ĐẶC ĐIỂM, TÌNH HÌNH NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN BẮC
Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội tỉnh Bắc Giang
Bắc Giang là một vùng đất có bề dày lịch sử, gắn liền với quá trình dựng nước và giữ nước của dân tộc Từ khi Thục Phán thành lập nước Âu Lạc, Bắc Giang đã xuất hiện trên bản đồ Việt Nam và trải qua nhiều biến động lịch sử với nhiều tên gọi và địa giới hành chính khác nhau Tỉnh đã từng sáp nhập và chia tách với Bắc Ninh, cụ thể là vào năm 1962 khi hai tỉnh này được hợp nhất thành tỉnh Hà Bắc Đến năm 1996, tỉnh Hà Bắc được chia tách trở lại thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh, đánh dấu sự tái lập tỉnh Bắc Giang vào ngày 01/01/1997, mở ra một giai đoạn phát triển mới cho vùng đất này.
Bắc Giang là một tỉnh miền núi rộng 3.822 km2, với dân số 1.563,9 nghìn người (năm 2005), đứng thứ 33 về diện tích và thứ 15 về dân số trong 63 tỉnh, thành phố cả nước Tỉnh này bao gồm 9 huyện và 1 thành phố, nằm giáp ranh với các tỉnh Lạng Sơn ở phía Bắc và Đông Bắc, Thái Nguyên ở phía Tây và Tây Bắc, cùng Hải Dương, Bắc Ninh và thành phố ở phía Nam và Tây Nam.
Hà Nội; phía Đông giáp Quảng Ninh
Bắc Giang là một tỉnh có vị trí địa lý thuận lợi với nhiều trục giao thông quan trọng như quốc lộ 1A và tuyến đường sắt Hà Nội - Lạng Sơn Tỉnh này nằm gần các trung tâm công nghiệp và đô thị lớn trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, cách thủ đô Hà Nội khoảng 50km và cách cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng, Tân Thanh khoảng 90 – 100km.
Vị trí địa lý thuận lợi của Bắc Giang đã tạo điều kiện cho tỉnh này phát triển kinh tế liên vùng và giao lưu kinh tế - xã hội với các tỉnh đồng bằng sông Hồng, Đông Bắc Việt Nam và các tỉnh Trung Quốc Nhờ đó, Bắc Giang có thể phát huy tiềm năng về đất, rừng và nguồn lực con người, trở thành đầu mối kinh tế quan trọng nối khu kinh tế cửa khẩu quốc tế Đồng Đăng, Lạng Sơn với các tỉnh đồng bằng sông Hồng và Đông Bắc Địa hình độc đáo của Bắc Giang, với các cánh cung Ngân Sơn, Yên Lạc, Bắc Sơn, Đông Triều, cũng góp phần vào sự phát triển kinh tế của tỉnh.
Khu vực "dải đất chuyển tiếp bắc Châu thổ" ở Bắc Giang có địa hình đa dạng, với độ cao từ 100 – 200m, thấp dần về phía nam thành miền núi thấp trung du Vùng trung du chủ yếu là đồi thấp và đồng bằng có độ cao dưới 100m, bao gồm thành phố Bắc Giang và các huyện Hiệp Hoà, Việt Yên, Tân Yên Địa hình này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển cây ăn quả và cây lâu năm, đặc biệt là ở các vùng đồng bằng phù sa cổ ven sông Cầu, sông Thương Sự đa dạng địa hình đã giúp Bắc Giang phát triển nông lâm nghiệp theo hướng đa dạng hóa, cung cấp nhiều loại cây trồng và vật nuôi có giá trị hàng hóa phong phú, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Khí hậu Bắc Giang có đặc trưng chuyển tiếp giữa nhiệt đới nóng ẩm và á nhiệt đới, với nhiệt độ bình quân hàng năm khoảng 23°C và lượng mưa trung bình từ 1.500 đến 1.700mm, tạo điều kiện thuận lợi cho việc trồng trọt nhiều vụ trong năm Vị trí nằm sâu trong đất liền giúp Bắc Giang giảm thiểu tác động của bão và áp thấp nhiệt đới từ biển Đông, nhờ vào sự che chắn của núi rừng Điều này, kết hợp với địa hình, đã tạo ra nhiều thuận lợi cho nền kinh tế nông nghiệp đa dạng về cây trồng và vật nuôi tại Bắc Giang.
Bắc Giang sở hữu nguồn tài nguyên đất đai phong phú với hai nhóm chính: đất phát sinh tại chỗ từ quá trình phong hoá và đất bồi tích từ phù sa Đất feralit màu vàng, đỏ vàng, chủ yếu ở các huyện Sơn Động, Lục Nam, Lục Ngạn, Yên Thế, rất thích hợp cho cây công nghiệp như chè và cây ăn quả như vải thiều, nhãn, na, cam Đất phù sa cổ tại Sơn Động, Yên Thế phù hợp cho canh tác lương thực Tỉnh Bắc Giang còn khoảng 80 – 90 nghìn ha đất chưa sử dụng, trong đó có khoảng 4,2 nghìn ha đất nông nghiệp và 70,5 nghìn ha đất lâm nghiệp, cùng với diện tích dành cho các mục đích khác như công nghiệp, du lịch và xây dựng đô thị.
Bắc Giang là vùng đất đa dạng về văn hóa xã hội, nơi cư trú của cư dân từ gần 20 tỉnh thành trong cả nước, với sự hiện diện của nhiều dân tộc anh em Dân tộc Kinh chiếm tỷ lệ lớn, khoảng 87,9%, trong khi các dân tộc thiểu số như Nùng, Tày, Sán chỉ, Cao Lan, Dao, Hoa cũng góp mặt Người Kinh chủ yếu sinh sống tại các huyện trung du, trong khi các dân tộc thiểu số tập trung ở các huyện miền núi, đặc biệt là người Sán Dìu.
Lục Nam và Lục Ngạn là hai huyện nổi bật tại tỉnh Bắc Giang, nơi sinh sống của nhiều dân tộc như người Cao Lan, Sán Chí, và người Dao Tại các huyện miền núi như Sơn Động và Yên Thế, cộng đồng dân cư thường có sự xen canh, xen cư, tạo nên sự đa dạng văn hóa và hòa hợp giữa các nhóm dân tộc.
Người Bắc Giang có cuộc sống tinh thần phong phú với nhiều loại hình nghệ thuật dân gian như hát quan họ cổ, hát ví, hát chèo và các bài dân ca đặc trưng của các dân tộc thiểu số như soong hao, sli, lượn, soong cô Vào các dịp lễ hội như hội đền Hả, hội chùa Bổ Đà, hội nghè Nếnh và hội Đa Mai, người dân tổ chức các hoạt động cầu mưa, cầu mùa màng và cầu an bình Các lễ hội này không chỉ có phần lễ cúng tế thần linh mà còn bao gồm các hoạt động vui chơi như rước kiệu, bơi chải và chạy chữ, tạo nên sự gắn kết giữa cá nhân và cộng đồng, hòa quyện giữa thế tục và thiêng liêng, góp phần củng cố tình làng nghĩa xóm.
Làng quê Bắc Giang nổi bật với tục kết chạ, một hình thức liên kết đặc biệt giữa các làng, tạo cơ hội cho cộng đồng chia sẻ niềm vui và hỗ trợ lẫn nhau trong khó khăn Các đình, đền, chùa trong làng không chỉ là nơi sinh hoạt cộng đồng mà còn là trung tâm để bàn luận về các vấn đề xã hội và tổ chức lễ hội Mặc dù có nhiều công trình tôn giáo, nhưng con người Bắc Giang thể hiện tính nhân văn sâu sắc qua các câu ví, điệu chèo và hình tượng điêu khắc, không mang tính thần bí.
Tốc độ tăng dân số của Bắc Giang trong những thập kỷ qua đạt mức cao, dao động từ 2% đến 3% Tuy nhiên, nhờ vào những nỗ lực trong công tác dân số và kế hoạch hóa gia đình vào thập kỷ 90, tỷ lệ phát triển dân số đã giảm xuống còn 1,60% vào năm 1997 Hiện tại, dân số nông thôn chiếm hơn 80% trong cơ cấu dân số của tỉnh, và trong thập kỷ 90, cơ cấu dân số đã có những chuyển biến tích cực, phản ánh sự chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Bắc Giang sở hữu một cấu trúc dân cư đa dạng với nhiều thành phần dân tộc, tạo nên truyền thống văn hóa phong phú và đa dạng Điều này đặc biệt thể hiện rõ trong phong tục canh tác, khiến nông nghiệp Bắc Giang trở nên sinh động và đa sắc màu hơn.
Bắc Giang sở hữu nhiều điều kiện tự nhiên và xã hội thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp đa dạng và phong phú Nông nghiệp của tỉnh đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế cả nước và đặc biệt là kinh tế địa phương Kể từ khi tái lập tỉnh, Bắc Giang đã có những chuyển biến tích cực, đánh dấu một giai đoạn phát triển mới cho vùng đất này.
Chủ trương xây dựng nông nghiệp, nông thôn của Đảng bộ Bắc Giang và những thành tựu nông nghiệp trước năm 1997
Bắc Giang và những thành tựu nông nghiệp trước năm 1997
Sau thắng lợi mùa xuân năm 1975, miền Nam hoàn toàn được giải phóng, đất nước độc lập thống nhất và tiến lên chủ nghĩa xã hội Nghị quyết 24 của Ban chấp hành trung ương Đảng (khóa III) xác định nhiệm vụ cách mạng Việt Nam là chuyển từ tình trạng chia cắt sang độc lập thống nhất, từ hai nhiệm vụ chiến lược sang một nhiệm vụ duy nhất là xây dựng chủ nghĩa xã hội Đảng bộ tỉnh Hà Bắc đã tổ chức liên tiếp các đại hội, bắt đầu với Đại hội đại biểu lần thứ III vào tháng 6/1976.
Vào tháng 11 năm 1979, các mục tiêu và phương hướng cho nền kinh tế toàn tỉnh đã được đề ra, nhằm hỗ trợ quân dân cả nước thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ hai và chiến đấu bảo vệ Tổ quốc.
Trong giai đoạn thực hiện kế hoạch 5 năm lần thứ 2 (1976 - 1980), các cấp ủy Đảng và chính quyền đã nỗ lực xây dựng và củng cố quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa Đến năm 1978, gần 50% hợp tác xã nông nghiệp trong tỉnh đã đạt quy mô toàn xã, nhiều hợp tác xã đã trang bị máy móc hiện đại và áp dụng quản lý sản xuất hiệu quả Các hợp tác xã nông nghiệp cũng đã thiết lập quỹ dự trữ để hỗ trợ xã viên trong thời gian thiên tai và giáp hạt Một số hợp tác xã tiêu biểu như Tân Mộc (Lục Ngạn), Cảnh Thuỵ (Yên Dũng) và Ngọc Thiện (Tân Yên) đã nổi bật trong phong trào làm ăn tập thể.
Trong 5 năm 1976 - 1980 tỉnh Bắc Giang thực hiện 7 chiến dịch làm thuỷ lợi, cải tạo đất đạt hiệu quả tốt Nhiều công trình thuỷ lợi lớn như Cầu Sơn, Quang Hiển, Bảo Sơn, Đồng Thuỷ đã được xây dựng Các hợp tác xã nông nghiệp được củng cố và áp dụng các tiến bộ kỹ thuật vào sản xuất Do đó, mặc dù còn gặp nhiều khó khăn song sản xuất nông nghiệp tỉnh Bắc Giang vẫn đạt được những thành tựu đáng kể
Mô hình tổ chức và quản lý kinh tế nông nghiệp cùng với cơ chế tập trung quan liêu đã triệt tiêu tính tích cực của người lao động và các hợp tác xã, dẫn đến mất động lực phát triển Những năm cuối thập niên 70 và đầu thập niên 80, nền kinh tế miền Bắc và cả nước bắt đầu bộc lộ dấu hiệu khủng hoảng, đặc biệt trong lĩnh vực nông nghiệp Do đó, cần có sự thay đổi trong cơ chế quản lý, dẫn đến những đổi mới cục bộ trong kế hoạch 5 năm tiếp theo, như chỉ thị 100CT/TW (1979) và Nghị quyết số 10 (1988) Hai hình thức khoán mới đã tạo ra bước phát triển trong sản xuất nông nghiệp, giúp nông dân tự chủ hơn và cải thiện cơ chế quản lý trong các hợp tác xã.
Bắc Giang đã tiên phong trong việc thực hiện chủ trương của Đảng, đặc biệt là sau khi Ban bí thư Trung ương ban hành chỉ thị 100CT/TW vào tháng 1/1981, quyết định giao khoán sản phẩm cho nhóm và người lao động Trong năm đó, các hợp tác xã nông nghiệp tại Bắc Giang đã tiến hành giao đất, giao rừng và giao sức kéo cho xã viên, trong khi tập thể chỉ tập trung vào việc điều hành các khâu như làm đất, thủy lợi, bảo vệ cây trồng và quản lý sản phẩm theo mức khoán Kết quả là sức sản xuất được giải phóng, tư liệu sản xuất được sử dụng hiệu quả hơn, kinh tế hộ gia đình có sự chuyển biến tích cực và kinh tế nông nghiệp phát triển mạnh mẽ.
Khoán 100 đã mang lại bước tiến quan trọng trong sản xuất nông nghiệp, giúp khắc phục một phần những hạn chế của cơ chế quản lý tập trung trước đây Tuy nhiên, cơ chế khoán sản phẩm theo chỉ thị 100CT/TW vẫn dựa trên sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất và nhiều yếu tố của cơ chế quản lý cũ, trong đó hợp tác xã vẫn giữ vai trò là đơn vị sản xuất kinh doanh chủ yếu Sau một thời gian, cơ chế khoán đã phát huy tác dụng tích cực, nhưng vẫn cần điều chỉnh để tối ưu hóa hiệu quả sản xuất.
100 đã bộc lộ những nhược điểm, hạn chế của nó Yêu cầu về một công cuộc đổi mới thực sự ngày càng trở nên cấp thiết
Trong thời kỳ Bắc Giang thuộc tỉnh Hà Bắc, Đảng đã đề ra đường lối đổi mới nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn, phù hợp với đặc điểm là một nước nông nghiệp với phần lớn dân số là nông dân sống ở vùng nông thôn Lãnh đạo nông dân tập trung vào việc phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng để phát triển công nghiệp và kinh tế, cần phải lấy phát triển nông nghiệp làm nền tảng chính.
Nông nghiệp đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp lương thực, nguyên liệu và là nguồn xuất khẩu thiết yếu, trong khi nông thôn là thị trường tiêu thụ lớn nhất hiện nay Để phát triển các ngành kinh tế khác, việc cải tạo và phát triển nông nghiệp là cần thiết Một nền nông nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình công nghiệp hóa, từ đó thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp trong nước.
Lãnh đạo nông dân và phát triển sản xuất nông nghiệp là nhiệm vụ quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong suốt các giai đoạn lịch sử, nhằm xây dựng nông thôn bền vững và nâng cao đời sống người dân.
Mười năm sau ngày đất nước hoàn toàn giải phóng, nông nghiệp và xã hội nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng, đặc biệt sau chỉ thị số 100CT/TW của Ban bí thư Trung ương Đảng Tuy nhiên, do sai lầm chủ quan và sự trì trệ của cơ chế quản lý, sản xuất nông nghiệp rơi vào khủng hoảng nghiêm trọng Trước nhu cầu cấp bách của đời sống xã hội, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đề ra đường lối đổi mới toàn diện, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đổi mới tư duy, đặc biệt là tư duy kinh tế Đại hội khẳng định cần sắp xếp lại nền kinh tế quốc dân theo cơ cấu hợp lý để thoát khỏi tình trạng rối ren và mất cân đối.
Từ năm 1986 đến 1990, nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu, cần phải đổi mới từ nhận thức đến cơ chế và chính sách để chuyển từ sản xuất tự cấp tự túc sang sản xuất hàng hóa Đầu tư cho nông nghiệp cần được ưu tiên, đảm bảo hiệu quả từ sản xuất đến chế biến, vận chuyển và bảo quản Cần củng cố và tăng cường kinh tế tập thể, nâng cao trình độ quản lý và cơ sở vật chất kỹ thuật, đồng thời cải tiến phương thức khoán sản phẩm đến nhóm và người lao động Việc xây dựng cơ sở vật chất phục vụ sản xuất nông nghiệp và nông thôn mới là rất quan trọng, đồng thời cần giải quyết mối quan hệ giữa kinh tế Nhà nước, kinh tế quốc doanh và hợp tác xã nông nghiệp để phát huy vai trò chủ động trong sản xuất.
Năm 1987, sau Đại hội VI, Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều văn kiện quan trọng để giải quyết các vấn đề cấp bách liên quan đến nông dân, nông nghiệp và nông thôn Ban chấp hành Trung ương Đảng đã họp bàn về giải pháp phân phối và lưu thông hàng hóa Tại Hội nghị Trung ương lần thứ 2 và 3 (Khoá VI), đã khẳng định Nghị quyết Đại hội VI và định hướng chính sách đổi mới về ruộng đất, quy định giá cả và lưu thông hàng hóa, đồng thời thực hiện chính sách thu mua nông sản theo giá thỏa thuận Đầu năm 1988, Quốc hội thông qua Luật đất đai, đánh dấu bước phát triển mới trong sản xuất nông nghiệp, giao quyền sử dụng ruộng đất ổn định cho các đơn vị và hộ xã viên, cho phép chuyển nhượng và nghiêm cấm mua bán ruộng đất trái phép.
Nghị quyết Đại hội VI đã nhanh chóng được thực hiện, khuyến khích nông dân đổi mới tư duy và phương pháp sản xuất để phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế thị trường Đường lối đổi mới trong nông nghiệp và nông thôn của Đảng đã tạo điều kiện cho sự phát triển toàn diện của đất nước trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa và xã hội Để cụ thể hóa nội dung đổi mới, ngày 5/4/1988, Bộ Chính trị khóa VI đã ban hành Nghị quyết 10NQ/TW về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp, trong đó nhấn mạnh Hợp tác xã là đơn vị kinh tế tự quản và hộ gia đình xã viên là đơn vị tự chủ, nhận khoán với Hợp tác xã Nghị quyết 10 nhằm khắc phục những nhược điểm trong các chính sách trước đây và đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp.
Giải phóng sức sản xuất là yếu tố then chốt trong việc tổ chức lại và cải tạo sản xuất nông nghiệp theo hướng xã hội chủ nghĩa Điều này bao gồm việc tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật và ứng dụng tiến bộ khoa học vào sản xuất Đồng thời, cần phát huy tối đa tiềm năng của tất cả các thành phần kinh tế để đạt được hiệu quả cao nhất trong sản xuất.
ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG LÃNH ĐẠO NÔNG NGHIỆP, NÔNG THÔN (1997 – 2006)
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng nông nghiệp, nông thôn
nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH (1997 -2000)
2.1.1 Đườ ng l ố i c ủ a Đả ng v ề CNH, H Đ H nông nghi ệ p, nông thôn
Sau 10 năm đổi mới, nông nghiệp, nông thôn Việt Nam đã khởi sắc và đạt những thành tựu to lớn, góp phần quyết định ổn định đời sống kinh tế của người dân Trên cơ sở những thành tựu đã đạt được, cùng với kinh tế chung cả nước, nông nghiệp bước vào thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước (1996 - 2000) Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (Tháng 6/1996) của Đảng đã chủ trương đẩy mạnh CNH, HĐH trong đó trọng tâm là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn “Nội dung cơ bản của CNH, HĐH trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư, nghiệp gắn với công nghệ chế biến nông, lâm, thuỷ sản, phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống và các ngành nghề mới bao gồm tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng, xuất khẩu, các dịch vụ cho sản xuất và đời sống nông dân, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn, tiến bước hình thành nông thôn mới văn minh hiện đại”[18, tr.86]
Đảng đã xác định mục tiêu tổng quát và lâu dài của công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) là xây dựng nền kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển bền vững với nhịp độ cao Mục tiêu này dựa trên kỹ thuật hiện đại, cơ cấu hợp lý và quan hệ sản xuất tiến bộ, nhằm giải phóng sức sản xuất, tăng năng suất lao động, giải quyết việc làm, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân nông thôn Đồng thời, mục tiêu cũng nhằm rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, xây dựng nông thôn mới văn minh, hiện đại và công bằng, góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH đất nước Rõ ràng, nông nghiệp và nông thôn là điểm then chốt và mục tiêu cơ bản trong quá trình thực hiện CNH, HĐH.
Quốc hội và Chính phủ đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội VIII bằng việc ban hành nhiều chủ trương và chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Luật Hợp tác xã (HTX) ra đời vào ngày 1/7/1997 đã đánh dấu bước chuyển quan trọng trong việc chuyển đổi các HTX sản xuất nông nghiệp sang mô hình HTX nông nghiệp kiểu mới, tập trung vào dịch vụ cho kinh tế hộ Chính phủ cũng đã ban hành nhiều chính sách mới nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn, trong đó nổi bật là việc tăng 50% vốn ngân sách đầu tư cho nông nghiệp vào năm 1999 và chính sách cho vay vốn lên đến 10 triệu đồng cho mỗi hộ nông dân mà không cần thế chấp.
Chính phủ đã triển khai nhiều chương trình và dự án lớn nhằm đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, sử dụng nguồn vốn ngân sách, vay mượn và viện trợ quốc tế Trong số đó có Quyết định số 145/1998/QĐ-TTg về quản lý và sử dụng rừng trồng với tài trợ từ Chương trình lương thực thế giới, cùng với Quyết định số 13-1998/QĐ-TTg thành lập ban chỉ đạo cho Chương trình phát triển kinh tế - xã hội tại các xã, đặc biệt ở vùng miền núi và hẻo lánh Ngoài ra, chương trình nước sạch nông thôn cũng được chú trọng để cải thiện đời sống của người dân.
Hội nghị Ban chấp hành Trung Ương Đảng lần thứ 6 (Khoá VIII, ngày 17/10/1998) nhấn mạnh tầm quan trọng của việc tập trung phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa Mục tiêu là tạo nền tảng vững chắc cho sự ổn định và phát triển kinh tế - xã hội, ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ nông nghiệp, đồng thời giải quyết các chính sách kìm hãm sản xuất nông thôn Điều này nhằm thúc đẩy kinh tế - xã hội nông thôn phát triển mạnh mẽ, khuyến khích làm giàu hợp pháp, xoá đói giảm nghèo và tăng cường đoàn kết trong cộng đồng nông thôn.
Nhà nước cho thuê đất cho các hộ nông dân có nhu cầu và khả năng sản xuất kinh doanh, đặc biệt là đối với các loại đất như đất trống, đồi núi trọc, bãi cát, đất rừng, đất bồi ven biển và đất hoang hóa Ưu tiên giao đất theo hạn điền cho cư dân tại chỗ, đồng thời khuyến khích mọi thành phần kinh tế đầu tư thuê đất để phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp qua các hình thức như vườn đồi, vườn rừng và kinh tế trang trại theo quy định của pháp luật.
Ngày 10/11/1998, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết 03-NQ/TƯ, khẳng định tầm quan trọng của nông nghiệp và nông thôn trong phát triển kinh tế đất nước Nghị quyết nhấn mạnh việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, gắn nông nghiệp với công nghiệp chế biến và thị trường, nhằm hình thành liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ Đặc biệt, kinh tế hộ gia đình ở nông thôn được coi là tổ chức sản xuất hiệu quả, có vai trò quan trọng trong quá trình này Nghị quyết khuyến khích phát triển kinh tế hộ gia đình để tạo ra sản phẩm hàng hóa đa dạng, nâng cao thu nhập và cải thiện đời sống nông dân, đồng thời cung cấp sản phẩm cho thị trường đô thị và xuất khẩu.
Kinh tế trang trại đã được hình thành nhờ đường lối đổi mới của Đảng, tuy nhiên, giai đoạn đầu chưa được nhìn nhận khách quan Nghị quyết khẳng định rằng trong quá trình đổi mới, chính sách phát triển nông nghiệp đã khơi dậy nguồn động lực to lớn của nhân dân, dẫn đến những thành tựu quan trọng, với sản xuất Nhà nước tăng trưởng bình quân 4,3%/năm trong giai đoạn 1988-1998 Cơ cấu kinh tế nông thôn đã chuyển dịch theo hướng tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ, cải thiện đời sống của đại bộ phận nhân dân Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ ra rằng vẫn còn nhiều vấn đề cần giải quyết, như cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, ứng dụng khoa học công nghệ hạn chế, lao động dư thừa, hạ tầng sản xuất nông thôn chậm đổi mới, và đời sống khó khăn của một bộ phận nông dân ở vùng sâu, vùng xa.
Ngày 15/06/2000, Chính phủ ban hành Nghị quyết 09 nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp, phát huy tiềm năng thiên nhiên và truyền thống nông nghiệp của Việt Nam Nghị quyết hướng tới xây dựng nền nông nghiệp mạnh, bền vững, áp dụng công nghệ mới và hiện đại hóa, đồng thời nâng cao sức cạnh tranh trong hội nhập quốc tế Đặc biệt, Nghị quyết cho phép chuyển đổi cơ cấu cây trồng, khuyến khích chuyển đổi một phần diện tích lúa năng suất thấp sang trồng cây màu, cây công nghiệp và cây ăn quả, nhằm đa dạng hóa cây trồng và tăng thu nhập trên mỗi đơn vị diện tích đất nông nghiệp.
Nghị quyết 09/CP của Chính phủ đánh dấu sự chuyển mình trong tư duy sản xuất nông nghiệp, nhấn mạnh hiệu quả kinh tế thay vì chỉ chú trọng tự túc lương thực Điều này thể hiện qua việc không cấm chuyển đổi đất lúa sang cây trồng khác, đồng thời khuyến khích nâng cao chất lượng và giá cả nông sản, nhằm tăng cường sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Quan điểm đúng đắn của Đảng về phát triển sản xuất nông nghiệp và nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành, địa phương và chủ trang trại yên tâm đầu tư vào sản xuất hàng hóa, góp phần làm giàu chính đáng Đường lối này là cơ sở để Đảng bộ tỉnh Bắc Giang áp dụng vào thực tiễn nông nghiệp, nhằm tiếp tục phát triển sản xuất nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới.
2.1.2 Đả ng b ộ t ỉ nh B ắ c Giang v ậ n d ụ ng đườ ng l ố i c ủ a Đả ng vào th ự c ti ễ n ở đị a ph ươ ng
Để đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát huy tiềm năng của từng địa phương, tỉnh Hà Bắc đã được chia thành hai tỉnh Bắc Giang và Bắc Ninh theo Quyết định của kỳ họp thứ 10 Quốc hội khoá IX Từ tháng 4/1996 đến tháng 11/1996, tỉnh Bắc Giang được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1/1/1997, nhằm thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng và văn minh.
Bắc Giang, với diện tích 382.200,02 ha tính đến cuối năm 1998, trong đó 236.874,21 ha là đất nông nghiệp, sở hữu địa hình đa dạng bao gồm vùng núi, trung du và đồng bằng Đặc điểm này tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển nông nghiệp với nhiều loại cây trồng và vật nuôi Đặc biệt, vùng núi chiếm 72,11% diện tích tự nhiên, mang lại lợi thế lớn cho lâm nghiệp và cây ăn quả, trong đó cây vải thiều là một trong những cây trồng chủ lực.
Bắc Giang có vị trí thuận lợi gần vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc với mạng lưới giao thông đa dạng, bao gồm đường sắt, đường sông và đường bộ, kết nối với các tỉnh và khu công nghiệp lớn Tiềm năng về đất đai và lao động tại đây rất lớn, với 695.550 lao động trong tổng số 751.171 người, chiếm 92,6% dân cư sống ở nông thôn Nhiều mô hình và nhân tố mới đã hình thành và phát huy tác dụng tích cực Cơ sở vật chất kỹ thuật và hạ tầng kinh tế - xã hội đã được đầu tư và đang phát huy hiệu quả.
Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo nông nghiệp, nông thôn (2001 - 2006)
2.2.1 Ch ủ tr ươ ng m ớ i c ủ a Đả ng v ề CNH, H Đ H nông nghi ệ p, nông thôn
Trong giai đoạn 1990 - 2000, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đã có những bước tiến vượt bậc nhờ vào quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, với tốc độ tăng trưởng bình quân đạt 4,2%/năm Thành tựu này không chỉ đảm bảo an ninh lương thực quốc gia mà còn giúp một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam chiếm lĩnh thị trường khu vực và thế giới Đời sống của nông dân cũng được cải thiện rõ rệt, với sản lượng lương thực bình quân đầu người tăng từ 330 kg vào năm 1990.
360 kg (1995) và 444 kg (2000); tỷ lệ hộ nghèo ở nông thôn cũng giảm đi đáng kể từ 29% năm 1990 xuống còn 11% năm 2000; xuất khẩu gạo đứng thứ
Việt Nam đã trải qua một quá trình chuyển mình ấn tượng từ nền nông nghiệp tự cấp, tự túc sang một nền nông nghiệp phát triển mạnh mẽ với các ngành sản xuất hàng hóa lớn Thành tựu này không chỉ giúp nâng cao sức cạnh tranh trong nước mà còn khẳng định vị thế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tựu, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam vẫn đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm sản xuất chủ yếu mang tính chất thuần nông, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, phát triển chưa bền vững và thiếu thị trường tiêu thụ hàng hóa.
Bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam đối mặt với nhiều cơ hội và thách thức mới, khởi đầu với Đại hội IX của Đảng (4/2001) - một mốc son quan trọng trong sự phát triển của đất nước Đại hội nhấn mạnh tầm quan trọng của trí tuệ, dân chủ, đoàn kết và đổi mới, với nhiệm vụ trọng tâm là tiếp tục hiện đại hóa và công nghiệp hóa nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng và văn minh Đường lối phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2001 - 2010 được xác định, đặc biệt chú trọng đến nông nghiệp và nông thôn Đại hội khẳng định cần đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, phát triển nền nông nghiệp hàng hóa lớn, phù hợp với nhu cầu thị trường, đồng thời chuyển dịch cơ cấu ngành nghề và lao động để tạo việc làm cho nông dân Việc áp dụng tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuất cũng được coi là yếu tố then chốt để phát triển mạnh mẽ ngành công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.
Để đáp ứng yêu cầu rút ngắn thời gian công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) so với các nước tiên tiến, Đại hội xác định mục tiêu đến năm 2020, Việt Nam sẽ cơ bản trở thành một quốc gia công nghiệp hiện đại Để đạt được điều này, cần ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất và xây dựng quan hệ phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa Đồng thời, cần tăng cường chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết nhằm đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn, với những định hướng chính sách rõ ràng để thực hiện nhiệm vụ này đến năm 2010.
Vào ngày 28/02/2001, Bộ Chính trị đã ban hành chỉ thị 63CT/TW nhằm thúc đẩy nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ để phục vụ cho quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp cũng như xây dựng nông thôn mới, thể hiện quyết tâm đưa khoa học và công nghệ vào phát triển nông nghiệp.
Hội nghị Trung ương 5 (khóa IX) vào tháng 3 năm 2002 đã cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX bằng cách ban hành ba nghị quyết quan trọng liên quan đến nông nghiệp và nông thôn Các nghị quyết này bao gồm: “Đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn giai đoạn 2001 - 2010”; “Tiếp tục đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của kinh tế tập thể”; và “Tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”.
Công nghiệp hóa (CNH) và hiện đại hóa (HĐH) nông nghiệp và nông thôn là quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa quy mô lớn, kết nối với công nghiệp chế biến và thị trường Quá trình này bao gồm cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học Mục tiêu là đưa thiết bị, kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường.
Chương trình CNH, HĐH nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng tăng cường giá trị sản phẩm trong các ngành công nghiệp và dịch vụ, đồng thời giảm dần tỷ trọng sản phẩm trong nông nghiệp Quá trình này bao gồm việc phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quy hoạch nông thôn, bảo vệ môi trường sinh thái, tổ chức lại sản xuất, và xây dựng quan hệ sản xuất hợp lý Mục tiêu cuối cùng là xây dựng nông thôn dân chủ, công bằng, văn minh, và nâng cao đời sống vật chất cũng như văn hóa cho người dân.
Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) đã xác định rõ quan niệm về công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh sự liên kết chặt chẽ giữa hai nhiệm vụ này Sự hòa quyện và tác động lẫn nhau trong quá trình phát triển của CNH, HĐH nông nghiệp và nông thôn yêu cầu các cấp lãnh đạo không được tách rời từng nội dung, mà cần gắn kết chúng thành một thể thống nhất trong quá trình chỉ đạo thực tiễn.
Từ thực tiễn của đất nước và đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) được Đảng đề ra tại các đại hội và Hội nghị giữa nhiệm kỳ, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5 (khóa IX) đã làm rõ hơn quan điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn mới, rút ra từ hơn 15 năm thực hiện đường lối đổi mới.
Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp và hiện đại hóa nông thôn là nhiệm vụ hàng đầu trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Sự phát triển của ngành công nghiệp và dịch vụ cần phải gắn kết chặt chẽ, hỗ trợ hiệu quả cho quá trình này.
Để phát triển bền vững, cần ưu tiên nâng cao lực lượng sản xuất và phát huy nguồn lực con người Việc ứng dụng thành tựu khoa học và công nghệ là rất quan trọng, cùng với việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tối ưu hóa lợi thế từng vùng Điều này sẽ giúp sản xuất hàng hóa quy mô lớn với chất lượng và hiệu quả cao, đồng thời bảo vệ môi trường, phòng chống thiên tai và phát triển nông nghiệp, nông thôn một cách bền vững.
Ba là, phát huy nội lực và tối đa hóa các nguồn lực bên ngoài, kinh tế Nhà nước đóng vai trò chủ đạo, kết hợp với kinh tế tập thể, tạo nền tảng vững chắc cho sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế hộ sản xuất hàng hóa.
Bốn là, kết hợp chặt chẽ đến các vấn đề kinh tế - xã hội trong quá trình
Chương trình CNH và HĐH nông nghiệp, nông thôn tập trung vào việc tạo ra cơ hội việc làm, giảm nghèo và ổn định xã hội, đồng thời thúc đẩy phát triển kinh tế và nâng cao đời sống vật chất, văn hóa cho người nông thôn, đặc biệt là các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa, nhằm bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống và phong tục tập quán tốt đẹp.