1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) xây dựng nền văn hóa trong kháng chiến chống pháp (1945 1954)

122 1 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Xây Dựng Nền Văn Hóa Trong Kháng Chiến Chống Pháp (1945-1954)
Tác giả Hoàng Thị Hồng Nga
Người hướng dẫn PGS.TS Trương Thị Tiến
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Lịch sử Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2009
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 122
Dung lượng 830,44 KB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1: MỘT SỐ NHÂN TỐ CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ BỐI CẢNH TRONG NƯỚC ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA KHÁNG CHIẾN (1945-1954) (10)
    • 1.1. Một số nhân tố của bối cảnh quốc tế (10)
      • 1.1.1. Ảnh hưởng từ Liên Xô (10)
      • 1.1.2. Ảnh hưởng từ Trung Quốc (16)
    • 1.2. Một số nhân tố của bối cảnh trong nước (23)
      • 1.2.1. Đời sống kháng chiến (23)
      • 1.2.2. Đời sống văn hóa (28)
  • CHƯƠNG 2: XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954) (33)
    • 2.1. Xây dựng lý luận nền văn hoá kháng chiến (33)
      • 2.1.1. Tiếp tục xây dựng lý luận của nền văn hóa kháng chiến trên nền tảng cơ bản của Bản “Đề cương văn hóa Việt Nam”(1943) (2/9/1945- 7/1948) (33)
      • 2.1.2. Từng bước phát triển lý luận văn hóa, phục vụ kháng chiến- kiến quốc (7/1948-1954) (50)
    • 2.2. Xây dựng thiết chế văn hoá (64)
      • 2.2.1. Trong lĩnh vực thông tin tuyên truyền, văn học nghệ thuật (64)
      • 2.2.2. Trong lĩnh vực giáo dục (74)
  • CHƯƠNG 3: MỘT SỐ THÀNH TỰU CƠ BẢN CỦA NỀN VĂN HÓA KHÁNG CHIẾN (77)
    • 3.1. Báo chí tuyên truyền (77)
    • 3.2. Văn học nghệ thuật (84)
    • 3.3. Giáo dục (91)
    • 3.4. Xây dựng quan hệ văn hóa đối ngoại (103)
  • KẾT LUẬN (106)
  • PHỤ LỤC (0)

Nội dung

MỘT SỐ NHÂN TỐ CỦA BỐI CẢNH QUỐC TẾ VÀ BỐI CẢNH TRONG NƯỚC ẢNH HƯỞNG TỚI QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA KHÁNG CHIẾN (1945-1954)

Một số nhân tố của bối cảnh quốc tế

1.1.1 Ảnh hưởng từ Liên Xô

Sau Cách mạng Tháng Mười, Liên Xô trở thành trung tâm của phong trào cách mạng thế giới và hỗ trợ cho cuộc đấu tranh của Việt Nam Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định đi theo con đường của Cách mạng Tháng Mười và duy trì quan hệ chặt chẽ với Liên Xô, coi đây là nhiệm vụ chiến lược trong chính sách đối ngoại Quan hệ giữa Việt Nam và Liên Xô giai đoạn 1945-1954 rất thuận lợi, từ quan hệ cách mạng đến quan hệ nhà nước, với Liên Xô là đồng minh chiến lược và "cửa sổ nhìn ra thế giới" của Việt Nam Từ sau Cách mạng Tháng Tám, Nga đã duy trì giao lưu văn hóa liên tục với Việt Nam trên nhiều bình diện.

Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917 đã có vai trò quan trọng trong lịch sử nhân loại, đặc biệt là trong việc hình thành nền văn hóa xã hội chủ nghĩa (XHCN) không chỉ ở Liên Xô mà còn ảnh hưởng sâu rộng đến nhiều quốc gia, bao gồm Việt Nam Văn hóa Xô viết đã để lại dấu ấn lớn trong văn hóa Việt Nam, đặc biệt trong những năm kháng chiến chống Pháp, khi các nhà văn hóa Việt Nam tìm thấy ở các tác giả Liên Xô những tình cảm trong sáng và lý tưởng văn hóa cao đẹp, từ đó tạo ra nguồn cảm hứng để xây dựng nền văn hóa mới.

Khái niệm "văn hoá Nga" trong bối cảnh Liên Xô trước đây, cũng như ở Việt Nam hiện nay, thường được hiểu theo nghĩa hẹp Khi đề cập đến văn hoá, nhiều người chỉ nghĩ đến các yếu tố bề nổi như nghệ thuật, văn học hay âm nhạc, mà chưa nhận thức đầy đủ về sự phong phú và đa dạng của nó trong xã hội.

Văn hóa Nga thường được hiểu là di sản văn hóa của dân tộc Nga trong quá khứ, trước Cách Mạng Tháng Mười Sau sự kiện này, văn hóa của các dân tộc trong Liên Bang Xô Viết đã được hợp nhất thành "Văn hóa Xô Viết", trở thành nền tảng chính trong tuyên truyền, giáo dục và khoa học xã hội, làm lu mờ những giá trị văn hóa truyền thống của từng dân tộc riêng biệt Văn hóa Xô Viết được coi là tài sản tinh thần chung của tất cả các dân tộc trong Liên Bang, không mang dấu ấn đặc thù của một dân tộc nào Cảm hứng chủ đạo của nền văn hóa này là xây dựng một thế giới mới tốt đẹp, so với các giai đoạn trước đó chỉ là "đêm trường tăm tối" Đối với lịch sử Việt Nam, từ năm 1920, Nguyễn Ái Quốc đã xác định con đường cách mạng theo mẫu hình của Cách Mạng Tháng Mười Nga, từ đó lý tưởng về chính trị và cách mạng vô sản bắt đầu nảy mầm trong lòng dân tộc Việt Nam Người Việt Nam hướng tới ánh sáng của chủ nghĩa Mác-Lênin và coi Liên Xô là chỗ dựa vững chắc, là tấm gương sáng, góp phần vào thắng lợi của Tổng Khởi nghĩa Tháng Tám, giải phóng khỏi ách nô lệ thuộc địa.

Cách mạng tháng Tám 1945 ở Việt Nam mang đậm ảnh hưởng của Cách mạng tháng Mười Nga, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc xây dựng chính quyền dân chủ nhân dân Chính phủ Việt Nam Dân Chủ Cộng hòa đã lấy mô hình văn hóa của Liên Xô làm định hướng, nhằm phát triển nền văn hóa mới cho đất nước.

Giai đoạn 1945-1954, văn hóa Việt Nam đã hình thành những đường nét cơ bản mới, chịu ảnh hưởng mạnh mẽ từ Liên Xô, đặc biệt trong bối cảnh kháng chiến chống thực dân Pháp Sau chiến thắng Biên giới năm 1950 và việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Liên Xô, văn hóa Xô Viết đã trở thành một nguồn cảm hứng quan trọng cho Việt Nam Những kinh nghiệm từ mô hình văn hóa Xô Viết được áp dụng vào việc xây dựng nền văn hóa mới, thể hiện rõ nét trong nhiều lĩnh vực và ngành văn hóa.

Trong lĩnh vực văn hóa - giáo dục, chính phủ Việt Nam đã kêu gọi toàn dân tham gia xây dựng nền văn hóa mới, chống lại tệ nạn xã hội và nạn mù chữ, đồng thời xây dựng hệ thống giáo dục quốc dân theo nguyên tắc dân tộc, dân chủ và khoa học Tiếng Việt được coi là quốc ngữ, và từ ngày 17 tháng 12 năm 1945, tiếng Nga đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại Đại học Việt Nam Để hỗ trợ mặt trận văn hóa, chính phủ khuyến khích việc biên dịch, in ấn và phát hành sách báo Xô Viết, nhằm tuyên truyền cho đời sống mới Theo TS Lê Văn Thịnh, trong giai đoạn 1945-1954, văn hóa Xô Viết đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành đội ngũ trí thức mới của Việt Nam, với sự phát triển mạnh mẽ của việc in ấn và phát hành sách báo Liên Xô Năm 1946, có 14 cơ sở in ấn và phát hành sách báo Xô Viết, chiếm tỷ lệ cao trong tổng số cơ sở xuất bản và đầu sách trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp Sự phát hành ấn phẩm văn hóa Liên Xô bằng tiếng Việt trong những tháng khó khăn đã thể hiện nỗ lực lớn lao của các nhà xuất bản Việt Nam và sức hấp dẫn đặc biệt của văn hóa Liên Xô đối với công chúng, góp phần hỗ trợ cho cuộc đấu tranh bảo vệ và xây dựng chế độ mới của những người Cộng sản Việt Nam.

Sau Đại hội II vào tháng 2 năm 1951, các nhà lãnh đạo Cộng sản Việt Nam đã tăng cường hoạt động trên mọi lĩnh vực để nhanh chóng đưa cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đến thắng lợi Trong quá trình xây dựng chế độ mới, nhiều vấn đề mới nổi lên cần được lý luận soi sáng Để giải quyết những thách thức này, những người Cộng sản Việt Nam đã tìm kiếm câu trả lời từ kinh nghiệm thực tiễn của Liên Xô và các nước dân chủ nhân dân anh em, dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác- Lênin.

Trong những năm qua, Việt Nam đã nghiên cứu và áp dụng lý luận của Stalin, đặc biệt là về vấn đề dân tộc và cách mạng giải phóng dân tộc, cũng như mối quan hệ giữa dân tộc và dân chủ, chống đế quốc và phong kiến Từ năm 1950, nhiều tác phẩm lý luận của chủ nghĩa Mác được xuất bản, tập trung vào các vấn đề chiến lược và sách lược của cách mạng giải phóng dân tộc.

Nền văn học Xô Viết đã có ảnh hưởng sâu sắc và đa dạng đến lĩnh vực văn nghệ, đặc biệt qua các tác phẩm viết về nội chiến và chiến tranh vệ quốc vĩ đại của nhân dân Liên Xô Nhiều tác phẩm tiêu biểu như “Người mẹ” của M.Gorki và “Căm thù” đã được dịch sang tiếng Việt, góp phần làm phong phú thêm kho tàng văn học Việt Nam.

Các tác phẩm nổi bật như “Sông Đông êm đềm” của M.Sôlôkhốp, “Tỉnh ủy bí mật” của A.Phêđêrốp, “Những người Xô Viết chúng tôi” của Pôlêvôi, “Ngôi sao” của P.Kazakêvích, “Chất Nga” của A.Tônstôi, “Thời gian ủng hộ chúng ta” của Êrenbua và “Thép đã tôi thế đấy” của N.Ôxtôrôpxki đã để lại dấu ấn sâu sắc trong văn học Bên cạnh đó, những tác phẩm lý luận như “Kinh nghiệm sáng tác” của Phađêep và “Làm một bài thơ như thế nào” của Maiacôpxki cũng đóng góp quan trọng cho sự phát triển của lý thuyết văn học.

“Vài đoạn lý luận văn học” của M.Gorki [51, tr.71]… cũng đƣợc giới văn nghệ

Việt Nam kháng chiến biên dịch để tham khảo

Hoạt động dịch thuật, in ấn và phát hành sách báo Liên Xô trong thời kỳ kháng chiến có vai trò quan trọng trong công tác tuyên truyền và cổ động chính trị Một ví dụ điển hình là giáo viên khu III đã dịch và đọc cho học sinh nghe tác phẩm “Những người Xô Viết của chúng tôi” Ngoài ra, các chiến sĩ quân đội nhân dân Việt Nam cũng đã chép tay tiểu thuyết “Thép đã tôi thế đấy” của Ôxtôrôpxki trong suốt bốn tháng, qua ba chiến dịch Thượng Lào, Tây Bắc, và Điện Biên Phủ, với sự hy sinh của nhiều người trong quá trình bảo vệ cuốn truyện này Theo nhà nghiên cứu văn học Nguyễn Hải Hà, bản chép tay đặc sắc của “Thép đã tôi thế đấy” hiện đang được trưng bày tại bảo tàng Ôxtôrôpxki.

Matxcơva (do một nhóm chiến sỹ quân đội nhân dân Việt Nam tặng bảo tàng năm

Năm 1956, tác phẩm văn học này trở thành một chứng tích hùng hồn về sức sống kỳ diệu của nó, đồng thời là biểu tượng tuyệt vời cho tình bạn chiến đấu giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân Liên Xô.

Chủ nghĩa anh hùng và lòng dũng cảm của con người Xô Viết trong đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc đã được thể hiện qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo trong văn học Liên Xô Những tác phẩm này không chỉ là tấm gương sáng cho độc giả Việt Nam, mà còn góp phần quan trọng trong việc hình thành tinh thần yêu nước và trách nhiệm cao đối với cộng đồng dân tộc Đồng thời, chúng cũng là “một nguồn dinh dưỡng mới” giúp bồi dưỡng và hình thành lớp nhà văn mới của Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Nhà văn Nguyễn Thành Long chia sẻ rằng, thời điểm đó, đa phần học sinh đều học trong hệ thống giáo dục thuộc địa, khiến cho văn chương Pháp trở nên xa lạ với tư duy của quần chúng Để viết cho nhân dân dễ hiểu, người viết cần phải hướng tới phong trào quần chúng hóa, thậm chí có lúc chúng tôi hiểu sai về chủ trương này Tình trạng này có thể kéo dài nếu không có sự xuất hiện của các tác phẩm văn học Xô Viết từ Việt Bắc vào cuối năm 1950, điều này đã giúp chúng tôi tiếp cận với những tư tưởng mới.

“Người mẹ” của M.Gorki, “Những người bất khuất” của Gorbatốp, “Những người

Xô Viết chúng tôi” của Pôlêvôi, “Bão táp” và “Paris sụp đổ” của I.Erenbua,

Một số nhân tố của bối cảnh trong nước

Sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời trong bối cảnh đầy khó khăn và bị chủ nghĩa đế quốc bao vây Tuy nhiên, chúng ta vẫn có những tiền đề thuận lợi cho việc xây dựng đất nước trong kỷ nguyên độc lập Quá trình xây dựng nền văn hóa mới của Việt Nam không thể tách rời khỏi hoàn cảnh lịch sử đó.

Từ thân phận nô lệ, nhân dân ta đã trở thành công dân của một đất nước độc lập và tự do, tạo nên niềm tự hào và phấn khởi trong lòng mọi người Các giai cấp yêu nước, cùng với sự tin tưởng vào Chính phủ cách mạng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã đoàn kết chặt chẽ để bảo vệ thành quả của Cách mạng tháng Tám trước những hành động xâm lược của đế quốc Sự tham gia tích cực vào Mặt trận Việt Minh đã tạo ra khối liên minh công nông vững mạnh, với các Hội cứu quốc như Công nhân cứu quốc, Nông dân cứu quốc, và Thanh niên cứu quốc phát triển mạnh mẽ Khối đoàn kết toàn dân này đã trở thành lực lượng chính trị hùng hậu, giữ vai trò quan trọng trong việc bảo vệ chính quyền nhân dân và chủ quyền quốc gia Đây là nền tảng vững chắc cho việc xây dựng lực lượng cách mạng, thực hiện vũ trang toàn dân và phát triển các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội trong kháng chiến.

Trước những âm mưu và hành động phá hoại nền độc lập của đất nước, đặc biệt sau sự thất bại của cuộc đàm phán tại Phông-ten-nơ-bơ-lô vào ngày 19 tháng 10, chúng ta cần có những biện pháp kiên quyết để bảo vệ chủ quyền và thống nhất.

Năm 1946, Đảng tổ chức Hội nghị quân sự toàn quốc, khẳng định rằng "Không sớm thì muộn Pháp sẽ đánh mình và mình cũng nhất định phải đánh Pháp" Toàn quốc được chia thành 12 chiến khu, như khu 11 (Hà Nội), khu XII (Bắc Giang, Bắc Ninh), khu V (Vĩnh Phúc), và nhiều khu khác Các phương án tác chiến được xây dựng, bao gồm kế hoạch phá hoại cơ sở hạ tầng để ngăn chặn địch Vùng núi rừng Việt Bắc được củng cố thành căn cứ địa vững chắc, sẵn sàng cho cuộc kháng chiến lâu dài Máy móc và nguyên vật liệu từ các nhà máy được bí mật chuyển về các chiến khu để xây dựng các cơ sở phục vụ chiến đấu và đời sống Các tổ chức văn hóa và hệ thống trường học cũng di tản lên Việt Bắc, đảm bảo việc học tập diễn ra trong điều kiện chiến tranh, với thầy và trò cùng thích nghi với hoàn cảnh mới.

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân Việt Nam đã chủ động chuẩn bị cho cuộc kháng chiến Vào đầu tháng 11 năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã soạn thảo một văn kiện quan trọng.

Bài viết "Công việc khẩn cấp bây giờ" nêu rõ phương hướng và nhiệm vụ chính của cuộc kháng chiến, khẳng định rằng chúng ta sẽ kháng chiến lâu dài, kết hợp giữa kháng chiến và kiến quốc, tổ chức du kích và tăng gia sản xuất trên toàn quốc Hội nghị Thường vụ Trung ương Đảng diễn ra vào ngày 18 và 19/12/1946 đã xác định cuộc kháng chiến của chúng ta là một cuộc chiến trường kỳ, gian khổ nhưng chắc chắn sẽ thắng lợi Đường lối cơ bản của cuộc kháng chiến được nêu rõ trong Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Chủ tịch Hồ Chí Minh vào ngày 19/12/1946.

Chỉ thị toàn dân kháng chiến (22/12/1946) của Ban Thường vụ Trung ương Đảng

Vào thời điểm kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Tống bí thư Trường Chinh đã viết nhiều bài trên báo Sự thật từ tháng 3 đến tháng 8 năm 1947, nhằm giải thích và cụ thể hóa đường lối kháng chiến của Đảng Các văn kiện này nêu rõ mục đích và tính chất của cuộc kháng chiến, khẳng định rằng đó là một cuộc chiến tranh toàn dân, toàn diện, kéo dài và dựa vào sức lực tự lực cánh sinh.

Về chính trị, cần đoàn kết toàn dân, thực hiện sự nhất trí giữa quân đội, chính quyền và nhân dân, đồng thời động viên nhân lực và tài lực Đoàn kết với hai dân tộc Lào và Campuchia, nhân dân Pháp, các nước châu Á, cùng các dân tộc bị áp bức và yêu chuộng hòa bình, nhằm củng cố chế độ cộng hòa dân chủ, đánh đổ chính quyền bù nhìn và thành lập ủy ban kháng chiến các cấp để lãnh đạo cuộc kháng chiến.

Trong lĩnh vực quân sự, cần triệt để áp dụng "du kích vận động chiến" nhằm phá hoại sức mạnh của địch, làm cho chúng rơi vào tình trạng đói khát, mệt mỏi, và chán nản Đồng thời, cần tản cư nhân dân ra khỏi khu vực có chiến sự để bảo vệ họ Cuộc kháng chiến sẽ trải qua ba giai đoạn chính: phòng ngự, cầm cự và tổng phản công, với mục tiêu vừa đánh vừa xây dựng lực lượng.

Trong bối cảnh kinh tế, việc tăng cường sản xuất tự cấp tự túc và tự sản xuất vũ khí là rất quan trọng Chúng ta cần lấy súng từ kẻ thù để đánh giặc, đồng thời tiếp tế cho bộ đội trong cuộc kháng chiến và xây dựng đất nước.

Về văn hóa: chống nạn mù chữ, thực hiện cần, kiệm, liêm chính; văn nghệ sĩ ủng hộ kháng chiến [5, tr.15]

Trong vận động cách mạng và đấu tranh vũ trang, nông dân là lực lượng chủ yếu, cần xây dựng hậu phương vững chắc để huy động sức mạnh cho kháng chiến Căn cứ địa cách mạng chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 là hình ảnh đầu tiên về hậu phương trong chiến tranh nhân dân tại Việt Nam Qua quá trình kháng chiến, hậu phương của cuộc chiến tranh nhân dân đã hình thành với ba vùng tự do lớn: Việt Bắc, Thanh - Nghệ - Tĩnh và Khu 5, cùng với các khu căn cứ rộng lớn ở Đồng Tháp Mười, U Minh Thượng, U Minh Hạ và Đông Nam Bộ Mỗi liên khu và tỉnh đều có khu căn cứ riêng Theo quan điểm của Đảng, hậu phương kháng chiến còn bao gồm liên minh chiến đấu Việt - Lào - Miên, sự ủng hộ từ các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc và Liên Xô, cũng như sự giúp đỡ từ nhân dân Pháp và những người tiến bộ trên thế giới Hậu phương của chúng ta còn được thể hiện qua lòng dân và sự đóng góp của nhân dân ngay trong vùng tạm bị chiếm.

Ngay từ đầu cuộc kháng chiến, Đảng đã xác định rằng căn cứ địa không chỉ nằm ở rừng núi mà còn ở đồng bằng Vào mùa xuân năm 1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng với Trung ương Đảng và Chính phủ đã lên Việt Bắc để thiết lập trung tâm chỉ đạo cho toàn quốc trong cuộc kháng chiến.

Xây dựng Việt Bắc thành căn cứ địa quan trọng cho cuộc kháng chiến toàn quốc là một quá trình đấu tranh quyết liệt, giành đất, giành dân giữa ta và địch Qua diễn biến chiến tranh, hai vùng rõ rệt đã hình thành: vùng tạm bị chiếm và vùng tự do Trong khi một số vùng tự do ổn định, thì nhiều nơi khác lại diễn ra cuộc đấu tranh liên tục Mặc dù bị chiếm, nhân dân vẫn tích cực tham gia kháng chiến Thực dân Pháp đã mở rộng chiến tranh, cố gắng giành từng tấc đất, từng người dân, đặc biệt ở những vùng chiến lược Sau một năm kháng chiến, chiến lược "đánh nhanh thắng nhanh" của Pháp đã thất bại, dẫn đến sự xuất hiện của vùng tự do và vùng tạm chiếm.

Vùng tự do trong kháng chiến chống Pháp là khu vực do chính quyền Việt Minh quản lý, ban đầu bị chia cắt thành nhiều vùng nhỏ nhưng cũng có những khu vực lớn và ổn định như Liên khu Việt Bắc, liên khu IV, liên khu V, và Tây Nam Bộ Những vùng này có ranh giới rõ ràng với khu vực Pháp tạm chiếm, nơi có trạm kiểm soát và hoạt động xuất nhập khẩu được quản lý chặt chẽ Tại các vùng tự do, quân và dân tích cực xây dựng hậu phương vững mạnh về chính trị, kinh tế và quân sự Hệ thống chính quyền được thiết lập thông qua Tổng tuyển cử và Hiến Pháp, đồng thời củng cố khối đoàn kết toàn dân Về kinh tế, hậu phương được xây dựng để ổn định đời sống nhân dân, phục vụ cho kháng chiến và chi viện cho tiền tuyến, đồng thời chống lại thiên tai và sự phá hoại của địch Công cuộc xây dựng quân sự và bảo vệ hậu phương diễn ra liên tục, nhằm đảm bảo nguồn lực cho tiền tuyến Về văn hóa, chủ trương xóa bỏ tệ nạn xã hội cũ và phát triển giáo dục bình dân được thực hiện nhằm nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân.

Vùng tạm chiếm trong kháng chiến chống Pháp được hiểu là khu vực hoàn toàn nằm dưới sự kiểm soát của địch, nơi chính quyền địch hoạt động công khai trong khi chính quyền ta bị hạn chế hoạt động Dân chúng phải tuân theo luật lệ của chính quyền Pháp, và lệnh từ chính quyền ta chỉ có thể thi hành một cách bí mật hoặc một phần Tại các đô thị lớn và những tuyến giao thông quan trọng, quân Pháp tập trung lực lượng dày đặc để kiểm soát chặt chẽ, trong khi ở các vùng nông thôn và thị trấn nhỏ, sự kiểm soát của địch tương đối lỏng lẻo hơn.

XÂY DỰNG NỀN VĂN HÓA TRONG KHÁNG CHIẾN CHỐNG PHÁP (1945-1954)

MỘT SỐ THÀNH TỰU CƠ BẢN CỦA NỀN VĂN HÓA KHÁNG CHIẾN

Ngày đăng: 01/07/2022, 17:42

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Vũ Xuân Ba, Phạm Duy Bình, Nguyễn Minh Đường (1995), Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ giáo dục và Đào tạo, NXB Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ Bộ Quốc gia Giáo dục đến Bộ giáo dục và Đào tạo
Tác giả: Vũ Xuân Ba, Phạm Duy Bình, Nguyễn Minh Đường
Nhà XB: NXB Giáo dục
Năm: 1995
2. Ban Biên tập TC Văn hóa nghệ thuật (1995), “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”, TC Văn hóa nghệ thuật, số 8, trang 63- 68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: “Kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến”
Tác giả: Ban Biên tập TC Văn hóa nghệ thuật
Năm: 1995
3. Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính Trị (1996), Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp- Thắng lợi và bài học, NXB CTQG, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính Trị (1996), "Tổng kết cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp- Thắng lợi và bài học
Tác giả: Ban Chỉ đạo tổng kết chiến tranh, trực thuộc Bộ Chính Trị
Nhà XB: NXB CTQG
Năm: 1996
4. Ban Liên lạc khu học xá Trung ƣơng (1991), Nhớ lại và suy nghĩ về khu học xá Trung ương Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban Liên lạc khu học xá Trung ƣơng (1991)
Tác giả: Ban Liên lạc khu học xá Trung ƣơng
Năm: 1991
5. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng (1978), Văn kiện Đảng 1945- 1954, Tập 2, Quyển 1, NXB Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng (1978), "Văn kiện Đảng 1945-1954, Tập 2, Quyển 1
Tác giả: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng
Nhà XB: NXB Sự thật
Năm: 1978
6. Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng (1979), Văn kiện Đảng 1945- 1954, Tập 2, Quyển 2, NXB Sự thật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng (1979), "Văn kiện Đảng 1945-1954, Tập 2, Quyển 2
Tác giả: Ban Nghiên cứu Lịch sử Đảng Trung ƣơng
Nhà XB: NXB Sự thật
Năm: 1979
7. Ban tổ chức cuộc gặp mặt truyền thống kỷ niệm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122/SL thành lập Nhà in Quốc gia (2002), Nhà in Quốc gia- những trang hồi ký, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban tổ chức cuộc gặp mặt truyền thống kỷ niệm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122/SL thành lập Nhà in Quốc gia (2002), "Nhà in Quốc gia- những trang hồi ký
Tác giả: Ban tổ chức cuộc gặp mặt truyền thống kỷ niệm ngày chủ tịch Hồ Chí Minh ký sắc lệnh 122/SL thành lập Nhà in Quốc gia
Nhà XB: NXB Văn hóa Thông tin
Năm: 2002
8. Ban Tư tưởng văn hóa Trung Ương (2000), Sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của ĐCSVN 1930-2000, NXB CTQG, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sơ thảo lược sử công tác tư tưởng của ĐCSVN 1930-2000
Tác giả: Ban Tư tưởng văn hóa Trung Ương
Nhà XB: NXB CTQG
Năm: 2000
9. Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương (2005), Lịch sử biên niên công tác tư tưởng văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1 (1925-1954), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử biên niên công tác tư tưởng văn hóa của Đảng Cộng sản Việt Nam, tập 1 (1925-1954)
Tác giả: Ban Tư tưởng Văn hóa Trung Ương
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2005
10. Ban Tư tưởng- văn hóa TW (2000), Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng- văn hóa, NXB CTQG, Hà Nội, tập 1 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ban Tư tưởng- văn hóa TW (2000), "Một số văn kiện của Đảng về công tác tư tưởng- văn hóa
Tác giả: Ban Tư tưởng- văn hóa TW
Nhà XB: NXB CTQG
Năm: 2000
16. Nguyễn Bắc (1995), Vài kỷ niệm về hoạt động báo chí và văn nghệ trong lòng Hà Nội thời kỳ kháng chiến chống Pháp, TC Văn học nghệ thuật, số 8, trang 67-68 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vài kỷ niệm về hoạt động báo chí và văn nghệ trong lòng Hà Nội thời kỳ kháng chiến chống Pháp
Tác giả: Nguyễn Bắc
Năm: 1995
17. Nguyễn Bắc (1996), Một số hoạt động văn nghệ ở Hà Nội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1947-1954), TC Văn hóa nghệ thuật, số 8, trang 9-11 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số hoạt động văn nghệ ở Hà Nội trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp (1947-1954)
Tác giả: Nguyễn Bắc
Năm: 1996
18. Nguyễn Duy Bắc (2003), Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 với vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa, TC Văn hóa nghệ thuật số 8, trang 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đề cương văn hóa Việt Nam 1943 với vấn đề gìn giữ và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa
Tác giả: Nguyễn Duy Bắc
Năm: 2003
19. PGS.TS Đặng Việt Bích (2006), Tìm hiểu văn hóa dân tộc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tìm hiểu văn hóa dân tộc
Tác giả: PGS.TS Đặng Việt Bích
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2006
20. PGS.TS Đặng Việt Bích (1997), Giá trị định hướng của Đề cương văn hóa năm 1943, TC Văn hóa nghệ thuật số 1, trang 10-12 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giá trị định hướng của Đề cương văn hóa năm 1943
Tác giả: PGS.TS Đặng Việt Bích
Năm: 1997
21. Biên bản hội đồng giáo dục mở rộng năm 1950, hồ sơ số 29, Hộp số 1, phông Bộ giáo dục, TTLTQG III Sách, tạp chí
Tiêu đề: Biên bản hội đồng giáo dục mở rộng năm 1950
22. Trần Hòa Bình (2003), Văn học và báo chí, bước song hành thời kỳ 1945- 1975, TC Văn hóa nghệ thuật, số 6, trang 30-33 và 36 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học và báo chí, bước song hành thời kỳ 1945- 1975
Tác giả: Trần Hòa Bình
Năm: 2003
23. Bộ Quốc gia giáo dục, Đại hội nghị giáo dục toàn quốc (7/1951), Việt Nam Dân chủ Cộng hòa năm thứ VII Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại hội nghị giáo dục toàn quốc (7/1951)
24. Nguyễn Ngọc Bội (1980), Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, nghệ thuật thời kỳ 1945-1954, Khóa luận tốt nghiệp, Khoa Ngữ văn, Đại học KHXH&NV Sách, tạp chí
Tiêu đề: Sự lãnh đạo của Đảng đối với văn hóa, nghệ thuật thời kỳ 1945-1954
Tác giả: Nguyễn Ngọc Bội
Năm: 1980
25. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 15/02/1950 26. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 15/08/1950 27. Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, số 7, ngày 15/08/1951 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa", ngày 15/02/1950 26. "Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ngày 15/08/1950" 27. "Công báo nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w