1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) cảm hứng lịch sử trong tác phẩm báu vật của đời của mạc ngôn

119 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Cảm Hứng Lịch Sử Trong Tác Phẩm "Báu Vật Của Đời" Của Mạc Ngôn
Tác giả Lưu Thị Hải Yến
Người hướng dẫn PGS.TS Lê Huy Tiêu
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Châu Á học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2013
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 119
Dung lượng 1,07 MB

Cấu trúc

  • 1. Lý do chọn đề tài (9)
  • 2. Lịch sử vấn đề (11)
    • 2.1. Tình hình nghiên cứu tại Trung Quốc (11)
    • 2.2. Tình hình nghiên cứu về “Báu vật của đời” và cảm hứng lịch sử trong “Báu vật của đời” tại Việt Nam (12)
  • 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu (15)
    • 3.1. Đối tượng nghiên cứu (15)
    • 3.2. Phạm vi nghiên cứu (15)
  • 4. Phương pháp nghiên cứu (15)
  • 5. Đóng góp của luận văn (16)
  • 6. Cấu trúc luận văn (16)
  • CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ CẢM HỨNG LỊCH SỬ VÀ DẤU ẤN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC TRUNG QUỐC (17)
    • 1.1. Khái quát về cảm hứng và cảm hứng lịch sử (17)
      • 1.1.1. Khái niệm cảm hứng và cảm hứng chủ đạo (17)
      • 1.1.2. Khái niệm cảm hứng lịch sử (19)
    • 1.2. Cảm hứng lịch sử - nguồn cảm hứng đặc biệt trong văn học Trung Quốc (20)
      • 1.2.1. Bề dày lịch sử của đất nước Trung Quốc (20)
      • 1.2.2. Dấu ấn đậm nét của cảm hứng lịch sử trong văn học Trung Quốc (23)
    • 1.3. Khái quát về cảm hứng lịch sử trong những sáng tác của Mạc Ngôn (27)
      • 1.3.1. Vài nét về nhà văn Mạc Ngôn (27)
      • 1.3.2. Cảm hứng lịch sử xuyên suốt trong các tác phẩm của Mạc Ngôn (28)
  • CHƯƠNG 2 NHỮNG BIỂU HIỆN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG BÁU VẬT CỦA ĐỜI CỦA MẠC NGÔN (32)
    • 2.1. Cảm hứng lịch sử được thể hiện qua số phận của quê hương Cao Mật (32)
      • 2.1.1. Một quê hương Cao Mật đau thương mà hào hùng trong cuộc chiến chống giặc ngoại xâm (32)
      • 2.1.2. Một quê hương Cao Mật đau thương trong cuộc nội chiến Quốc – Cộng (38)
      • 2.1.3. Một quê hương Cao Mật đau thương trong những sai lầm của Đảng cộng sản (41)
      • 2.1.4. Một quê hương Cao Mật bước vào nền kinh tế thị trường (47)
    • 2.2. Cảm hứng lịch sử được thể hiện qua số phận của gia đình Thượng Quan (49)
      • 2.2.1 Hình tượng Lỗ Thị - hiện thân tiêu biểu của lịch sử Trung Quốc suốt thế kỷ XX (49)
      • 2.2.2. Hình tượng những cô con gái của gia đình Thượng Quan (61)
  • CHƯƠNG 3 MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG BÁU VẬT CỦA ĐỜI CỦA MẠC NGÔN (81)
    • 3.1. Yếu tố kì ảo (81)
      • 3.1.1. Khái niệm yếu tố kì ảo (81)
      • 3.1.2. Khái quát về yếu tố kì ảo trong văn học Trung Quốc (82)
      • 3.1.3. Yếu tố kì ảo – công cụ giúp Mạc Ngôn biểu hiện cảm hứng lịch sử (84)
    • 3.2. Kết cấu lắp ghép – lịch sử được nhìn qua một lăng kính mới (93)
      • 3.2.1. Khái niệm kết cấu lắp ghép (93)
      • 3.2.2. Sự biểu hiện cảm hứng lịch sử qua kết cấu lắp ghép (95)
    • 3.3. Nghệ thuật trần thuật đa thanh tái hiện lịch sử một cách toàn diện, sâu sắc (99)
      • 3.3.1. Sự đa bậc của người kể chuyện và sự di động điểm nhìn (99)
      • 3.3.2. Ngôn ngữ trần thuật đa sắc, độc đáo (103)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (110)
  • PHỤ LỤC (118)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Tình hình nghiên cứu tại Trung Quốc

Mạc Ngôn đã chia sẻ nhiều về quá trình sáng tác và các tác phẩm của mình qua các bài phỏng vấn và tự bạch Trong các tài liệu như "Mạc Ngôn, nghiên cứu và tư liệu" của Dương Dương và "Phong vị của tiểu thuyết của Mạc Ngôn," có nhiều cuộc đối thoại mô tả thế giới văn học của ông Nguyễn Thị Thại đã dịch và giới thiệu những nội dung quan trọng từ các lời tự bạch của Mạc Ngôn trong cuốn "Mạc Ngôn và những lời tự bạch." Tài liệu này đề cập đến nhiều khía cạnh của Mạc Ngôn như động cơ sáng tác, nguồn gốc ảnh hưởng, quan điểm, lập trường và phong cách sáng tác.

Báu vật của đời là tác phẩm quan trọng mà Mạc Ngôn thường nhắc đến trong những lời tự bạch của mình Ông cho rằng tác phẩm này không chỉ giới hạn ở thôn Cao Mật Đông Bắc mà còn có tầm ảnh hưởng rộng lớn hơn Mạc Ngôn khẳng định rằng Báu vật của đời thể hiện quan điểm của ông về các vấn đề lịch sử, quê hương và cuộc sống, đồng thời ví von nó như viên đá nặng nhất trong toà lâu đài văn học của ông; nếu viên đá này bị rút ra, toàn bộ toà lâu đài sẽ sụp đổ.

Trong cuốn Bình luận tác giả đương đại Trung Quốc《当代作家评论》kỳ 6, Trình Quang Vỹ cho biết rằng trong hơn 20 năm qua, có rất nhiều bài bình luận về Mạc Ngôn trên diễn đàn văn học Trung Quốc Theo thống kê từ phụ lục Tư liệu nghiên cứu Mạc Ngôn do Dương Dương biên soạn, số lượng bài viết về Mạc Ngôn ước tính lên tới hơn 350 bài, chưa tính đến các bài báo địa phương, trang mạng và các bài viết từ các trường đại học.

Tình hình nghiên cứu về Mạc Ngôn vẫn luôn sôi động, đặc biệt kể từ khi “Hội nghiên cứu Mạc Ngôn Cao Mật” được thành lập vào ngày 12/08/2006 nhằm tập trung vào các tác phẩm của ông Các diễn đàn như “Bảo tàng văn học Mạc Ngôn” và website “Cao lương đỏ” cung cấp không gian để bình luận và tìm hiểu sâu về “nhân vật khai phá của thế kỷ XXI” Nhiều công trình nghiên cứu, bao gồm luận văn thạc sĩ và nghiên cứu sinh, đã được thực hiện, với phần lớn tập trung vào nghệ thuật “tự sự”, “tính chất dân gian” và “tính nữ” trong tác phẩm của Mạc Ngôn, như nghiên cứu của Trương Ái Bình về ngôn ngữ trong tiểu thuyết của ông và công trình của Tống Khiết từ “Báu vật của đời” đến “thiếu nữ mộng mơ”.

Trong bài viết "肥臀”到“梦幻少女", tác giả Hàn Hiện Quảng đã bàn về điểm nhìn trẻ thơ trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn Mặc dù cảm hứng lịch sử và giá trị lịch sử trong tác phẩm "Báu vật của đời" chỉ được đề cập một cách rải rác trong các công trình nghiên cứu, nhưng nó vẫn thể hiện sự quan trọng trong việc hiểu sâu sắc hơn về tác phẩm.

Tình hình nghiên cứu về “Báu vật của đời” và cảm hứng lịch sử trong “Báu vật của đời” tại Việt Nam

Báu vật của đời là một tác phẩm văn học gây ra nhiều tranh cãi về giá trị của nó Các nhà nghiên cứu Việt Nam đã tiếp cận tác phẩm này từ nhiều góc độ khác nhau để đưa ra những quan điểm và nhận xét riêng.

PGS TS Lê Huy Tiêu là một nhà nghiên cứu nổi bật với nhiều bài viết về tác giả Mạc Ngôn và tác phẩm "Báu vật của đời" Trong Tạp chí Văn học nước ngoài số 4/2003 và cuốn "Tiểu thuyết Trung Quốc thời kỳ đổi mới (1976 – 2000)", ông đã công bố hai nghiên cứu sâu sắc về Mạc Ngôn, bao gồm "Thế giới nghệ thuật trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn" và "Mạc Ngôn và tiểu thuyết Đàn hương hình".

Trong bài viết "Thế giới nghệ thuật của Mạc Ngôn" trên tạp chí Sông Hương số 166, tháng 12.2002, nhà văn Nguyễn Khắc Phê đã phân tích những nét độc đáo trong sáng tác của Mạc Ngôn, đặc biệt qua hai tiểu thuyết "Báu vật của đời" và "Đàn hương hình" Ông nhấn mạnh rằng Mạc Ngôn sử dụng đề tài rất đa dạng và cốt truyện không còn giữ nguyên hình thức truyền thống mà chỉ là khung truyện, tạo nên một phong cách nghệ thuật độc đáo.

Trong tác phẩm của Mạc Ngôn, cảm giác mạnh mẽ và sâu sắc chính là linh hồn của tiểu thuyết Tác giả đã phân tích một cách tỉ mỉ các vấn đề tự sự như điểm nhìn trần thuật phong phú, đa dạng, cùng với kết cấu truyện và nghệ thuật xử lý không gian, thời gian.

Trong bài viết Sự sinh, sự chết, sự sống: Đọc “Báu vật của đời” của Mạc

Nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên đã tóm lược những điểm chính trong tác phẩm "Báu vật của đời" và đưa ra nhận định về tác giả Mạc Ngôn Ông khẳng định rằng nhân vật Lỗ Thị là biểu tượng cho sức sống mãnh liệt của dân tộc, bất chấp những chà đạp từ con người Mạc Ngôn được đánh giá cao vì dũng cảm viết về hiện thực sâu sắc của lịch sử hiện đại, với cái nhìn nghệ thuật tỉnh táo và sắc lạnh Cuối bài viết, Nguyên so sánh Mạc Ngôn với Lỗ Tấn, nhấn mạnh tình yêu nước và trách nhiệm của họ trong bối cảnh lịch sử và chính trị khác nhau.

Một số tác giả nghiên cứu như Vương Trí Nhàn, Lê Huy Tiêu, Trần Trung

Hỷ khám phá sự sáng tạo của Mạc Ngôn qua tác phẩm "Báu vật của đời", nơi ông khéo léo kết hợp hơi thở hiện đại với đề tài lịch sử Trong tiểu luận "Một số vấn đề văn học", những vấn đề này được phân tích sâu sắc, làm nổi bật sự giao thoa giữa văn hóa truyền thống và hiện đại trong văn học.

Trong tác phẩm "Trung Quốc đương đại" (2007), PGS.TS Hồ Sĩ Hiệp đã nêu bật những đặc sắc của nhà văn Mạc Ngôn thông qua các tác phẩm đã được dịch Năm 2012, Mạc Ngôn vinh dự nhận giải Nobel văn học, sự kiện này đã thu hút sự chú ý của nhiều nhà văn như Trần Đăng Khoa và Võ Thị Hảo, với nhiều bài viết phân tích và bàn luận về thành tựu của ông.

Mạc Ngôn đã trở thành đề tài nghiên cứu phổ biến trong nhiều luận văn tiến sĩ, thạc sĩ và khoá luận tốt nghiệp của sinh viên, học viên và nghiên cứu sinh Một số công trình tiêu biểu bao gồm luận án tiến sĩ "Nghệ thuật tự sự trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn" của Nguyễn Thị Tịnh Thy (Viện Khoa học xã hội Việt Nam, 2010), luận văn thạc sĩ "Yếu tố kì ảo trong 'Báu vật của đời'" của Nguyễn Thị Khánh Linh (Đại học Sư phạm Hà Nội, 2007), và luận văn tốt nghiệp "Huyền thoại hoá trong tiểu thuyết 'Báu vật của đời'" của Lê Vũ Phương Thuỷ (Đại học).

Các nghiên cứu tại Khoa học xã hội và nhân văn, Đại học Quốc gia Hà Nội đã tập trung vào hai khía cạnh nổi bật trong sáng tác của Mạc Ngôn: nghệ thuật tự sự và yếu tố kì ảo Nguyễn Thị Tịnh Thy đã khảo sát sâu sắc nghệ thuật tự sự qua các yếu tố như người kể chuyện, điểm nhìn, tổ chức không gian, thời gian và cấu trúc tác phẩm Trong khi đó, Nguyễn Thị Khánh Linh phân tích yếu tố kì ảo trong tác phẩm "Báu vật của đời" thông qua nhân vật, sự kiện và cách tổ chức nghệ thuật Sinh viên Lê Vũ Phương Thủy cũng đã khai thác các yếu tố huyền thoại hoá, như hình ảnh Kim Đồng và biểu tượng người mẹ vĩnh cửu Mỗi tác giả đã đưa ra những góc nhìn khác nhau để khám phá giá trị sâu sắc của tác phẩm "Báu vật của đời".

Bài viết này tóm tắt một số nghiên cứu về Mạc Ngôn và tiểu thuyết "Báu vật của đời" từ các nhà nghiên cứu Trung Quốc và Việt Nam Dù có nhiều công trình về Mạc Ngôn, nhưng ở Việt Nam, số lượng bài viết chuyên sâu về cảm hứng lịch sử còn hạn chế Đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu chuyên biệt về cảm hứng lịch sử trong "Báu vật của đời" Với tinh thần học hỏi và khám phá, chúng tôi sẽ kế thừa và tiếp thu có chọn lọc những thành tựu nghiên cứu trước đó để tìm hiểu một cách cụ thể, sâu sắc và hệ thống về cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết này.

Phương pháp nghiên cứu

Để thực hiện luận văn, chúng tôi sử dụng phối hợp các phương pháp nghiên cứu sau :

Chúng tôi áp dụng phương pháp thống kê và khảo sát để phân loại và thống kê các chi tiết lịch sử trong Báu vật của đời, từ đó tạo nền tảng cho việc phân tích và khám phá tác phẩm.

Phương pháp phân tích và tổng hợp được áp dụng để làm rõ vai trò của cảm hứng lịch sử trong tác phẩm "Báu vật của đời", dựa trên dữ liệu thống kê từ văn bản Chúng tôi sẽ đi sâu vào việc phân tích và lý giải các yếu tố lịch sử ảnh hưởng đến nội dung và ý nghĩa của tác phẩm này.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu: Trong quá trình phân tích, chúng tôi đặt

Báu vật của đời, khi so sánh với các tác phẩm khác của Mạc Ngôn và những tác giả khác có cảm hứng lịch sử, cho thấy những điểm tương đồng và khác biệt trong cách thể hiện cảm hứng lịch sử Những tác phẩm này không chỉ phản ánh bối cảnh lịch sử mà còn khám phá sâu sắc tâm tư con người, từ đó tạo nên một bức tranh đa chiều về giá trị văn hóa và xã hội trong từng thời kỳ Sự giao thoa giữa các tác giả mở ra những góc nhìn mới mẻ, làm phong phú thêm cho nền văn học đương đại.

Chúng tôi áp dụng nhiều phương pháp nghiên cứu đa dạng như tiếp cận văn hóa - lịch sử, thi pháp học và nghiên cứu liên ngành để khám phá và phân tích đề tài một cách sâu sắc và toàn diện.

Đóng góp của luận văn

Bài viết này là công trình nghiên cứu đầu tiên phân tích một cách toàn diện và hệ thống về cảm hứng lịch sử trong tiểu thuyết "Báu vật của đời" của Mạc Ngôn, so với các nghiên cứu trước đây Luận văn sẽ khái quát về cảm hứng lịch sử trong văn học Trung Quốc và tác phẩm của Mạc Ngôn, đồng thời chỉ ra những biểu hiện cụ thể như đề tài, chủ đề và nhân vật, cùng với các phương diện nghệ thuật thể hiện cảm hứng lịch sử trong tác phẩm.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần tài liệu tham khảo, nội dung luận văn được triển khai thành ba chương như sau :

Chương 1 : Khái quát về cảm hứng lịch sử và dấu ấn cảm hứng lịch sử trong văn học Trung Quốc

Chương 2 : Những biểu hiện của cảm hứng lịch sử trong Báu vật của đời – Mạc Ngôn

Chương 3 : Những phương thức nghệ thuật biểu hiện cảm hứng lịch sử trong

Báu vật của đời – Mạc Ngôn

KHÁI QUÁT VỀ CẢM HỨNG LỊCH SỬ VÀ DẤU ẤN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG VĂN HỌC TRUNG QUỐC

Khái quát về cảm hứng và cảm hứng lịch sử

1.1.1 Khái ni ệ m c ả m h ứ ng và c ả m h ứ ng ch ủ đạ o

Trước khi khám phá cảm hứng lịch sử, cần làm rõ hai khái niệm cơ bản là cảm hứng và cảm hứng chủ đạo, vì chúng là nền tảng quan trọng cho việc hình thành cảm hứng lịch sử.

Trong tâm lý học, con người không chỉ nhận thức thế giới khách quan mà còn thể hiện thái độ của mình đối với nó thông qua cảm xúc Khi thưởng thức nghệ thuật như tranh, nhạc hay thơ, ta không chỉ tri giác mà còn trải nghiệm những rung động, cảm xúc sâu sắc Cảm hứng, một trạng thái tâm lý đặc biệt, được định nghĩa là cảm xúc mạnh mẽ tạo điều kiện cho sự sáng tạo và tưởng tượng Bản chất của cảm hứng nằm ở thái độ tích cực của cá nhân đối với những đối tượng có ý nghĩa và khả năng mang lại khoái cảm Cảm hứng không chỉ nâng cao hiệu quả nhận thức mà còn thúc đẩy sự sáng tạo, giúp con người phát huy tối đa khả năng của mình.

Cảm hứng đóng vai trò quan trọng trong hoạt động sáng tạo của con người, đặc biệt trong văn học, nơi nó thể hiện trạng thái tâm lý chủ chốt của nhà văn Cảm hứng không chỉ xuất hiện khi bắt đầu viết mà còn xuyên suốt quá trình sáng tác, mang đến sự mãnh liệt và tình cảm chủ quan trong tác phẩm Nguyễn Quýnh nhấn mạnh rằng cảm hứng là yếu tố thiết yếu để sáng tác thơ ca, tương tự như sự tác động của gió trong tự nhiên Viết văn không thể thiếu cảm hứng, vì chỉ có sự bùng nổ cảm xúc mới tạo ra những sản phẩm nghệ thuật chân thực Cảm hứng là kết quả của một quá trình thai nghén lâu dài, không phải là sự ngẫu hứng của những kẻ lười biếng Nó tạo điều kiện cho nhà văn tiếp nhận và diễn đạt những ý niệm một cách nhanh chóng Hơn nữa, cảm hứng phải gắn liền với tư tưởng của nhà văn, tạo thành cảm hứng chủ đạo xuyên suốt tác phẩm Cảm hứng chủ đạo là trạng thái tình cảm mạnh mẽ, kết nối với tư tưởng cụ thể, mang lại không khí xúc cảm cho tác phẩm và khẳng định thế giới quan của tác giả.

Cảm hứng lịch sử là nguồn cảm hứng sáng tác phát sinh từ hiện thực lịch sử, nơi nhà văn sử dụng lịch sử làm đề tài và chất liệu để xây dựng thế giới hình tượng Các sự kiện lịch sử ảnh hưởng đến vận mệnh quốc gia, dân tộc tạo ra cảm xúc hưng phấn, thúc đẩy trí tưởng tượng và sáng tạo trong tác phẩm Trong tiểu thuyết lịch sử, yếu tố chân thực là rất quan trọng, yêu cầu tác giả phải tôn trọng sự thật lịch sử, từ lời nói đến trang phục và phong tục của thời kỳ đó Tác phẩm văn học lịch sử thường mượn chuyện xưa để nói chuyện đời nay, đồng thời không làm mất đi tính chân thực của nhân vật lịch sử Do đó, nhà văn cần có sự am hiểu và đam mê với dữ liệu lịch sử, tìm ra mối liên hệ giữa quá khứ và hiện tại Nhiệm vụ của họ là dùng văn chương để sống lại quá khứ, giúp độc giả hiểu và rút ra bài học quý báu từ những biến cố lịch sử.

Cảm hứng lịch sử - nguồn cảm hứng đặc biệt trong văn học Trung Quốc

1.2.1 B ề dày l ị ch s ử c ủ a đấ t n ướ c Trung Qu ố c

Trung Quốc, một quốc gia rộng lớn với hơn 5000 năm lịch sử, được coi là cái nôi của nền văn minh cổ đại, bắt nguồn từ các thung lũng sông Hoàng Hà và sông Dương Tử trong Thời đại đồ đá mới Với sự phát triển qua hàng ngàn năm, nền văn minh Trung Quốc là một trong những nền văn minh lâu đời nhất thế giới Lịch sử của Trung Quốc có thể được chia thành bốn thời kỳ chính: cổ đại, trung đại, cận đại và hiện đại.

Thời cổ đại Trung Quốc bắt đầu với Tam Hoàng Ngũ Đế từ năm 2852 TCN đến 2205 TCN, gắn liền với những vị vua huyền thoại đã giúp hình thành dân tộc Trung Hoa Sau giai đoạn này, các triều đại Hạ, Thương, và Chu tiếp tục phát triển lịch sử từ năm 2205 TCN đến 256 TCN Khi nhà Chu suy yếu, Trung Quốc bước vào giai đoạn Xuân Thu – Chiến Quốc, một thời kỳ đầy biến động với các nước chư hầu gia tăng sức mạnh và liên tục xảy ra chiến tranh để tranh giành quyền lực Giai đoạn này đánh dấu sự kết thúc của lịch sử cổ đại Trung Quốc.

Thời trung đại Trung Quốc bắt đầu từ năm 221 TCN khi Tần Thuỷ Hoàng thống nhất đất nước, đánh dấu sự ra đời của nhà Tần - vương triều đầu tiên có cương thổ rộng lớn và ảnh hưởng đến Tây phương, dù chỉ tồn tại 15 năm Sau sự sụp đổ của nhà Tần, nhà Hán lên nắm quyền từ năm 206 TCN đến năm 220, xây dựng một đế quốc rộng lớn và nền văn minh rực rỡ trong suốt bốn thế kỷ Cuối đời nhà Hán, Trung Quốc rơi vào loạn lạc thời Tam Quốc và Lục Triều, nhưng không hoàn toàn tan vỡ như đế quốc Hy Lạp hay La Mã, và đến năm 580, Trung Quốc được thống nhất dưới triều đại Tuỳ Tuy nhiên, nhà Tuỳ nhanh chóng sụp đổ, dẫn đến một thời kỳ loạn lạc khác, chỉ là một giai đoạn chuyển tiếp cho sự thống nhất thực sự dưới triều đại Đường Triều đại Đường đạt nhiều thành tựu rực rỡ với quân đội mạnh mẽ, lãnh thổ mở rộng gấp rưỡi nhà Hán, cùng với sự phát triển kinh tế và chính trị.

Thời kỳ Ngũ Đại Thập Quốc (907 – 960/979) đánh dấu một giai đoạn biến động trong lịch sử Trung Quốc, trước khi Nhà Tống thống nhất và cai trị từ năm 960 đến 1279 Nhà Tống nổi bật với những thành tựu như phát hành tiền giấy, sử dụng thuốc súng, và ứng dụng la bàn Tuy nhiên, Nhà Tống đã bị quân Mông Cổ xâm lược vào năm 1279, dẫn đến sự thành lập Nhà Nguyên dưới sự lãnh đạo của Hốt Tất Liệt Đế chế Mông Cổ, với sức mạnh vượt trội, đã chinh phục nhiều vùng đất, để lại những tàn tích khốc liệt Năm 1368, Chu Nguyên Chương đã đánh bại chính quyền Mông Cổ và thành lập Nhà Minh, thời kỳ này chứng kiến sự phát triển kinh tế hàng hóa và những dấu hiệu đầu tiên của chủ nghĩa tư bản Nhà Minh tồn tại cho đến năm 1644, khi người Mãn Châu thành lập Nhà Thanh Dưới sự trị vì của hai hoàng đế Ung Chính và Càn Long, Nhà Thanh đã phát triển mạnh mẽ nhưng dần suy yếu từ nửa cuối thế kỷ 19, dẫn đến sự sụp đổ sau cuộc Cách mạng Tân Hợi vào ngày 12 tháng 2 năm 1911, chấm dứt chế độ phong kiến kéo dài mười ba triều đại.

Sự sụp đổ của chế độ phong kiến Trung Quốc đánh dấu sự kết thúc của thời kỳ trung đại và mở ra giai đoạn lịch sử cận đại Giai đoạn này bắt đầu từ cuộc chiến tranh thuốc phiện (từ tháng 6 năm 1840 đến tháng 8 năm 1842) và kéo dài cho đến khi Tôn Trung Sơn, đại diện cho Quốc Dân Đảng, thành lập Trung Hoa Dân Quốc - chính thể cộng hòa đầu tiên của Trung Quốc vào năm 1911.

1949 Ba thập kỷ sau đó là giai đoạn không thống nhất - thời kỳ Quân phiệt cát cứ, Chiến tranh Trung - Nhật và Nội chiến Trung Quốc Vào ngày 1 tháng

Năm 1949, Mao Trạch Đông tuyên bố thành lập Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa sau chiến thắng trong Nội chiến Trung Quốc, đánh dấu sự khởi đầu của thời kỳ hiện đại Chính quyền Trung Hoa Dân Quốc do Tưởng Giới Thạch lãnh đạo phải rút về Đài Loan, trong khi Đảng Cộng sản Trung Quốc bắt đầu thực hiện các chính sách xây dựng đất nước Tuy nhiên, giai đoạn đầu gặp nhiều sai lầm, với các sự kiện như Cải cách ruộng đất, Đại nhảy vọt và Cách mạng Văn hoá gây thiệt hại cho kinh tế và di sản văn hoá Nhận thức được sai lầm, Đảng Cộng sản đã tiến hành đổi mới từ năm 1978, giúp Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa trở thành một trong những nền kinh tế phát triển nhanh nhất thế giới.

Lịch sử Trung Quốc là một dòng chảy dài và đầy biến động, khó có thể tóm tắt trong vài trang ngắn gọn Với nhiều thăng trầm, lịch sử của quốc gia này đóng vai trò vô cùng quan trọng, không chỉ trong việc hình thành bản sắc văn hóa mà còn là nguồn cảm hứng vô tận cho các tác phẩm nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, văn học và điện ảnh Đề tài lịch sử luôn mới mẻ và phong phú, cho phép người ta nhìn nhận và đánh giá từ nhiều góc độ khác nhau.

1.2.2 D ấ u ấ n đậ m nét c ủ a c ả m h ứ ng l ị ch s ử trong v ă n h ọ c Trung Qu ố c

Trong lịch sử, tình trạng văn – sử - triết không phân biệt là một hiện tượng đặc trưng của thế giới, đặc biệt rõ nét trong văn hóa phương Đông Mối quan hệ này thể hiện qua sự hiện diện của lịch sử trong nhiều thể loại văn học, và ngược lại, tính văn học cũng hiện hữu trong các tác phẩm sử ký Theo từ điển thuật ngữ văn học, thể loại văn học lịch sử bao gồm nhiều thể loại khác nhau viết về đề tài lịch sử Tại Trung Quốc, nơi có bề dày lịch sử và văn học, mối quan hệ này càng trở nên chặt chẽ, với sự trọng thị lịch sử thể hiện rõ trong tâm trạng “hoài cổ” trong thơ ca và tỉ lệ cao các tác phẩm viết về lịch sử trong tiểu thuyết và kịch Người Trung Hoa, được xem là một trong những dân tộc trọng sử nhất thế giới, thường đặt tên cho các tác phẩm của mình theo các thể tài lịch sử như truyện, ký, chí, lục.

Quốc chí diễn nghĩa, Thuỷ hử truyện, Tây du ký, Tình tăng lục, và Thạch đầu ký (còn gọi là Hồng lâu mộng), cùng với Liêu trai chí dị và Quan trường hiện hình ký, đều thể hiện sự phong phú của văn học cổ điển Trung Quốc Đến thế kỷ XX, các thể tài lịch sử vẫn tiếp tục ảnh hưởng, như thể hiện qua các tác phẩm như Bình tung hiệp ảnh lục, Xạ điêu anh hùng truyện, và Kiều xưởng trưởng thượng nhiệm ký.

Trong lịch sử văn học, có nhiều tác phẩm biên niên ghi lại các sự kiện quan trọng qua các thời đại, tái hiện chân dung các nhân vật lịch sử và các cuộc chiến tranh Một trong số đó là Tả truyện, được cho là do Tả Khâu Minh, sử quan nước Lỗ, sáng tác Bên cạnh đó, Quốc ngữ cũng là một tập tư liệu giá trị về lịch sử nhà Chu và các chư hầu trong thời kỳ Xuân Thu.

Quốc), Sử kí của Tư Mã Thiên… Trong các tác phẩm kể trên, Sử ký của Tư Mã

Thiên nổi lên là một tác phẩm độc đáo và có giá trị văn hóa lớn, được coi là công trình sử học vĩ đại nhất của Trung Quốc và là một trong những tác phẩm văn học ưu tú của nhân loại Đây là tác phẩm lớn nhất về văn xuôi trong nền văn học cổ Trung Quốc, ngang hàng với thơ Đỗ Phủ Tác phẩm cung cấp kho tài liệu lịch sử quý giá, tái hiện lịch sử Trung Quốc từ thời Hoàng Đế thần thoại đến thời Tư Mã Thiên Người đọc tìm thấy vô số hình tượng điển hình, chi tiết và sự kiện lịch sử thú vị Mặc dù Tư Mã Thiên khẳng định chỉ thuật lại chuyện xưa, nhưng ẩn sau câu chữ là tâm hồn và nỗi đau của ông Sử ký lên án sự tàn bạo của tầng lớp thống trị và ca ngợi những nhà thơ yêu nước, cùng các dũng sĩ khởi nghĩa nông dân đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc Tác phẩm xứng đáng được gọi là “một tập Ly tao không vần” theo lời đánh giá của Lỗ Tấn.

Sau đó, tiểu thuyết lịch sử Trung Quốc chính thức xuất hiện vào đời Nguyên

Thế kỷ XIV-XVI, văn học Minh nổi bật với những tiểu thuyết chương hồi đồ sộ, trong đó có tác phẩm "Tam Quốc Diễn Nghĩa" của La Quán Trung và "Đông Chu Liệt Quốc" của Phùng Mộng Những tác phẩm này không chỉ phản ánh bối cảnh lịch sử mà còn thể hiện sâu sắc tâm tư con người và giá trị văn hóa thời đại.

Long, Thuỷ hử truyện của Thi Nại Am…

Tác phẩm "Tam quốc diễn nghĩa" của La Quán Trung phản ánh thời kỳ hỗn loạn từ năm 220 đến 280, ghi lại quá trình phân chia đất nước và sự thống nhất của nhà Tấn Mặc dù có một số chi tiết khác biệt với lịch sử thực tế, tiểu thuyết vẫn dựa trên nền tảng lịch sử chân thực La Quán Trung, với quan điểm "ủng Lưu phản Tào", ca ngợi các nhân vật như Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi và Gia Cát Lượng, đồng thời lên án Đổng Trác và Tào Tháo, thể hiện sự bất mãn với thực tại xã hội Ông khắc họa rõ nét nỗi khổ của nhân dân, cảnh mưu quyền chính trị, chiến tranh và sự loạn lạc, từ đó phản ánh đời sống cực khổ và ly tán của người dân Tác giả khéo léo sử dụng hình tượng nghệ thuật để tái hiện các sự kiện trọng đại của lịch sử.

Thủy hử truyện của Thi Nại Am phản ánh chân thực và sinh động cuộc đấu tranh giai cấp của nông dân, khởi nghĩa nông dân và chiến tranh nông dân trong xã hội phong kiến Tác phẩm lột tả sắc nét bản chất thối nát của giai cấp thống trị phong kiến thông qua những nhân vật tham quan ô lại và địa chủ ác bá Quy luật "có áp bức có đấu tranh" được phản ánh đầy đủ và trung thực qua việc miêu tả cảnh ngộ của các nhân vật như Tống Giang, Lâm Xung, Lỗ Trí Thâm, Võ Tòng Ngoài ra, các tác phẩm lịch sử như Liệt quốc chí truyện, Tân liệt quốc chí và Ðông Chu liệt quốc chí cũng tái hiện quá trình lịch sử Trung Quốc, từ đó cho thấy sự quá độ từ chế độ phong kiến phân quyền đến chế độ phong kiến tập quyền Trong thời kỳ văn học Trung Quốc hiện đại, các nhà văn như Lỗ Tấn cũng lấy lịch sử làm nguồn cảm hứng sáng tác, viết nên những tác phẩm kinh điển như Chuyện cũ viết lại, phản tư đối với văn hoá truyền thống Trung Quốc.

Trong khuôn khổ của bài viết, chúng tôi chỉ đề cập đến một số tác phẩm tiêu biểu mang cảm hứng lịch sử trong văn học Trung Quốc, mặc dù còn rất nhiều tác phẩm khác cũng khai thác nguồn cảm hứng này Cảm hứng lịch sử không chỉ hiện hữu trong thực tế mà còn thấm đẫm trong các tác phẩm văn học, góp phần tạo nên giá trị và sức sống cho nhiều tác phẩm Nhìn chung, cảm hứng lịch sử là một yếu tố quan trọng, xuyên suốt hàng nghìn năm văn học Trung Quốc Đặc biệt, Mạc Ngôn đã đóng góp một gam màu độc đáo vào bức tranh văn học này.

Khái quát về cảm hứng lịch sử trong những sáng tác của Mạc Ngôn

Mạc Ngôn (có nghĩa là không nói) tên thật là Quản Mạc Nghiệp, sinh năm

Ông sinh năm 1955 tại huyện Cao Mật, tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc và đã phải bỏ dở tiểu học do ảnh hưởng của Cách mạng văn hóa Sau nhiều năm lao động ở nông thôn, ông sống trong cảnh đói khát và cô đơn Năm 1976, ông nhập ngũ và sau đó tốt nghiệp khoa Văn tại Học viện nghệ thuật Giải phóng quân từ năm 1984 đến 1986.

Mạc Ngôn bắt đầu sự nghiệp báo chí và viết văn chuyên nghiệp vào năm 1987 Năm 1988, ông trúng tuyển lớp nghiên cứu sinh sáng tác tại Học viện Văn học Lỗ Tấn, Trường Đại học Sư phạm Bắc Kinh Đến năm 1991, ông tốt nghiệp với học vị thạc sĩ Hiện tại, Mạc Ngôn là sáng tác viên bậc Một của Cục Chính trị - Bộ Tổng tham mưu Quân Giải phóng Nhân dân Trung Quốc và là phó chủ tịch Hội Nhà văn Trung Quốc.

Trong suốt 15 năm cầm bút, Mạc Ngôn đã cho ra mắt 200 tác phẩm, bao gồm 11 tiểu thuyết, 20 truyện dài, hơn 60 truyện ngắn và 5 tuyển tập ký, phóng sự, tùy bút Các tác phẩm của ông được dịch ra nhiều ngôn ngữ như Anh, Pháp, Đức, Ý, Nhật, Nga, Hàn, Hà Lan, Thụy Điển, Ba Lan và Việt Nam Một số tác phẩm tiêu biểu đã làm nên tên tuổi của Mạc Ngôn gồm: Báu vật của đời, Đàn hương hình, Cây tỏi nổi giận, Cao lương đỏ, Rừng xanh lá đỏ, Tửu quốc, Tứ thập nhất pháo, Thập tam bộ, Sống đọa thác đày, Châu chấu đỏ, Hoan lạc, Người tỉnh nói chuyện mộng du, Con đường nước mắt, Bạch miên hoa và Trâu thiến.

Mạc Ngôn, với sự cống hiến không ngừng, đã nhận nhiều giải thưởng cao quý, trong đó nổi bật nhất là giải Nobel Văn học 2012 Viện hàn lâm Thụy Điển đã nhận xét rằng ông đã tạo ra một thế giới văn học độc đáo, kết hợp giữa yếu tố huyền ảo, hiện thực, lịch sử và xã hội, gợi nhớ đến các tác phẩm của William Faulkner và Gabriel Garcia Marquez Ngài Peter Englund, Chủ tịch Viện hàn lâm Thụy Điển, miêu tả tác phẩm của Mạc Ngôn là "vừa tàn nhẫn vừa gợi cảm", với những nội dung đáng sợ nhất mà ông từng đọc Giải thưởng Nobel không chỉ là vinh dự lớn lao mà còn giải tỏa "mặc cảm Nobel" của Trung Quốc trong suốt 100 năm qua.

1.3.2 C ả m h ứ ng l ị ch s ử xuyên su ố t trong các tác ph ẩ m c ủ a M ạ c Ngôn

Khám phá thế giới nghệ thuật của Mạc Ngôn, độc giả sẽ bị cuốn hút bởi sự đa dạng trong các đề tài mà ông khai thác, từ việc phản ánh sinh hoạt của quân đội hiện đại qua các tác phẩm như "Bãi cát đen" và "Đoạn thủ", đến việc miêu tả sâu sắc phong tục tập quán của nông thôn.

Vết hõm trong dép cỏ và âm nhạc dân gian là những biểu tượng phản tư lịch sử, khơi gợi suy ngẫm về nhân sinh Dòng sông khô cạn, củ cà rốt trong suốt, thu thủy, và làm đường phản ánh hiện thực nông thôn, thể hiện sự xung đột giữa ý thức cũ và mới trong công cuộc cải cách Ánh chớp hình cầu, bùng nổ, và cây đu chó trắng phản ánh cuộc kháng chiến chống quân xâm lược, với tác phẩm Gia tộc Cao lương đỏ nổi bật trong bối cảnh này.

Cao Lương, Nhà quàn Cao Lương, Cẩu đạo, Da chó và Báu vật của đời là những yếu tố tiêu biểu trong tiểu thuyết của Mạc Ngôn Tác phẩm của ông phản ánh một cách sâu sắc và đa dạng về cuộc sống, từ những khía cạnh cổ xưa đến hiện đại, từ thiên nhiên đến con người, với hình ảnh xương khô trong mồ và u hồn dưới gốc cây tùng Mạc Ngôn khéo léo kết hợp các yếu tố văn hóa, xã hội, và tình cảm, tạo nên một bức tranh phong phú về cuộc sống, từ công tử vương tôn đến tài tử giai nhân, thể hiện sự giao thoa giữa dân gian và nghệ thuật.

Mạc Ngôn, một nhà văn nổi bật trong thế giới nghệ thuật phong phú, thể hiện sự gắn bó sâu sắc với lịch sử, tạo nên những sắc thái độc đáo trong tác phẩm của mình Ông đã trình bày một bài diễn thuyết tại thư viện Đài Bắc với tựa đề "Tôi và tư trào văn học chủ nghĩa lịch sử", khẳng định vai trò quan trọng của lịch sử trong văn chương của mình.

Trong bài diễn thuyết, Mạc Ngôn đã tham khảo bài viết "Nhìn lại tư trào văn học chủ nghĩa lịch sử mới trong mười năm" của Trương Thanh Hoa, được đăng trong số 4 năm nào đó.

Năm 1988, tạp chí “Trung Sơn” đã thảo luận về mối liên hệ giữa các tác phẩm của tác giả và trào lưu văn học chủ nghĩa lịch sử Bối cảnh này diễn ra trong giai đoạn giữa thập kỷ, khi văn học đang trải qua nhiều biến động và thay đổi.

Vào cuối thập niên 80 đến 90, văn học đương đại Trung Quốc, đặc biệt trong thơ ca và tiểu thuyết, đã xuất hiện một trào lưu mang tên “chủ nghĩa lịch sử mới” Mạc Ngôn được Trương Thanh Hoa đánh giá là một trong những nhà văn tiên phong, có vai trò quan trọng trong việc hoàn thành giai đoạn quá độ của trào lưu này, giúp nó vượt qua giai đoạn khởi đầu với chủ nghĩa tìm về cội nguồn, tiến tới giai đoạn hạt nhân, nơi lịch sử trở thành đối tượng của thẩm mỹ và lĩnh vực tưởng tượng siêu nghiệm.

Mạc Ngôn, với các tác phẩm nổi tiếng như "Cao lương đỏ", "Đàn hương hình" và "Sống đoạ thác đầy", đã mang đến cái nhìn hấp dẫn và mới lạ về lịch sử "Cao lương đỏ", diễn ra trong những năm 1920-1930 tại miền quê Cao Mật, không chỉ thuộc dòng văn học "phản tư" của Trung Quốc mà còn đánh dấu phong cách riêng của ông Tác phẩm kết hợp lịch sử với hiện đại qua giọng kể và góc nhìn nhân vật, mặc dù cốt truyện không kịch tính nhưng vẫn cuốn hút người đọc Tác phẩm này tái hiện một giai đoạn lịch sử hào hùng của Trung Hoa, thể hiện xu hướng "gia tộc sử" và đưa nội dung lịch sử vào đời sống dân gian, góp phần mở đường cho sự phát triển của các tác phẩm sau này.

Chủ nghĩa lịch sử mới trong các tác phẩm của Mạc Ngôn mở ra một cái nhìn sâu sắc về giai đoạn lịch sử cận đại Trung Quốc (1895 – 1915), khi đất nước rơi vào hỗn loạn dưới sự xâu xé của các đế quốc Triều đình Mãn Thanh suy yếu, quan lại hèn nhát, trong khi đời sống nhân dân rối ren Sau thất bại của biến pháp Mậu Tuất, quân Đức chiếm Sơn Đông, gây ra sự phẫn nộ trong dân chúng dẫn đến cuộc nổi dậy của Nghĩa Hoà đoàn Tác phẩm khắc họa chân thực sự tàn bạo của quân Đức và sự bất lực của quan lại như Viên Thế Khải, khi đất nước đứng bên bờ vực thẳm Xen lẫn trong bối cảnh lịch sử là cuộc đời của các nhân vật như Mị Nương, Tôn Bính, Cao Mật Tiền Đình và Triệu Giáp, tạo nên một bức tranh đa chiều về xã hội lúc bấy giờ.

Tiểu thuyết "Đàn hương hình" không chỉ phản ánh những sự kiện cách mạng, tội phạm và luyến ái mà còn cung cấp cái nhìn sâu sắc về một giai đoạn lịch sử của Trung Quốc Tác phẩm giúp người đọc hiểu rõ hơn về các hình thức tra tấn và tử hình ở Trung Quốc, đồng thời khám phá lịch sử của hý kịch Miêu Xoang.

Trong tác phẩm "Sống đoạ thác đày," Cao Mật đưa người đọc trở về nửa cuối thế kỷ XX, khám phá lịch sử nông thôn Trung Quốc từ năm 1950 đến 2000 Tác phẩm tập trung vào các mối quan hệ giữa nông dân và đất đai, phản ánh những biến động lịch sử quan trọng như "Đại nhảy vọt" cuối thập kỷ 50 Qua góc nhìn của Tây Môn Náo, cùng với sự hóa kiếp thành các loài động vật, độc giả có cơ hội trải nghiệm sâu sắc những sự kiện đã định hình cuộc sống nông thôn và toàn bộ đất nước Trung Quốc.

“Cách mạng văn hoá” cuối thập kỷ 60 - đầu 70, “Cải cách khai phóng” những năm 80

NHỮNG BIỂU HIỆN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG BÁU VẬT CỦA ĐỜI CỦA MẠC NGÔN

Cảm hứng lịch sử được thể hiện qua số phận của quê hương Cao Mật

2.1.1 M ộ t quê h ươ ng Cao M ậ t đ au th ươ ng mà hào hùng trong cu ộ c chi ế n ch ố ng gi ặ c ngo ạ i xâm

Với Báu vật của đời, Mạc Ngôn đã tái hiện lại số phận của quê hương Cao

Cao Mật, trong suốt gần một thế kỷ từ năm 1900 đến 1993, đã trải qua nhiều biến cố và sự kiện lịch sử quan trọng Những dấu ấn không thể phai mờ của Đức, Nhật, Quốc dân đảng và Cộng sản đảng đã tạo nên một "cuốn phim" lịch sử sinh động về vùng đất này Cuốn phim ấy dần dần hiện ra, phản ánh những thăng trầm của Cao Mật qua thời gian.

Vùng đất Cao Mật, theo lời kể của Lỗ Thị, đã hình thành từ những năm triều Hàm Phong của nhà Thanh, khi chưa có người định cư, chỉ có người đến đánh cá và hái thuốc Tên gọi Đại Lan xuất phát từ việc đàn cừu nghỉ đêm tại đây, nơi mà những người chăn cừu dùng cành cây để tạo thành chuồng Về sau, Tư Mã Răng To, tổ tiên của dòng họ Tư Mã, đã đến cư trú và kết hôn với một cô gái mù, sinh ra Tư Mã Ông Dòng họ Thượng Quan cũng di cư đến đây, tạo nên mối quan hệ thân thiết giữa hai dòng họ này, cùng khai phá vùng đất Cao Mật Tuy nhiên, vùng đất này sớm phải đối mặt với sự xâm lược của các nước đế quốc phương Tây, đặc biệt là Đức, trong bối cảnh Trung Quốc suy yếu từ nửa sau thế kỷ XIX Cuộc chiến tranh thuốc phiện giữa Anh và Trung Quốc đã dẫn đến sự phân chia lãnh thổ, với Cao Mật trở thành thuộc địa của Đức, nơi họ xây dựng đường sắt Giao-Tế, gây ảnh hưởng tiêu cực đến phong thủy vùng đất.

Mã Răng To đã lãnh đạo đội Hổ Lang chống lại quân Đức, với niềm tin ngây thơ rằng quân địch không có khả năng chiến đấu Người dân địa phương tưởng rằng quân Đức sợ bẩn và dễ bị đánh bại Tuy nhiên, đội Hổ Lang, mặc dù có tinh thần quyết chiến, đã thất bại khi phải đối mặt với vũ khí hiện đại của quân địch Cụ tổ Tư Mã Răng To bị bắn chết ngay lập tức, trong khi cụ tổ Thượng Quan Đẩu bị bắt và chịu đựng những hình phạt tàn khốc, nhưng vẫn giữ được sự kiên cường và không van xin.

Cụ đã trải qua hai lượt đi lại trên lưỡi mai, khiến đôi chân trở nên biến dạng, và sau đó bị quan lại chặt đầu, mang đi triển lãm tại thủ phủ Tế Nam Sự kiện này đã khiến người dân Cao Mật tỉnh ngộ, nhận ra sức mạnh đáng sợ của kẻ thù Mặc dù cuộc chiến chống lại quân Đức thất bại, nhưng hai cụ tổ Tư Mã Răng To và Thượng Quan Đẩu đã ghi dấu những trang sử hào hùng đầu tiên của vùng Cao Mật.

Sự đàn áp dã man của giặc Đức đã làm bùng cháy ngọn lửa căm thù trong lòng người dân Cao Mật, đặc biệt là sau cái chết của chị Vu Bảo tại chợ Sa Oa Để đối phó với sự trả thù của quân Đức, người dân đã thành lập hội dáo dài thôn Sa Oa, luyện tập quân sự và chuẩn bị vũ khí Tuy nhiên, sau vài tháng im ắng, họ đã bị bất ngờ bởi cuộc tàn sát dã man vào năm 1900, khi quân Đức do viên tri huyện Lý Quế Phương dẫn đầu bao vây thôn Sa Oa Trong một buổi sáng bình yên, cuộc sống thường nhật của người dân đã bị tiếng súng của giặc Đức nhấn chìm, khi chúng xông vào, gieo rắc đau thương và chết chóc, khiến nhiều người dân ngã gục ngay lập tức.

Dù trong hoàn cảnh bị động, Đỗ Giải Nguyên và Lỗ Quậy vẫn kiên cường chống lại giặc Đức Đội trưởng Đỗ Giải Nguyên chỉ kịp tập hợp một số ít người trong gia đình và người làm thuê, sử dụng khẩu pháo tự tạo để bắn trả kẻ thù Tuy nhiên, sức mạnh của khẩu pháo nhỏ bé không thể chống lại vũ khí hạng nặng của giặc Cuối cùng, cả gia đình ông bị sát hại, và nhà ông Ngũ Quậy cũng bị phá hủy Ngũ Quậy đã chiến đấu đến phút cuối cùng trước khi bị giết, trong khi vợ ông, bà Diêu, chọn cách tự vẫn Ngày hôm đó, 494 người ở thôn Sa Oa đã thiệt mạng, và Lỗ Toàn Nhi trở thành trẻ mồ côi sau cuộc tàn sát khủng khiếp này.

Sau khi chiến tranh thế giới thứ hai kết thúc, Trung Quốc lại phải đối mặt với kẻ thù Nhật Bản Nhật Bản, với tham vọng trở thành cường quốc, đã xâm lược Trung Quốc, Việt Nam và nhiều quốc gia khác ở châu Á - Thái Bình Dương để tìm kiếm tài nguyên Trong suốt gần một thập kỷ, cuộc chiến tranh Trung – Nhật đã để lại nỗi đau và tang thương cho đất nước Trung Quốc, với hàng triệu tài sản bị cướp bóc và nhiều người dân vô tội thiệt mạng do bom đạn và nạn đói Mặc dù chưa có số liệu chính xác về số người thiệt mạng, nhưng thiệt hại về nhân mạng của Trung Quốc được cho là lớn nhất châu Á Trong tác phẩm "Báu vật của đời", nhà văn Mạc Ngôn đã khắc họa cuộc chiến tranh này qua hình ảnh hỗn loạn của người dân khi quân Nhật tấn công Cao Mật, khiến ta liên tưởng đến những câu thơ miêu tả cảnh chạy giặc của nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu.

“Tan chợ vừa nghe tiếng súng Tây Một bàn cờ thế phút sa tay

Bỏ nhà lũ trẻ lơ xơ chạy Mất ổ đàn chim dáo dác bay”

Trong tâm trí người dân Trung Quốc, giặc Nhật là nỗi ám ảnh khủng khiếp, được ví như những con quỷ dữ Thọ Hỉ mô tả giặc Nhật với hình ảnh "những tên nhỏ thó, chân tay ngắn ngủn, mũi củ hành, mắt như lục lạc, ăn gan uống máu người không tanh." Chúng tấn công thôn bằng cả kỵ binh và bộ binh, với những đội kị binh cưỡi ngựa to lớn, liên tục kéo đến Tiếng quát tháo của chúng vang lên, và chỉ trong chốc lát, những người dân vô tội đã bị giết hại Lính Nhật giẫm nát thân thể họ dưới chân ngựa, trong khi bộ binh đội mũ sắt, khiêng nòng pháo, ào vào thôn như bầy ong Cuộc tấn công tàn bạo này đã dẫn đến cái chết của Thượng Quan Phúc Lộc, Thượng Quan Thọ Hỉ và Tôn Đại Cồ, người đã đến giúp đỡ trong lúc nguy cấp.

Sau cuộc tấn công tàn khốc của giặc Nhật, người dân Cao Mật phải chịu đựng nỗi đau mất mát khi chôn cất một cỗ xe ngựa đầy xác chết Chi tiết này phản ánh mức độ tàn phá mà giặc Nhật gây ra cho vùng đất này Khi tái hiện cuộc bao vây, Mạc Ngôn chỉ nhắc đến âm thanh súng đạn và tiếng ngựa, không mô tả chi tiết quá trình tàn sát, nhưng kết quả vẫn cho thấy sự tàn ác của giặc Nhật: “Cho đến tiết thanh minh ấm áp, mười tám cái đầu nhà Tư Mã vẫn treo lủng lẳng trên giá gỗ ngoài cổng nhà.”

Nhà Phúc Sinh Đường đã phải trả một cái giá đắt khi mười tám cái đầu của gia đình Tư Mã bị treo dưới cây gỗ bắc ngang Những cái đầu này bao gồm vợ và hai con của Tư Mã Đình, ba bà vợ và chín đứa con của Tư Mã Khố, cùng với bố mẹ của bà Ba và người em của ông bà Đây là hậu quả của việc Tư Mã Khố dám chống lại quân đội Thiên Hoàng.

Trước sức mạnh của hai kẻ thù Đức và Nhật, vùng đất Cao Mật và Trung Quốc trở nên nhỏ bé và yếu ớt, nhưng lòng yêu nước luôn trỗi dậy mạnh mẽ trong những lúc đất nước lâm nguy Bên cạnh những trang sử đau thương do Đức và Nhật gây ra, người dân Trung Quốc đã viết nên những trang sử hào hùng trong cuộc kháng chiến Trong thời kỳ chống giặc Đức, đội Hổ Lang và hội dáo dài thôn Sa Oa là những minh chứng cho tinh thần yêu nước Đến thời kỳ chống Nhật, người dân đã áp dụng chiến thuật du kích để đối phó với kẻ thù mạnh hơn, nhằm đánh vào điểm yếu của chúng Những nhân vật như Sa Nguyệt Lượng và Tư Mã Khố đã có những hành động dũng cảm như phục kích và phá cầu để cản bước tiến của giặc Sự hợp tác giữa Quốc dân đảng và Đảng cộng sản trong thời gian này đã tạo ra sức mạnh chung, góp phần làm suy yếu kẻ thù Nhật Bản.

Tháng 8 năm 1945, Nhật đầu hàng đồng minh Tuy Trung Quốc không chiến thắng hoàn toàn Nhật Bản trên lục địa châu Á trong cuộc chiến Trung - Nhật này nhưng chiến thắng chung cuộc của phe Đồng minh cũng khiến Trung Quốc trở thành nước thắng trận Niềm vui sướng khi “Bọn Nhật đầu hàng” được Mạc Ngôn khắc hoạ rất rõ nét trong tác phẩm: “Đại đội bộc phá nhảy múa trên đường phố, nhiều người nước mắt giàn giụa Người ta cố ý hích vào nhau, đấm vào vai nhau

Người dân nô nức đổ ra đường, hòa mình vào niềm vui sướng khi có người trèo lên tháp chuông, kéo chuông vang dội Họ mang theo nhiều thứ, từ thanh la, dê sữa đến gói thịt tươi, tất cả đều thể hiện sự phấn khởi Sự kiện này đánh dấu sự kết thúc của một giai đoạn lịch sử đau thương nhưng hào hùng của Trung Quốc và quê hương Cao Mật, mang lại cảm giác hạnh phúc tràn đầy cho mọi người.

2.1.2 M ộ t quê h ươ ng Cao M ậ t đ au th ươ ng trong cu ộ c n ộ i chi ế n Qu ố c –

Cuộc kháng chiến chống Nhật kết thúc thắng lợi, người dân Cao Mật hân hoan nhưng nhanh chóng phải đối mặt với mâu thuẫn giữa Quốc dân Đảng và Đảng cộng sản trong thời kỳ mới Dù quê hương Cao Mật trải qua đau thương, nhưng lịch sử của cuộc kháng chiến vẫn tỏa sáng với tinh thần yêu nước, khi người dân dũng cảm đứng lên bảo vệ quê hương Mục đích cao đẹp này trái ngược với nỗi đau của cuộc nội chiến, một vết thương không thể xóa nhòa trong lịch sử phát triển của Trung Quốc.

Cuộc xung đột giữa Quốc dân đảng và Đảng cộng sản tại Trung Quốc đã dẫn đến những thảm họa khủng khiếp cho người dân, thể hiện rõ qua tác phẩm "Báu vật của đời" của Mạc Ngôn Hai nhân vật chính, Tư Mã Khố và Lỗ Lập Nhân, đại diện cho hai bên đối lập, đã có những hành động trái ngược nhau Tư Mã Khố, với sự lãnh đạo của mình, đã chiếm lại Cao Mật mà không làm hại đến dân thường, thực hiện các biện pháp thân dân nhằm cải thiện đời sống người dân Tuy nhiên, niềm vui ngắn ngủi ấy nhanh chóng bị lật đổ khi Lỗ Lập Nhân trở lại, mang theo sự tàn bạo và đổ máu cho người dân Cao Mật Cuộc chiến giữa hai bên không chỉ là cuộc chiến quyền lực mà còn là cuộc chiến của sự sống và cái chết, để lại những vết thương sâu sắc trong tâm hồn người dân.

Cảm hứng lịch sử được thể hiện qua số phận của gia đình Thượng Quan

2.2.1 Hình t ượ ng L ỗ Th ị - hi ệ n thân tiêu bi ể u c ủ a l ị ch s ử Trung Qu ố c su ố t th ế k ỷ XX

"Báu vật của đời" là tác phẩm của Mạc Ngôn, được viết sau khi mẹ ông qua đời không lâu Đây là món quà tinh thần mà nhà văn dành tặng cho người mẹ yêu quý, như một nén hương thơm ông kính dâng lên hương hồn mẹ Lời đề từ của tác phẩm thể hiện lòng thành kính: “Kính dâng HƯƠNG HỒN”.

Hình tượng người mẹ Lỗ Thị trong tác phẩm "Báu vật của đời" của Mạc Ngôn thể hiện lòng biết ơn sâu sắc của tác giả đối với mẹ Người mẹ này không chỉ mang hình dáng của mẹ Mạc Ngôn mà còn là biểu tượng vĩ đại của tình mẫu tử trong văn học thế giới Tương tự như những hình tượng người mẹ nổi tiếng trong các tác phẩm như "Thằng gù nhà thờ Đức Bà" của Victor Hugo hay "Cuốn theo chiều gió" của Margaret Mitchell, mẹ Lỗ Thị để lại ấn tượng sâu sắc với cuộc đời thăng trầm và những biến cố lịch sử của quê hương Cao Mật Bà là một người mẹ đau thương nhưng anh hùng, nuôi dưỡng chín đứa con và xứng đáng là một trong những tượng đài bất hủ về hình ảnh người mẹ.

2.2.1.1 Lỗ Thị - nạn nhân đau khổ của lịch sử Trung Quốc

Lỗ Toàn Nhi, một đứa trẻ sơ sinh, đã trở thành nạn nhân của chiến tranh khi mới 6 tháng tuổi, mất cả cha lẫn mẹ trong cuộc tấn công của giặc Đức tại thôn Sa Oa, nơi 494 sinh mạng đã bị tước đoạt Được cứu sống bởi người cô và chú, Toàn Nhi đã trải qua khoảnh khắc đau thương khi bà cô phải lấy bột trong miệng em ra và đánh vào mông để em khóc Tiếng khóc khản đặc của em không chỉ là dấu hiệu của sự sống mà còn là khởi đầu cho một cuộc đời đầy cay đắng và nước mắt.

Toàn Nhi, sinh ra trong bối cảnh chiến tranh, lớn lên trong xã hội phong kiến Trung Quốc và trở thành nạn nhân của chế độ này Trung Quốc, với hàng ngàn năm lịch sử phong kiến, tồn tại nhiều luật lệ và hủ tục lạc hậu, đặc biệt là những quy định khắc nghiệt đối với phụ nữ Một trong những hủ tục tàn nhẫn nhất là tục bó chân, xuất phát từ quan điểm thẩm mỹ sai lệch cho rằng phụ nữ phải có đôi bàn chân nhỏ mới đẹp Hơn nữa, tục lệ này còn được biện minh bằng lý do kiểm soát và củng cố đức hạnh của phụ nữ, khiến họ phải ở nhà và không dám làm điều sai trái Trong văn học Trung Quốc, nhà văn Phùng đã phản ánh sâu sắc những vấn đề này.

Trong tác phẩm "Gót sen ba tấc", Ký Tài đã khắc họa rõ nét phong tục bó chân ở Trung Quốc, khi cho rằng “trong đôi chân bó nhỏ xíu ẩn giấu cả một pho lịch sử Trung Quốc” Mạc Ngôn cũng tái hiện phong tục này qua nhân vật Toàn Nhi, người phải bó chân từ năm tuổi, với lý do “đàn bà không bó chân sẽ không lấy được chồng” Hình thức bó chân, thực chất là một cuộc tra tấn đau đớn, khiến người phụ nữ phải chịu đựng không chỉ về thể xác mà còn cả tinh thần Mạc Ngôn miêu tả cảnh bó chân cho Toàn Nhi thật ghê rợn, với hình ảnh “mẹ gào lên như lợn bị chọc tiết” và nỗi đau “buốt đến tận óc” Điều đáng chú ý là, dù phải chịu đựng đau đớn, nhiều phụ nữ vẫn cảm thấy tự hào về đôi chân nhỏ bé của mình, như thể đó là một thành tựu Mạc Ngôn ghi lại rằng mẹ ông khi kể về quá trình bó chân “nét mặt bà tràn đầy niềm tự hào”, cho thấy sự mâu thuẫn giữa nỗi đau thể xác và niềm tự hào ảo tưởng trong xã hội phong kiến Trung Quốc.

Có thể thấy niềm tự hào ấy là một biểu hiện của phép thắng lợi tinh thần, mang tính

A Q của một dân tộc mang nặng tư tưởng phong kiến

Năm mười sáu tuổi, Toàn Nhi xinh đẹp là báu vật của vùng Cao Mật Khi đất nước bước sang thời Dân Quốc, cô được bỏ tục bó chân và trở thành con dâu của gia đình Thượng Quan, mở ra một chương mới trong cuộc đời Dù được gả cho gia đình giàu có, Toàn Nhi lại phải chịu đựng cuộc sống như một người hầu, chăm lo cơm nước, cho gia súc ăn và chăn lợn, trong khi vẫn bị mẹ chồng chì chiết Thêm vào đó, chồng cô, Thượng Quan Thọ Hỉ, thường xuyên đánh đập và hành hạ cô một cách tàn nhẫn.

Nỗi đau lớn nhất trong cuộc đời của Lỗ Toàn Nhi không chỉ đến từ cái chết của cha mẹ hay sự hành hạ thân xác, mà chính là áp lực từ tập tục buộc phải có con trai Chế độ phong kiến Trung Quốc với quan niệm “trọng nam khinh nữ” đã khiến phụ nữ phải chịu đựng nhiều khổ sở Thượng Quan Thọ Hỉ, chồng của Lỗ Thị, bị vô sinh, nhưng cả mẹ chồng và chồng đều đổ lỗi cho Lỗ Thị, khiến cô phải gánh chịu những lời châm biếm như “chỉ biết ăn mà không biết đẻ” và những chỉ trích nặng nề khác Tình huống này đã tạo ra một áp lực lớn đối với Lỗ Thị, buộc cô phải đối mặt với sự kỳ thị và bất công trong xã hội.

Lỗ Toàn Nhi phải chịu đựng những đêm dài bên những người đàn ông không mong muốn, đánh đổi tiết hạnh để tìm kiếm sự bình yên Để thỏa mãn khát khao có cháu của mẹ chồng và đối mặt với những định kiến xã hội, cô đã phải "xin giống" từ những người lạ Cuối cùng, Toàn Nhi đã sinh cho gia đình Thượng Quan chín đứa con, bao gồm tám gái và một trai, mỗi đứa con đều mang trong mình những câu chuyện khác nhau về nguồn gốc Mỗi lần mang thai, cô ôm ấp hy vọng sinh được một con trai để được yên thân, nhưng sự thật tàn nhẫn là cô chỉ sinh toàn con gái, dần dần đẩy cô vào tuyệt vọng Sau khi sinh đứa con gái thứ tư, cuộc sống của cô trở nên tồi tệ hơn, với bầu không khí nặng nề trong gia đình và sự tức giận từ mẹ chồng.

Sau khi sinh, Lỗ Thị vừa lau chùi cho đứa bé thì vẫn còn cảm thấy đau đớn và máu chảy giữa hai chân Trong lúc đó, cô phải chịu đựng những lời lẽ cay độc từ mẹ chồng: “Cô tưởng mình là công thần à? Cô sinh ra một đám con cái mà còn đòi hỏi tôi phải phục vụ cô sao?”

Vu Bàn Vả thật đẹp mặt, nhưng sao lại có con dâu như mi? Hình như mi không xứng đáng làm mẹ chồng! Có lẽ kiếp trước đã làm nghề mổ trâu nên giờ phải chịu báo ứng Tôi thực sự cảm thấy lú lẫn, như có mắt mà không thấy, ma quỷ dẫn lối mới khiến con mình cưới phải loại con dâu như thế.

Trong xã hội phong kiến Trung Quốc, người phụ nữ như Lỗ Thị phải chịu đựng nỗi đau đớn cả về thể xác lẫn tinh thần khi sinh con, đặc biệt là khi không sinh được con trai Cô phải làm việc nặng nhọc ngay cả khi mang thai, và sự áp lực từ gia đình, đặc biệt là mẹ chồng, khiến cô rơi vào trạng thái hoảng loạn, cầu xin sự phù hộ từ các thế lực siêu nhiên để có được một đứa con trai Những hình ảnh đau thương như việc chồng cô dùng chày đánh cô sau khi sinh con gái thứ bảy hay việc cô bị bỏ mặc khi sinh nở cho thấy sự bất công và tàn nhẫn trong cách đối xử với phụ nữ Mặc dù Lỗ Thị và con lừa cùng trở dạ, nhưng trong khi con lừa được chăm sóc, cô lại phải tự mình vượt cạn với sự chuẩn bị sơ sài từ mẹ chồng Điều này phản ánh rõ nét thân phận thấp hèn và nhỏ bé của phụ nữ trong xã hội phong kiến, khi họ không chỉ phải chịu đựng áp lực sinh con trai mà còn bị xem thường hơn cả con vật.

Lỗ Thị đã trải qua vô vàn biến cố lịch sử tại Cao Mật, từ kháng chiến chống Đức và Nhật, nội chiến giữa Cộng sản và Quốc dân Đảng, đến nạn đói, cải cách ruộng đất, và các cuộc cách mạng văn hóa cùng cải cách mở cửa Bà không chỉ chứng kiến mà còn tham gia vào những biến động này, chịu đựng mất mát chồng, con, và cháu, trải qua ly tán và đoàn tụ, cùng với những nỗi khổ cực như đói khát, phải ăn cỏ dại, rau rừng, và sống bên xác chết Những đau thương này đã in dấu ấn sâu sắc trong cuộc đời bà, khiến Lỗ Thị trở thành một nạn nhân điển hình của lịch sử Trung Quốc.

2.2.1.2 Lỗ Thị - bà mẹ vĩ đại của lịch sử Trung Quốc

Hình tượng nhân vật Lỗ Thị hiện lên đẹp nhất trong vai trò của một người mẹ

Lỗ Thị dành trọn tình yêu thương cho những đứa con của mình, mặc dù phải chịu đựng sự dày vò từ mẹ chồng và chồng Nỗi đau lớn nhất của bà là chứng kiến mẹ chồng hành hạ những đứa trẻ vô tội Bà luôn cầu xin và bảo vệ các con trước sự nhẫn tâm của mẹ chồng Khi Lai Đệ bị bà Lã đánh đập, Lỗ Thị đã ôm chặt tay bà Lã và van xin tha cho con Tình yêu mãnh liệt của bà dành cho các con khiến bà sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ chúng, thậm chí không phân biệt được giữa thực tại và kịch Khi thấy Chiêu Đệ bị ức hiếp, Lỗ Thị lao lên sân khấu để cứu con gái, thể hiện sự hy sinh và tình mẫu tử vô bờ bến.

Ngoài chín đứa con ruột, Lỗ Thị còn nuôi dưỡng tám đứa cháu, trong đó có Sa Tảo Hoa, con của Lai Đệ và Sa Nguyệt Lượng; Tư Mã Lương, con trai duy nhất sống sót trong gia đình Tư Mã sau thảm sát của quân Nhật; Lỗ Thắng Lợi, con của Phán Đệ và Lỗ Lập Nhân; Câm anh và Câm em, con của Lãnh Đệ và Tôn Bất Ngôn; Tư Mã Phượng và Tư Mã Hoàng, con của Chiêu Đệ và Tư Mã Khố; cùng Hàn Vẹt, kết quả của mối tình vụng trộm giữa Lai Đệ.

Hàn Chim lớn lên dưới sự chăm sóc và tình yêu thương vô bờ của người bà Lỗ Thị Đàn con và cháu của bà thuộc nhiều thành phần, giai cấp khác nhau, mỗi người chọn cho mình một con đường riêng, thậm chí có lúc xảy ra mâu thuẫn Tuy nhiên, tình yêu của người mẹ và người bà luôn không phân biệt, thể hiện sự gắn kết bền chặt trong gia đình.

MỘT SỐ PHƯƠNG THỨC NGHỆ THUẬT BIỂU HIỆN CẢM HỨNG LỊCH SỬ TRONG BÁU VẬT CỦA ĐỜI CỦA MẠC NGÔN

Ngày đăng: 02/07/2022, 08:20

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Đào Duy Anh ( 2004 ) , Từ điển Hán Việt, Nxb Khoa học xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: T"ừ đ"i"ể"n Hán Vi"ệ"t
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
2. Nhuệ Anh (2006), Mạc Ngôn: cá tính làm nên số phận, Báo Văn nghệ, (15) Sách, tạp chí
Tiêu đề: M"ạ"c Ngôn: cá tính làm nên s"ố" ph"ậ"n
Tác giả: Nhuệ Anh
Năm: 2006
3. Dư Quan Anh - Tiền Chung Thư - Phạm Ninh (chủ biên) (1995), Lịch sử văn học Trung Quốc, tập III, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: L"ị"ch s"ử" v"ă"n h"ọ"c Trung Qu"ố"c
Tác giả: Dư Quan Anh - Tiền Chung Thư - Phạm Ninh (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1995
4. Lại Nguyên Ân (2003), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: 150 thu"ậ"t ng"ữ" v"ă"n h"ọ"c
Tác giả: Lại Nguyên Ân
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội
Năm: 2003
5. M. Bakhtin (Phạm Vĩnh Cư dịch) (1970), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lý lu"ậ"n và thi pháp ti"ể"u thuy"ế"t
Tác giả: M. Bakhtin (Phạm Vĩnh Cư dịch)
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 1970
6. R. Barthes (1997), Độ không của lối viết (Nguyên Ngọc dịch và giới thiệu), Nxb Hội nhà văn Sách, tạp chí
Tiêu đề: không c"ủ"a l"ố"i vi"ế"t
Tác giả: R. Barthes
Nhà XB: Nxb Hội nhà văn
Năm: 1997
7. Lê Huy Bắc, Cái kỳ ảo trong văn học huyễn ảo, Tạp chí nghiên cứu văn học, số 8 – 2006 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cái k"ỳ ả"o trong v"ă"n h"ọ"c huy"ễ"n "ả"o
8. Becnac H. (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương (Nguyễn Thế Công dịch) Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: D"ẫ"n gi"ả"i ý t"ưở"ng v"ă"n ch"ươ"ng
Tác giả: Becnac H
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2005
9. Phan Văn Các (2002), Tiểu thuyết Trung Quốc cuối thế kỷ XX, Báo Văn nghệ (49) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ti"ể"u thuy"ế"t Trung Qu"ố"c cu"ố"i th"ế" k"ỷ" XX
Tác giả: Phan Văn Các
Năm: 2002
10. Lê Nguyên Cẩn (1999), Cái kỳ ảo trong tác phẩm Balzac, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Cái k"ỳ ả"o trong tác ph"ẩ"m Balzac
Tác giả: Lê Nguyên Cẩn
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1999
11. Phạm Tú Châu (1989), Bước đầu tìm hiểu tiểu thuyết thời kỳ mới của Trung Quốc, Tạp chí Văn học, (6), tr.5 – 11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: B"ướ"c "đầ"u tìm hi"ể"u ti"ể"u thuy"ế"t th"ờ"i k"ỳ" m"ớ"i c"ủ"a Trung Qu"ố"c
Tác giả: Phạm Tú Châu
Năm: 1989
12. Phạm Tú Châu (2003), Văn học Trung Quốc những năm 90: Tổng thể, phồn vinh, nguy cơ và tiềm ẩn, Tạp chí Văn học nước ngoài, (3), tr.223 – 227 Sách, tạp chí
Tiêu đề: V"ă"n h"ọ"c Trung Qu"ố"c nh"ữ"ng n"ă"m 90: T"ổ"ng th"ể", ph"ồ"n vinh, nguy c"ơ" và ti"ề"m "ẩ"n
Tác giả: Phạm Tú Châu
Năm: 2003
13. Phạm Tú Châu (2003), Tiểu thuyết tiên phong Trung Quốc, ra đời, nở rộ và trầm lắng, Tạp chí Văn học, (12), tr.41 – 48 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ti"ể"u thuy"ế"t tiên phong Trung Qu"ố"c, ra "đờ"i, n"ở" r"ộ" và tr"ầ"m l"ắ"ng
Tác giả: Phạm Tú Châu
Năm: 2003
14. Jean Chevalier, Từ điển biểu tượng văn hoá thế giới, Nxb Đà Nẵng, Trường viết văn Nguyễn Du – 1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: T"ừ đ"i"ể"n bi"ể"u t"ượ"ng v"ă"n hoá th"ế" gi"ớ"i
Nhà XB: Nxb Đà Nẵng
15. Nguyễn Lệ Chi (2006), Mạc Ngôn: Tôi luôn sống trong ác mộng, http://evan.vnexpress.net Sách, tạp chí
Tiêu đề: M"ạ"c Ngôn: Tôi luôn s"ố"ng trong ác m"ộ"ng
Tác giả: Nguyễn Lệ Chi
Năm: 2006
16. Chương Bồi Hằng, Lạc Ngọc Minh (chủ biên) (2000), Văn học sử Trung Quốc, 3 tập (Phạm Công Đạt dịch), Nxb Phụ nữ Sách, tạp chí
Tiêu đề: V"ă"n h"ọ"c s"ử" Trung Qu"ố"c
Tác giả: Chương Bồi Hằng, Lạc Ngọc Minh (chủ biên)
Nhà XB: Nxb Phụ nữ
Năm: 2000
17. Dương Ngọc Dũng (1999), Dẫn nhập tư tưởng lý luận văn học Trung Quốc, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: D"ẫ"n nh"ậ"p t"ư" t"ưở"ng lý lu"ậ"n v"ă"n h"ọ"c Trung Qu"ố"c
Tác giả: Dương Ngọc Dũng
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1999
18. Đặng Anh Đào (1995), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: i m"ớ"i ngh"ệ" thu"ậ"t ti"ể"u thuy"ế"t ph"ươ"ng Tây hi"ệ"n "đạ"i
Tác giả: Đặng Anh Đào
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1995
19. Đặng Anh Đào (2007), Việt Nam và phương Tây – Tiếp nhận và giao thoa trong văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vi"ệ"t Nam và ph"ươ"ng Tây – Ti"ế"p nh"ậ"n và giao thoa trong v"ă"n h"ọ"c
Tác giả: Đặng Anh Đào
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2007
20. Trần Xuân Đề (2002), Lịch sử văn học Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: L"ị"ch s"ử" v"ă"n h"ọ"c Trung Qu"ố"c
Tác giả: Trần Xuân Đề
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2002

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w