÔ TẢ CÁC TRUYỀN BẢN HOÀNG VIỆT THI TUYỂN (42)
      • 2.1.1 Tập hợp các truyền bản Hoàng Việt thi tuyển (42)
      • 2.1.2 Mô tả các truyền bản của Hoàng Việt thi tuyển (43)
    • 2.2 PHÂN LOẠI CÁC TRUYỀN BẢN CHỮ HÁN CỦA HOÀNG VIỆT THI TUYỂN. 52 2.3. TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ THỂ LOẠI THƠ (53)
    • 2.4. TIỂU KẾT (69)
  • CHƯƠNG 3: HOÀNG VIỆT THI TUYỂN TRONG HỆ THỐNG THI TUYỂN VIỆT (70)
    • 3.1 HỆ THỐNG THI TUYỂN VIỆT NAM VÀ HOÀNG VIỆT THI TUYỂN CỦA BÙI HUY BÍCH (70)
    • 3.2. SO SÁNH TÁC PHẨM HOÀNG VIỆT THI TUYỂN CỦA BÙI HUY BÍCH VÀ TOÀN VIỆT THI LỤC CỦA LÊ QUÝ ĐÔN (77)
    • 3.3. HOÀNG VIỆT THI TUYỂN VÀ SỰ THỂ HIỆN QUAN ĐIỂM, PHƯƠNG PHÁP SƯU TẬP BIÊN ĐỊNH DI SẢN THƠ CA QUÁ KHỨ CỦA BÙI HUY BÍCH (88)
    • 3.4. TIỂU KẾT (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (95)
  • PHỤ LỤC (80)

Nội dung

BÙI HUY BÍCH VÀ HOÀNG VIỆT THI TUYỂN

TIỂU SỬ VÀ SỰ NGHIỆP CỦA BÙI HUY BÍCH

Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Huy Bích là một nhân vật văn hóa nổi bật, đồng thời là quan chức, học giả, và nhà thơ nổi tiếng của thế kỷ XVIII Ông không chỉ là một nhà Nho đại danh mà còn là một nhà giáo dục xuất sắc, có nhiều cống hiến quan trọng cho sự nghiệp văn hóa và giáo dục, để lại dấu ấn sâu sắc trong sử sách hàng ngàn năm sau.

Bùi Huy Bích, hiệu Tồn Am, Am Bệnh Tẩu, Tồn Ông, tự Ảm Chương hay Hi Chương, là một nhân vật lịch sử quan trọng, sinh ngày 28 tháng 8 năm Giáp Tý (1744) tại làng Định Công, gần Ngã Tư Sở Ông mất vào ngày 25 tháng 5 năm 1818, thọ 75 tuổi Xuất thân từ dòng họ "Sơn Nam vọng tộc", một dòng họ danh giá và được trọng vọng ở vùng Sơn Nam, bao gồm các tỉnh Hà Đông, Nam Định, Nam Hà, Ninh Bình, và Thái Bình.

Cụ thuỷ tổ từ xã Cát Xuyên, huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá đã chuyển đến xã Định Công, huyện Thanh Trì, tỉnh Hà Đông (nay thuộc Hà Nội) và sau đó định cư chủ yếu tại xã Thịnh Liệt cùng huyện.

Sau đây chúng tôi giới thiệu những công trình viết về tác gia Bùi Huy Bích:

- Luận văn thạc sĩ Hán Nôm của Nguyễn Thị Hiền, Hà Nội 2008

Chương I của luận văn viết về tiểu sử và sự nghiệp của Bùi Huy Bích, chương

II, chương III – nghiên cứu các truyền bản Hoàng Việt văn tuyển và giá trị của nó trong hệ thống văn tuyển Việt Nam

- Luận văn thạc sĩ Hán Nôm của Hoàng Phương Mai, Hà Nội 2007

Chương I của luận văn cũng viết về con người và sự nghiệp của Bùi Huy Bích, chương II, chương III - nghiên cứu tác phẩm Lữ trung tạp thuyết

Gia phả Bùi thị gia phả (清池裴氏家譜) tại Thanh Trì (VHv 1343/1-3, Viện Nghiên cứu Hán Nôm) ghi chép về dòng họ Bùi ở làng Thịnh Liệt, huyện Thanh Trì Tài liệu bao gồm hệ thống thứ thế, ngày sinh, ngày giỗ, khoa bảng, quan tước, thơ văn, cùng các giấy tờ liên quan đến các thành viên trong dòng họ Phần đầu được biên soạn bởi Bùi Xương, trong khi Bùi Huy Bích phụ trách phần tiếp theo.

Danh nhân văn hóa Bùi Huy Bích được giới thiệu qua các tài liệu lịch sử văn hóa Việt Nam tại Trung tâm UNESCO Trong sách, có nhiều bài viết liên quan đến tác giả và tác phẩm của Bùi Huy Bích, cung cấp cái nhìn sâu sắc về đóng góp của ông cho nền văn hóa Việt Nam.

+ Bùi Huy Bích với ý thức bảo vệ phát huy di sản văn hóa dân tộc – Vũ

+ Bùi Huy Bích, đại danh nho Việt Nam thế kỷ XVIII – Vũ Khiêu

+ Nỗi niềm riêng của tác giả Tôn Am thi cảo – Phạm Tú Châu

+ Bùi Tồn Am với hai thi phẩm Bích Câu – Nhất Phàm

+ Hoàng Việt văn tuyển – Phạm Tú Châu

+ Hà Nội với tấm lòng Tồn Am – Nguyển Vinh Phúc

+ Đình nguyên Hoàng giáp Bùi Huy Bích, nhà giáo dục lớn – Lê Tiến Hùng

+ Những ngôn phẩm quý báu từ sách Gia huấn – Cung Khắc Lƣợc + Tâm tư và phẩm chất Bùi Huy Bích qua thơ ông – Trần Lê Văn

+ Hai tấm bia, một tấm lòng Bùi Huy Bích với văn hóa Thanh Trì –

+ Nhân cách của tổ Bùi Huy Bích – Bùi Đức Tiến

- Bùi tướng công Tồn Am tiên sinh hành trạng chép trong Phương Đình văn loại của Phương Đình Nguyễn Văn Siêu

Chúng tôi chỉ điểm qua vài nét chính về Bùi Huy Bích

Nguồn gốc gia đình dòng họ:

Dòng họ Bùi là một trong những dòng họ nổi bật của Việt Nam, nổi tiếng với truyền thống khoa hoạn rực rỡ Theo Lê Quý Đôn trong tác phẩm Kiến văn tiểu lục, chương Tùng đàm, dòng họ này có sự phát triển mạnh mẽ với con cháu sinh sôi nảy nở, góp phần tạo nên một công nghiệp vang danh.

Từ thời Lê trung hƣng, bày tôi thế kế, tộc thuộc lớn lao, nói đến nhà quý hiển nhất, chỉ có họ Bùi mà thôi ” (Kiến văn)

Thủy tổ dòng họ Bùi là cụ Chí Đức, tổ chín đời của Bùi Huy Bích, người thôn Hạ, xã Quảng Công, huyện Thanh Đàm Cụ Chí Đức sinh ra cụ Trung Phác, từng giữ chức Tả thị lang và tước Cung Quận công, đã chuyển đến thôn Giáp Nhị vào cuối thời Hồ Dù nghèo, cụ Trung Phác vẫn giữ vững truyền thống gia đình, làm nghề y, nông và giúp đỡ người khác Cụ Trung Phác sinh ra cụ Bùi Xương Trạch, thủy tổ bảy đời, nổi tiếng hiếu học, đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ năm 1478, giữ chức Thượng thư Bộ Binh và được phong Thái phó Quảng Quận công Cụ Bùi Xương Trạch có hai con trai, trong đó Bùi Vịnh đỗ Đệ nhất giáp tiến sĩ năm 1532, từng giữ chức Tả thị lang Bộ Hộ và được phong Thái Bảo Mai quận công, là cụ tổ đời thứ sáu Con trai Bùi Vịnh, Bùi Bỉnh Uyên, có tài văn chương, giữ chức phủ doãn phủ Thuận Thiên và được phong tước tiên quân công Cụ tổ đời thứ năm là Bùi Công Cẩn, từng giữ chức Vệ úy và tước Trà Lĩnh hầu.

Cụ Bùi Xương Tự, ông nội của Bùi Huy Bích, đã thi hương đỗ tứ trường và trải qua nhiều chức vụ quan trọng, trong đó có Hữu tam nghị Ty Thừa chánh sứ tại Thái Nguyên, được phong Hàn lâm viện Thị độc và tước Phong Khánh bá Cha của Bùi Huy Bích, Bùi Dụng, là người có học vấn uyên thâm, từng theo học Cúc Lâm tiên sinh, nhưng không đỗ đạt và chuyên tâm vào việc dạy học, lấy hiệu là Trúc Viên cư sĩ.

“ Lịch đại danh hiền phổ” [13] – khen Bùi Huy Bích là người có khí phách, trong sách còn viết các mẩu truyện nhỏ dự đoán về tương lai của ông

Bùi Huy Bích là con trai thứ trong gia đình có ba người con, với một chị gái và một em trai Từ nhỏ, ông thường xuyên ốm đau và phải trải qua nhiều khó khăn Khi ông 8 tuổi, mẹ ông qua đời, khiến gia đình rơi vào cảnh khó khăn Đến năm 9 tuổi, ông đã biết đọc sách và theo cha dạy học ở Thanh Miện, Hải Dương Ngay từ thuở nhỏ, ông đã thể hiện tƣ chất thông minh hiếm có.

Học hành, đỗ đạt, chặng đường làm quan

Năm Cảnh Hưng 21, khi mới 17 tuổi, ông bắt đầu theo học Thân Trai tiên sinh (Nguyễn Bá Trữ), một tiến sĩ khoa Giáp Tuất (1754) đến từ Linh Đường, huyện cùng Tiên sinh đã khen ngợi ông là một người trẻ tuổi thông minh và có tài năng nổi bật.

Cảnh Hưng 23, ông thi hương tứ trường và đỗ đệ nhị giáp Mặc dù ông tham gia thi hội tam trường hai lần nhưng không thành công Tuy nhiên, ông vẫn kiên trì theo học tại Quế Đường dưới sự dìu dắt và hỗ trợ tận tình của tiên sinh Lê Quý Đôn.

Năm Mậu Tý (1768), Trong triều xảy ra vụ án Hoàng Thái tử Lê Duy

Vĩ, triều đình có nhiều biến động, Bùi Huy Bích sinh ra buồn chán không muốn tiếp tục thi

Năm Kỷ Sửu, triều đại Cảnh Hưng 30, ông tham gia khoa thi Hội theo lời khuyên của cha và đạt đệ ngũ Sau đó, ông tiếp tục thi Đình và trở thành Đình Nguyên Hoàng Giáp, là người duy nhất trong số 9 thí sinh đỗ Đệ nhị giáp Tiến sĩ xuất thân Khi mới 26 tuổi, ông được bổ nhiệm làm Hiệu lý tại Hàn lâm viện và đảm nhận vai trò thị giảng Dù có khởi đầu thuận lợi trong con đường quan trường, ông vẫn đối mặt với nhiều trăn trở.

Vào năm Cảnh Hưng 31, ông được thăng chức Hàn Lâm viện thị chế và sau đó được cử làm Quyền giám thí cuộc thi Hương ở Sơn Tây Tiếp theo, ông được thăng làm Thiêm sai Phủ liêu tri Hộ phiên kiêm Đông các hiệu thư Trong bối cảnh triều đình rối ren, quyền lực nằm trong tay chúa Trịnh Tháng 6 năm Cảnh Hưng 38, chúa Trịnh đã thay đổi trấn thủ Nghệ An và bổ nhiệm Hoàng Đình Bảo thay cho Hoàng Đình Thể, cùng với Bùi Huy Bích làm đốc đồng Đến năm Cảnh Hưng 41, ông được thăng chức hiệp trấn Nghệ An và ở lại đây tổng cộng 5 năm cho đến năm Cảnh Hưng 42 Trong thời gian này, ông đã giải quyết mọi việc một cách sáng suốt và khoan hồng, được mọi người khen ngợi vì sự thuận tiện trong quản lý.

Năm Tân Sửu (1781), ông đƣợc gọi về triều ban chức Nhập thị bồi tụng, ông vào kinh làm tờ khải xin từ không nhận, nhƣng triều đình không cho

Năm Cảnh Hưng 43 (1782), chúa Trịnh Tùng phong chức Tham tụng và tước Kế liệt hầu cho một số người Thời điểm này, triều đình có nhiều phe phái, và Bùi Huy Bích đã nhiều lần gửi tờ khải can để can gián chúa Trịnh.

Tháng 4 năm Cảnh Hƣng 45 (1784) ông đƣợc bổ dụng quyền làm công việc tham tụng Khâm định Tháng 12 cùng năm triều đình ban cho ông chức Nhập thị Hành tham tụng kiêm Tri kinh diên Hành trạng, triều đình ngƣợc ngạo, văn quan võ tướng đều bó tay, trong khi ông thu xếp công việc của mình một cách thƣ thả

SỰ NGHIỆP SÁNG TÁC CỦA BÙI HUY BÍCH

1.2.1 Tình hình chính trị xã hội và văn học thế kỷ XVIII – XIX

1.2.1.1 Tình hình chính trị xã hội thế kỷ XVIII -XIX

Tình hình chính trị xã hội ở Đàng Ngoài

Từ nửa cuối thế kỷ XVIII đến đầu thế kỷ XIX, Bộ máy quan lại thời

Thời kỳ sau chiến tranh, triều đại Lê – Trịnh rơi vào khủng hoảng, khi nhà nước không còn khả năng quản lý, để cho quan lại địa phương và địa chủ lạm dụng quyền lực, gây áp bức cho nhân dân Thời tiết khắc nghiệt dẫn đến lụt lội, mất mùa và nạn đói kéo dài, đặc biệt là vào năm 1740 – 1741 tại Hải Dương, khiến làng xóm hoang tàn, kinh tế suy sụp và sản xuất bị tàn phá nặng nề Nông dân phải đối mặt với tình trạng lưu tán hoặc chết đói, và khi không còn hy vọng cứu vãn, họ đã quyết định đứng lên khởi nghĩa để tự cứu lấy mình.

Vào đầu những năm 50, các cuộc đấu tranh của nhân dân ở đồng bằng tạm lắng, khiến Chúa Trịnh lo lắng và ban hành nhiều chính sách nhằm khôi phục sản xuất nông nghiệp và đưa dân lưu tán trở lại ruộng đồng Năm 1773, phủ chúa đã ra lệnh cấm "nhà quyền quý không được chiếm bậy ruộng của dân," nhưng hiệu quả đạt được không đáng kể Tình trạng đói kém vẫn tiếp tục diễn ra, đặc biệt nghiêm trọng vào năm 1786.

Năm 1782, sau khi Trịnh Sâm qua đời, phe Trịnh Khải đã nổi dậy, tấn công và tiêu diệt nhóm Hoàng Đình Bảo – Đặng Thị Huệ, đồng thời phế truất Trịnh Cán Quân Tam phủ, lực lượng chính ủng hộ Trịnh Khải, đã lợi dụng tình hình hỗn loạn để hoành hành, cướp bóc và phá phách các khu phố, khiến nhân dân không thể kiểm soát.

“loạn kiêu binh” – đây cũng đánh dấu sự tan giã của thế lực họ Trịnh

Tình hình chính trị xã hội ở ĐàngTrong

Đất Đàng Trong đã từng trải qua một thời gian dài ổn định dưới sự lãnh đạo của chúa Nguyễn, nhờ vào những ưu thế riêng có Tuy nhiên, từ giữa thế kỷ XVIII, những mâu thuẫn nội tại của chế độ phong kiến bắt đầu bộc lộ, dẫn đến khủng hoảng Giai đoạn suy tàn của phong kiến Đàng Trong đã tạo điều kiện cho cuộc khởi nghĩa nông dân bùng nổ, do ba anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ lãnh đạo, làm rung chuyển cả đất nước.

Ngày 21 tháng 7 năm 1786 Nguyễn Huệ đã kéo quân vào Thăng Long, lật đổ chính quyền họ Trịnh, giao lại quyền hành cho vua Lê Hiển Tông đƣợc vua Lê Hiển Tông phong tước Uy quốc công và nhường cho Tây Sơn đất Nghệ An, để thưởng công Sau đó quân Tây Sơn rút về Nam

Khi Nguyễn Huệ rút quân, bắc Hà rơi vào tình trạng rối loạn với nạn đói hoành hành, khiến nhân dân khổ cực Vua Lê Chiêu Thống, lên ngôi sau Lê Hiển Tông, bất lực trước thế lực của Trịnh Bồng, người đang cố khôi phục lại cơ đồ cũ với sự hỗ trợ của Nguyễn Hữu Chỉnh Lê Chiêu Thống đã đánh bại quân Trịnh và đốt phá phủ chúa, nhưng Nguyễn Hữu Chỉnh lợi dụng tình hình để lộng quyền và đòi lại Nghệ An Cuối năm 1787, Nguyễn Huệ đã cử quân tiêu diệt Nguyễn Hữu Chỉnh.

Lê Chiêu Thống chốn thoát sang Quang Tây Nhà Lê sụp đổ sau hơn 4 thế kỷ trị vì đất nước

Nhƣ vậy quân Tây Sơn đã lật đổ đƣợc 3 thế lực phong kiến thống trị Nguyễn, Trịnh, Lê, làm chủ đất nước Vào những năm 1788, thế lực của họ

Lê vẫn đang lâm vào tình thế khó khăn, tìm kiếm sự trợ giúp từ nhà Thanh Trong khi đó, tại miền Nam, sự xung đột giữa anh em Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ, cùng với sự thoái hóa của Nguyễn Nhạc và sự bất lực của Nguyễn Lữ, đã tạo cơ hội cho Nguyên Ánh trở về từ đất Xiêm Hắn đã dựa vào các đại địa chủ để chiếm lại Gia Định Phong trào Tây Sơn vẫn chưa hoàn thành sự nghiệp của mình.

Lê Chiêu Thống sang Quảng Tây cầu cứu quân Thanh Tháng 11 năm

1788 quân Thanh ồ ạt tiến vào Việt Nam

Ngày 22 tháng 12 năm 1788 Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu Quang Trung, rồi lập tức ra quân

Ngầy 30 tháng 1 năm 1789, sau 5 ngày chiến đấu đã quét sạch quân Thanh và bề lũ Lê Chiêu Thống

Trong những năm đầu triều đại Quang Trung, ông đã tập trung vào việc khôi phục sản xuất nông nghiệp do nền kinh tế gặp nhiều khó khăn Tuy nhiên, khi kinh tế bắt đầu phục hồi, Quang Trung đột ngột qua đời vào năm 1792, chỉ sau hơn 4 năm cầm quyền.

Năm 1801, Nguyễn Ánh tấn công và chiếm đƣợc Phú Xuân, để củng cố quyền vị của mình, Nguyễn Ánh đã tự đặt niên hiệu là Gia Long (tháng 6 -

Cuối tháng 7 năm 1802, Nguyễn Ánh đã vào Thăng Long sau khi đánh bại triều Tây Sơn, đánh dấu sự thống nhất của đất nước dưới quyền lực của triều Nguyễn Từ niên hiệu Gia Long (1802-1819), cả Đàng Trong và Đàng Ngoài đều thuộc về triều đại này.

Trong bối cảnh đất nước loạn lạc, Bùi Huy Bích, với vai trò chính trị, đã chịu ảnh hưởng sâu sắc từ những biến cố trong nước Khi nhận thấy mình không đủ khả năng thay đổi tình hình, ông quyết định về ẩn dật, tập trung vào văn chương, bởi ông nhận ra rằng: “Nước ta ghi chép sự việc rất sơ sài.” Những đóng góp của ông đã giúp lưu giữ giá trị văn hóa và mang lại cái nhìn sâu sắc về thời đại của ông Mặc dù có nhiều ý kiến trái chiều về ông, nhưng Lê Quý Đôn, thầy của Bùi Huy Bích, đã đánh giá cao phẩm cách và học thuật của ông, khẳng định rằng ông là người có phẩm giá bậc nhất trong nước Điều này thể hiện sự kiên định và giá trị bất biến trong con người ông.

1.2.1.2 Tình hình văn học thế kỷ XVIII -XIX

Vào thời kỳ này, chế độ phong kiến đối mặt với những mâu thuẫn gay gắt và khủng hoảng trầm trọng Sự tranh giành quyền lực giữa các tập đoàn thống trị đã làm cho chế độ này trở nên mục nát Trước tình hình áp bức và bóc lột nặng nề, nhân dân đã quyết liệt đứng lên kháng cự.

Phong trào nông dân, đặc biệt là phong trào Tây Sơn, đã lật đổ các tập đoàn Nguyễn, Trịnh, Lê và thống nhất đất nước, thành lập nhà nước Tây Sơn Tuy nhiên, thắng lợi này chưa kịp củng cố thì Nguyễn Ánh, dựa vào giai cấp địa chủ và thực dân Pháp, đã lợi dụng sự yếu kém của triều Tây Sơn dưới thời Cảnh Thịnh để cướp lại đất nước Ông đã tái lập chế độ phong kiến chuyên chế với nhiều chính sách phản động, đối lập với lợi ích của nhân dân ngay từ những ngày đầu, dẫn đến việc đầu hàng thực dân.

Thời kỳ này ở Pháp chứng kiến những biến động lớn trong lịch sử và xã hội, đặc biệt là phong trào đấu tranh mạnh mẽ của nhân dân và sự phát triển kinh tế hàng hóa, dẫn đến sự suy yếu của xã hội phong kiến và sự sụp đổ của ý thức hệ phong kiến Nho giáo không còn là công cụ hiệu lực, và văn học trở thành phương tiện khẳng định con người là chủ đề trung tâm Các nhà văn thời kỳ này thường là những nhà tư tưởng, văn nghệ sĩ có vốn sống phong phú, tập trung vào những vấn đề nhân sinh như quyền sống, tình yêu và thân phận người phụ nữ Tính nhân văn thấm nhuần trong văn học đã tạo ra một trào lưu nhân đạo chủ nghĩa Văn học chữ Nôm phát triển rực rỡ, với nhiều thể loại văn học dân tộc chiếm ưu thế và lấn át các thể loại ngoại lai Nhiều tác giả và tác phẩm lớn ra đời, làm giàu thêm cho văn học cổ Việt Nam, đánh dấu giai đoạn phát triển rực rỡ nhất và đạt nhiều thành tựu xuất sắc trong thời kỳ trung đại.

Văn học Việt Nam phát triển mạnh mẽ với cả chữ Hán và chữ Nôm, trong đó văn học chữ Hán nổi bật với nhiều thể loại truyện ký thành công, như tác phẩm "Thượng kinh ký sự".

Văn học chữ Nôm trong thời kỳ Hoàng Lê nhất thông chí phát triển rực rỡ với các tác phẩm nổi bật như Chinh phụ ngâm và Truyện Kiều Thời kỳ này chứng kiến sự trỗi dậy của trào lưu nhân đạo chủ nghĩa, mạnh mẽ tố cáo sự áp bức của phong kiến Tuy nhiên, đến đầu thế kỷ XIX, khi triều Nguyễn tái lập quyền lực, văn học lại có xu hướng đi xuống, với văn học chữ Hán làm gia tăng ảnh hưởng của tư tưởng Nho giáo và nội dung nhân đạo trong văn học chữ Nôm bị thu hẹp Các tác giả tiêu biểu của thời kỳ này bao gồm Cao Bá Quát, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Du, Đặng Trần Côn, Đoàn Thị Điểm, Hồ Xuân Hương, Phan Huy Ích, Ngô Thì Nhậm, Nguyễn Huy Tự, Lê Hữu Trác, Lê Quý Đôn và Phạm Thái.

HOÀNG VIỆT THI TUYỂN (皇越詩選)

Hoàng Việt thi tuyển là một tuyển tập thơ chữ Hán, được biên soạn từ thời Lý đến thời Lê, do Tồn Am Bùi Huy Bích thực hiện và có lời tựa của Nguyễn Triệp 4, Đốc học Sách được in tại Hy Văn Đường vào tháng 2 năm 1825, trong năm thứ 6 của triều Minh Mạng Nội dung của tuyển tập này chủ yếu bao gồm các tác phẩm thơ ca tiêu biểu của thời kỳ lịch sử này, phản ánh văn hóa và tư tưởng của dân tộc.

Bộ thơ Thƣợng (quyển 1) bao gồm 12 tác giả từ các triều đại Lý, Trần, Lê, với tổng cộng 70 bài thơ, mỗi tác giả đều có phần giới thiệu sơ lƣợc Các quyển Trung (quyển 2, 3, 4) và Hạ (quyển 5, 6) tiếp tục mở rộng nội dung của bộ thơ này.

+ Trung (quyển 2,3,4): Gồm 101 tác giả triều Lý, Trần (sau tên của tác giả đều có phần giới thiệu sơ lƣợc về tác giả) với 334 bài thơ

+ Hạ (quyển 5,6): Gồm 54 tác gia triều Lê (sau tên của tác giả đều có phần giới thiệu sơ lƣợc về tác giả) với 158 bài thơ

Về cách thức trình bày sách Hoàng Việt thi tuyển rất giống với Hoàng

Việt văn tuyển là một tác phẩm đặc biệt với cùng khổ sách, chất liệu, kiểu giấy và kiểu chữ, mang dấu ấn riêng với bốn chữ "Tồn Am gia tàng" ghi ở giữa bên trái, cùng với ba chữ "Hi Văn Đường" nằm trong hai dấu triện vuông Trên cùng là bốn chữ "Các gia hội tuyển" Mặc dù có sự tương đồng, nhưng không thể nhầm lẫn giữa văn tuyển và thi tuyển Bùi Huy Bích đã kế thừa và phát triển từ các nhà sưu tập thi tuyển trước đó như Phan Phu Tiên, Dương Đức Nhan và Hoàng Đức Lương.

4 3Chữ (triệp) còn có âm “lạp” Nếu viết …thì đọc âm “tháp”

Lê Quý Đôn là một nhà bác học nổi tiếng và cũng là người thầy có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển tư liệu và phương pháp biên soạn của ông.

1.3.1 Niên đại hoàn thành văn bản Hoàng Việt thi tuyển

Trong nghiên cứu văn bản học, xác định thời gian hoàn thành văn bản là yếu tố quan trọng, vì điều này giúp xác định thời điểm hình thành các bản sao.

- Đối với HVTT thì thật may mắn có đƣợc đầy đủ về thời điểm khắc in cũng xuất xứ của tác phẩm

Di sản Hán Nôm Việt Nam được ghi nhận qua tác phẩm "Thư mục đề yếu tuyển chọn" do Nguyễn Tập biên soạn và viết lời dẫn vào năm Mậu Thân (1788), với phần tựa được hoàn thiện vào năm Minh Mệnh (1825) Tác phẩm này được in tại nhà in Hy Văn Đường, góp phần quan trọng trong việc lưu giữ và phát huy văn hóa Hán Nôm tại Việt Nam.

- Trần Văn Giáp[8, 46-47] Hoàng Việt thi tuyển đƣợc viết năm Mậu

Thân (tức năm Chiêu Thống thứ 2, Năm Quang Trung thứ 1 (1788), đƣợc khắc in năm Minh Mạng 6 (1825)

- Theo Lịch triều hiến chương loại chí – Văn tịch chí cũng là sách đƣợc hoàn thành năm Quang Trung thứ 1 (1788), khắc in năm Minh Mạng thứ 6

Nhà nghiên cứu Hán học Phạm Thị Hảo đã dịch lời tựa trong bản dịch của Trung tâm nghiên cứu quốc học từ tác phẩm "Hoàng triều Minh Mạng Vạn Niên năm thứ 6 (1826)" Lời tựa được viết vào ngày lành tháng 2 năm Ất Dậu bởi Đốc học Nguyễn Triệp, người trấn Nam Sơn.

Theo khảo sát (bài tựa, bài tiểu dẫn của tập thơ, và các sách ghi chép về

HVTT ) chúng tôi đi đến kết luận Hoàng Việt thi tuyển đƣợc hoàn thành vào năm 1788 đến năm 1825 đƣợc khắc in

1.3.2 Xuất xứ của Hoàng Việt thi tuyển:

6 Nguyên chú: Người Hà Dương, huyện Vĩnh Lại (nay là huyện Vĩnh Bảo, Hải Dương) Năm Quang Thuận thứ 4, đậu Tiến sĩ, làm quan đến chức Thị lang

Trong phần tiểu dẫn đầu sách Hoàng Việt thi tuyển, tác giả đã nêu rõ nguồn gốc và cách thức biên soạn tập thơ này, điều này khiến nhiều tài liệu giới thiệu về Hoàng Việt thi tuyển cũng như Lịch triều thi sao thường trích dẫn nguyên văn bài viết này.

- Tổng tập văn học Việt Nam trọn bộ 42 tập (T14) trích nguyên văn bài tiếu dẫn sách Lịch triều thi sao nhƣng không thấy nói đến Hoàng Việt Thi tuyển

- Trần Văn Giáp [8,45-46] - theo lời Nguyễn Tập thì Lịch triều thi sao là tiền thân của Hoàng Việt thi tuyển, không rõ dưới thời Tây Sơn, Bùi Huy

Bích đã in bộ Lịch triều thi sao và đến đầu thời Nguyễn, bộ thi tuyển này được sửa đổi và phát hành với tên mới là Hoàng Việt thi tuyển, nhằm đáp ứng nhu cầu cần thiết của thời kỳ đó.

Hiện nay, văn bản "Lịch triều thi sao" không còn tồn tại, do đó, việc xác nhận rằng "Lịch triều thi sao" là tiền thân của "Hoàng Việt thi tuyển" trở nên không thể khảo chứng.

Sau khi khảo sát, chúng tôi nhận thấy rằng bài tiểu dẫn của Hoàng Việt thi tuyển và Lịch triều thi sao thực chất là một Tuy nhiên, qua Hoàng Việt thi tuyển, độc giả vẫn có thể hiểu được nội dung của Lịch triều thi sao Điều này giải thích tại sao nhiều sách chỉ đề cập đến Lịch triều thi sao mà không nhắc đến Hoàng Việt thi tuyển, nhưng người đọc vẫn ngầm hiểu rằng chúng liên quan đến nhau, bởi hiện nay, tài liệu còn được lưu giữ chủ yếu là Hoàng Việt thi tuyển.

1.3.3 Cách ghi tên tác giả, tác phẩm qua các truyền bản Hoàng Việt thi tuyển

Qua khảo sát các công trình thƣ mục học từ điển, bài viết , chúng tôi thấy rằng:

- Trần Văn Giáp [8,46-47] Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích

- Từ điển văn học [42] (Trần Thị Băng Thanh) ghi Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích

- Trong các truyền bản chữ Hán, ghi Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am

- Trong truyền bản chữ Quốc ngữ Hoàng Việt thi tuyển ghi tác giả là Bùi Huy Bích

- Sau bài tiểu dẫn tất các truyền bản (chữ Hán và chữ Quốc ngữ) đều ghi là Bùi Bích, Tồn Am Bệnh Tẩu Bùi Bích

Trong các bản chữ Hán, tác phẩm được ghi nhận với tên gọi là "Hoàng Việt thi tuyển" Tuy nhiên, có một bản ký hiệu R968 tại Thư viện Quốc gia lại ghi là "Hoàng Việt văn tuyển", có thể do nhầm lẫn của thư viện, vì nội dung thực sự không phải là "Hoàng Việt văn tuyển".

- Trong các bài nghiên cứu của các học giả về Bùi Huy Bích và các tác phẩm của ông đều ghi là Hoàng Việt thi tuyển

- Qua những khảo sát trên cho thấy :

+ Văn bản Hoàng Việt thi tuyển chỉ có một cách ghi duy nhất + Tác giả Hoàng Việt thi tuyển là Bùi Huy Bích, tự là Ảm

Chương, hiệu là Tồn Am, Tồn Ông, Tồn Am bệnh tẩu

1.3.4 Cấu trúc của văn bản Hoàng Việt thi tuyển

Dựa trên thống kê và mô tả tổng quát về tình hình các truyền bản HVTT, cùng với việc phân tích dữ liệu và thông tin đồng nhất từ các truyền bản, chúng ta có thể hình dung cấu trúc đầy đủ của HVTT như sau:

- Tên tác phẩm: Hoàng Việt thi tuyển

- Tác giả biên định: Tồn Am Bùi Huy Bích

- Nhà in: Hy Văn Đường

- Mục lục: Chia thành 6 quyển

- Nội dung gồm 6 quyển từ quyển 1 đến quyển 6 đƣợc Bùi Huy Bích phân chia nhƣ sau:

Quyển I: gồm 70 bài thơ của các đời vua Lý, Trần, Lê Quyển II: gồm 102 bài thơ của các tác gia thời Lý, Trần, Hồ (phụ Hồ), hậu Trần

Quyển III: gồm 100 của các tác gia thời Lê sơ

Quyển IV: gồm 131 thơ các vương tử và các tác gia từ niên hiệu

Quang Thuận đến Hồng Đức

Quyển V: gồm 99 bài thơ các tác gia từ niên hiệu Cảnh Thống trở về sau Quyển VI: gồm 60 bài thơ các tác gia giữa đến cuối niên hiệu Cảnh Hƣng Bảng 1.1: Thống kê các thi gia và số bài thơ trong Hoàng Việt thi tuyển

Quyển Triều đại Số thi gia Số bài thơ

Q.1 Các vua Lý, Trấn, Lê 12 70

Q.2 Các thi gia triều Lý, Trần 35 102

Q.3 Các thi gia triều Lê 31 100

Q.4 Các thi gia triều Lê 35 132

Q.5 Các thi gia triều Lê 37 99

Q.6 Các thi gia triều Lê 17 59

TIỂU KẾT

Trong chương I, chúng tôi đã đã thực hiện những công việc sau:

Khảo sát giới thiệu các sách, tài liệu viết về thân thế và sự nghiệp của Bùi Huy Bích

Từ bối cảnh lịch sử và tình hình văn học giai đoạn thê kỷ XVIII – XIX, để thấy những ảnh hưởng tới Bùi Huy Bích

Bùi Huy Bích, một nhà Nho chân chính, đã đảm nhận nhiều chức vụ quan trọng nhưng vẫn trải qua một cuộc đời vất vả, thể hiện lòng trung thành tuyệt đối với Nho học và triều Lê Cuối đời, ông sống ẩn dật tại nhiều nơi, kiếm sống bằng nghề dạy học và theo đuổi niềm đam mê sáng tác văn chương.

Khẳng định đƣợc văn bản HVTT chỉ có một cách ghi duy nhất là

Hoàng Việt Thi tuyển và tác giả duy nhất là Bùi Huy Bích

Xác định đƣợc thời gian hoàn thành văn bản là 1788 và thời gian khắc in vào năm 1825

Giới thiệu đƣợc cấu trúc của HVTT một cách đầy đủ

Hoàng Việt thi tuyển gắn liền với Bùi Huy Bích, vì vậy, khi nhắc đến Bùi Huy Bích, người ta cũng nhớ đến HVTT như một nguồn tư liệu quý giá cho nền văn học Việt Nam.

NGHIÊN CỨU CÁC TRUYỀN BẢN HOÀNG VIỆT THI TUYỂN

TẬP HỢP MÔ TẢ CÁC TRUYỀN BẢN HOÀNG VIỆT THI TUYỂN

Các truyền bản của Hoàng Việt thi tuyển bao gồm văn bản chữ Hán và bản dịch sang chữ Quốc ngữ Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào các bản chữ Hán được lưu trữ trong và ngoài nước.

Hoàng Việt thi tuyển hiện được lưu trữ tại Paris gồm:

Hoàng Việt thi tuyển hiện còn được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Hán Nôm gồm 11 bản bằng chữ Hán, ký hiệu:

2) A 2857 8) VHv 704 (sách đang tu bổ)

4) VHv 1477 10) SA.PD 2322:286 tr.( bản film)

5) VHv 2150 11) Paris MG FC 30788-30789( bản film)

Hoàng Việt thi tuyển được lưu trữ tại Thư viện Quốc gia:

- R.292: In năm Minh Mệnh thứ 6 (1825), sách hiện đang đƣợc số hóa; R.1408/R.1409 sách hiện đang đƣợc số hóa chúng tôi không thể tiếp cận đƣợc

Hoàng Việt thi tuyển hiện được lưu trữ tại kho sách Viện nghiên cứu Sử học :

Hoàng Việt thi tuyển hiện được lưu trữ tại Viện nghiên cứu Văn học :

- HN 319 (1,2,3) là bản chép tay dùng để làm tài liệu nghiên cứu nội bộ viện

2.1.2 Mô tả các truyền bản của Hoàng Việt thi tuyển

Các bản HVTT chữ Hán hiện đang được bảo tồn tại nhiều thư viện như Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Nghiên cứu Sử học, Viện Nghiên cứu Văn Học và Thư viện Quốc gia.

Các truyền bản bằng chữ Hán thường có những đặc điểm chung như: được in trên giấy ró, mỗi bản gồm một tờ hai trang, với mỗi trang chứa 9 dòng chữ to và mỗi dòng có 23 chữ lớn Ngoài ra, chữ nhỏ được sử dụng để giải thích kèm theo tên tác giả và bài thơ, trong khi các dòng chữ to được chia thành hai dòng nhỏ in xen kẽ Dưới mỗi tên tác giả, tiểu sử của họ cũng được ghi rõ.

Sau đây chúng tôi xin miêu tả cụ thể những đặc điểm về hình thức và nội dung của từng truyền bản :

Bản Vhv.1451 gồm 6 quyển, kích thước 26x15 cm, tổng cộng 143 tờ, được in từ mộc bản trên giấy dó với bìa phết cật Trang đầu sách có tiêu đề "Hoàng Việt thi tuyển" in bằng bốn chữ to, bên phải là bốn chữ nhỏ hơn ghi "Tồn Am gia tàng", và bên trái là ba chữ nhỏ hơn "Hy Văn Đường" kèm theo hai dấu triện Tiếp theo là một tựa gồm 3 tờ, với chữ to trải dài trên một trang, có năm dòng chữ dọc và một dòng 9 chữ (không tính chữ viết đài lên).

Bài viết bao gồm 1 tiểu dẫn dài 1 trang với 9 dòng chữ dọc, mỗi dòng chứa 22 chữ Ngoài ra, có 1 mục lục gồm 4 tờ, trong đó tờ đầu tiên giới thiệu chung về nội dung các quyển, và 3 tờ tiếp theo liệt kê chi tiết tên tác giả, số bài thơ cũng như phần nội dung.

- Quyển thƣợng - 17 tờ (Q1 – mất tờ số 16): Q.1: 69 bài là các tác phẩm của các triều vua Lý, Trần, Lê

Quyển trung gồm 77 tờ, trong đó Q.2 có 23 tờ (mất tờ thứ 23), Q.3 có 24 tờ và Q.4 có 31 tờ Q.2 chứa 101 bài thơ của các tác gia thời Lý và Trần, Q.3 bao gồm 100 bài thơ từ các tác gia thời Lê sơ, còn Q.4 có 132 bài thơ của các vương tử triều Lê và các tác gia từ thời Quang Thuận đến thời Hồng Đức.

Quyển hạ gồm 42 tờ, trong đó Q.5 chứa 99 bài thơ của các tác giả triều Lê từ niên hiệu Cảnh Hưng trở về sau, và Q.6 có 59 bài thơ của các tác giả từ giữa đến cuối Cảnh Hưng Tổng cộng, quyển hạ bao gồm 560 bài thơ.

Bản A 608 gồm 6 quyển, kích thước 26x15 cm, với 144 tờ, bìa in mộc bản trên giấy dó Trang đầu sách có tiêu đề "Hoàng Việt thi tuyển" in bốn chữ to, bên phải là bốn chữ nhỏ hơn ghi "Tồn Am gia tàng", và bên trái có ba chữ "Hy Văn Đường" kèm hai dấu triện: "Hy văn đường" và "Các gia hội tuyển" Tiếp theo là 1 tựa (3 tờ) với chữ to, một trang có năm dòng chữ dọc, một dòng 9 chữ Sau đó là 1 tiểu dẫn (1 tờ) với một trang 9 dòng chữ dọc, mỗi dòng 22 chữ Cuối cùng là 1 mục lục (4 tờ), trong đó tờ đầu ghi giới thiệu chung về nội dung các quyển, và 3 tờ còn lại ghi chi tiết tên tác giả, số bài thơ và phần nội dung.

- Quyển thƣợng - 18 tờ (Q.1) gồm 70 bài là các tác phẩm của các triều vua Lý, Trần, Lê

- Quyển trung – 77 tờ (Q.2 - 23, Q.3 – 24, Q.4 – 31 tờ, mất tờ 19) Q.2:

Bài viết tổng hợp 102 bài thơ của các tác gia thời Lý và Trần, 100 bài thơ từ thời Lê sơ, cùng với 128 bài thơ của các vương tử triều Lê và các tác gia từ thời Quang Thuận đến thời Hồng Đức Những tác phẩm này phản ánh sự phát triển văn học và nghệ thuật trong từng giai đoạn lịch sử của Việt Nam.

Quyển hạ gồm 41 tờ, trong đó Quyển 5 có 25 tờ với 99 bài thơ của các tác giả triều Lê từ niên hiệu Cảnh Hưng trở về sau, và Quyển 6 có 17 tờ với 57 bài thơ của các tác giả từ giữa đến cuối niên hiệu Cảnh Hưng Tổng cộng, còn lại 557 bài thơ.

Bản A.2857 gồm 6 quyển, kích thước 27x15 cm, với tổng cộng 145 tờ Bìa sách in mộc bản trên chất giấy dó, trang đầu ghi rõ "Hoàng Việt thi tuyển" với bốn chữ lớn, bên phải là "Tồn Am gia tàng" và bên trái có ba chữ nhỏ "Hy Văn Đường", kèm theo hai dấu triện Tiếp theo là một tựa (mất tờ thứ 2), với chữ to trên một trang gồm năm dòng chữ dọc và một dòng 9 chữ Sau đó là một tiểu dẫn (1 tờ) với một trang có 9 dòng chữ dọc, mỗi dòng 22 chữ Cuối cùng, mục lục (4 tờ) bắt đầu với giới thiệu chung về nội dung các quyển, ba tờ còn lại liệt kê chi tiết tên tác giả, số bài thơ và phần nội dung.

- Quyển thƣợng – 18 tờ (Q.1): Có 70 bài là các tác phẩm của các triều vua Lý, Trần, Lê

Quyển trung gồm 78 tờ, chia thành ba phần: Q.2 có 23 tờ với 102 bài thơ của các tác gia thời Lý và Trần; Q.3 có 24 tờ với 100 bài thơ của các tác gia thời Lê sơ; và Q.4 có 31 tờ với 132 bài thơ của các vương tử triều Lê cùng các tác gia từ thời Quang Thuận đến thời Hồng Đức.

Quyển hạ gồm 42 tờ, trong đó Quyển 5 chứa 99 bài thơ của các tác giả triều Lê từ niên hiệu Cảnh Hưng trở về sau, và Quyển 6 có 56 bài thơ của các tác giả từ giữa đến cuối niên hiệu Cảnh Hưng Tổng cộng, còn lại 562 bài thơ.

Bản A3162/1,2 được in trên chất giấy dó với bìa phết cật, được đóng thành 2 tập: Tập 1 gồm quyển 1, 3, 2 và Tập 2 gồm 3 quyển 4, 5, 6, có kích thước 27x16 cm và không có tựa Bên cạnh đó, tài liệu còn bao gồm một tờ tiểu dẫn với 9 dòng chữ dọc, mỗi dòng có 22 chữ, cùng với một mục lục.

Bài viết này gồm 4 tờ, trong đó tờ đầu giới thiệu chung về nội dung các quyển sách, còn 3 tờ còn lại chi tiết thông tin về tên tác giả, số lượng bài thơ và nội dung cụ thể.

- Quyển thƣợng – 17 tờ (Q.1 mất tờ thứ 1): Q.1: 66 bài là các tác phẩm của các triều vua Lý, Trần, Lê

- Quyển trung – 78 tờ (Q2: 23, Q.3: 24, Q.4: 31 ): Q.2: 102 bài – thơ của các tác gia thời Lý, Trần Q3: 100 bài thơ của các tác gia thời Lê sơ Q.4:

132 thơ của các vương tử triều Lê và các tác gia từ thời Quang Thuận đến thời Hồng Đức

PHÂN LOẠI CÁC TRUYỀN BẢN CHỮ HÁN CỦA HOÀNG VIỆT THI TUYỂN 52 2.3 TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ THỂ LOẠI THƠ

 Phân loại các truyền bản

Việc giới thiệu các bản sao của HVTT đã phản ánh tình hình hiện tại của các truyền bản HVTT Để đi sâu vào một số khía cạnh và xác lập diện mạo vốn có của HVTT, phân loại là yếu tố rất quan trọng.

Chúng tôi đã phân loại 14 truyền bản chữ Hán thành 3 nhóm dựa trên tiêu chí số lượng tác phẩm Nhóm I bao gồm các truyền bản đủ 562 tác phẩm, trong khi nhóm II chứa các truyền bản thiếu tác phẩm Cuối cùng, nhóm III là các bản chép tay.

Nhóm I gồm 2 truyền bản là những văn bản có ký hiệu: VHv.1477, R.1410 Nhóm II gồm 9 truyền bản là những văn bản có ký hiệu: VHv.1451; A.608,

Nhóm III gồm 3 truyền bản chép tay là những văn bản có ký hiệu:

2.2.1.1 Mô tả truyền bản nhóm I (bản in) :

- Bản VHv.1477: Bản này chỉ thiếu hai trang của phần tựa, nội dung không bị mất

- Bản R.1410: Bản này trang 128 bị mờ nhiều chữ

Bảng 2.2: Thống kê truyền bản nhóm I

STT Ký hiệu Số bài thơ

Số tác giả Ghi chú

2 R.1410 (K) 562 167 Mất toàn bộ phần tựa

Hai bản này mặc dù thiếu phần tựa, nhưng số lượng bài thơ, tác giả và nội dung tác phẩm rất đầy đủ Do đó, chúng tôi phân loại vào truyền bản nhóm I (nhóm đầy đủ).

2.2.1.2 Mô tả truyền bản nhóm II (Bản in):

Các truyền bản nhóm II gồm 9 bản sau:

- Bản VHv.1451 : Bản này bị thiếu 2 tờ mất bài Cảm hoài của Đặng Dung

- Bản A 608: Bản này thiếu 4 trang mất các bài:

+ Đạt nhân + Đề Toán Viên phường sở cư bích thượng + Toán viên tự thuật

+ Phượng Hoàng sơn (phần đầu của bài) Những bài này là của Thái Thuậnở quyển trung (quyển 4 );

Và thiếu nửa đầu của bài:

+ Vĩnh Châu sơ thu nhàn vọng - tập cổ (bát thủ) của

Lê Quý Đôn ( quyển hạ - quyển 6), Tổng cộng số bài còn lại 556 bài

- Bản A.2857: Bản này thiếu 4 trang ( hai trang phần tựa và hai trang của quyển 6 (quyển hạ) có các bài:

+ Giản Tồn Am của Lê Trọng Khuê + Thương Ngô tức sự của Hồ Sĩ Đống

+ Đăng Nhạc Dương lâu của Hồ Sĩ Đống

Và tiêu đề của bài Du Hoàng Hạc lâu của Hồ Sĩ Đống Tổng cộng còn lại 559 bài

- Bản A3162/1,2: Bản này thiếu 2 trang của quyển thứ 1 (quyển thƣợng), thiếu các bài sau:

+ Tán Tỳ Ni Đa Lưu Chi thiền sư của Lý Thái Tông + Tăng Vạn Hạnh của Lý Nhân Tông

+ Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn của Trần Thái Tông + Hạnh Yên Bang phủ của Trần Thánh Tông

Và tiêu đề bài Hạ Cảnh của Trần Thánh Tông Tổng cộng còn 558 bài

Bản Vhv.49/1,2 có tập 1 đầy đủ nhưng tập 2 thiếu nhiều nội dung và các trang bị lẫn lộn Cụ thể, trang 8 trùng với trang 6, trang 10 không bị nhầm, trang 12 thực chất là trang 10, trang 14 là trang 12, và trang 48 lại là trang 50 Ngoài ra, bản này còn thiếu 3 bài.

+ Quách cự mai nhi của Đặng Minh Bích

+ Thành Đông Cư của Đặng Minh Bích + Đáo gia của Đặng Minh Bích

+ Phụng hoạ ngự chế Anh tài tử của Đỗ Nhuận + Phụng họa ngự chế Quân đạo

- Bản Vhv.1780: Bản này có trang 31, 32 không giống các bản khác, đóng nhầm một tờ của “Hoàng Việt văn tuyển”, bị mất các bài:

+ Nửa sau của bài Vọng viễn sơn dạ yến của Lê Thánh

+ Mi Ô của Lê Thánh Tông + Trần đào tà của Lê Thánh Tông

+ Đề Đại học sĩ Thân Nhân Trung sở soạn Thiên Nam Dư hạ Tập của Lê Thánh Tông

+ Xuân nhật bệnh khởi của Lê Thánh Tông

Và nửa đầu bài Đề đại học sĩ Vũ Vĩnh Trinh hoạ tượng của Lê Thánh Tông, Tổng cộng có 556 bài

- Bản VHv.2150: Bản này bị mất toàn bộ phần của quyển hạ còn quyển thƣợng và quyển trung

- Bản Hv.20: Bản này bị mất 4 bài thơ:

+ Tụng hạnh tây kinh phụng họa ngự chế Thiên Vực Giang Hiểu Phát của Kiến Vương của Lương Vương Thuyên

+ Tụng hạnh tây kinh phụng họa ngự chế Thiên Vực Giang Hiểu Phát của Lương Vương Thuyên

+ Xuân tảo của Phúc Vương Tranh của Lương Vương Thuyên + Phụng họa ngự chế Thiên Vực Giang Hiểu Phát của Lương

- Bản R 968 (1,2,3)/ R969(4,5,6): Quyển 2 mất 2 trang 80, 81 mất 4 bài thơ trong đó có một bài nhị thủ:

Thư hoài (nhị thủ) của Lê Quát thể hiện tâm tư sâu sắc, trong khi Quá Tiêu Tương và Đông Sơn tự hổ thượng lâu của Phạm Sư Mạnh lại mang đến những giá trị nghệ thuật độc đáo Đề Cam Lộ tự cũng của Phạm Sư Mạnh khắc họa vẻ đẹp văn hóa và lịch sử, góp phần làm phong phú thêm bức tranh văn học Việt Nam.

Ký hiệu R969(4,5,6) – tuy số trang đầy đủ nhƣng do đóng sai quy cách và thứ tự trang nên rất khó theo dõi

Sau đây chúng tôi tổng hợp các truyền bản nhóm II vào bảng để dễ theo dõi và so sánh

Bảng 2.3: Tổng hợp truyền bản nhóm II

STT Ký hiệu Số bài thơ

Số tác giả Ghi chú

1 VHv.1451 (A) 561 166 thiếu của tác giả Đặng Dung

2 A.608 (B) 556 167 thiếu 4 bài của Thái Thuận và 2 bài của Lê Quý Đôn

4 VHv 49/1-2(E) 557 166 mất 1 bài của Thân Nhân Trung,

1 bài của Đỗ Nhuận, 3 bài của Đặng Minh Bích

5 VHv.1780 (F) 556 167 Mất 6 bài của Lê Thánh Tông

Mất 3 bài của Lý Thái Tông, Lý Nhân Tông, Trần Thái Tông, và 1 bài của Trần Thánh Tông

7 A.2857(H) 559 166 mất 1 bài của Lê Trọng Khuê, 2 bài của Hồ Sĩ Đống

8 R.968/R969(I) 557 166 Mất 1 bài nhị thủ của Lê Quát và

3 bài của Phạm Sƣ Mạnh

Mất 1 bài của Kiến Vương, 2 bài của Phúc Vương Tranh, 1 bài của Lương Vương Thuyên

Nhận xét về nhóm truyền bản cho thấy rằng một số trang bị mất do bảo quản kém, dẫn đến tình trạng rách hoặc xé Điều này thật đáng tiếc vì các bản in này rất rõ ràng và sắc nét, dễ đọc Việc mất một số trang đã làm gián đoạn khả năng theo dõi toàn bộ nội dung của HVTT.

2.2.1.3 Mô tả truyền bản nhóm III (chép tay):

Các truyền bản nhóm III gồm 3 bản sau:

- Bản HN.319 (N): Bản này tuy chép đầy đủ nhƣng là bản chép tay văn bản

- Bản R.1930: Chỉ chép lại những tờ đầu của quyển thƣợng (quyển 1), chép lại có nhiều lỗi, dùng những chữ giản thể, có khi là thừa chữ, thiếu chữ,

Ví dụ: 1) Thiếu chữ 梅 trong bài Vãn Pháp Loa Tôn giả đề Thanh Mai tự ( 挽 法螺尊者題青梅寺);

2) Thừa chữ “lạc” (落) trong câu đầu “Tam canh phong lộ hải thiên liêu”(三更風落露海廖) bài “Tam canh nguyệt”(三更月);

3) Thiếu chữ “Thái”(太)trong phần giới thiệu của “Lê Thánh Tông”

(黎太宗)bản in tuy mờ nhƣng cũng có thể thấy chính là chữ Thái

Bản chép tay này có hình thức đẹp nhưng vẫn tồn tại nhiều lỗi không thể tránh khỏi trong quá trình chép Hơn nữa, do chỉ chép 10 tờ đầu, giá trị văn bản của nó khá hạn chế.

Bản HV 560 được chép trên giấy dó với nội dung không đầy đủ và không tuân theo quy cách chép thơ, thể hiện sự không đồng nhất trong kích thước chữ viết Việc chép tên bài thơ cũng không nhất quán, có khi có, có khi không Thứ tự các bài thơ trong bản này không giống bất kỳ bản in chữ Hán nào, và chữ viết lên xuống không ổn định Ngoài ra, bản này còn có một phần tiểu truyện về tác giả, nhưng lại gây khó khăn cho người đọc trong việc phân định tác phẩm của từng tác giả.

Bảng 2.4: Thống kê truyền bản nhóm III STT Ký hiệu Số bài thơ Số tác giả Ghi chú

2 R.1903 (M) 43 11 chỉ chép 10 tờ đầu của quyển Thƣợng

3 HV.560 (O) 337 119 chép không đầy đủ phần tiểu truyện của tác giả

Nhóm truyền bản chép tay này không tránh khỏi những sai sót và lỗi như đã đề cập, nhưng vẫn mang lại giá trị tham khảo nhất định.

2.3 TỔNG HỢP TÌNH HÌNH TÁC GIẢ, TÁC PHẨM VÀ THỂ LOẠI THƠ TRONG HOÀNG VIỆT THI TUYỂN Để nắm rõ hơn thông tin các truyền bản HVTT chúng tôi lập bảng thống kê đối chiếu sau đây:

Ký hiệu viết tắt các truyền bản:

A: VHv.1451 B: A.608 C: VHv.2150 D: VHv.1477 E: VHv 49/1-2 F: VHv.1780 G: A.3162/1-2 H: A.2857 I: R.968/R969 K: R.1410 L: Hv.20 M: R.1903(Bản chép tay thƣ viện Quốc gia) N: HN.319 (Bản chép tay viện Văn học) O: HV.560 (Bản chép tay viện Sử học) Dấu (+) thể hiện : có

Ký hiệu viết tắt thể loại thơ:

Cách gọi các thể thơ chúng tôi ghi theo cách phân loại của Bùi Huy Bích trong HVTT

Ngũ ngôn: NN ( có 5 câu, mỗi câu 5 chữ)

Ngũ tuyệt: NT ( có 4 câu, mỗi câu 5 chữ)

Thất tuyệt: TT ( có 4 câu, mỗi câu 7 chữ )

Thất ngôn: TN ( có 8 câu, mỗi câu 7 chữ)

Trường thiên: TrT (bài dài)

Lục ngôn: LN ( có 4 câu, mỗi câu 6 chữ)

Trường thiên đoản cú: TrĐC (bài dài)

(Chúng tôi xin trích giới thiệu, toàn bộ bảng tổng hợp xin xem trong phụ lục 1).

Bảng 2.5: Bảng tổng hợp các tác giả, tác phẩm trong Hoàng Việt thi tuyển

Tên tác giả/ Tên bài thơ

I CÁC VUA LÍ-TRẦN-HỒ

Tán Tỳ Ni Đa Lưu Chi thiền sư

赞毗尼多流支禅师 NN + + + + + + 0 + + + + + + 0

3 Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn

寄清風庵僧德山 TT + + + + + + 0 + + + + + + 0

Tên tác giả/ Tên bài thơ

6 Vãn Thiếu sƣ Trần Trọng Trƣng

挽少師陳仲徵 TN + + + + + + + + + + + + + 0

7 Xuân nhật yết Chiêu Lăng

春日谒昭 NT + + + + + + + + + + + + + 0

Tên tác giả/ Tên bài thơ

登寳台山 NN + + + + + + + + + + + + + + bản O chỉ chép “bảo đài sơn”

13 Đáp bắc sứ Kiều Nguyên Lãng

答北使喬元朗 TN + + + + + + + + + + + + + +

14 Hạnh Thiên Trường hành cung

幸天長行宫 TN + + + + + + + + + + + + + +

Bài thơ này được cho là của Trần Nhân Tông theo HVTT và Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, nhưng cũng có tài liệu khác cho rằng tác giả là Trần Thánh Tông Vẫn chưa xác định rõ tác giả thực sự của bài thơ này.

Vãn Pháp Loa Tôn giả, đề Thanh Mai tự

Tên tác giả/ Tên bài thơ

Chinh Chiêm thành hoàn, chu bạc Phúc

征占成還舟泊福城港

Bảng số 2.5 trình bày chi tiết từng bài thơ trong các tác phẩm, cho thấy rằng các bản in của HVTT khá đầy đủ và dễ đọc Chữ in rõ ràng, phương pháp in thống nhất, và phần giới thiệu tác giả được cung cấp đầy đủ.

- Trang thứ nhất chỉ có bản (G) và bản (O) là bị mất một số bài thơ còn lại thì đầy đủ

- Trang thứ hai chỉ có bản (O) là thiếu, các bản còn lại đủ

- Trang thứ ba chỉ có bản (O) thiếu 1 bài thơ của Lê Thánh Tông

- Trang thứ tƣ có ba bản thiếu(F)(M)(O) ,

Xem tất cả các bản đã tổng kết ở trên thì các bản chép tay (O) thiếu nhiều nhất

Bảng thống kê cho thấy sự thiếu hụt về số lượng tác giả và tác phẩm trong Hệ thống Văn học Thế giới (HVTT) Qua đó, chúng ta có thể nhận diện các thể loại thơ được tập hợp trong các tác phẩm Dựa trên bảng này, chúng tôi đã lập biểu đồ so sánh số lượng các thể loại thơ trong HVTT.

Sau đây là biểu đồ tỷ lệ số lƣợng thể thơ:

Bảng 2.6: Biểu đồ thể loại thơ trong Hoàng Việt thi tuyển

Biểu đồ cho thấy Bùi Huy Bích chủ yếu chọn thể thơ thất ngôn, tiếp theo là thất tuyệt, trong khi năm thể thơ còn lại chỉ chiếm một tỷ lệ nhỏ.

TIỂU KẾT

Chương II là chương trọng tâm của Luận văn trong chương này chúng tôi đã thực hiện đƣợc những việc nhƣ sau:

Tập hợp đƣợc 16 truyền bản, trong đó 14 truyền bản bằng chữ Hán, 2 truyền bản chữ quốc ngữ

Mô tả tình hình các truyền bản HVTT, sự đủ thiếu, khổ sách, số trang , sau đó có đánh giá sơ bộ theo tiêu chí thƣ mục học

Chia HVTT thành 3 nhóm để tiến hành khảo sát

Lập bảng so sánh, đối chiếu để rút ra tình hình chung của các truyền bản HVTT

Trong bài viết này, chúng tôi đã lập biểu đồ đánh giá tỷ lệ thể loại thơ trong HVTT Qua quá trình sưu tầm và phân tích, chúng tôi rút ra kết luận rằng truyền bản đầy đủ nhất trong số các truyền bản đã thu thập được là bản VHv.1477.

HOÀNG VIỆT THI TUYỂN TRONG HỆ THỐNG THI TUYỂN VIỆT

Ngày đăng: 02/07/2022, 09:32

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
[1] Dƣ Quán Anh (1997), Lịch sử văn học Trung Hoa, tập 1 (Lê Huy Tiêu, …dịch), Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử văn học Trung Hoa
Tác giả: Dƣ Quán Anh
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1997
[2] Bùi Huy Bích (1958), Hoàng Việt thi văn tuyển, tập 3, Nxb Văn hóa, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng Việt thi văn tuyển
Tác giả: Bùi Huy Bích
Nhà XB: Nxb Văn hóa
Năm: 1958
[3] Bùi Huy Bích (1972), Hoàng Việt văn tuyển, tập 1, Phủ quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài Gòn Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hoàng Việt văn tuyển
Tác giả: Bùi Huy Bích
Năm: 1972
[4] Phan Văn Các (1983), Chữ Hán và các văn bản Hán Nôm – Một số vấn đề văn bản Hán Nôm, Nxb KHXH, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chữ Hán và các văn bản Hán Nôm – Một số vấn đề văn bản Hán Nôm
Tác giả: Phan Văn Các
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 1983
[5] Nguyễn Huệ Chi (1977), Thơ văn Lý - Trần, Nxb KHXN, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thơ văn Lý - Trần
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Nhà XB: Nxb KHXN
Năm: 1977
[6] Nguyễn Huệ Chi (1972), Tìm hiểu Trích diễm thi tập, bộ sách kết thúc cho một giai đoạn nghiên cứ sưu tập thơ văn Lý – Trần, Tạp chí Văn học số 4, trang 122 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu Trích diễm thi tập, bộ sách kết thúc cho một giai đoạn nghiên cứ sưu tập thơ văn Lý – Trần
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi
Năm: 1972
[7] Trọng Đức, Tiết tháo người xưa, Tạp chí Văn hóa số 48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tiết tháo người xưa
[8] Trần Văn Giáp, Tìm hiểu kho sách Hán Nôm, Ủy ban khoa học xã hội Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu kho sách Hán Nôm
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
[9] Dương Quảng Hàm (1950), Việt Nam văn học sử yếu, Bộ giáo dục Quốc gia xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Việt Nam văn học sử yếu
Tác giả: Dương Quảng Hàm
Năm: 1950
[10] Nguyễn Quang Hồng (1993), Văn khắc Hán–Nôm Việt Nam, Nxb KHXH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn khắc Hán–Nôm Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Quang Hồng
Nhà XB: Nxb KHXH
Năm: 1993
[13] Dịch giả Nguyễn Thƣợng Khôi, Lịch đại danh hiền phổ, , Bộ Quốc gia giáo dục xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch đại danh hiền phổ
[14] Trúc Khê (1998), Bùi Huy Bích - Danh nhân truyện ký, Nxb. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bùi Huy Bích - Danh nhân truyện ký
Tác giả: Trúc Khê
Nhà XB: Nxb. Hà Nội
Năm: 1998
[15] Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân (1978), Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII (thế kỷ XVI – XVII), tập2, Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam thế kỷ X nửa đầu thế kỷ XVIII (thế kỷ XVI – XVII)
Tác giả: Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân
Nhà XB: Nxb Đại học & Trung học chuyên nghiệp
Năm: 1978
[16] Chử Bân Kiệt, Khái luận về thể loại văn học cổ đại Trung Hoa (Trần Kim Anh dịch), Tƣ liệu đánh máy khoa Ngữ văn Đại học Sƣ phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Khái luận về thể loại văn học cổ đại Trung Hoa
[17] Phạm Văn Khoái (1999), Giáo trình Hán văn Lý – Trần, Nxb Đại học Quốc Gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình Hán văn Lý – Trần
Tác giả: Phạm Văn Khoái
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc Gia
Năm: 1999
[18] Hoàng Phương Mai, Bước đầu nghiên cứu tác phẩm Lữ Trung tạp thuyết của Bùi Huy Bích, Luận văn Thạc sĩ khoa học – ĐH KHXH&HV (2007) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bước đầu nghiên cứu tác phẩm Lữ Trung tạp thuyết của Bùi Huy Bích
[19] Trịnh Khắc Mạnh, Suy nghĩ về vấn đề công bố văn bản Hán Nôm, Tạp chí Hán Nôm số 2/2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Suy nghĩ về vấn đề công bố văn bản Hán Nôm
[20] Nguyễn Thị Măng, Bài văn bia chỉ thờ hương hiền xã Văn Điển của Bùi Huy Bích, Tạp chí Hán Nôm 6/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài văn bia chỉ thờ hương hiền xã Văn Điển của Bùi Huy Bích
[21] Hà Văn Minh, Nghiên cứu văn bản Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, Luận án Tiến sĩ – Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2007) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu văn bản Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn
[22] Nguyễn Đăng Na (2005), Giáo trình văn học Việt Nam trung đại, Nxb Đại học sƣ phạm Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình văn học Việt Nam trung đại
Tác giả: Nguyễn Đăng Na
Nhà XB: Nxb Đại học sƣ phạm Hà Nội
Năm: 2005

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Chúng tôi tổng hợp thông tin mô tả của tất cả các truyền bảng vào bảng sau: - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
h úng tôi tổng hợp thông tin mô tả của tất cả các truyền bảng vào bảng sau: (Trang 52)
Bảng 2.2: Thống kê truyền bản nhó mI - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 2.2 Thống kê truyền bản nhó mI (Trang 54)
Bảng 2.3: Tổng hợp truyền bản nhóm II - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 2.3 Tổng hợp truyền bản nhóm II (Trang 57)
Bảng 2.5: Bảng tổng hợp các tác giả, tác phẩm trong Hoàng Việt thi tuyển - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 2.5 Bảng tổng hợp các tác giả, tác phẩm trong Hoàng Việt thi tuyển (Trang 61)
Bảng 2.6: Biểu đồ thể loại thơ trong Hoàng Việt thi tuyển - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 2.6 Biểu đồ thể loại thơ trong Hoàng Việt thi tuyển (Trang 66)
Bảng 2.7: Thống kê sự khác nhau giữa mục lục và nội dung của sách - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 2.7 Thống kê sự khác nhau giữa mục lục và nội dung của sách (Trang 67)
Bảng 3.1: Tổng hợp số lƣợng tác giả - bài thơ trong các Thi tuyển chữ Hán tiêu biểu của Việt Nam thời Trung đại - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 3.1 Tổng hợp số lƣợng tác giả - bài thơ trong các Thi tuyển chữ Hán tiêu biểu của Việt Nam thời Trung đại (Trang 76)
Bảng 3.2: Đối chiếu số bài thơ trong HVTT với TVTL - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Nghiên cứu văn bản học Hoàng Việt thi tuyển của Tồn Am Bùi Huy Bích
Bảng 3.2 Đối chiếu số bài thơ trong HVTT với TVTL (Trang 78)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w