Lý do nghiên cứu
Khoa học xã hội đóng vai trò quan trọng trong đời sống chính trị và xã hội, góp phần xây dựng nền tảng tư tưởng và cơ sở khoa học cho việc hoạch định đường lối, chiến lược và chính sách của Đảng và Nhà nước Ngoài ra, nó còn giúp khơi nguồn, xây dựng và phát triển con người cùng bản sắc văn hóa dân tộc.
Nghiên cứu khoa học xã hội là một hoạt động trí não đặc thù, với sản phẩm mang giá trị định tính cao, khó có thể đo lường chính xác bằng các chỉ số định lượng Việc đánh giá số lượng thời gian lao động, cường độ và hiệu suất trong nghiên cứu khoa học nói chung đã là một thách thức, và điều này càng trở nên phức tạp hơn trong lĩnh vực khoa học xã hội.
Hiện nay, việc đánh giá chất lượng các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội dựa trên các tiêu chí như ý nghĩa lý luận và thực tiễn, đóng góp mới và tính khả thi của các đề xuất cho chính sách kinh tế, xã hội và văn hóa Tuy nhiên, những đánh giá này thường mang tính ước lệ, phụ thuộc vào quan điểm của người đánh giá và bối cảnh lịch sử Có những đề xuất không được đánh giá cao trong hiện tại nhưng lại có giá trị quan trọng cho các giai đoạn phát triển sau này, như tư tưởng chủ động hội nhập quốc tế đã bắt đầu hình thành từ sau.
Đề xuất "đổi mới" trong lĩnh vực khoa học xã hội chỉ được thực thi từ Đại hội IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt trong việc mở cửa thị trường và hội nhập quốc tế Nhiều phát hiện và đánh giá về lịch sử - khảo cổ, mặc dù đúng đắn, nhưng phải mất hàng chục năm mới được công nhận Do đó, việc đánh giá các công trình khoa học xã hội không chỉ nên dựa vào tính khả thi và ứng dụng thực tiễn.
Việc thiếu một hệ thống tiêu chí đánh giá công trình khoa học xã hội một cách khách quan và toàn diện đã dẫn đến tình trạng nghiệm thu và đánh giá kết quả nghiên cứu không chính xác và thiếu nghiêm túc Hệ quả là, sự phát triển của khoa học xã hội bị ảnh hưởng, làm giảm động lực cho các đề tài và dự án trong lĩnh vực này.
Trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên (ĐHKH, ĐHTN) được thành lập vào năm 2002, ban đầu là Khoa Khoa học Tự nhiên Đến năm 2006, trường đã đổi tên thành Khoa Khoa học Tự nhiên và Xã hội để phù hợp với sự phát triển Năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký quyết định thành lập Trường Đại học Khoa học dựa trên sự phát triển của khoa này Trường có chức năng đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ trình độ đại học và sau đại học, đồng thời triển khai nhiều đề tài nghiên cứu khoa học ở các cấp độ khác nhau Các nghiên cứu của trường không chỉ đa dạng về nội dung mà còn đáp ứng nhu cầu cấp thiết của xã hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực và đất nước.
Qua quan sát thực tế, chúng tôi nhận thấy việc đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH còn tồn tại nhiều hạn chế Sự khác biệt giữa kết quả đánh giá và giá trị thực sự của nghiên cứu thể hiện qua việc nhiều công trình được xếp loại “Xuất sắc” hay “Tốt”, trong khi chất lượng nghiên cứu thực tế chưa cao Ngoài những nguyên nhân chung, hiện tượng này còn xuất phát từ đặc thù của trường ĐHKH, như chất lượng chuyên môn của hội đồng đánh giá không đồng đều và thiếu tính khách quan; quy trình đánh giá và nghiệm thu còn thiếu sót, chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn.
Để làm rõ thực trạng đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH và chỉ ra nguyên nhân của những hạn chế hiện có, chúng tôi đã chọn vấn đề “Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu ngành khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên” làm đề tài nghiên cứu Hệ thống tiêu chí được đề xuất trong luận văn sẽ giúp nhận diện chất lượng các kết quả nghiên cứu, đồng thời làm cơ sở cho việc nghiệm thu các sản phẩm và kết quả nghiên cứu khoa học xã hội của trường ĐHKH.
Lịch sử nghiên cứu
Nghiên cứu về công tác đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học đã có nhiều tác giả trong và ngoài nước bàn tới:
Trên thế giới, chúng ta có thể kể ra quan điểm của một số tác giả tiêu biểu như:
P Fasella, trong cuốn “Đánh giá các chương trình nghiên cứu và triển khai của Cộng đồng Châu Âu”, đã nêu rõ một số nguyên tắc quan trọng trong việc đánh giá R&D Quá trình đánh giá cần được thực hiện liên quan đến việc hình thành và triển khai các giai đoạn nghiên cứu, đồng thời có thể kết hợp giữa đánh giá nội bộ và đánh giá bên ngoài Đánh giá nội bộ thường do các nhà quản lý dự án thực hiện trong suốt quá trình thực hiện đề tài, trong khi đánh giá bên ngoài được thực hiện bởi các chuyên gia không tham gia vào chương trình nghiên cứu.
Theo P Fasella, việc đánh giá chương trình nên được thực hiện bởi các chuyên gia bên ngoài, không tham gia vào quá trình triển khai Tác giả nhấn mạnh tầm quan trọng của cơ chế phản hồi thường xuyên để điều chỉnh phương pháp đánh giá phù hợp với hoàn cảnh Ông cũng đề xuất rằng hội đồng đánh giá nên có quy mô nhỏ, từ 6-8 thành viên Thời gian đánh giá nên bắt đầu vào giữa chương trình, với tối đa 6 tháng cho phương pháp “chuyên gia” và 3 tháng cho phương pháp “hội đồng”.
A.M.T Rouban trong cuốn “Đánh giá các chương trình R&D của Pháp” chỉ ra rằng việc xây dựng hệ thống chỉ báo rõ ràng cho đánh giá và ứng dụng công trình khoa học phụ thuộc vào nhiều yếu tố, bao gồm nhà khoa học, nhà quản lý và cơ quan giám sát Do đó, việc phát triển một hệ thống chỉ báo có thể áp dụng cho mọi đánh giá vẫn là một vấn đề gây tranh cãi.
Trong cuốn sách “Đánh giá R&D: kinh nghiệm và suy nghĩ”, Delcroix nhấn mạnh rằng quá trình đánh giá là một hoạt động liên tục, gắn liền với các hoạt động của chương trình Ông đề xuất một số cơ sở cho việc đánh giá, bao gồm việc xem xét nguồn gốc nghiên cứu khoa học và công nghệ ở từng giai đoạn, đánh giá tác động kinh tế xã hội của các đề tài nghiên cứu, và sự tham gia của các đội ngũ nghiên cứu trong các hoạt động quốc tế.
Các quan niệm của các tác giả hiện nay chủ yếu tập trung vào việc đề ra nguyên tắc và phương pháp đánh giá kết quả nghiên cứu Tại Việt Nam, Quyết định số 19/2007/QĐ-BKHCN ngày 18 tháng 9 năm 2007 của Bộ Khoa học và Công nghệ là văn bản quan trọng quy định về đánh giá nghiệm thu đề tài nghiên cứu khoa học cơ bản trong lĩnh vực khoa học tự nhiên Quyết định này đưa ra các tiêu chí đánh giá như kết quả nghiên cứu, kết quả tham gia đào tạo sau đại học, tiến độ thực hiện đề tài và tình hình sử dụng kinh phí Tuy nhiên, các tiêu chí này vẫn gây ra nhiều tranh cãi trong cộng đồng khoa học trong nước.
Nhiều nhà khoa học, như Vũ Cao Đàm, Nguyễn Văn An và Hồ Tú Bảo, đã có những công trình nghiên cứu quan trọng về đánh giá nghiên cứu khoa học Đặc biệt, cuốn sách "Đánh giá nghiên cứu khoa học" đã được công bố, góp phần làm rõ hơn về lĩnh vực này.
(NXB Khoa học và Kỹ thuật năm 2007), Vũ Cao Đàm đã đưa ra một hệ thống phương pháp luận về việc đánh giá nghiên cứu khoa học
Học viên chuyên ngành Quản lý Khoa học và Công nghệ đã nghiên cứu về việc xây dựng tiêu chí đánh giá nghiên cứu khoa học, cụ thể là đề tài “Xây dựng tiêu chí đánh giá nghiên cứu khoa học để thực hiện chức năng nghiên cứu khoa học tại trường Cao đẳng nghề Hải Dương” do Nguyễn Văn thực hiện.
Quang, trong bài bảo vệ năm 2008, đã nêu rõ thực trạng đánh giá nghiên cứu khoa học tại trường Cao đẳng nghề Hải Dương và đề xuất các tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu Năm 2010, học viên Lê Ngọc Sơn đã bảo vệ luận văn với đề tài "Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học của cán bộ trường Đại học Sư phạm Hà Nội", trong đó đưa ra bộ tiêu chí đánh giá chất lượng nghiên cứu khoa học dựa trên 3 bước cụ thể.
Bước 1 (40 điểm) tập trung vào việc đánh giá tính mới dựa trên các sự kiện khoa học, vấn đề khoa học và luận điểm khoa học theo các tiêu chí chuẩn mực Bước 2 (25 điểm) xem xét tính logic của năm bộ phận, bao gồm sự kiện khoa học, vấn đề khoa học, luận điểm khoa học, luận cứ khoa học và phương pháp nghiên cứu.
Bước 3: Đánh giá tổng thể các tiêu chí còn lại bao gồm mức độ rõ ràng, tính logic và khoa học trong việc luận giải sự cần thiết của nghiên cứu đề tài; độ rõ ràng và tính khả thi của mục tiêu nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; tính khoa học, sự độc đáo và sự phù hợp của cách tiếp cận; cũng như cấu trúc và hình thức theo logic của kết quả nghiên cứu.
Bài viết "Một số vấn đề trong đánh giá và nghiệm thu kết quả nghiên cứu khoa học" của Nguyễn Văn An, đăng trên tạp chí Hoạt động khoa học số 4/2005, đã phân tích vai trò và thực trạng của hoạt động đánh giá và nghiệm thu nghiên cứu khoa học tại Việt Nam Bài viết cũng đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả và đổi mới cơ chế quản lý trong lĩnh vực này, góp phần cải thiện chất lượng nghiên cứu khoa học Ngoài ra, các bài viết khác về đánh giá nghiên cứu khoa học cũng được đăng tải trên tạp chí Hoạt động khoa học của Bộ Khoa học và Công nghệ cùng một số trang web liên quan.
Trong bài viết “ Đánh giá định lượng kết quả nghiên cứu khoa học” của GS
Hồ Tú Bảo đã trình bày trên tạp chí “Hoạt động khoa học”, số 7/2010 về khái niệm và các đặc điểm cơ bản của những chỉ số tiêu biểu dùng để đánh giá định lượng các ấn phẩm nghiên cứu khoa học, bao gồm chỉ số trích dẫn, hệ số ảnh hưởng và chỉ số H.
Vũ Cao Đàm trong bài viết “Đánh giá nghiên cứu khoa học như thế nào” trên khoahoc.baodatviet.vn đã chỉ ra rằng việc đánh giá nghiên cứu khoa học cần được áp dụng trong những trường hợp cụ thể Ông phân loại các hình thức đánh giá và đề xuất xây dựng một hệ thống đánh giá khoa học với các cách tiếp cận và tiêu chí phù hợp, nhằm đảm bảo đánh giá khách quan cho các công trình khoa học.
Bài viết "Đánh giá khoa học qua định lượng ấn phẩm: Những xu hướng mới trên thế giới trong đánh giá khoa học xã hội, nghệ thuật và nhân văn" của Phạm Thị Ly, đăng tải trên khoavanhoc-ngonngu.edu.vn, phân tích thực trạng phân cực trong nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn toàn cầu Tác giả chỉ ra những hạn chế của hệ thống đánh giá định lượng hiện tại và đề xuất cải tiến phương pháp đo lường ấn bản khoa học bằng cách bổ sung các công cụ và tiêu chí đánh giá định tính Bài viết cũng đưa ra những khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng nghiên cứu khoa học xã hội và nhân văn tại Việt Nam.
Các nghiên cứu trước đây đã tiếp cận vấn đề đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học từ nhiều khía cạnh khác nhau, bao gồm phương pháp luận, thực trạng đánh giá và hệ thống tiêu chí Tuy nhiên, những nghiên cứu này chủ yếu tập trung vào việc đánh giá chung mà chưa đề cập đến tiêu chí cụ thể cho nghiên cứu khoa học xã hội Hơn nữa, các nghiên cứu này được thực hiện trong các bối cảnh khác nhau về nội dung, thời gian và không gian Do đó, đề tài "Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học ngành khoa học xã hội tại trường Đại học Khoa học, Đại học Thái Nguyên" mặc dù không hoàn toàn mới, nhưng sẽ được thực hiện trong một không gian nghiên cứu mới và với các tiêu chí đánh giá cụ thể cho nghiên cứu khoa học xã hội tại một trường đại học nhất định.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu
Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội ở trường ĐHKH, ĐHTN.
Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu, đề tài thực hiện một số nhiệm vụ sau:
Trong bài viết này, chúng tôi sẽ làm rõ cơ sở lý luận của đề tài nghiên cứu khoa học xã hội, bao gồm việc thao tác hóa các khái niệm liên quan như khoa học, nghiên cứu khoa học, tiêu chí và đánh giá kết quả nghiên cứu Đặc biệt, chúng tôi sẽ phân tích những đặc điểm nổi bật của hoạt động nghiên cứu khoa học xã hội, đồng thời nêu rõ các yêu cầu về tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực này.
- Làm rõ thực trạng việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, ĐHTN
- Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội ở trường ĐHKH, ĐHTN.
Mẫu khảo sát
- Các công trình nghiên cứu khoa học xã hội;
- Các luận văn thạc sĩ;
- Cán bộ, giảng viên trực tiếp thực hiện các đề tài nghiên cứu khoa học các cấp thuộc lĩnh vực khoa học xã hội;
- Cán bộ quản lý, chuyên viên phụ trách hoạt động nghiên cứu khoa học của trường ĐHKH.
Câu hỏi nghiên cứu
Việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, ĐHTN hiện nay như thế nào?
Một hệ thống tiêu chí như thế nào để nhận dạng được đúng chất lượng các công trình nghiên cứu xã hội ở trường ĐHKH, ĐHTN?
Giả thuyết nghiên cứu
Đánh giá chất lượng các công trình nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, ĐHTN hiện nay gặp nhiều hạn chế, không phản ánh đúng giá trị thực sự của các nghiên cứu này.
Hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng kết quả nghiên cứu khoa học xã hội cần bao gồm các yếu tố quan trọng như tính mới, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài, tính hệ thống và toàn diện trong nghiên cứu, cũng như tính phù hợp của phương pháp nghiên cứu.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp phân tích – tổng hợp
Dựa trên các luận cứ lý thuyết từ nghiên cứu tài liệu và thực tiễn như số liệu thống kê về đánh giá kết quả nghiên cứu của Trường, cùng với ý kiến thu thập qua phương pháp trưng cầu ý kiến, chúng tôi đã tiến hành phân tích và tổng hợp thông tin để có cái nhìn tổng quan về việc đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại Trường ĐHKH, ĐHTN Từ đó, chúng tôi đề xuất một hệ thống tiêu chí phù hợp với đặc điểm riêng của Trường ĐHKH.
Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
Chúng tôi đã phát 45 phiếu bảng hỏi cho cán bộ và giảng viên tham gia trực tiếp vào đề tài nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH Mục đích là thu thập ý kiến đánh giá về chất lượng kết quả nghiên cứu mà trường đang thực hiện, cũng như quan điểm của họ về hệ thống tiêu chí đánh giá chất lượng cho các kết quả nghiên cứu khoa học xã hội.
Thông tin thu thập từ phiếu điều tra bao gồm cả dữ liệu định tính và định lượng Đối với dữ liệu định tính, chúng tôi áp dụng phương pháp xử lý logic để đưa ra những phán đoán về bản chất các sự kiện và thể hiện mối liên hệ giữa chúng Trong khi đó, dữ liệu định lượng được xử lý bằng các phương pháp toán học thông qua bảng số liệu và biểu đồ.
Phương pháp phỏng vấn sâu
Để thu thập thông tin sâu hơn về vấn đề nghiên cứu, chúng tôi đã thực hiện phỏng vấn với một số cán bộ quản lý, chuyên gia và giảng viên, những người giữ vai trò chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu.
- Phỏng vấn 02 cán bộ (01 phó trưởng phòng Đào tạo NCKH &QHQT và
01 chuyên viên phụ trách mảng nghiên cứu khoa học)
- Phỏng vấn sâu 05 giảng viên là chủ nhiệm các đề tài nghiên cứu khoa học thuộc các cấp như cấp cơ sở; cấp Bộ, cấp Đại học
- Phỏng vấn 05 cán bộ giảng viên tham gia chấm đề tài nghiên cứu khoa học xã hội các cấp).
Phương pháp quan sát
Chúng tôi áp dụng phương pháp quan sát để nắm bắt quy trình nghiệm thu một đề tài nghiên cứu khoa học, từ cách thức quản lý vấn đề khoa học tại trường cho đến quy trình làm việc của hội đồng nghiệm thu Điều này giúp chúng tôi có cái nhìn tổng quát về vấn đề nghiên cứu.
Phương pháp trưng cầu ý kiến chuyên gia
Sau khi đề xuất hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, chúng tôi đã tiến hành khảo sát ý kiến của các chuyên gia về tính khả thi và các tiêu chí được xây dựng Những ý kiến này sẽ làm cơ sở cho việc đưa ra khuyến nghị áp dụng hệ thống tiêu chí mới vào công tác đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội, nhằm khắc phục những hạn chế hiện tại trong công tác này tại trường ĐHKH.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn được kết cấu thành 3 chương:
Chương1 Cơ sở lý luận
Chương 2 Thực trạng đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học xã hội tại trường ĐHKH, ĐHTN
Chương3 Xây dựng hệ thống tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học ngành khoa học xã hội trường ĐHKH, ĐHTN
CƠ SỞ LÝ LUẬN
Khoa học và nghiên cứu khoa học
Khái niệm “Khoa học” được giải thích trong một số từ điển như sau:
Theo từ điển Larousse (2002), khoa học được định nghĩa là tập hợp tri thức đã được kiểm chứng qua thực nghiệm, liên quan đến các sự kiện, sự vật và hiện tượng theo quy luật xác định.
Theo từ điển Triết học của Liên Xô (1975), khoa học được định nghĩa là lĩnh vực hoạt động nhằm sản xuất tri thức mới về tự nhiên, xã hội và tư duy, bao gồm tất cả các điều kiện và yếu tố liên quan Trong bối cảnh này, khoa học được coi là một hoạt động sản xuất tri thức của con người.
Từ điển Bách khoa toàn thư của Liên Xô(Bản tiếng Việt, 1986), khoa học
Khoa học là lĩnh vực hoạt động của con người, có vai trò quan trọng trong việc xử lý và hệ thống hóa tri thức khách quan Nó không chỉ là một hình thái ý thức xã hội mà còn bao gồm các hoạt động nhằm thu nhận kiến thức mới và kết quả từ những hoạt động đó Do đó, khoa học được xem như phương tiện cung cấp tri thức khách quan cho con người.
Khoa học được coi là một thiết chế xã hội, theo từ điển Xã hội học của Nguyễn Khắc Viện (1994), với vai trò là hệ thống các giá trị và quy tắc tạo nên khuôn mẫu xã hội được thừa nhận Nó ảnh hưởng sâu rộng đến mọi lĩnh vực hoạt động xã hội, thực hiện chức năng định hình hành vi và xây dựng luận cứ cho các quyết định trong sản xuất, kinh doanh và tổ chức xã hội Khoa học ngày càng trở thành phương tiện quan trọng, góp phần biến đổi căn bản mọi khía cạnh của đời sống xã hội.
Theo định nghĩa trong từ điển Từ và Ngữ Việt Nam, khoa học được hiểu là hệ thống tri thức của con người về tự nhiên, xã hội và tư duy, được tích lũy qua lịch sử Khoa học giúp con người khám phá và giải thích các quy luật khách quan của các hiện tượng.
Tóm lại qua các từ điển được tra cứu, chúng tôi nhận thấy về cơ bản có 4 định nghĩa về khoa học dựa trên 4 cách tiếp cận sau:
Khoa học là một hệ thống tri thức
Khoa học là một hoạt động sản xuất tri thức
Khoa học là một hình thái ý thức xã hội
Khoa học là một thiết chế xã hội
Trong luận văn này, khoa học được định nghĩa là hệ thống tri thức về quy luật của vật chất, sự vận động của vật chất, cũng như các quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy Khái niệm này không chỉ phổ biến mà còn được UNESCO sử dụng trong các văn bản chính thức Khoa học được coi là một hệ thống tĩnh tại, phản ánh những tri thức tích lũy từ hoạt động tìm tòi và sáng tạo của nhân loại.
Trong luận văn này, chúng ta cần phân biệt giữa hệ thống tri thức khoa học và hệ thống tri thức kinh nghiệm.
Hệ thống tri thức kinh nghiệm được hình thành từ những hiểu biết tích lũy qua hoạt động sống hàng ngày và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên Quá trình này giúp con người quản lý thiên nhiên và xây dựng mối quan hệ xã hội Mặc dù tri thức kinh nghiệm được sử dụng và phát triển trong thực tế, nhưng nó chưa đi sâu vào bản chất và các thuộc tính của sự vật Ngược lại, tri thức khoa học là những hiểu biết tích lũy có hệ thống thông qua nghiên cứu khoa học, sử dụng phương pháp khoa học và dựa trên quan sát, thí nghiệm Ví dụ, khi trời oi bức, mọi người có thể kết luận trời sắp mưa dựa trên kinh nghiệm, nhưng khoa học sẽ lý giải rằng độ ẩm không khí tăng đến một giới hạn nào đó là dấu hiệu cho thấy trời sắp mưa Tóm lại, tri thức khoa học được hình thành từ nghiên cứu và sáng tạo, trong khi tri thức kinh nghiệm dựa vào quan sát từ các hiện tượng lặp đi lặp lại, tạo nền tảng cho sự phát triển của tri thức khoa học.
1.1.2 Nghiên cứu khoa học (NCKH) Để hiểu đúng về khái niệm “nghiên cứu khoa học”, trước hết chúng ta cần hiểu “nghiên cứu” là gì
Theo từ điển Từ và Ngữ Việt Nam (NXB Tổng hợp TP.HCM, 2005), nghiên cứu được định nghĩa là quá trình tìm hiểu sâu sắc một vấn đề nhằm khám phá bản chất của nó hoặc tìm kiếm giải pháp cho những thách thức mà vấn đề đó đặt ra.
Nghiên cứu là một quy trình tìm hiểu tích cực, có hệ thống nhằm khám phá và giải thích các sự kiện Quá trình này giúp tạo ra sự hiểu biết sâu sắc hơn về các hành vi, giả thuyết và ứng dụng thực tiễn thông qua các định luật Thuật ngữ này cũng liên quan đến việc thu thập thông tin chuyên môn, thường gắn liền với khoa học và các phương pháp khoa học, nhằm khám phá bản chất của các sự kiện.
Nghiên cứu là quá trình điều tra với mục tiêu rõ ràng nhằm khám phá, sáng tạo tri thức, xây dựng học thuyết, cũng như kiểm tra, xác minh, thẩm định hoặc bác bỏ các tri thức khoa học và học thuyết hiện có.
Từ các cách hiểu trên về nghiên cứu, khái niệm nghiên cứu khoa học cũng được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Theo luật Khoa học và công nghệ (2000), nghiên cứu khoa học là hoạt động nhằm phát hiện và tìm hiểu các hiện tượng, sự vật, quy luật trong tự nhiên, xã hội và tư duy Nó bao gồm cả nghiên cứu cơ bản và nghiên cứu ứng dụng, với mục tiêu sáng tạo các giải pháp để ứng dụng vào thực tiễn.
Theo Vũ Cao Đàm, nghiên cứu khoa học được xem là một hoạt động xã hội nhằm khám phá những điều chưa biết trong lĩnh vực khoa học, bao gồm việc phát hiện bản chất của sự vật và nâng cao nhận thức về thế giới Đồng thời, nghiên cứu cũng liên quan đến việc sáng tạo ra các phương pháp và công cụ kỹ thuật mới để cải tạo thế giới Về mặt thao tác, quá trình nghiên cứu khoa học bao gồm việc hình thành và chứng minh các luận điểm khoa học liên quan đến các sự vật hoặc hiện tượng cần được khám phá.
Nghiên cứu khoa học theo Dương Thiệu Tống là một hoạt động hệ thống nhằm đạt được hiểu biết được kiểm chứng Đây là nỗ lực có chủ đích và tổ chức để thu thập thông tin, phân tích và sắp xếp dữ liệu, sau đó đánh giá thông tin qua phương pháp qui nạp và diễn dịch.
Nghiên cứu khoa học là quá trình tìm hiểu và khám phá bản chất của các sự vật trong tự nhiên, xã hội và con người, nhằm đáp ứng nhu cầu nhận thức Đồng thời, nó cũng đóng vai trò quan trọng trong việc sáng tạo các giải pháp để tác động và biến đổi sự vật theo những mục đích sử dụng cụ thể.
Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học và tiêu chí đánh giá kết quả nghiên cứu
1.2.1 Đánh giá kết quả nghiên cứu khoa học a Đánh giá
Khái niệm “Đánh giá” tương đương với khái niệm “Evaluer” trong tiếng Pháp và “Evaluate” trong tiếng Anh:
Từ điển Larousse (2002) giải thích “Evaluer” là “Déterminer la valeur, le prix, l’importance de”, tạm dịch là “Xác định giá trị, giá cả, tầm quan trọng”
Theo định nghĩa từ điển Web Dictionary of Cybernetics and System, "Đánh giá" được hiểu là việc áp dụng các phương pháp và quy trình khoa học để thu thập và phân tích thông tin, nhằm so sánh một sự kiện thực tế hoặc giả thuyết với các mục tiêu và tiêu chuẩn đã đặt ra.
Theo từ điển Cobuild (2001), "Evaluate" có nghĩa là khi bạn muốn đánh giá một người hoặc một sự vật nào đó, bạn cần xem xét chúng để đưa ra phán xét, chẳng hạn như xác định chúng tốt hay xấu như thế nào.
Trong tiếng Việt: “Đánh giá” được hiểu theo một số nghĩa như sau:
+ Xem xét một công việc sau khi đã hoàn tất, xem xét mức độ đạt yêu cầu so với dự kiến ban đầu
+ Xem xét một con người theo một tiêu chuẩn đã đặt ra
Việc xem xét một đề tài nghiên cứu cần đánh giá cả về số lượng và chất lượng kết quả nghiên cứu, cũng như hiệu quả của nó Điều này sẽ là cơ sở quan trọng để quyết định liệu có nên nghiệm thu kết quả nghiên cứu hay không.
Vũ Cao Đàm định nghĩa đánh giá là quá trình so sánh dựa trên một chuẩn mực nhất định nhằm xác định mức độ tốt hơn hoặc xấu hơn của một sự vật so với một mẫu chuẩn đã được chọn, trong đó bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến chuẩn mực.
Đánh giá là quá trình xem xét và so sánh một sự vật với các tiêu chí chuẩn mực nhằm xác định giá trị của nó Cần lưu ý rằng "Đánh giá" khác với "Thẩm định".
Thẩm định (Assessment) là sự đánh giá trước, Trong tiếng Việt “Thẩm định” được sử dụng trong một số trường hợp sau:
+ Xem xét đề tài trước khi quyết định nghiên cứu, là cơ sở để một cấp quản lý có phê duyệt nhiệm vụ nghiên cứu hay không
Kiểm tra hiệu quả của một phương án công nghệ là rất quan trọng, bao gồm việc thẩm định tác động môi trường và đánh giá hiệu quả kinh tế của công nghệ đó.
+ Kiểm tra lại một chỉ tiêu trước khi sử dụng, ví dụ, thẩm định đơn giá trước khi sử dụng nó để quyết đoán công trình
Thẩm định là quá trình "đánh giá trước", trong khi đánh giá là "đánh giá sau" Mặc dù thẩm định và đánh giá có một số điểm khác nhau về chỉ tiêu và nội dung, nhưng cách thực hiện của chúng vẫn có nhiều điểm tương đồng Kết quả nghiên cứu (KQNC) đóng vai trò quan trọng trong việc hiểu rõ hơn về sự khác biệt này.
Theo Vũ Cao Đàm cho rằng KQNC là sản phẩm phát sinh từ hoạt động nghiên cứu khoa học, và bản chất của kết quả nghiên cứu là thông tin liên quan đến bản chất của sự vật hay đối tượng nghiên cứu.
KQNC được thể hiện qua nhiều hình thức đa dạng, bao gồm thông tin về quy luật tự nhiên, xã hội và tư duy; giải pháp công nghệ, tổ chức và quản lý; cùng với các vật mẫu có thông số kỹ thuật khả thi.
Kết quả nghiên cứu khoa học chủ yếu là thông tin, và chúng ta tiếp cận những kết quả này thông qua các hình thức khác nhau như báo cáo khoa học, băng ghi hình, băng ghi âm, mô tả quy trình, công thức, kỹ năng, bí quyết, và các mẫu vật như công nghệ mẫu hay sản phẩm mẫu.
Đánh giá kết quả nghiên cứu (KQNC) là quá trình xem xét thông tin từ các vật mang, nhằm phân biệt giữa KQNC và hiệu quả nghiên cứu Hiệu quả nghiên cứu được hiểu là lợi ích thu được sau khi áp dụng KQNC vào thực tiễn, do đó, việc đánh giá hiệu quả nghiên cứu chỉ diễn ra sau khi KQNC đã được áp dụng Không phải mọi KQNC đều thể hiện ngay hiệu quả, đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội Vì vậy, đánh giá hiệu quả nghiên cứu cần thực hiện theo lộ trình và tiêu chí cụ thể Trong khuôn khổ luận văn này, chúng tôi tập trung vào việc xây dựng tiêu chí đánh giá KQNC dựa trên số lượng và chất lượng sản phẩm nghiên cứu, nhằm quyết định nghiệm thu và đánh giá mức độ đáp ứng của kết quả nghiên cứu so với mục tiêu đã đặt ra.
Đánh giá KQNC là quá trình xem xét cả về số lượng và chất lượng các kết quả nghiên cứu khoa học, dựa trên các tiêu chí chuẩn mực nhằm xác định giá trị của những kết quả này Đây cũng là cơ sở để quyết định việc nghiệm thu các kết quả nghiên cứu.
Theo Vũ Cao Đàm, đánh giá kết quả nghiên cứu (KQNC) là quá trình định giá trị của những kết quả đạt được Để thực hiện việc đánh giá này, cần chú ý đến các đặc trưng của đối tượng KQNC và các tiêu chuẩn được sử dụng Những tiêu chuẩn này đóng vai trò quan trọng trong việc xác định chất lượng của KQNC Đáng lưu ý, khi đánh giá KQNC, chúng ta chỉ tập trung vào chất lượng của các kết quả thu được trong quá trình nghiên cứu, mà chưa xem xét đến hiệu quả của chúng sau khi được áp dụng.
Tóm lại, có thể thấy đánh giá kết quả nghiên cứu nhằm một số mục đích sau:
- Là cơ sở để đánh giá tầm quan trọng của kết quả nghiên cứu trong hệ thống khoa học nói chung
- Là cơ sở để đánh giá hiệu quả đầu tư vào khoa học
Đánh giá giá trị của kết quả nghiên cứu khoa học (KQNC) là cần thiết để tôn trọng và trả công cho người nghiên cứu, nhưng cũng gặp nhiều khó khăn Thứ nhất, tính thông tin của KQNC khó xác định do tính chất tương đối trừu tượng, thường chỉ có thể đánh giá định tính qua ý kiến của chuyên gia hoặc hội đồng Thứ hai, tính mới của KQNC là đặc trưng quyết định, và việc đánh giá này chủ yếu dựa vào quan điểm của các chuyên gia Thứ ba, "độ trễ của áp dụng" là yếu tố không thể bỏ qua, vì mọi KQNC đều có một khoảng thời gian trước khi được áp dụng thực tiễn Cuối cùng, tính rủi ro là một đặc điểm thường thấy trong nghiên cứu khoa học, do đó, việc đánh giá KQNC cần được thực hiện một cách khách quan.
Trong luận văn này, chúng tôi áp dụng quan điểm đánh giá KQNC của Vũ Cao Đàm, coi đánh giá KQNC là việc lượng định giá trị của kết quả nghiên cứu Giá trị của KQNC được hiểu là mức độ quan trọng về tính hữu ích của thông tin, cả về số lượng lẫn chất lượng Khi đánh giá KQNC của đề tài, cần thống nhất quan điểm này để đảm bảo tính chính xác và hiệu quả trong quá trình nghiên cứu.