1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) chính sách tài chính thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh trong xử lý nước thải gây ô nhiễm môi trường ( nghiên cứu trường hợp khu du lịch nước khoáng nóng thanh thủy phú thọ)

75 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Chính Sách Tài Chính Thúc Đẩy Ứng Dụng Công Nghệ Xanh Trong Xử Lý Nước Thải Gây Ô Nhiễm Môi Trường (Nghiên Cứu Trường Hợp Khu Du Lịch Nước Khoáng Nóng Thanh Thủy - Phú Thọ)
Tác giả Thiều Thị Thu Thảo
Người hướng dẫn PGS.TS Đặng Ngọc Dinh
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Quản Lý Khoa Học Và Công Nghệ
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 75
Dung lượng 1,13 MB

Cấu trúc

  • 1. Tên đề tài (0)
  • 2. Lý do nghiên cứu (0)
  • 3. Lịch sử nghiên cứu (0)
  • 4. Mục tiêu nghiên cứu (0)
  • 5. Phạm vi nghiên cứu (0)
  • 6. Mẫu khảo sát ............................................................................................................ 7. Câu hỏi nghiên cứu (0)
  • 8. Giả thuyết nghiên cứu (0)
  • 9. Phương pháp nghiên cứu (0)
  • 10. Kết cấu luận văn (0)
  • CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI (14)
    • 1.1. Các khái niệm liên quan (14)
      • 1.1.1 Chính sách (14)
      • 1.1.2 Chính sách tài chính (15)
      • 1.1.3 Công nghệ (17)
      • 1.1.4 Công nghệ xanh và các khái niệm liên quan (19)
      • 1.1.5. Nước thải gây ô nhiễm môi trường (26)
      • 1.1.6 Tương quan giữa công nghệ, công nghệ xanh và vấn đề xử lý nước thải gây ô nhiễm (27)
      • 1.1.7 Mối quan hệ giữa chính sách tài chính và hoạt động ứng dụng công nghệ (29)
  • CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ XANH HIỆN NAY (31)
    • 2.1.1 Các chiến lược phát triển công nghệ thân thiện với môi trường của Chính phủ (31)
    • 2.1.2 Chính sách ưu tiên phát triển công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường trong các văn bản thuộc lĩnh vực KH&CN (33)
    • 2.1.3 Văn bản về các chính sách tài chính, thuế liên quan đến việc công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường (35)
    • 2.2 Các chính sách tài chính, các chính sách ƣu tiên cho việc ứng dụng công nghệ xanh ở nước ta hiện nay (0)
      • 2.2.1 Các chính sách đầu tư (37)
      • 2.2.2 Các chính sách ưu đãi về thuế (38)
      • 2.2.3 Chính sách ưu đãi về tín dụng (39)
      • 2.2.4 Ưu đãi từ các nguồn đầu tư nước ngoài và từ các Quỹ trong nước . 38 (40)
    • 2.3 Nhận diện về khó khăn, rào cản trong đầu tƣ tài chính cho phát triển công nghệ xanh ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại (40)
      • 2.3.1 Nhận diện về những khó khăn trong cơ chế, chính sách (40)
      • 2.3.2 Những khó khăn khác (43)
      • 2.3.3 Phát triển công nghệ xanh trong tương quan của giới truyền thông và các nhà khoa học (45)
  • CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH KHUYẾN KHÍCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ XANH TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI GÂY Ô NHIỄM, TẠI KHU DU LỊCH NƯỚC KHOÁNG NÓNG THANH THỦY – PHÚ THỌ (50)
    • 3.1 Tổng quan về Khu du lịch Nước khoáng nóng Thanh Thủy - Phú Thọ (50)
      • 3.1.1 Vị trí địa lý (50)
      • 3.1.2 Đặc điểm của khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy (50)
      • 3.1.3 Đặc điểm xã hội (51)
      • 3.1.4 Những khó khăn gặp phải và các vấn đề cần giải quyết (52)
    • 3.2 Vai trò của việc ứng dụng công nghệ xanh ở các khu du lịch sinh thái nói (56)
      • 3.2.1 Vai trò của công nghệ xanh ở các khu du lịch sinh thái (56)
      • 3.2.2 Sự cần thiết ứng dụng công nghệ xanh trong xử lý nước thải tại (58)
    • 3.3 Giải pháp ứng dụng công nghệ xanh ở khu vực trên (59)
    • 3.4 Đề xuất các giải pháp về tài chính thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh trong xử lý nước thải tại khu du lịch nước khoáng nóng Thanh Thủy, Phú Thọ (63)
      • 3.4.1 Giải pháp tài chính chung (63)
      • 3.4.2 Một số giải pháp cụ thể về chính sách tài chính thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh cho Khu du lịch Suối nước khoáng nóng Thanh Thủy, Phú Thọ (66)
    • 1. Kết luận (71)
    • 2. Khuyến nghị (71)
      • 2.1 Các nhà làm công tác xã hội, xây dựng cơ chế chính sách, phát triển công nghệ cần quan tâm hơn đến các chính sách hỗ trợ, phát triển công nghệ xanh (71)
      • 2.2 Việc đưa ra các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển công nghệ (72)
      • 2.3 Cần nhiều hơn nữa sự quan tâm của ngành KH&CN, các Viện Nghiên cứu, Trường Đại học và tiếng nói của các nhà khoa học đầu ngành trong việc ứng dụng và phát triển công nghệ xanh (72)
      • 2.4 Cần có chính sách ưu tiên đặc biệt của Tỉnh nhằm đẩy mạnh các chính sách tài chính và thu hút nguồn vốn đầu tư ứng dụng công nghệ (73)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI

Các khái niệm liên quan

Theo Từ điển tiếng Việt phổ thông của Viện Ngôn ngữ học (2004), "chính sách" được định nghĩa là sách lược và kế hoạch cụ thể nhằm đạt một mục đích nhất định, dựa vào đường lối chính trị và tình hình thực tế Tuy nhiên, chính sách có thể được tiếp cận từ nhiều góc độ khác nhau như chính trị học, xã hội học, tâm lý học, đạo đức học, kinh tế học, hệ thống, lý thuyết trò chơi, khoa học pháp lý và tiếp cận tổng hợp Chẳng hạn, từ góc độ xã hội học, chính sách là tập hợp biện pháp của chủ thể quản lý nhằm tạo lợi thế cho một hoặc một số nhóm xã hội, đồng thời giảm lợi thế của nhóm khác để thực hiện mục tiêu xã hội Trong khi đó, từ góc độ tâm lý học, chính sách thể hiện qua các biện pháp ưu đãi nhằm kích thích hoạt động của một nhóm xã hội theo hướng thực hiện mục tiêu của chủ thể quyền lực.

Theo Giáo sư Vũ Cao Đàm, chính sách được định nghĩa là tập hợp biện pháp được thể chế hóa, do một chủ thể quyền lực hoặc quản lý đề ra Mục tiêu của chính sách là tạo ra sự ưu đãi cho một hoặc một số nhóm xã hội, từ đó kích thích động cơ hoạt động của họ nhằm đạt được các mục tiêu ưu tiên trong chiến lược phát triển của hệ thống xã hội.

Chính sách là một thiết chế phức tạp, quyết định thành công hay thất bại của kế hoạch Nó tồn tại dưới dạng văn bản, quy định, thông tư, nghị định và quyết định, với các văn bản quy phạm pháp luật là phương tiện thể hiện chính sách Chính sách được thể chế hóa nhằm thực hiện mục đích của một chủ thể đối với một nhóm đối tượng hoặc bộ phận xã hội Có hai loại chính sách chính: chính sách vĩ mô, như chính sách đối nội, đối ngoại, kinh tế, xã hội, khoa học và công nghệ, công nghiệp hóa; và chính sách vi mô, như chính sách khuyến mại của doanh nghiệp, ưu đãi thuế, hoặc chính sách ứng dụng công nghệ sạch tại các địa phương.

Chính sách là những biện pháp và quyết sách mà các chủ thể có quyền lực hoặc quản lý đưa ra, tồn tại dưới dạng cơ sở pháp lý Dựa vào những chính sách này, các chủ thể quản lý kỳ vọng đạt được các mục tiêu đã đề ra Thực tế cho thấy, một chính sách đúng đắn sẽ góp phần quan trọng vào việc đạt được thành công trong việc thực hiện các mong muốn đó.

Chính sách tài chính là một tập hợp đa dạng các biện pháp, bao gồm chính sách đầu tư, tín dụng, tiền tệ, thuế và giá, nhằm phục vụ sự phát triển của các lĩnh vực cụ thể như công nghiệp, nông nghiệp, môi trường và khoa học công nghệ Mặc dù chính sách tài chính có mục tiêu chung là phục vụ lợi ích cộng đồng, nhưng khó có chính sách nào có mục tiêu tự thân Chẳng hạn, trong chính sách ưu đãi tín dụng, người vay thường mong muốn lãi suất thấp hơn, trong khi các tổ chức tín dụng lại có xu hướng ưu tiên lợi nhuận Do đó, việc thiết lập chính sách tài chính cần cân nhắc nhiều yếu tố xã hội và sự cân bằng để tạo động lực cho sự phát triển bền vững.

Trong Kinh tế học vĩ mô, chính sách tài khóa đóng vai trò quan trọng trong hệ thống chính sách tài chính, được hiểu là việc sử dụng thuế và đầu tư công cộng để tác động đến nền kinh tế Chính sách tài khóa, cùng với chính sách tiền tệ, là hai công cụ chủ chốt nhằm mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế.

Khi nền kinh tế suy thoái, nhà nước có thể áp dụng chính sách tài khóa nới lỏng bằng cách giảm thuế và tăng chi tiêu công cộng để kích thích tiêu dùng Ngược lại, trong tình trạng lạm phát, nhà nước sẽ thực hiện chính sách tài khóa thắt chặt bằng cách tăng thuế và giảm chi tiêu để ngăn ngừa sự nóng lên của nền kinh tế, tránh dẫn đến đổ vỡ.

Chính sách tài chính trong lĩnh vực khoa học và công nghệ bao gồm các biện pháp như ưu đãi vốn, giảm thuế cho doanh nghiệp KH&CN, và hỗ trợ tín dụng cho các doanh nghiệp áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường trong xử lý chất thải Ngoài ra, chính sách còn chú trọng đến việc trọng dụng nhân lực KH&CN chất lượng cao Các chính sách này sẽ được điều chỉnh tùy theo loại hình và hoạt động cụ thể, nhưng theo nhiều tác giả, chính sách vốn và thuế được coi là những yếu tố quan trọng nhất trong chính sách tài chính cho KH&CN.

Chính sách tài chính là một phần quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, đóng vai trò trong việc ổn định và phát triển nền kinh tế Nó được thể chế hóa qua các văn bản pháp lý như Luật, Nghị định và Thông tư, tạo cơ sở pháp lý cho việc thực hiện.

Theo Luật KH&CN năm 2013, công nghệ được định nghĩa là giải pháp, quy trình và bí quyết kỹ thuật, có thể đi kèm hoặc không kèm theo công cụ, phương tiện, nhằm mục đích chuyển đổi nguồn lực thành sản phẩm.

Có nhiều khái niệm về công nghệ, nhưng chúng vẫn chưa được thống nhất do mỗi khái niệm phản ánh một góc nhìn khác nhau Luật KH&CN năm 2013 sử dụng khái niệm công nghệ từ Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006, trong đó công nghệ chỉ được định nghĩa là những công nghệ có thể chuyển giao Tuy nhiên, khái niệm công nghệ nói chung, bao gồm cả những công nghệ không thể chuyển giao, vẫn chưa được làm rõ Trong lịch sử, nhiều tác giả đã đưa ra các định nghĩa khác nhau về công nghệ.

Theo tác giả R.Jones, năm 1970: công nghệ là cách thức mà qua đó các nguồn lực đƣợc chuyển thành hàng hóa

Theo J.R Dunning (1982), công nghệ được xem là nguồn lực quan trọng, bao gồm kiến thức áp dụng nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất, nghiên cứu thị trường và phát triển sản phẩm mới Khái niệm này tương đồng với quan điểm của R Jones, khi cả hai tác giả đều nhấn mạnh mục tiêu chính là cải thiện sản phẩm và dịch vụ thông qua ứng dụng công nghệ.

Công nghệ được định nghĩa là sự tạo ra, biến đổi và sử dụng các công cụ, máy móc, kỹ thuật, kỹ năng nghề nghiệp, hệ thống và phương pháp tổ chức để giải quyết vấn đề, cải tiến giải pháp, đạt mục đích hoặc thực hiện chức năng cụ thể Nó bao gồm tập hợp các công cụ, máy móc, sự sắp xếp và quy trình Công nghệ có ảnh hưởng lớn đến khả năng kiểm soát và thích nghi của con người và động vật với môi trường tự nhiên Thuật ngữ này có thể được sử dụng chung hoặc cho các lĩnh vực cụ thể như "công nghệ xây dựng" và "công nghệ thông tin".

Theo UNIDO, công nghệ được định nghĩa là việc ứng dụng khoa học vào lĩnh vực công nghiệp thông qua việc sử dụng kết quả nghiên cứu một cách có hệ thống và phương pháp.

Theo ESCAP, công nghệ được định nghĩa là một hệ thống bao gồm kiến trúc, quy trình và kỹ thuật để chế biến vật liệu và xử lý thông tin Nó không chỉ bao gồm kiến thức và kỹ năng mà còn cả thiết bị, phương pháp và các hệ thống phục vụ cho việc sản xuất hàng hóa và cung cấp dịch vụ.

TỔNG QUAN CƠ CHẾ CHÍNH SÁCH, GIẢI PHÁP TÀI CHÍNH PHÁT TRIỂN CÔNG NGHỆ XANH HIỆN NAY

Các chiến lược phát triển công nghệ thân thiện với môi trường của Chính phủ

Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ, ban hành ngày 25 tháng 9 năm 2012, đã phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh, trong đó định nghĩa rõ ràng về Công nghệ xanh Mục 6.III nhấn mạnh rằng các ngành kinh tế cần xây dựng và thực hiện chương trình hành động theo hướng tăng trưởng xanh, đặc biệt chú trọng vào việc ứng dụng công nghệ xanh Đồng thời, quyết định cũng khuyến khích các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và doanh nghiệp trong nước đầu tư vào lĩnh vực phát triển kinh tế xanh, cũng như nhập khẩu, sử dụng và nội địa hóa công nghệ xanh.

Quyết định số 2612/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Chiến lƣợc sử dụng công nghệ sạch giai đoạn đến năm 2020, tầm nhìn

Quyết định 2030 đã xác định rõ ràng các chiến lược phát triển công nghệ sạch, nhấn mạnh mục tiêu sử dụng công nghệ thân thiện với môi trường Đặc biệt, nhiệm vụ Đổi mới công nghệ được đề cập nhằm thúc đẩy việc áp dụng và chuyển giao công nghệ sạch trong các giai đoạn sản xuất, theo khoản 2,3 mục III của Quyết định.

Theo Nghị định số 75/2011/NĐ-CP, có hiệu lực từ ngày 20/10/2011, các dự án đầu tư xây dựng nhà máy điện sử dụng năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, địa nhiệt và sinh học sẽ được hưởng ưu đãi vay vốn từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Quyết định số 130/2007/QĐ-TTg ngày 02/9/2007 của Thủ tướng Chính phủ quy định các cơ chế chính sách đầu tư theo cơ chế phát triển sạch Cụ thể, các dự án sản xuất sử dụng công nghệ mới, thân thiện với môi trường và giảm phát thải khí nhà kính sẽ được miễn thuế, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, khấu hao tài sản cố định, và nhận tín dụng đầu tư từ nhà nước Ngoài ra, các sản phẩm của dự án thuộc lĩnh vực ưu tiên sẽ được xem xét trợ giá, cùng với việc hỗ trợ tài chính trong việc lập và xây dựng dự án theo quy định pháp luật hiện hành.

Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 25 tháng

Năm 2012, Việt Nam phê duyệt Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050, nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường Quyết định này xác định nhiệm vụ và giải pháp phát triển kinh tế xanh, bao gồm đào tạo nhân lực, nâng cao nhận thức, xây dựng chính sách và hệ thống thông tin dữ liệu Giai đoạn 2011-2020 sẽ tập trung vào xác định các dự án trọng điểm và huy động nguồn đầu tư tài chính từ ngân sách nhà nước, doanh nghiệp và quỹ đầu tư nước ngoài, đồng thời chú trọng đổi mới công nghệ và ứng dụng công nghệ mới.

Chính sách ưu tiên phát triển công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường trong các văn bản thuộc lĩnh vực KH&CN

Luật Chuyển giao công nghệ 2006 nhấn mạnh sự quan trọng của các công nghệ thân thiện với môi trường Cụ thể, Khoản 7, Điều 9 quy định rằng công nghệ sạch và công nghệ thân thiện với môi trường là những loại công nghệ được khuyến khích chuyển giao.

Luật Công nghệ cao 2008 định nghĩa công nghệ cao là công nghệ có hàm lượng nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ lớn, tích hợp từ thành tựu khoa học hiện đại, tạo ra sản phẩm chất lượng, tính năng vượt trội, giá trị gia tăng cao và thân thiện với môi trường Để trở thành doanh nghiệp công nghệ cao, các doanh nghiệp cần áp dụng biện pháp thân thiện với môi trường, tiết kiệm năng lượng trong sản xuất và đảm bảo quản lý chất lượng sản phẩm đạt tiêu chuẩn kỹ thuật của Việt Nam; nếu chưa có tiêu chuẩn trong nước, cần áp dụng tiêu chuẩn của tổ chức quốc tế chuyên ngành.

Quyết định số 418/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 11/4/2012 phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ giai đoạn 2011-2020 nhấn mạnh việc ưu tiên phát triển công nghệ xử lý nước thải, chất thải rắn, chất thải nguy hại và khí thải phù hợp với điều kiện Việt Nam Chiến lược này khuyến khích ứng dụng công nghệ sản xuất sạch và công nghệ thân thiện với môi trường nhằm giảm thiểu phát thải khí gây hiệu ứng nhà kính và phát triển công nghệ tái chế chất thải Bên cạnh đó, công nghệ xanh cũng được ưu tiên trong nghiên cứu ứng dụng năng lượng mới và tái tạo, bao gồm năng lượng mặt trời, năng lượng gió, năng lượng sóng biển, sinh khối, địa nhiệt và nhiên liệu sinh học.

Các công nghệ thân thiện với môi trường đã được quy định trong Luật và các quyết định liên quan đến khoa học và công nghệ Cụ thể, trong Quyết định số 1393/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 25 tháng 9 năm 2012, có đề cập đến ba nhóm công nghệ quan trọng.

Bộ Kế hoạch - Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường cùng các bộ ngành khác đang thực hiện chiến lược tăng trưởng xanh, trong đó công nghệ đóng vai trò quan trọng Để phát triển nền kinh tế xanh, cần ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và đổi mới công nghệ nhằm xây dựng công nghệ sạch và công nghệ xanh Các nhà nghiên cứu khoa học và Bộ KH&CN cần định hướng tư tưởng, tuyên truyền, đào tạo nguồn nhân lực và chuẩn bị tiềm lực tài chính, chính sách Việc hệ thống hóa các văn bản liên quan sẽ giúp có cái nhìn tổng quan về cơ chế chính sách cho sự phát triển bền vững.

Bộ KH&CN đã thành lập các nhóm nghiên cứu tại Viện Năng lượng nguyên tử và Viện Chiến lược và Chính sách KH&CN nhằm phát triển công nghệ xanh và thân thiện với môi trường Năm 2014, Viện tổ chức nhiều hội thảo về chiến lược phát triển công nghệ xanh và đổi mới công nghệ cho nền kinh tế xanh Tuy nhiên, cần tăng cường vai trò của các nhà khoa học trong việc thúc đẩy công nghệ bền vững hơn nữa.

Văn bản về các chính sách tài chính, thuế liên quan đến việc công nghệ xanh, công nghệ thân thiện với môi trường

Quyết định số 4227/QĐ-VHTTDL phê duyệt Chiến lược phát triển khoa học và công nghệ ngành Văn hóa, Thể thao và Du lịch giai đoạn 2013-2020, tầm nhìn 2030, nhấn mạnh việc nghiên cứu ứng dụng công nghệ "xanh" trong phát triển sản phẩm và bảo vệ môi trường du lịch Chính sách tài trợ từ ngân sách nhà nước cho công nghệ xanh được thực hiện qua hạng mục thu chi ngân sách hàng năm và đầu tư cho khoa học cơ bản Ngoài ra, các chính sách ưu đãi về tín dụng và thuế cho phát triển công nghệ xanh cũng được thể chế hóa trong các Nghị định và Quyết định liên quan.

Chính sách thuế tại Việt Nam hiện chưa cụ thể hóa ưu đãi cho công nghệ xanh qua luật pháp, nhưng đã có quy định ưu đãi thuế cho doanh nghiệp mới thành lập từ các dự án đầu tư trong lĩnh vực này Doanh nghiệp công nghệ xanh tại các khu vực ưu đãi thuế theo Nghị định 124/2008/NĐ-CP sẽ được hưởng thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế tối đa 4 năm và giảm thuế tối đa 9 năm tiếp theo Đối với các nhà máy và cơ sở sản xuất hiện có, nếu đầu tư đổi mới công nghệ nhằm giảm ô nhiễm môi trường, sẽ có các chính sách ưu đãi và hỗ trợ khác nhau tùy thuộc vào loại hình và quy mô.

Nghị định 87/2010/NĐ-CP quy định ưu đãi thuế cho các dự án đầu tư vào công nghệ thân thiện với môi trường, bao gồm miễn thuế trong 5 năm kể từ ngày bắt đầu sản xuất Các dự án này được phép nhập khẩu nguyên liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được, đặc biệt là những dự án sử dụng công nghệ mới và công nghệ sạch.

Theo Nghị định số 04/NĐ-CP về bảo vệ môi trường, nhà nước đã quy định nhiều ưu đãi liên quan đến đất đai và thuế cho các hoạt động bảo vệ môi trường Mặc dù có nhiều văn bản quy phạm hỗ trợ đầu tư và phát triển công nghệ xanh, sạch, thân thiện với môi trường, nhưng các chính sách cụ thể vẫn chưa thực sự rõ ràng và hiệu quả trong thực tiễn Trong 5 năm qua, mặc dù có chiến lược phát triển quốc gia và khoa học công nghệ, các chính sách tài chính đi kèm chưa đủ hấp dẫn, đặc biệt là về phương thức thực hiện để nhận ưu đãi Ví dụ, tại một hội thảo về công nghệ xanh ở TP.HCM năm 2011, nhiều câu hỏi đã được đặt ra liên quan đến vấn đề này.

Các chính sách tài chính, các chính sách ƣu tiên cho việc ứng dụng công nghệ xanh ở nước ta hiện nay

Để được hỗ trợ thuế và tài chính cho công nghệ xanh, doanh nghiệp cần có chứng nhận từ Bộ KH&CN Hồ sơ chứng nhận phải chứng minh rằng công nghệ được phát minh bởi doanh nghiệp và thân thiện với môi trường Tuy nhiên, việc đáp ứng các tiêu chuẩn và quy chuẩn đánh giá công nghệ xanh hiện đang gặp nhiều khó khăn, phản ánh thực trạng chính sách tài chính cho ứng dụng công nghệ xanh tại Việt Nam.

Việc hệ thống hóa các văn bản liên quan đến ứng dụng phát triển công nghệ xanh là cần thiết để luận văn có cái nhìn tổng quát về các cơ chế và chính sách hiện tại của Chính phủ, các Bộ ngành, đặc biệt là Bộ KH&CN Mặc dù Nhà nước đã thể hiện sự quan tâm đến lĩnh vực này, phát triển công nghệ xanh vẫn đòi hỏi sự hội tụ của nhiều yếu tố để trở thành nền công nghiệp bền vững, trong đó vai trò tiên phong của Bộ KH&CN là rất quan trọng.

2.2 Các chính sách tài chính, các chính sách ƣu tiên cho việc ứng dụng công nghệ xanh ở nước ta hiện nay

2.2.1 Các chính sách đầu tư

Theo Bộ Tài chính, ngân sách nhà nước dành cho công nghệ xanh đã tăng đều qua các năm, với mức tăng 11% trong năm 2008 so với 2007, 32,6% trong năm 2009 so với 2008, 21% trong năm 2010 so với 2009 và 22% trong năm 2011 so với 2010 Các dự án đầu tư sử dụng năng lượng tái tạo như gió, mặt trời, điện nhiệt và sinh học sẽ được hỗ trợ vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng Phát triển Việt Nam.

Hàng năm, Chính phủ đầu tư vào các chương trình tăng trưởng “xanh” thông qua nguồn vốn ngân sách trung ương, địa phương và ODA Chương trình Mục tiêu Quốc gia về sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả giai đoạn 2012-2015, theo quyết định số 1427/QĐ-TTg, có tổng vốn đầu tư 930 tỉ đồng Đồng thời, chương trình mục tiêu quốc gia về khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi trường giai đoạn 2011 cũng được triển khai để nâng cao chất lượng môi trường sống.

Theo Tiến sĩ Phạm Hoàng Mai, Vụ trưởng Vụ Khoa học, Giáo dục, Tài nguyên và Môi trường, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Quyết định số 1205/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ ngày 02/9/2012 đã phê duyệt ngân sách 5.863 tỉ đồng cho Chương trình mục tiêu quốc gia về biến đổi khí hậu, trong khi Quyết định số 1183/QĐ-TTg ngày 30/8/2012 đã dành 1.771 tỉ đồng cho chương trình này.

2.2.2 Các chính sách ưu đãi về thuế

Hiện nay, Việt Nam chưa có luật cụ thể hóa chính sách ưu đãi cho công nghệ xanh, nhưng đã có các điều khoản quy định về ưu đãi thuế cho doanh nghiệp mới thành lập từ dự án đầu tư trong lĩnh vực này Cụ thể, doanh nghiệp đầu tư công nghệ xanh tại các khu vực ưu đãi thuế theo Nghị định 124/2008/NĐ-CP ngày 11/12/2008 hoặc doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghệ cao sẽ được hưởng mức thuế suất 10% cho thuế thu nhập doanh nghiệp Các hoạt động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ cũng được hưởng các ưu đãi thuế tương tự.

Trong 15 năm, doanh nghiệp sẽ được miễn thuế tối đa trong 4 năm và giảm thuế tối đa trong 9 năm tiếp theo Đối với các nhà máy và cơ sở sản xuất hiện tại, nếu có nhu cầu đầu tư để đổi mới công nghệ hoặc trang thiết bị nhằm giảm thiểu ô nhiễm môi trường, sẽ có các chính sách ưu đãi và hỗ trợ khác nhau tùy thuộc vào loại hình và quy mô của dự án.

Nghị định 87/2010/NĐ-CP quy định các ưu đãi thuế cho các dự án đầu tư vào công nghệ thân thiện với môi trường, bao gồm việc miễn thuế trong 5 năm kể từ khi bắt đầu sản xuất Ưu đãi này áp dụng cho nguyên liệu, vật tư và linh kiện nhập khẩu từ nước ngoài mà trong nước chưa sản xuất được, nhằm khuyến khích đầu tư vào công nghệ mới và công nghệ sạch.

Nghị định số 04/2009/NĐ-CP ban hành ngày 04 tháng 01 năm 2009 quy định về ưu đãi và hỗ trợ bảo vệ môi trường, trong đó nêu rõ các mức ưu đãi liên quan đến thuế, phí, vốn đầu tư và đất đai.

Nhiều doanh nghiệp, bao gồm cả các công ty tư nhân nhỏ lẻ trong lĩnh vực bảo vệ môi trường, hiện đang được miễn thuế thu nhập doanh nghiệp hoặc chỉ phải đóng góp một phần nhỏ.

2.2.3 Chính sách ưu đãi về tín dụng

Các doanh nghiệp đang thực hiện đổi mới công nghệ và phát triển công nghệ xanh cần nguồn vốn vay tín dụng ngân hàng để hỗ trợ các dự án đầu tư Tuy nhiên, thời hạn vay tín dụng hiện nay ở Việt Nam còn ngắn, gây khó khăn cho doanh nghiệp trong việc đầu tư vào công nghệ hiện đại và quản lý vòng quay vốn.

Tín dụng cho vay phục vụ đổi mới và chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường hiện còn hạn chế, với số vốn cho vay thấp và thủ tục hành chính phức tạp gây khó khăn cho doanh nghiệp Tại các địa phương, lãi suất vay cho hoạt động đổi mới công nghệ chưa hấp dẫn, mặc dù nguồn vốn tín dụng rất quan trọng và được nhiều tổ chức, doanh nghiệp quan tâm Do đó, việc triển khai tín dụng cho vay ưu đãi cùng với các chính sách phát triển sẽ thúc đẩy quá trình đổi mới và ứng dụng công nghệ thân thiện với môi trường.

2.2.4 Ưu đãi từ các nguồn đầu tư nước ngoài và từ các Quỹ trong nước

Việt Nam, một quốc gia đang phát triển, đang đối mặt với nguy cơ ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Để ứng phó với vấn đề này, các quỹ môi trường và quỹ khoa học và công nghệ như Nafoted và quỹ đổi mới công nghệ đã ưu tiên đầu tư vào các công nghệ thân thiện với môi trường.

Các chính sách ưu đãi tài chính cho công nghệ xanh tại Việt Nam hiện chưa đủ mạnh để tạo ra sự khác biệt rõ rệt giữa việc áp dụng công nghệ thân thiện với môi trường và công nghệ cũ Việc thương mại hóa sản phẩm từ công nghệ xanh cũng thiếu chế tài phù hợp, dẫn đến sự chênh lệch trong phát triển Do đó, tác giả nhấn mạnh rằng các chính sách tài chính cần phải được củng cố để thúc đẩy ngành công nghệ xanh, nhưng hiện tại, các yếu tố tài chính ở Việt Nam vẫn còn nhiều hạn chế.

Nhận diện về khó khăn, rào cản trong đầu tƣ tài chính cho phát triển công nghệ xanh ở Việt Nam trong thời điểm hiện tại

2.3.1 Nhận diện về những khó khăn trong cơ chế, chính sách

- Mới và chưa phổ biến

Khó khăn lớn nhất trong việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh tại Việt Nam hiện nay là tính mới mẻ của công nghệ này Công nghệ xanh, hay công nghệ thân thiện với môi trường, vẫn còn là lĩnh vực mới mẻ đối với Việt Nam và nhiều quốc gia đang phát triển Trong khi đó, các nước như Thụy Điển, Đan Mạch và Hà Lan đã quen thuộc và ứng dụng rộng rãi công nghệ xanh trong mọi lĩnh vực đời sống Trong bối cảnh toàn cầu hiện nay, phát triển bền vững trở thành xu hướng quan trọng và tất yếu Tại châu Á, Hàn Quốc, Nhật Bản và Trung Quốc đang có những chiến lược nhất định để đầu tư và phát triển công nghệ xanh.

Công nghệ xanh đang trở thành xu hướng phát triển quan trọng tại Việt Nam, nhưng vẫn chưa được phổ biến và đánh giá đúng mức Mặc dù lĩnh vực này có thể mang lại nhiều lợi ích, hiện nay, khái niệm "công nghệ xanh" chưa được đề cập rõ ràng trong các văn bản pháp lý và chỉ được hiểu qua các thuật ngữ chung như "công nghệ thân thiện với môi trường" Điều này tạo ra khó khăn trong việc đề xuất các chính sách tài chính nhằm thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh, bởi vì thiếu sự hiện thực hóa trong các quy định pháp luật có liên quan Do đó, việc hoạch định chính sách và xác định ưu tiên tài chính cho công nghệ xanh trở thành thách thức lớn trong quá trình phát triển ngành công nghệ này.

- Khó khăn về cơ chế chính sách

Khó khăn trong việc ưu tiên công nghệ xanh vẫn chưa đạt yêu cầu, khi chính phủ yêu cầu doanh nghiệp đổi mới công nghệ để giảm khí thải và ô nhiễm môi trường Dù nhiều doanh nghiệp đã nỗ lực cải cách, họ vẫn gặp trở ngại lớn do cần vốn đầu tư lớn cho công nghệ mới, trong khi sản phẩm từ công nghệ này chưa được đánh giá cao Hơn nữa, việc áp dụng công nghệ xanh thiếu cơ chế và chính sách khuyến khích công bằng cho tất cả doanh nghiệp Nhiều doanh nghiệp nhà nước, mặc dù có vốn đầu tư, vẫn không mặn mà với sản xuất sạch vì không được tái đầu tư lợi nhuận và thu nhập của người lao động không được cải thiện Tình trạng bất công trong quản lý cũng diễn ra, khi một số doanh nghiệp đầu tư hàng tỷ đồng vào công nghệ xanh, trong khi những doanh nghiệp khác vẫn xả thải ô nhiễm Các biện pháp xử phạt hiện tại quá nhẹ, chủ yếu dừng ở mức cảnh cáo, gây tâm lý không tốt cho các doanh nghiệp muốn đầu tư vào công nghệ xanh.

Nhiều doanh nghiệp và tổ chức đang nỗ lực giảm thiểu ô nhiễm môi trường, nhưng vẫn có nhiều cơ sở sản xuất lạm dụng việc xả thải ô nhiễm và sử dụng công nghệ lạc hậu Một số doanh nghiệp trong nước đã thành công trong việc ứng dụng năng lượng tái tạo như gió và mặt trời, nhưng sự khác biệt trong sản phẩm từ công nghệ xanh vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến việc nhiều doanh nghiệp từ bỏ ý tưởng phát triển công nghệ này Quản lý và chế tài của cơ quan chức năng chưa phù hợp, gây khó khăn trong việc thúc đẩy ứng dụng công nghệ xanh Việc phân biệt và nhận diện các đơn vị sử dụng công nghệ xanh để hưởng ưu đãi tài chính cũng chưa rõ ràng Để thu hút đầu tư tài chính cho công nghệ xanh, cần có sự đồng thuận từ Bộ Tài chính, nhưng điều này gặp nhiều khó khăn Kinh phí cho nghiên cứu và đề án khoa học cũng gặp bất cập, đặc biệt là trong cơ chế "xin - cho" Mặc dù Việt Nam đã phê duyệt Chiến lược Quốc gia về tăng trưởng xanh từ năm 2012, nhưng chưa có chương trình hành động cụ thể để hỗ trợ tài chính cho phát triển xanh Việc nhận ưu đãi về tài chính và thuế cho các doanh nghiệp hiện vẫn còn nhiều thách thức.

Bộ Tài chính nhấn mạnh rằng để nhận được hỗ trợ thuế và tài chính cho công nghệ xanh, người phát minh cần đăng ký quyền sở hữu trí tuệ và chứng minh công nghệ của họ thân thiện với môi trường Doanh nghiệp phải nộp hồ sơ lên Bộ KH&CN để được xét duyệt, trong đó cần chứng minh rằng công nghệ được phát minh bởi chính họ Tuy nhiên, việc xác định tiêu chuẩn và quy chuẩn cho công nghệ xanh hiện đang gặp nhiều khó khăn Tác giả Luận văn cho rằng Chính phủ và Bộ KH&CN cần có những hành động cụ thể hơn trong việc phát triển các văn bản quy phạm liên quan đến công nghệ xanh trước khi tiến hành đầu tư mạnh mẽ từ ngân sách Nhà nước.

- Hạn chế về nguồn nhân lực chất lượng cao

Việt Nam đang đối mặt với một thực trạng cản trở việc ứng dụng các công nghệ xanh, sạch và thân thiện với môi trường, đó là thiếu hụt nguồn nhân lực khoa học và công nghệ chất lượng cao Mặc dù một số trường đại học như Đại học Bách Khoa Hà Nội, Đại học KHTN - Đại học Quốc gia Hà Nội và Đại học Tài nguyên - Môi trường đã đưa công nghệ xanh vào chương trình giảng dạy, nhưng chưa có cơ sở đào tạo chuyên sâu thành một chuyên ngành riêng Bên cạnh đó, trong lĩnh vực nghiên cứu, các viện nghiên cứu như Viện Chiến lược - Chính sách Bộ KH&CN và Bộ Tài nguyên Môi trường chỉ có một số nhóm nghiên cứu nhỏ, chưa đủ mạnh để thúc đẩy sự phát triển của công nghệ xanh tại Việt Nam.

- Hạn chế về hiểu biết chung và ý thức xã hội

Công nghệ xanh ở Việt Nam, mặc dù chưa được phổ biến rộng rãi, đã bắt đầu có những bước tiến đáng kể, đặc biệt là trong việc sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời Theo thống kê của Sở Tài nguyên và Môi trường TP HCM năm 2012, thành phố này có hơn 3.400 hộ gia đình sử dụng sản phẩm này, tiết kiệm khoảng 11 triệu kWh điện mỗi năm Dự báo đến năm 2015, số lượng hộ sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời có thể tăng 15% Chính quyền thành phố đã đặt mục tiêu tăng 3% số lượng sử dụng bình nước nóng năng lượng mặt trời hàng năm trong các hộ gia đình, cơ quan, nhà hàng, khách sạn và tòa nhà Đây là tín hiệu tích cực cho thấy công nghệ xanh đang ngày càng được áp dụng trong đời sống và sinh hoạt của người dân và các tổ chức tại Việt Nam.

Công nghệ xanh là một khái niệm không phải ai cũng hiểu rõ, bao gồm các ứng dụng nhằm bảo vệ môi trường Năm 2010, sinh viên Trường Đại học Bách Khoa Đà Nẵng đã thành công trong việc xử lý ô nhiễm nước thải tại hồ công viên 29/3 bằng phương pháp đất ướt, sử dụng hệ thống bể lọc trồng cây chuối hoa Mặc dù nhóm sinh viên mong muốn mở rộng mô hình này cho các ao hồ bị ô nhiễm khác, nhưng họ gặp khó khăn về kinh phí Hiện nay, nhiều gia đình vẫn sử dụng đèn tiết kiệm điện như đèn Compact và đèn LED Ở các nước phát triển như Đan Mạch và Thụy Điển, hệ thống chiếu sáng công cộng đã được áp dụng công nghệ xanh với đèn LED sử dụng năng lượng từ pin mặt trời Tuy nhiên, tại Việt Nam, ứng dụng này vẫn chỉ phổ biến ở quy mô nhỏ trong các hộ gia đình.

Công nghệ xanh đã được áp dụng rộng rãi trong đời sống tại Việt Nam, bao gồm cả công nghệ nghiên cứu trong nước và công nghệ nhập khẩu Tuy nhiên, hiểu biết của người dân về công nghệ xanh còn hạn chế, thường chỉ dừng lại ở khái niệm chung như năng lượng gió, nước, và mặt trời Điều này tạo ra những rào cản lớn trong việc phát triển và ứng dụng công nghệ xanh Để khắc phục tình trạng này, cần tăng cường công tác tuyên truyền và phổ biến kiến thức, đồng thời nâng cao vai trò của các nhà khoa học và chuyên gia công nghệ trong việc định hướng phát triển công nghệ xanh tại Việt Nam.

2.3.3 Phát triển công nghệ xanh trong tương quan của giới truyền thông và các nhà khoa học

Gần đây, nhiều bài viết và tài liệu truyền thông đã tập trung vào công nghệ xanh, đặc biệt sau Hội nghị thượng đỉnh Liên hợp quốc về phát triển bền vững (Rio+20) tại Brazil, nơi các nguyên thủ quốc gia thảo luận về phát triển bền vững và bảo vệ môi trường Hội nghị thu hút sự tham gia của hơn 90 lãnh đạo từ 191 thành viên Liên hợp quốc, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xóa đói, giảm nghèo và bảo vệ môi trường Sự quan tâm của truyền thông trong nước đối với phát triển bền vững và ứng dụng công nghệ xanh trong đời sống ngày càng gia tăng, cho thấy vai trò quan trọng của truyền thông trong việc thay đổi nhận thức xã hội về bảo vệ môi trường và nguồn nước.

Trong bài viết trên báo Khoa học và Đời sống số 129 (2014), tác giả Hương Nguyên đã trích dẫn ý kiến của GS.TSKH Lê Huy Bá, nguyên Viện trưởng Viện Tài nguyên Môi trường, Trường Đại học Công nghiệp TP HCM, nhấn mạnh rằng hầu hết các doanh nghiệp sản xuất tại Việt Nam hiện nay đang theo đuổi một con đường phát triển bền vững và chú trọng đến vấn đề bảo vệ môi trường.

"Ô nhiễm trước, xử lý sau" phản ánh tình trạng của nền kinh tế "nâu", trong đó các ngành kinh tế này chiếm tỷ trọng lớn Theo GS.TSKH Lê Huy, việc nâng cao "ý thức xanh" trong cộng đồng là bước quan trọng đầu tiên cho quá trình phát triển kinh tế xanh của đất nước.

Theo Kim Ngân trong bài viết "Công nghệ xanh cho ngành xi măng Việt Nam" đăng trên báo Tự động hóa ngày nay tháng 7/2011, việc áp dụng công nghệ xanh trong sản xuất xi măng được coi là một giải pháp hiệu quả, mang lại lợi ích kép Công nghệ nổi bật được giới thiệu là hệ thống thu hồi nhiệt thừa và đốt rác thải, giúp tiết kiệm từ 20 – 25% điện năng tiêu thụ Các nhà máy như xi măng Kiên Lương, xi măng Holcim Việt Nam và xi măng Hòn Chòng là những minh chứng cụ thể cho hiệu quả của công nghệ xanh trong ngành sản xuất này.

Trong bối cảnh Việt Nam là một trong những quốc gia chịu ảnh hưởng nghiêm trọng từ biến đổi khí hậu, các doanh nghiệp đang ngày càng chú trọng đến việc sản xuất sản phẩm công nghệ xanh Theo ông Phạm Hoàng Mai, Vụ trưởng Vụ Khoa học Giáo dục tài nguyên và môi trường, chiến lược phát triển xanh giai đoạn 2011-2020 và tầm nhìn đến năm 2050 sẽ loại bỏ những doanh nghiệp không thân thiện với môi trường Mặc dù các quy định của Chính phủ tạo ra thách thức cho doanh nghiệp trong nước, nhưng đồng thời cũng mở ra cơ hội cho họ áp dụng công nghệ hiện đại nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển xanh Chiến lược này khuyến khích các doanh nghiệp sớm chuyển đổi sang công nghệ xanh.

Trong thời gian gần đây, giới truyền thông đã tích cực tham gia vào việc phát triển và ứng dụng công nghệ xanh, với nhiều bài báo không chỉ mang tính thời sự mà còn có tác động lớn đến nhận thức của doanh nghiệp và cộng đồng Những nỗ lực này đã góp phần quan trọng trong việc thúc đẩy sự chuyển biến hướng tới công nghệ thân thiện với môi trường trong tương lai.

GIẢI PHÁP CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH KHUYẾN KHÍCH ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ XANH TRONG XỬ LÝ NƯỚC THẢI GÂY Ô NHIỄM, TẠI KHU DU LỊCH NƯỚC KHOÁNG NÓNG THANH THỦY – PHÚ THỌ

Ngày đăng: 02/07/2022, 08:22

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Tuấn Anh (2012), “Doanh nghiệp chú trọng hơn vào công nghệ xanh”, áo Thương Mại Sách, tạp chí
Tiêu đề: Doanh nghiệp chú trọng hơn vào công nghệ xanh
Tác giả: Tuấn Anh
Năm: 2012
2. Nguyễn Vân Anh (2012) “Bàn về một số vấn đề trích lập Quỹ và sử dụng Quỹ KH&CN”, Tạp chí Khoa học và công nghệ Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Bàn về một số vấn đề trích lập Quỹ và sử dụng Quỹ KH&CN”
3. Trần Ngọc Ca (2000) “Quản lý đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa”, NXB Chính trị quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý đổi mới công nghệ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp nhỏ và vừa
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
4. Nguyễn Xuân Chánh (2009) “Đất hiếm và công nghệ xanh”, Tạp chí Khoa học và Tổ quốc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đất hiếm và công nghệ xanh
5. Lan Chi (2012) “ Những xu hướng cơ bản của khoa học và công nghệ thế giới 10 năm qua và 10 năm tới”, Tạp chí Chính sách và quản lý khoa học và công nghệ Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những xu hướng cơ bản của khoa học và công nghệ thế giới 10 năm qua và 10 năm tới
8. PGS.TS Vũ Cao Đàm (2010), TS. Đào Thanh Trường “Tranh chấp môi trường” Sách chuyên khảo nghiên cứu xã hội và môi trường Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tranh chấp môi trường
Tác giả: PGS.TS Vũ Cao Đàm
Năm: 2010
9. PGS.TS Vũ Cao Đàm (1997) Xã hội học KH&CN, Trường Đại học KHXH&NV Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: ) Xã hội học KH&CN
10. TS. Trần Thu Hà (2009), “Hoàn thiện cơ chế quản lý cấp phát tài chính trong khoa học và công nghệ”, Bộ Tài chính Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Hoàn thiện cơ chế quản lý cấp phát tài chính trong khoa học và công nghệ”
Tác giả: TS. Trần Thu Hà
Năm: 2009
11. TS Nguyễn Quốc Hùng (2010), “Một số vấn đề về ô nhiễm môi trường và suy thoái đất đai ở Việt Nam hiện nay”, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số vấn đề về ô nhiễm môi trường và suy thoái đất đai ở Việt Nam hiện nay
Tác giả: TS Nguyễn Quốc Hùng
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội
Năm: 2010
12. Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng trung ƣơng (2003), “Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi trường. Một số vấn đề lý luận thực tiễn”, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chủ động ứng phó biến đổi khí hậu, đẩy mạnh công tác bảo vệ tài nguyên môi trường. Một số vấn đề lý luận thực tiễn
Tác giả: Hội đồng khoa học các cơ quan Đảng trung ƣơng
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
13. Nguyễn Sĩ Lộc (2006), “Quản lý công nghệ cho doanh nghiệp”, Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản lý công nghệ cho doanh nghiệp
Tác giả: Nguyễn Sĩ Lộc
Nhà XB: Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật
Năm: 2006
14. Kim Ngân (2011), “Công nghệ xanh cho ngành xi măng Việt Nam”, Tạp chí Automation Today Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghệ xanh cho ngành xi măng Việt Nam
Tác giả: Kim Ngân
Năm: 2011
15. Lê Văn Sơn, Phan Thị Kim Ngà, Phạm Phú Lâm, Trịnh Vũ Long (2010), Đề tài “Nghiên cứu kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hồ công viên 29-3 (Đà Nẵng bằng mô hình đất ướt” trường ĐH ách khoa Đà N ng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu kiểm soát ô nhiễm nguồn nước hồ công viên 29-3 (Đà Nẵng bằng mô hình đất ướt
Tác giả: Lê Văn Sơn, Phan Thị Kim Ngà, Phạm Phú Lâm, Trịnh Vũ Long
Năm: 2010
16. Nguyễn Hữu Xuyên, Nguyễn Thị Lan Hương (2013), “Hiệu quả chính sách đào tạo nhằm khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường”, Tạp chí Chính sách và quản lý KH&CN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hiệu quả chính sách đào tạo nhằm khuyến khích doanh nghiệp đổi mới công nghệ theo hướng thân thiện với môi trường
Tác giả: Nguyễn Hữu Xuyên, Nguyễn Thị Lan Hương
Năm: 2013
17. Quốc hội (2005), Luật Bảo vệ môi trường số 52/2005/QH11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Luật Bảo vệ môi trường
Tác giả: Quốc hội
Năm: 2005
20. PGS.TS Phan Minh Tân, PGS.TS Nguyễn Kỳ Phùng (2013), “Tăng trưởng xanh và vai trò đổi mới công nghệ tại các nước đang phát triển”, Tạp chí Chính sách và quản lý KH&CN Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tăng trưởng xanh và vai trò đổi mới công nghệ tại các nước đang phát triển
Tác giả: PGS.TS Phan Minh Tân, PGS.TS Nguyễn Kỳ Phùng
Năm: 2013
21. PGS.TS Nguyễn Đình Tài (1997), “Sử dụng công cụ tài chính, Tiền Tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển”, Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sử dụng công cụ tài chính, Tiền Tệ để huy động vốn cho đầu tư phát triển
Tác giả: PGS.TS Nguyễn Đình Tài
Nhà XB: Nhà xuất bản Tài chính Hà Nội
Năm: 1997
22. Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia (2007), “Chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường. Những khía cạnh liên quan đến thương mại”, Tổng luận tháng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Chuyển giao công nghệ thân thiện với môi trường. Những khía cạnh liên quan đến thương mại
Tác giả: Trung tâm Thông tin KH&CN Quốc gia
Năm: 2007
6. Cổng thông tin điện tử Phú Thọ: http://www.phutho.gov.vn Link
7. PGS.TS Vũ Cao Đàm (2011): Giáo trình Khoa học chính sách, NXB Khoa học kỹ thuật Khác

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w