TRONG DÒNG CHẢY TRUYỀN KÌ
Phần lí luận: Tình hình phát triển của thể loại truyền kì trong Văn học Việt Nam và thế giới
trong Văn học Việt Nam và thế giới
Thuật ngữ là từ hoặc cụm từ cố định được sử dụng trong các chuyên ngành để diễn đạt chính xác các khái niệm và đối tượng liên quan Để đảm bảo tính chính xác, thuật ngữ thường tập trung vào mối quan hệ một – nối – một giữa hình thức và nội dung Trong nghiên cứu khoa học, việc xác định chính xác tên gọi của đối tượng nghiên cứu là điều kiện tiên quyết.
Truyền kì là một thể loại văn xuôi nghệ thuật có nguồn gốc từ thời văn học cổ, đặc trưng bởi yếu tố kỳ ảo Tuy nhiên, ngay từ những ngày đầu xuất hiện, thể loại này chưa được định danh một cách cụ thể và chính xác như hiện nay Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ một số thuật ngữ gần gũi hoặc thường bị nhầm lẫn với truyền kì, nhằm cung cấp những giải thích và phân biệt chúng theo quan điểm cá nhân.
1.1.1.1 Yếu tố kì ảo và văn học kì ảo
Nghiên cứu các loại từ điển về thuật ngữ truyền kỳ cho thấy yếu tố kỳ lạ là một thành phần không thể thiếu, được nhiều nhà làm từ điển quan tâm Theo văn hóa Trung Hoa, tên gọi của truyền kỳ xuất phát từ những tình tiết kỳ lạ và thần dị.
Từ điển văn học năm 1984 của Nhà xuất bản Khoa học xã hội và Từ điển văn học (từ nguồn gốc đến hết thế kỉ XIX) của Nhà xuất bản Giáo dục năm 1999 đều nhấn mạnh vào các “môtip kì quái, hoang đường” trong mục Truyền kì.
Nhưng trên thế giới đến nay vẫn chưa dễ gì có một quan niệm thống nhất về yếu tố kì ảo và văn học kì ảo
Các nhà nghiên cứu đồng thuận rằng kì ảo (fantastic) liên quan đến những điều không thể xảy ra (impossible) và siêu nhiên (supernatural) Tuy nhiên, không phải mọi đề cập đến siêu nhiên hay không thể xảy ra đều được coi là kì ảo Cần phân biệt rõ giữa kì ảo và các khái niệm như tưởng tượng hư huyễn (fantasy) hay huyền diệu (marvellous).
Kì ảo bắt nguồn từ văn học dân gian với những truyện cổ tích và truyền thuyết, nhưng chỉ đến cuối thế kỉ XVIII, khi chủ nghĩa duy lí ra đời, xã hội mới có điều kiện để hình thành một lớp nhà văn có ý thức rõ ràng về việc sáng tạo một hình thái ý thức thẩm mĩ mới Điều này đã dẫn đến sự ra đời của một thể loại văn học mới: văn học kì ảo.
1.1.1.2 Thuật ngữ “Truyền kì” và thuật ngữ liên quan
Truyền kì (fantasy) và kì ảo (fantastic) có những điểm khác biệt rõ rệt Thuật ngữ truyền kì đã trải qua gần một nghìn năm phát triển, phản ánh sự tiến hóa của thể loại này trong văn học.
Trong văn xuôi tự sự Việt Nam thời trung cổ, thuật ngữ "truyền kì" không xuất hiện ngay từ đầu Vào cuối thời kỳ Bắc thuộc và đầu thời đại tự chủ, một số tác phẩm có liên quan đến thể loại truyện kì ảo vẫn được ghi nhận, như Sử kí của Đỗ Thiện, Báo cực truyện và Giao Châu kí của Triệu.
Chúng tôi xin chân thành cảm ơn PGS.TS Vũ Thanh đã hỗ trợ rất nhiều trong việc viết phần này, mặc dù đây chỉ là một phần nhỏ nhưng lại đòi hỏi kiến thức sâu rộng và sự khảo sát kỹ lưỡng.
Công), Giao Chỉ kí (Tăng Công)… 4 đều không một tên sách nào xuất hiện thuật ngữ đó
Trong giai đoạn Lí – Trần, hai tác phẩm nổi bật với yếu tố kỳ ảo là "Việt điện u linh tập lục" của tác giả Lí Tế Xuyên và "Lĩnh Nam chích quái liệt truyện" của tác giả Trần Những cuốn sách này không chỉ phản ánh văn hóa và tín ngưỡng dân gian mà còn thể hiện sự phong phú của trí tưởng tượng trong văn học thời kỳ này.
Trong các tác phẩm văn học, chưa có truyện nào sử dụng thuật ngữ "truyền kì" để đặt tên, mà thay vào đó, hai thuật ngữ "u linh" và "chích quái" được sử dụng, thể hiện sự phong phú và huyền ảo hơn trong nội dung.
Cuối đời Trần và Hồ, ngoài cuốn Nam Ông mộng lục của Hồ Nguyên
Trừng, còn vài ba cuốn truyện có chứa yếu tố kì khác như Tăng Đạo thần thông, Minh Không thần dị…
Vào cuối thế kỉ XV và đầu thế kỉ XVI, văn học Việt Nam lần đầu tiên ghi nhận thuật ngữ "truyền kì" trong tập thơ Việt giám vịnh sử thi Đồng thời, sử gia và thi gia Đặng Minh Khiêm đã tổng kết sự nghiệp của nhà văn hóa Vũ Quỳnh, khẳng định vai trò quan trọng của ông trong nền văn học thời bấy giờ.
Việt giám nhất thiên châm khả pháp Hưu ngôn Chích quái hựu Truyền kì
(Một tập Việt giám thật đáng để làm khuôn phép Khỏi cần bàn đến Chích quái với lại Truyền kì )
Theo học giả Nguyễn Huy Khánh, thuật ngữ "Truyền kì" mang ý nghĩa mỉa mai và biếm nhã, khác với cách hiểu hiện nay Lỗ Tấn cũng nhấn mạnh rằng hai chữ "Truyền kì" thời bấy giờ thực chất là ngụ ý chê cười, không giống như định nghĩa mà chúng ta áp dụng ngày nay.
Chữ "Truyền kì" hiện nay được giải thích trong sách "Thuyết văn giải tự" với nghĩa là "Truyền" có nghĩa là chuyển đi, mang chức năng ngữ pháp của động từ, trong khi "kì" mang ý nghĩa riêng biệt.
4 Đều được dẫn trong Việt điện u linh tập lục lạ” (kì giả dị), trong quá trình sử dụng, chữ này mang nét nghĩa khác là “ít thấy”,
"Truyền Kì" là một cụm từ thể hiện sự biến hóa khó lường, mang ý nghĩa truyền đạt những điều kỳ lạ Cấu trúc động tân của cụm từ này cho thấy sự kết hợp giữa hai yếu tố, tạo nên một tổ hợp từ độc đáo.
Truyền kì thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX: Vài nét về hoàn cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa, văn học
hoàn cảnh xã hội, lịch sử, văn hóa, văn học
1.2.1 Bối cảnh chính trị xã hội, văn học Đây là giai đoạn khủng hoảng sâu sắc và bùng nổ dữ dội của những mâu thuẫn chất chứa từ lâu trong lòng xã hội phong kiến Việt Nam, chế độ chuyên chế bước vào giai đoạn khủng hoảng trầm trọng và không có lối thoát Nền kinh tế suy sụp một cách toàn diện, nông nghiệp đình đốn, công thương nghiệp và công nghiệp đều bị đình trệ, đời sống nhân dân đói kém Về chính trị, bộ máy chính quyền phong kiến giai đoạn này vừa chuyên chế lại vừa sâu mọt Hậu quả của việc nội bộ giai cấp phong kiến vốn đã mâu thuẫn gay gắt từ thế kỉ XVI, hết chiến tranh Lê – Mạc rồi lại đến Trịnh – Nguyễn Nhà Mạc tiếm ngôi vua Lê, nhưng nhà Hậu Lê vẫn tồn tại song song với nhà Mạc từ năm 1533 đến 1592 Với danh nghĩa phò Lê, chúa Trịnh đã đánh đổ nhà Mạc, nhưng trên thực tế, vua
Thời kỳ này chứng kiến sự rối ren của bộ máy nhà nước, khi quyền lực của chúa Trịnh ở Đàng Ngoài rất lộng quyền, trong khi triều Tây Sơn ở Đàng Trong thất bại trước Nguyễn Ánh Tuy nhiên, thực tế cho thấy cả hai chế độ phong kiến ở Đàng Trong và Đàng Ngoài đều đang đối mặt với khủng hoảng nghiêm trọng và dần đi đến sự sụp đổ.
Mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp thống trị ngày càng rõ rệt, đặc biệt trong bối cảnh Trịnh – Nguyễn tồn tại song song từ năm 1558 đến 1789, gây ra nhiều khổ đau cho quần chúng Sự bùng nổ của phong trào khởi nghĩa nông dân là điều tất yếu, khi các cuộc đấu tranh liên tục làm tan rã sự thống nhất trong chính quyền phong kiến và gia tăng mâu thuẫn xã hội Từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, phong trào nông dân khởi nghĩa diễn ra mạnh mẽ, nổi bật là cuộc nổi dậy của nghĩa quân Tây Sơn vào cuối thế kỷ XVIII, đã quét sạch kẻ thù và thống nhất đất nước, nhưng cuối cùng vẫn thất bại Triều đình phong kiến nhà Nguyễn được thiết lập với thể chế nặng nề hơn, trong khi đất nước rơi vào khủng hoảng và đối mặt với sự xâm lăng của thực dân Pháp.
Văn học giai đoạn này nổi bật với việc khám phá và khẳng định giá trị chân chính của con người, đánh dấu một thời kỳ rực rỡ trong lịch sử văn học Việt Nam Các thể loại văn học, từ bác học đến bình dân, phát triển mạnh mẽ, với văn học chữ Nôm trở thành phương tiện thể hiện lòng yêu nước và tâm tư sâu kín của con người Chủ đề con người và cuộc sống được đặt lên hàng đầu, dẫn đến sự đổi mới trong ngôn ngữ và thể loại, với sự ra đời của nhiều thể loại mới như truyện Nôm, hát nói và tuồng Những thể loại này tạo nên diện mạo đa sắc cho văn học dân tộc, mỗi thể loại đều có những tác phẩm tiêu biểu góp phần vào bức tranh chung của văn học Việt Nam Trong đó, thể loại truyền kì nổi bật với sự khác lạ và độc đáo.
1.2.2 Thời kì nở rộ của thể loại truyền kì
Sau đỉnh cao của Thánh Tông di thảo và Truyền kì mạn lục, thể loại truyền kì đã trải qua một giai đoạn chững lại từ giữa thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII, khi mà không còn nhà văn nào theo đuổi con đường mà Nguyễn Dữ đã mở ra Việc sử dụng yếu tố kì ảo như công cụ nghệ thuật chính không còn được đón nhận bởi tác giả và độc giả thời bấy giờ Sự chững lại này có thể hiểu là một qui luật của văn học, khi Truyền kì mạn lục trở thành một đỉnh cao khó vượt qua, khiến các nhà văn trung đại chỉ biết ngưỡng mộ mà không thể xây dựng được tác phẩm mới Thêm vào đó, lòng tự tôn lớn của các tác giả, phần lớn là nhà nho, đã khiến họ chọn cách "tạm lánh" khỏi lĩnh vực có sự thống trị của thể loại này Quan niệm truyền kì là thể loại mê tín dị đoan, cần phải bài trừ, cũng là một lý do góp phần vào sự vắng bóng của thể loại này trong giai đoạn này.
1.1.2.2 chúng tôi đã nêu) Nhưng chủ yếu vẫn là do phong trào thực học, hướng đến thực tiễn Bắt đầu từ thời kì này, các nhà nho bắt đầu lấy cuộc sống thực làm lăng kính soi chiếu vào tác phẩm và là thước đo đánh giá giá trị của tác phẩm Chính vì thế, các tác giả và độc giả đã phải tránh việc sáng tác, sưu tầm, lưu giữ và tận hưởng những câu chuyện mang màu sắc kì ảo ấy
Sự tạm vắng trong văn học như một bước chuẩn bị cho sự bùng nổ mạnh mẽ ở thế kỷ XVIII, khi nền kinh tế chính trị có những biến chuyển lớn, dẫn đến sự bộc lộ tâm tư cá nhân Thể loại truyền kì đạt đến đỉnh cao với sự xuất hiện của nhiều tác giả và tác phẩm phong phú, như Truyền kì tân phả, Lan Trì kiến văn lục, và Tân truyền kì lục Các tác phẩm này không chỉ đa dạng mà còn liên tục ra đời, góp phần làm rực rỡ bầu trời văn hóa nghệ thuật trung đại, mang lại sức sống mới cho văn học thời kỳ này.
Ngọc thân huyễn hóa và hàng chục tập “tăng bổ”, “tục bổ” đã cải biên hai cuốn sách cổ Lĩnh Nam chích quái và Việt điện u linh Sự tự tin và đĩnh đạc trong các tác phẩm của các nhà nho trung đại như Vũ Phương Đề, Vũ Trinh, Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Nguyễn Huy Hổ, Gia Cát thị, Phạm Quí Thích, cùng với nhiều tác giả khuyết danh, đã tạo nên một kho tàng văn học phong phú, vẫn còn giữ nguyên giá trị đến ngày nay.
Giai đoạn này không chỉ có sự phong phú về số lượng mà còn mang tính chất đa dạng, với những đặc điểm mới so với đỉnh cao của thế kỷ XV-XVII Những đặc điểm này sẽ được nêu và phân tích cụ thể trong chương 2 của luận văn.
Trong chương 1, chúng tôi đã xem xét quá trình phát triển và các thuật ngữ liên quan đến truyền kì, trong đó văn học kì ảo được coi là tên gọi chung cho thể loại chưa được xác định rõ ràng Tính chất "kì" là đặc điểm nổi bật của truyền kì, là cơ sở để nghiên cứu sự đổi mới trong nghệ thuật biểu hiện của thể loại này từ thế kỷ XVIII đến nửa đầu thế kỷ XIX, đặc biệt là sự chuyển đổi trong mối quan hệ giữa kì và thực Chương 1 cũng đã khẳng định rằng việc sử dụng thuật ngữ "truyền kì" là hoàn toàn phù hợp để chỉ các tác phẩm trong dòng văn học kì ảo trong giai đoạn này, thay vì các thuật ngữ tương đồng khác như linh, chí, quái, kì, dị.
Truyền kì Việt Nam, cùng với các truyền kì thế giới, đặc biệt là từ phương Tây và Trung Hoa, đã phát triển suốt gần một ngàn năm Thời gian này, tuy không dài trong tiến trình dân tộc, nhưng đủ để kiểm nghiệm giá trị và sức sống của nó Đặc biệt, trong thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, mặc dù đất nước đối mặt với nhiều khủng hoảng chính trị và kinh tế, văn hóa và văn học, đặc biệt là truyện truyền kì, lại phát triển rực rỡ với sự phong phú về thể loại và những đỉnh cao hiếm có.
5 Xin xem cụ thể trong chương 3 của Luận văn
NHỮNG XU HƯỚNG MỚI TRONG NỘI DUNG PHẢN ÁNH
Sự chuyển hướng trong tư tưởng
Tư tưởng là một yếu tố quan trọng trong văn học, bao gồm tư tưởng tôn giáo, triết học, đạo đức và mĩ học Nguồn gốc của tư tưởng có thể xuất phát từ nhiều lĩnh vực khác nhau, nhưng cũng có thể là sản phẩm của chính văn học Nó thể hiện quan điểm mà nhà văn muốn truyền tải qua hình tượng tác phẩm Chất lượng và giá trị của tác phẩm chủ yếu phụ thuộc vào chủ đề, trong khi các yếu tố như ngôn ngữ và biện pháp chỉ là công cụ hỗ trợ cho tư tưởng và không phải là tiêu chí chính để đánh giá tác phẩm.
Tư tưởng trong văn học là một hiện tượng phức tạp và thường chứa đựng mâu thuẫn Điều này đặc biệt rõ nét ở các nhà văn trong những giai đoạn lịch sử xã hội biến động, như thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX.
Trong nghiên cứu tư tưởng, hai yếu tố quan trọng cần chú ý là "lí thuyết màu xám" và "cây đời xanh tươi", phản ánh lí thuyết của đạo Nho và tâm trạng của tác giả Các nhà nghiên cứu nhấn mạnh rằng lí thuyết này liên quan đến tư tưởng giải thoát của Lão Trang, thể hiện sự sâu sắc trong cách nhìn nhận cuộc sống và con người.
2.1.1 Trung thành với lí tưởng Nho gia
Tư tưởng từ bi bác ái của đạo Phật và học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho gắn liền với truyền thống yêu nước của nhân dân Việt Nam Đạo Phật, với những giá trị tích cực, đã làm phong phú thêm tình thương giữa con người, tạo ra những tư thế sống khỏe khoắn và lành mạnh Học thuyết nhân nghĩa của đạo Nho được người Việt tiếp thu và cải biến theo hướng dân tộc hóa, phản ánh sự thay đổi của lịch sử dân tộc, với mỗi giai đoạn đều có sự thịnh suy riêng của Nho giáo.
Sự kiện Lê trung hưng, bắt đầu từ triều đại Lê Trang Tông (1533 – 1548), đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử tư tưởng Nho giáo Giai đoạn này đã dẫn đến những thay đổi lớn trong quan niệm văn học, từ đó ảnh hưởng sâu sắc đến nội dung và hệ thống văn học của các thế kỷ tiếp theo.
Cuối thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII, triều Lê được khôi phục và Nho giáo được tái khẳng định Từ thời điểm này, tư tưởng Nho giáo ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư duy của các nhà văn, khiến tâm lý sùng cổ trở thành một rào cản Các tác giả lịch sử buộc phải trở lại con đường phục cổ, tôn thờ các tác phẩm như Việt điện u linh tập và Lĩnh.
Nam chích quái lục phản ánh dấu ấn hưng thịnh của đạo Phật thời nhà Trần, tuy nhiên, chỉ còn lại trong Công dư tiệp kí của Vũ Phương Đề với tư tưởng “món nợ oan gia và cái thuyết báo ứng của nhà Phật không phải là hư truyền” Kiếp sau của sư bật sô, một vị quan Nam triều, không làm theo lời vua Minh, để lại mối hận cho thế hệ sau Sư chăn trâu Linh Thông, được Phật đầu thai, đã giúp dân khi còn sống và tiếp tục chống giặc Ngô Trong hai truyện này, ta gặp những thuật ngữ Phật giáo như “bật sô” và “Nước tám đức”, nhưng dấu tích của đạo Phật dần lu mờ trong các tác phẩm truyền kỳ khác, nhường chỗ cho tư tưởng Nho gia và lý tưởng Khổng Tử được tôn vinh trong thời đại này.
Nho giáo là một học thuyết chính trị - đạo đức Nền thịnh trị của thời
Nghiêu và Thuấn được coi là hình mẫu xã hội lý tưởng trong tư tưởng Nho giáo Việt Nam, yêu cầu một bộ máy cai trị với những vị vua và quan chức sáng suốt, yêu thương và có trách nhiệm với dân Đạo Nho nhấn mạnh việc tu dưỡng bản thân và trị nhân, với hình mẫu lý tưởng là thánh nhân quân tử, bao gồm các bậc vua chúa, thánh nhân, anh hùng, cùng những nhân vật nổi bật trong Nho giáo và Thiền học Những nhân vật lịch sử này thường thuộc các “thế gia”, thể hiện tài đức và phẩm cách phi thường.
Trong văn hóa Việt Nam, các khái niệm như “danh thần”, “danh nho” và “tiết nghĩa” thể hiện những phẩm chất cao quý của những người trung thành, con hiếu và kẻ sĩ nghĩa hiệp Đồng thời, những câu chuyện về “thần quái” và “âm phần dương trạch” cũng có sự liên kết chặt chẽ với hình ảnh của thánh nhân quân tử, phản ánh sâu sắc giá trị đạo đức và tinh thần của dân tộc.
Qua việc khảo sát cụ thể hai mươi hai truyện trong Công dư tiệp kí của
Vũ Phương Đề, chúng ta có thể thấy tập truyện này phản ánh rất rõ phạm vi nhân vật được nhà nho quan tâm
Bảng phân loại loại nhân vật trong Công dư tiệp kí
Thế gia Danh thần Danh nho Tiết nghĩa Thần quái
- Kiếp sau của sư Bật
- Sư chăn trâu linh thông
- Nguyễn Giám sinh là vua đất Bắc
- Thượng thư Lương Hữu Khánh
- Thám hoa được giáng xuống Phù Khê
- Bố già lặn xuống vực tìm con gái
- Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ
Trần lấy thiên hạ - Thám hoa
Trong 22 truyện của Công dư tiệp kí, chỉ còn Nghề mọn nên quan và Kẻ trộm lừa thần thánh là không có yếu tố chủ đạo về những bậc thánh nhân quân tử, nhưng Nghề mọn nên quan cũng là truyện thuộc kiểu “âm phần dương trạch”, từ đó có thể thấy được mối quan tâm và loại nhân vật hàng đầu trong tác phẩm của các tác giả truyền kì giai đoạn này, nó thể hiện phần nào tư tưởng của người theo đức Khổng
Các nhân vật thánh nhân quân tử thường hoạt động trong không gian rộng lớn, mang tầm vóc vũ trụ, như một vùng, quốc gia hoặc liên quốc gia Ví dụ, Quan Quận công họ Điền trong Thần miếu Kim Tung đã thực hiện nhiệm vụ quan trọng như đắp đê và dẹp loạn, thể hiện vai trò của một quan lại đại diện cho quốc gia Nhiều viên quan khác cũng đảm nhận chức trách bảo vệ vùng đất, đóng vai trò như cha mẹ của dân, kết nối triều đình với nhân dân Không gian liên quốc gia, như việc đi sứ, là nơi thể hiện rõ nhất phẩm chất của bậc chính nhân, trong khi không gian vi mô như con đường hay mái nhà thường gắn liền với cuộc sống riêng tư hơn là hoạt động chính trị Quan niệm Nho gia về "thiên hạ" và "tam tài" thiên – địa – nhân cho thấy rằng những danh thần, danh nho phải là những người có khả năng cai quản đất nước.
Những hoạt động xã hội truyền thống của nhân vật theo lí tưởng Nho gia từ xưa đến nay chủ yếu xoay quanh thi cử, đỗ đạt và làm quan Theo khảo sát, ngoài sáu truyện liên quan đến thi cử, nhiều truyện nói về việc làm quan như Thượng thư Lương Hữu Khánh, Thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, và Quan Thượng họ Đỗ Số liệu thống kê về số khoa thi và tiến sĩ từ năm 1075 đến 1919 cho thấy triều Lê có số lượng khoa thi và tiến sĩ nhiều nhất so với các triều đại khác như Lí, Trần, Hồ, Mạc, Nguyễn Điều này phản ánh chính sách chiêu hiền đãi sĩ của nhà Lê, đồng thời thể hiện sự phát triển của lí tưởng trung quân và khát vọng thi đỗ trong giới nho sĩ.
Theo quan niệm Nho gia, tài năng văn chương là dấu hiệu bộc lộ thiên phú, phản ánh nhân cách của con người, với câu nói "Văn chương nết đất, thông minh tính trời" Thơ văn không chỉ thể hiện phẩm chất cá nhân mà còn cho thấy năng lực hoạt động chính trị - xã hội Nhiều tác phẩm văn học nhấn mạnh tài năng này qua việc sáng tác thơ, ứng đối nhanh nhẹn của các nhân vật, như chàng họ Đào trong "Con chó nhà nghèo có nghĩa" (Tân truyền kì lục).
Phạm Quí Thích được biết đến với tài năng văn thơ đặc biệt, ông thường sáng tác tại những danh lam thắng cảnh, cổ miếu, quán nghỉ mát, và những địa điểm lý tưởng để ngâm vịnh.
Bài viết nhấn mạnh rằng thơ văn không chỉ là phương tiện thể hiện khát vọng và chí khí của nhân vật, mà còn giúp họ đạt được thành công trong triều chính Vũ Phương Đề đã khéo léo dành một truyện để mô tả cuộc thi thơ giữa hai vị quan tương lai của triều đình, qua đó phản ánh tài năng, chí hướng và bản lĩnh của kẻ sĩ Lời văn tinh luyện và ngụ ý sâu xa của các nhân vật khiến họ được ca ngợi là bậc chủ soái trong làng thơ văn.
Đề tài gắn với đời sống thế sự
Truyền kì đời Đường bao gồm nhiều thể loại như thần quái, tình yêu, lịch sử và hiệp khách, nhưng chủ yếu tập trung vào đời sống thực tế Tác giả sử dụng các tình tiết ly kỳ và nhân vật đa dạng để thể hiện sự bất mãn và châm biếm đối với những hiện tượng xấu trong xã hội Đồng thời, họ cũng gửi gắm lý tưởng và ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp hơn.
Bản trường ca một vạn bốn nghìn dòng Thần khúc của Đantơ (1265-
Nhà thơ cuối cùng của trung thế kỉ và cũng là nhà thơ đầu tiên của thời đại mới đã miêu tả một cuộc dạo chơi qua ba giới: địa ngục, luyện ngục và thiên đàng Những trải nghiệm này không chỉ mang tính chất hư cấu mà còn phản ánh sâu sắc hiện thực lịch sử của Italia, đặc biệt là phần địa ngục, nơi ông đề cập đến nhiều vấn đề chính trị xã hội lớn lao và tìm kiếm con đường giải thoát cho dân tộc Sử dụng hình thức văn học truyền kỳ thời trung đại, nhà thơ tự kể lại hành trình của mình khi lạc vào một khu rừng tối tăm, đối mặt với hiểm nguy nhưng cuối cùng được cứu rỗi để khám phá thế giới Toàn bộ tác phẩm tỏa ra ánh sáng tư tưởng chống lại thần quyền phong kiến, thể hiện tiến trình của nhân loại từ những đam mê lầm lạc, trải qua khổ đau thử thách để đạt đến chân thiện mỹ.
Truyền kì Việt Nam đã phản ánh hiện thực một cách rõ nét, tạo nên giá trị lớn trong thời kỳ này với những tác phẩm mang tính chất hiện thực cao Đề tài trong giai đoạn này gắn liền với đời sống xã hội, thể hiện qua những tác phẩm của các tác giả như Phạm Đình Hổ, Nguyễn Án, Vũ Trinh, với các mô tả trực tiếp và ấn tượng về một thời kỳ biến động trong lịch sử Những bức tranh hiện thực này đã phá vỡ nguyên tắc thẩm mỹ truyền thống của văn học nhà nho, nhấn mạnh sự chuyển mình của thể loại truyền kì từ tưởng tượng sang việc quan sát và mô tả các yếu tố thực tế trong cuộc sống.
Các tác giả ghi chép lại những hiện tượng kỳ lạ, phản ánh những vấn đề xã hội sâu sắc Dốc Lôi Thủ (Lan Trì kiến văn lục) phản ánh tình trạng trộm cướp lan tràn sau năm Canh Thân – Tân Dậu (1740 – 1741), khiến nhiều người dân gặp nạn: “giặc cướp nổi lên như ong, lại thêm mất mùa dịch bệnh, người chết đầy đường… Hải Dương, Kinh Bắc nặng nhất, vùng Tây Nam, Thanh Hóa nhẹ hơn” Tượng Già lam tại ngôi chùa ngoài đồng (Tang thương ngẫu lục) ghi lại tình trạng dâm ô trong xã hội, với mô tả về vị thần hộ pháp “cao hơn một trượng, mặt đỏ như gấc… lôi người đàn bà vào trong chùa”, cùng hệ quả “người đàn bà… mê mệt như say, pho tượng Già lam thì sắc mặt thốt nhiên biến đổi”.
Nhiều tác phẩm văn học đã mạnh mẽ phê phán các vấn đề xã hội nhức nhối như chiến tranh, nạn đói, và tình trạng bắt phu, bắt lính Yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm giúp mở rộng không gian và làm rõ chân tướng của hiện thực Chẳng hạn, trong "Tang thương ngẫu lục", hình ảnh người nông phu phản ánh thảm cảnh binh đao và nỗi khổ đói khát của xã hội Tác phẩm từ An Mô lại khắc họa sự lo âu thường trực của người dân trước cảnh bắt lính, đến mức cái chết không còn là nỗi sợ hãi lớn nhất Những sự kiện được mô tả như những thực tế trần trụi, với tác giả chỉ đơn thuần là người ghi chép và mô tả lại một cách chân thực Không gian của câu chuyện diễn ra giữa cuộc sống con người, với góc nhìn thực tế, khiến tính chân thực vượt trội hơn màu sắc kỳ ảo.
Nhiều tác phẩm văn học thể hiện sự đối lập rõ rệt giữa cuộc sống xa hoa của giai cấp thống trị và nỗi khổ cực của người dân nghèo Tuy nhiên, điều này cũng phản ánh sức mạnh phản kháng của họ trước các thế lực áp bức Chẳng hạn, trong tác phẩm "Kẻ trộm lừa thần thánh" của Công dư tiệp kí, có câu: “Một đứa ăn trộm chỉ dùng một chút trí không mà cũng lừa dối được thần linh, thì sự diệu dụng của người xưa, có chỗ cơ xảo đến quỉ thần cũng khó lường, hẳn không phải là vu khoát vậy.” Câu nói này khẳng định khả năng khôn ngoan và phản kháng của con người trước những bất công trong xã hội.
Sự băng hoại đạo đức hiện diện ở mọi tầng lớp xã hội, từ những kẻ trộm cắp cho đến các quan chức triều đình và cả những vị thần thánh được tôn kính Điều này phản ánh sự suy thoái nghiêm trọng của thể chế chính trị, mà dưới sự cầm quyền của triều đại này, được coi là "chuyên chế và phản động nhất" trong lịch sử Việt Nam.
Nguồn gốc xuất thân của các quan ngày nay rất đa dạng, không còn mang tính cao quý và đơn giản như trước đây khi họ được xem là người được “thiên mệnh” Sự thay đổi này được phản ánh qua các tác phẩm văn học, đặc biệt là trong thơ ca trào phúng đầu thế kỉ.
XX đã viết về những quan lớn như thế này:
Lính hầu thuở nọ tay đeo tráp
Cụ lớn ngày nay ngực gắn sao
Trong tác phẩm "Tên ăn trộm – Lan Trì kiến văn lục", hai tên trộm tài ba gặp gỡ và thi thố khả năng ăn trộm Sau khi cạnh tranh, họ quyết định từ bỏ nghề trộm cắp và gia nhập quân đội triều đình Cuối cùng, một người trở thành Tham tướng tại Sơn Tây, trong khi người kia được bổ nhiệm làm Suất đội trong phủ Đô đốc.
Mặc dù có những khía cạnh tối tăm trong xã hội, nhưng vẫn tồn tại nhiều điểm sáng trong các tác phẩm của Phạm Đình Hổ, đặc biệt là những khung cảnh thiên nhiên quen thuộc và gần gũi, cùng với những câu chuyện về các con vật mang tính giáo dục (14/86 truyện) trong "Lan Trì kiến văn lục" Nổi bật là những nhân vật lịch sử và anh hùng dân tộc, chiếm 25/86 truyện, như thám hoa Nguyễn Đăng Cảo, người đã dùng tài năng và sự thông minh của mình để thuyết phục vua nhà Thanh bãi bỏ lệnh cạo đầu Cùng với đó, trạng nguyên Nguyễn Đăng Đạo, nổi bật với cá tính mạnh mẽ và tài năng thơ ca, đã nhận được sự khen ngợi từ Phạm công và được Ngô hầu tha tội Ông Nguyễn Duy Thì trong "Tang thương ngẫu lục" cũng được nhắc đến như một quan chức đáng kính.
Tể tướng nổi tiếng trong thời kỳ Trung hưng đã thể hiện sự ngay thẳng và khéo léo trong việc điều chỉnh ý kiến của vua chúa, giúp gỡ tội cho nhiều người dân và ngăn chặn những cám dỗ về sắc dục Những phẩm chất tốt đẹp này được ghi lại một cách chân thực trong tác phẩm, phản ánh cuộc sống tươi sáng giữa bối cảnh nhân phẩm bị xem thường, trộm cắp gia tăng và đạo đức suy thoái Điều này cho thấy những tính cách trung hậu của các vị quan đầu triều thật sự quý giá và xứng đáng được ca ngợi.
Cảm hứng hiện thực đã ảnh hưởng sâu sắc đến ngòi bút của các nhà văn, tạo nên những tác phẩm có tính hiện thực cao, khác biệt với văn học trung đại vốn nhiều biểu tượng và điển cố Những ghi chép này mang đến cái nhìn cụ thể và trực diện, cho phép người đọc cảm nhận hiệu quả ngay lập tức.
2.2.2 Nghiêng về khảo cứu Ở giai đoạn trước, tiêu biểu là trong Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, đạo lí Nho giáo về quan hệ vua tôi, thầy trò, vợ chồng, cha con, bè bạn… được đề cập khá nhiều và rõ nét, thậm chí tác giả luôn đi sâu mô tả diễn biến tâm lí của nhân vật trong những mối quan hệ này ( Người con gái Nam Xương ,
Chuyện nghiệp oan của Đào thị …) Bởi ai cũng biết, một đặc trưng cơ bản của
Nho giáo nhìn nhận con người qua các mối quan hệ luân thường, không công nhận sự tồn tại độc lập của cá nhân mà nhấn mạnh vào các quan hệ như vua – tôi, cha – con, anh – em, và chồng – vợ Nhà nghiên cứu Trần Đình Hượu đã chỉ ra rằng trong xã hội lý tưởng của Nho giáo, con người sống theo trật tự đẳng cấp, nơi tước vị quyết định giá trị của mỗi cá nhân Cuộc sống trong cộng đồng, xã hội hay nhà nước cũng phản ánh cấu trúc gia đình, với mỗi người đảm nhận những chức năng luân thường cụ thể.
Đọc các tập truyện truyền kì Việt Nam từ thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX, người đọc sẽ cảm nhận như đang nghiên cứu những tác phẩm học thuật ấn tượng, với nội dung chủ yếu xoay quanh các kỳ thi, tìm đất đặt mộ, và mô tả về danh nhân lịch sử Ít gặp những câu chuyện về ma quái như trong bộ Liêu Trai chí dị của Bồ Tùng Linh.
Xu hướng viết về người thật, việc thật
PGS.TS Vũ Thanh đã chỉ ra rằng trước Thánh Tông và Nguyễn Dữ, các tác giả truyện kỳ ảo chủ yếu viết về những nhân vật quan trọng như anh hùng dân tộc, thần thoại, vua chúa và các bậc tu hành Tuy nhiên, với tác phẩm Thánh Tông di thảo và Truyền kỳ mạn lục, hiện thực không chỉ gắn liền với những bối cảnh trọng đại mà còn mở rộng đến những sự kiện và con người bình thường, bao gồm cả những người thuộc tầng lớp dưới như gái điếm, kẻ ăn mày và thuyền chài Sự xuất hiện của những yếu tố bình thường này không làm giảm giá trị của truyện, mà còn đánh dấu một giai đoạn mới trong tư duy mỹ học và khẳng định một loại hình mới trong sự khái quát hóa nghệ thuật.
2.3.1 Những nhân vật lịch sử
Nội dung của các tác phẩm truyền kỳ thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX chủ yếu dựa vào cốt truyện từ chính sử, với các sự kiện và nhân vật có thật trong lịch sử Đây là một bút pháp phổ biến trong văn học viết thời trung đại Trong số 86 truyện được khảo sát, có đến 25 truyện có nhân vật chính là những nhân vật lịch sử, như nho sinh, quan tài năng và anh hùng dân tộc.
Bảng thống kê nhân vật lịch sử
STT Tên truyện Nhân vật lịch sử Tổng số
1 Tìm đất đền ơn Thượng thư Nguyễn Văn
2 Thủ khoa mặt đẹp Vũ Công Đạo (1629 –
Thượng thư Lương Hữu Khánh
4 Nhận ra mẹ đẻ Trạng nguyên Giáp Hải
5 Dóng ngựa thi thơ Phạm Trấn (1523 - ?), Đỗ
6 Tiến sĩ ăn khỏe Lê Như Hổ
7 Thám hoa được giáng xuống Phù Khê
8 Chôn xương bụng ngựa Đinh Tiên Hoàng (924 –
Lan Trì kiến văn lục
10 Thần cửa Cần Hải Thái hậu Dương Vân Nga
13 Bà phu nhân Lan Quận công
14 Quan Thượng họ Đỗ Đỗ Uông
15 Ông Nguyễn Trật Nguyễn Trật (1573 - ?)
16 Ông Trạng họ Nguyễn Nguyễn Đăng Đạo (1652 -
17 Ông Nguyễn Duy Thì Nguyễn Duy Thì (1572 –
18 Ông Nguyễn Văn Giai Nguyễn Văn Giai (1554 –
19 Ông Nguyễn Trọng Thường Nguyễn Trọng Thường
20 Ông Lê Trãi Nguyễn Trãi (1380 – 1442)
21 Thánh Tông Hoàng đế Lê Thánh Tông (1442 –
22 Cá voi Nguyễn Tông Trình (1723 -
23 Thần hồ Động Đình Hoàng Bình Chính (1736 –
24 Thách thức với thần Tô Hiến Thành (? – 1179) 2 truyện
25 Ông tiên Đông Thành Phạm Viên
Tổng số 24 nhân vật 25 truyện
Lịch sử có khả năng làm thay đổi số phận con người, khiến họ trở nên nhỏ bé và dễ bị lãng quên Trong bối cảnh đó, các tác giả truyền kỳ đã ghi lại những chân dung danh nhân và câu chuyện xung quanh cuộc đời họ, mặc dù một số câu chuyện có thể không được kiểm chứng Những nhân vật này đều có thật, sống trong một triều đại cụ thể và thường là các quan đầu triều nổi tiếng như Tô Hiến Thành, Nguyễn Trãi, Trạng Quỳnh, cùng với những nhân vật quan trọng như Thái hậu Dương Vân Nga và Hoàng đế Lê Thánh Tông.
Sự phát triển của xu hướng viết sử trong văn học Việt Nam có thể được thấy rõ qua các tác giả ở từng giai đoạn Đoàn Thị Điểm, trong tác phẩm "Truyền kì tân phả," đã khéo léo kết hợp yếu tố lịch sử với cốt truyện, thể hiện rõ thời gian và không gian, cùng với các sự kiện có thật như cuộc chiến chống Chiêm Thành dưới triều vua Trần Duệ Tông và những nhân vật lịch sử như người liệt nữ ở An Ấp thời vua Lê Dụ Tông Cốt truyện không chỉ mô tả quá trình sinh ra, sống và cái chết của nhân vật mà còn phản ánh nguyên nhân, diễn biến và ý nghĩa lịch sử của các sự kiện, tạo nên một bức tranh sống động về hào khí anh hùng của nhân vật, tương tự như một trận đánh trong lịch sử.
Các tác giả trong giai đoạn sau này đã chú trọng đến tính sáng tạo và văn chương, đặc biệt là việc phá cách trong kết cấu và cốt truyện Họ rút gọn các chi tiết và đơn giản hóa nhân vật, đưa những nhân vật lịch sử gần gũi hơn với thực tại thông qua những tình huống quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày Điều này thể hiện rõ nét qua sự xuất hiện của những con người và sự vật xung quanh tác giả, đặc biệt là các nhân vật bình thường.
2.3.2 Những con người, sự vật xung quanh
Nhà văn chân chính, dù ở thời kỳ nào, luôn mang trong mình tinh thần nghĩa hiệp và nguồn cảm hứng mãnh liệt từ những điều họ chứng kiến Chính vì vậy, họ không thể làm ngơ trước những sự kiện diễn ra xung quanh.
Các nhà văn truyền kì đã cẩn trọng ghi chép những câu chuyện kỳ lạ trong dân gian mà họ chứng kiến hoặc nghe từ những nguồn đáng tin cậy Những câu chuyện này xoay quanh các nhân vật hiếu hạnh, mạnh mẽ, cũng như những loài vật và thầy tướng số, phản ánh những con người và sự vật gần gũi trong cuộc sống hàng ngày, nhưng vẫn mang những đặc điểm phi thường và kỳ diệu.
Trong tác phẩm "Công dư tiệp kí", Vũ Phương Đề kể lại hai câu chuyện về những nhân vật lịch sử có sức khỏe và khả năng ăn uống vượt trội Một trong số đó là ông Lê Như Hổ, người xã Tiên Chân, huyện Tiên Lữ, nổi bật với danh hiệu Tiến sĩ sau khi đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ trong kỳ thi Tân Sửu.
Lương Hữu Khánh, sinh năm 1541, là một quan triều Mạc, giữ chức Thượng thư và mang hàm Thiếu bảo, tước Tuấn quận công Ông nổi bật với sức khỏe phi thường, có khả năng phát cỏ trên nhiều mẫu ruộng chỉ trong chốc lát Đặc biệt, ông có thể tiêu thụ một bữa cơm dành cho ba mươi người và thậm chí là một mâm cỗ cao mười tám tầng, điều mà người Trung Quốc đã dùng để thử thách ông.
Ông có khả năng ăn uống vô cùng đáng kinh ngạc, với mỗi bữa ăn gấp nhiều lần so với người bình thường Có lần, ông ứng khẩu đọc một bài thơ Đường trước khi ăn hết cả sáu bảy chục món trên thuyền, khiến mọi người không khỏi ngạc nhiên Thêm vào đó, ông từng một mình dùng dao lớn dọn dẹp năm mẫu ruộng trong chốc lát, ngủ một giấc say như sấm, và sau đó ăn một lúc hết cả gánh cơm cho mười người.
Trong xã hội trung cổ, đặc biệt ở những vùng lạc hậu, các nhân vật như bà đồng, bà cốt, thầy mo, thầy cúng và thầy tướng số được người dân rất tín nhiệm Trong tác phẩm "Lan Trì kiến văn lục," Vũ Trinh đã ghi lại hai câu chuyện về những nhân vật này, qua đó thể hiện rõ quan điểm của tác giả về vai trò và sự ảnh hưởng của họ trong cộng đồng.
Đàn ông và đàn bà thường mê tín và dễ bị lừa dối bởi những người hành nghề bói toán, nhưng các tác giả trung đại lại coi thường việc này, cho rằng nó chủ yếu phục vụ cho lợi ích cá nhân Họ nhận thấy rằng việc xem tướng và đoán số phần lớn là sai lệch và chỉ nhằm mục đích trục lợi từ những người thiếu hiểu biết Tuy nhiên, sự tồn tại của bà đồng và thầy tướng trong văn học phản ánh một thực tế không thể phủ nhận về vai trò của họ trong xã hội, đặc biệt khi những dự đoán chính xác liên quan đến thi cử và thành công của con người Việc xem bói, đoán tướng trở thành một phần không thể thiếu trong cuộc sống, và các tác giả, với vai trò ghi chép lịch sử, không thể bỏ qua những hiện tượng này Ngoài ra, các tác giả cũng rất quan tâm đến hình ảnh loài vật trong tác phẩm, với nhiều câu chuyện về động vật thể hiện tư tưởng và tình cảm của họ, từ những loài hung dữ như hổ, khỉ đến những loài nhân hậu như cá thần hay giao long, cho thấy sự đa dạng và phong phú trong cách nhìn nhận về thế giới tự nhiên.
Hổ được miêu tả là có lòng nhân từ trong tác phẩm "Lan Trì kiến văn lục" Nhiều câu chuyện về động vật không chỉ giải trí mà còn mang ý nghĩa giáo dục cho con người, như câu chuyện "Con chó nhà nghèo có nghĩa" trong "Tân truyền kì lục" Thêm vào đó, trong những câu chuyện về ba kiếp của con người, có những nhân vật phải sống dưới hình dạng của động vật như gà, lợn ("Nhớ được ba kiếp" - "Lan Trì kiến văn lục") hay con nghé ("Biết chuyện kiếp trước" - "Thoái thực kí văn") Điều này cho thấy mối quan hệ gần gũi giữa con người và động vật đã được hình thành và phản ánh qua văn chương từ xa xưa.
Con người trong cuộc sống thực đã bắt đầu gia nhập thế giới văn chương, nơi trước đây chỉ dành cho những vấn đề lớn lao và vĩ mô, như sự kiện quan trọng của đất nước hay hình ảnh của những bậc thánh nhân Hiện nay, nhiều tác phẩm đã được viết về những con người và sự việc diễn ra xung quanh, phản ánh thời đại và cuộc sống của chính tác giả.
Trước thế kỷ XVIII, văn học chủ yếu tập trung vào việc khẳng định nền độc lập và nhà nước phong kiến Tuy nhiên, từ thế kỷ XVIII đến XIX, chủ nghĩa nhân đạo trở nên nổi bật, thể hiện qua việc ca ngợi con người cá nhân trần thế Những nhân vật này không chỉ là những người danh tiếng trong lịch sử mà còn là những người bình thường xung quanh tác giả, bao gồm cả những nhân vật từng bị coi là thuộc tầng lớp dưới trong quan niệm phong kiến.
Con người và số phận con người
Văn học giai đoạn này thể hiện cảm hứng nhân đạo mạnh mẽ chống lại chế độ phong kiến, với nội dung phong phú về tình yêu con người và việc khẳng định quyền sống của mỗi cá nhân Những giá trị cao đẹp của nhân phẩm, hạnh phúc trong cuộc sống, và mối quan hệ nhân ái ấm áp, trong sáng đều được ca ngợi Câu nói nổi tiếng của Macxim Gorki, “Con người, cái tên mới vang dội làm sao!”, phản ánh niềm tự hào về con người, điều này rõ ràng được thể hiện qua nhiều tác phẩm của các tác giả Việt Nam.
Nam và được biểu hiện dưới nhiều hình thức phong phú qua vô vàn hình tượng văn học đa diện và đa dạng
Cuối giai đoạn, vấn đề số phận con người trở nên cấp thiết, nhấn mạnh rằng mỗi cá nhân đều có giá trị mà không rơi vào chủ nghĩa vị kỷ Con người là chủ thể của đời sống xã hội, và trong tất cả các hình thái và sự vật đẹp, con người được coi là đẹp nhất Vẻ đẹp của con người bao gồm cái đẹp bên ngoài và cái đẹp bên trong, trong đó vẻ đẹp bên trong – những phẩm chất tinh thần, tâm hồn và tình cảm – là điều quan trọng nhất.
2.4.1 Quan niệm rộng mở về con người Đã có một cái nhìn và quan niệm thật rộng mở về con người trong các tác phẩm truyền kì giai đoạn thế kỉ XVIII – nửa đầu thế kỉ XIX Qua những phần đã phân tích ở trên, chúng ta bắt gặp hình ảnh của cả những con người thánh nhân và những con người trần thế, cả những người tốt và những người cực xấu Đối tượng phản ánh của các nhà văn đã rộng và bao quát hơn, đa chiều hơn, nội dung phản ánh gần hơn với sứ mệnh “Nghệ thuật vị nhân sinh” của văn chương mà sau bao tranh luận cuối cùng đã có thể kết luận được
Trong quan niệm hiện đại về con người, bao gồm các nguyên tắc đạo đức và thái độ tích cực trong mối quan hệ giữa người với người, cũng như khát vọng về hạnh phúc và quyền sống cá nhân Điều này thể hiện tấm lòng thiết tha trong việc vun đắp các giá trị nhân đạo, đồng thời thể hiện sự cảm thương đối với những số phận đau khổ, đặc biệt là trẻ em, phụ nữ, và những người lương thiện bị hãm hại.
2.4.1.1 Con người với những phẩm chất tốt đẹp
Sự đối lập giữa những phẩm chất như tốt và xấu, thiện và ác, thông minh và ngu dốt là điều không thể phủ nhận Tuy nhiên, không có ranh giới tuyệt đối giữa hai loại người này Một người được xem là tốt không có nghĩa là tất cả mọi điều về họ đều hoàn hảo, và ngược lại, một người xấu cũng không phải hoàn toàn xấu xa Như K Marx đã nhấn mạnh, con người là tổng hòa của các mối quan hệ xã hội, và trong những mối quan hệ này, các phẩm chất bẩm sinh của con người được hình thành, tái cấu trúc và biến đổi Điều này dẫn đến sự hình thành những tính cách mới, phản ánh sự vận động và thay đổi theo quy luật của mối quan hệ giữa tính cách và hoàn cảnh.
Trong giai đoạn này, các tác phẩm nổi bật với việc tôn vinh những phẩm chất tốt đẹp của con người, như lòng nhân hậu, tình mẫu tử, tình yêu chung thủy, cùng với niềm khao khát và ước vọng về hạnh phúc.
Trong tác phẩm "Sinh đẻ kì lạ" (Lan Trì kiến văn lục), Vũ Trinh khắc họa một bức tranh cảm động và đầy bi kịch về tình cha mẹ trong hoàn cảnh nghèo khó Người mẹ qua đời khi mang thai được bảy, tám tháng, nhưng một đứa bé kỳ lạ vẫn được sinh ra từ mồ Hằng ngày, người mẹ phải vất vả lên trần mua bánh khảo để nuôi con Người cha, trong nỗi đau mất mát, đã đào mộ vợ và ôm con về, nhưng hàng xóm lại sợ hãi đứa trẻ do người chết sinh ra, không dám đến gần hay cho bú nhờ Trong hoàn cảnh đó, người cha phải gà trống nuôi con, mớm cơm và cháo cho đứa bé cho đến khi nó lớn lên.
Tình yêu chung thủy là chủ đề được nhiều tác giả, đặc biệt là Vũ Trinh, khai thác sâu sắc Trong tác phẩm "Lan Trì kiến văn lục," những bài tình ca ngọt ngào thường vang lên, thể hiện những mối tình tưởng chừng dễ phai nhạt nhưng lại sâu đậm Ví dụ, trong "Tháp báo ân," tình cảm giữa chàng nho sinh và cô gái hủi, hay giữa chàng trai nghèo và cô gái trong "Sống lại" đều cho thấy sự gắn bó mạnh mẽ Ngoài ra, tác phẩm "Bà phu nhân" cũng tôn vinh tình yêu đồng cam cộng khổ của vợ chồng cô ba, khắc họa vẻ đẹp của tình yêu trong những hoàn cảnh khó khăn.
Lan Quận công ; hay khúc hát bi thương đầy cảm động về tình yêu của người chồng đối với vợ trong Con giải …
Vũ Phương Đề, qua tác phẩm "Chuột đậy mặt, biết điềm lành dữ" (Công dư tiệp kí), thể hiện quan điểm chân thành về thuyết thiện – ác trong cuộc sống: “ có thể từ đó mà suy ra điều thiện ác, và người đời nghe chuyện không thể không gắng gỏi làm điều thiện vậy” Mặc dù không phải tất cả phẩm chất tốt đẹp của con người đều được ca ngợi trong những truyện truyền kỳ, nhưng những gì các tác giả đề cập cho thấy sự quan tâm thực sự của họ đối với con người, với những tính cách gần gũi và phẩm chất bình dị, từ đó tỏa sáng nhân cách của con người theo đúng nghĩa.
2.4.1.2 Quan niệm mới về hạnh phúc
Từ điển Tiếng Việt thông dụng (NXB Trẻ, TpHCM, 1998) định nghĩa:
Hạnh phúc là một danh từ chỉ sự “gặp được nhiều sung sướng, toại nguyện” [16,
Mỗi con người có một khái niệm riêng về hạnh phúc, từ những niềm vui lớn lao đến những điều giản dị Trong văn chương trung đại, hạnh phúc của nhân vật thường gắn liền với niềm vui chung của đất nước, thể hiện qua sự cống hiến của những bậc vĩ nhân cho quê hương, và niềm hạnh phúc khi đất nước hòa bình, dân chúng ấm no Truyện truyền kỳ mang đến những cung bậc phong phú và đa dạng về hạnh phúc, mở ra một thế giới cảm xúc rộng lớn.
Trong nhiều tác phẩm văn học kì ảo, hình ảnh hạnh phúc quen thuộc thường gắn liền với niềm vui được vinh danh trên bảng vàng, thể hiện ước nguyện của những người theo đuổi tri thức Nốt nhạc hạnh phúc này phản ánh quan niệm trung thành với Nho học, coi trọng con đường học vấn và phục vụ triều đình, đồng thời nhấn mạnh tầm quan trọng của thi cử trong văn chương.
Ngược lại với những quy tắc khắt khe của nhà Nho, niềm hạnh phúc thực sự có thể vượt ra ngoài khuôn khổ lễ nghi phong kiến, như Nguyễn Trãi và Nguyễn Bỉnh Khiêm đã trải nghiệm trong thời gian sống ẩn dật giữa thiên nhiên Hạnh phúc ở đây được định nghĩa là tự do làm những điều mình yêu thích, khám phá và phiêu bồng theo ý muốn Nhân vật Phạm Viên xuất hiện nhiều lần trong các câu chuyện, tiêu biểu cho quan niệm này về hạnh phúc tự tại.
Viên trong Lan Trì kiến văn lục – Vũ Trinh, Thành Đạo Tử, Ông Nguyễn Hoàn, Ông Nguyễn Trọng Thường - Tang thương ngẫu lục – Phạm Đình Hổ,
Nguyễn Án, Ông tiên Đông Thành trong Thoái thực kí văn của Trương Quốc
Phạm Viên, con trai của một Tiến sĩ triều đình, đã từ bỏ con đường khoa hoạn để theo đuổi nghiên cứu các sách phương thuật Sau khi đắc đạo thành tiên, ông đi khắp nơi để dạy học và bốc thuốc cứu người, sống cuộc đời ẩn dật, thỉnh thoảng xuất hiện và biến mất không ai biết tung tích Những ai có ý định tìm gặp ông thường không thành công, chỉ những người có duyên mới có cơ hội gặp gỡ.
Hạnh phúc không chỉ là thành quả của sự nỗ lực và hoạch định lâu dài, mà còn có những khoảnh khắc bất ngờ và ngắn ngủi để lại ấn tượng sâu sắc Một ví dụ điển hình là phút giây hạnh phúc giữa người đàn bà góa và ông khách qua đường Dù sau đó người đàn ông qua đời và họ không bao giờ gặp lại, nhưng dư âm của khoảnh khắc ấy sống mãi qua người con trai tài năng, Trạng nguyên Giáp Hải.
Trong tác phẩm "Tháp báo ân" của Vũ Trinh, câu chuyện xoay quanh khoảnh khắc hạnh phúc giữa cô gái hủi và chàng thư sinh trong đêm ứng thí Chỉ trong đêm đó, họ được gần gũi bên nhau, nhưng sau đó, cô gái qua đời và trở thành hồn ma giúp chàng thi đỗ Nhờ sự trợ giúp của cô, chàng trai trở thành viên quan triều đình, nhưng vẫn giữ lòng biết ơn và đối đãi với cô như vợ chồng, thể hiện tình cảm sâu sắc và lòng tri ân của mình.