1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong lập luận (trên tư liệu báo chí)

92 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Mối Quan Hệ Giữa Mạch Lạc Và Ngụy Biện Trong Lập Luận (Trên Tư Liệu Báo Chí)
Tác giả Nguyễn Minh
Người hướng dẫn GS.TS. Nguyễn Văn Hiệp
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Ngôn ngữ học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 632,63 KB

Cấu trúc

  • 1) Lí do chọn đề tài (7)
  • 2) Lịch sử vấ n đề (8)
  • 3) Mụ c đ ích nghiên cứu (10)
  • 4) Đối tượ ng nghiên cứu (10)
  • 5) Phươ ng pháp nghiên cứu (10)
  • 6) Bố cục luậ n vă n (11)
  • Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN (13)
    • 1.1 Lịch sử vấn đề (11)
      • 1.1.1 M ạch l ạc (11)
        • 1.1.1.1 Giai đ oạ n 1 (13)
        • 1.1.1.2. Giai đ oạn 2 (17)
      • 1.1.2. Ng ụy biện (11)
        • 1.1.2.1. T ừ Aristote (23)
        • 1.1.2.2. Khoa h ọc logic c ận đại (25)
        • 1.1.2.3. Tiêu chu ẩn nhận diện (Standard Treatment) (26)
        • 1.1.2.4. D ụng hành – tương thoại (The Pragma-Dialectical Approach) – PDA (27)
        • 1.1.2.5. Douglas Walton và lí thuyết d ụng hành về ngụ y biện (28)
    • 1.2. Lí thuy ết về lập luận (35)
    • 1.3. Mố i quan hệ giữa ngụy bi ện và m ạch l ạc trong mộ t luận cứ (36)
    • 1.4. Quan đ iểm củ a Walton về luận cứ trong truyền thông (42)
    • 1.5. Tiểu kết chương 1 (43)
  • CHƯƠNG 2: MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THUỘC NHÓM VIỆN DẪN (AD) (45)
    • 2.1. Ngụ y biện “Tấn công cá nhân” (Ad Hominem ) (12)
      • 2.1.1. Về ngụy biện “T ấn công cá nhân” (45)
      • 2.1.2. Luận cứ và ngữ cảnh c ủa lu ận cứ (46)
      • 2.1.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L1) (48)
      • 2.1.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad Hominem 48 2.2. Ngụ y biện viện dẫn thẩm quyền (Ad Verecundiam) (50)
      • 2.2.1. Về ngụy biện viện dẫn thẩm quyền (51)
      • 2.2.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (53)
      • 2.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L2) (53)
      • 2.2.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad (56)
    • 2.3. Ngụ y biện Viện dẫn đi ều bất khả tri (Ad Ignorantian) (12)
      • 2.3.1. Về ngụy biện Viện dẫn điều bất khả tri – hay còn gọi là gánh bằng chứng (Burden of proof) (56)
      • 2.3.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (58)
      • 2.3.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L3) (59)
      • 2.3.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad Ignorantian 60 2.4. Ngụ y biện viện dẫn lòng thương cảm (ad misericordiam) (62)
      • 2.4.1. Về ngụy biện viện dẫn lòng thương cảm (63)
      • 2.4.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (64)
      • 2.4.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L4) (65)
      • 2.4.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Ad (66)
    • 2.5. Tiểu kết chương 2 (67)
  • CHƯƠNG 3: MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN (68)
    • 3.1. Ngụ y biện hình nhân thế m ạng (Straw man) (12)
      • 3.1.1 Về ngụy biện hình nhân thế mạng (68)
      • 3.1.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (69)
      • 3.1.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L5) (69)
      • 3.1.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Straw man (72)
    • 3.2. Ngụ y biện “nước đôi” (equivocation) (12)
      • 3.2.1. Về ngụy biện nước đôi (73)
      • 3.2.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (74)
      • 3.2.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L6) (74)
      • 3.2.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ (76)
    • 3.3. Ngụy bi ện loại suy sai (Faulty analogy) (12)
      • 3.3.1. Về ngụy biện loại suy sai (77)
      • 3.3.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (78)
      • 3.3.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L7) (78)
    • 3.4. Ngụy bi ện bu ộc lao d ốc (Slippery Slope) (81)
      • 3.4.1. Về ngụy biện buộc lao dốc (81)
      • 3.4.2. Luận cứ và ngữ cảnh của luận cứ (82)
      • 3.4.3. Phân tích mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong (L8) (83)
      • 3.4.4. Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong luận cứ Slippery (86)
  • Slope 84 (0)
    • 3.5. Tiểu kết chương 3 (87)

Nội dung

Lịch sử vấ n đề

Cho đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu về “mạch lạc”, chúng tôi xin điểm qua vài công trình có liên quan đến luận văn này:

Haliday và Hasan (1976) đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng mang tên “Cohesion in English”, trong đó họ sử dụng khái niệm “register” để phân tích liên kết và mạch lạc trong văn bản Tuy nhiên, Galperin chỉ ra rằng mặc dù hai tác giả có ý định hình thức hóa các phương tiện mạch lạc, công trình này vẫn chủ yếu đề xuất nhiều vấn đề ở bình diện ngữ pháp thay vì bình diện văn bản.

Theo Green (1980), mạch lạc được hiểu như một nguyên tắc cộng tác, trong đó có sự "hợp tác" giữa người nói và người nghe để cùng hướng tới một ngữ cảnh cụ thể.

- Givón cho rằng mạch lạc nằm trong một “văn bản tinh thần” ở người tiếp nhận chứ không phải ở “nội văn bản”

- Brown & Yule nhấn mạnh việc nghiên cứu mạch lạc phải dựa trên việc coi như là các quyết định luận suy từ phía người nghe / đọc

- Trần Ngọc Thêm (1985) trong “Hệ thống liên kết tiếng Việt” không nhắc đến mạch lạc, nhưng lại đưa ra một khái niệm rất gần với “mạch lạc” là

“liên kết nội dung” Tuy nhiên, “liên kết nội dung” của ông vẫn chỉ là sự phát triển thêm của “liên kết” mà thôi

Tại Đại học Quốc gia Hà Nội, có bốn luận án thạc sĩ và tiến sĩ về mạch lạc tiếng Việt, chủ yếu khảo sát các biểu hiện mạch lạc trong những thể loại văn bản cụ thể như báo chí và hợp đồng, mà không đi sâu vào một loại mạch lạc nhất định Ngoài ra, một số luận án và báo cáo khác tập trung vào mạch lạc trong tác phẩm cụ thể như Truyện Kiều hoặc ứng dụng mạch lạc trong giảng dạy văn học ở bậc phổ thông, do đó cũng không chú trọng đến các vấn đề lý thuyết liên quan đến mạch lạc.

Về lịch sử nghiên cứu ngụy biện, có một số mốc đáng chú ý sau:

Trước thế kỷ XX, ngụy biện được coi là vấn đề thuộc về logic học, trong đó các tiền đề không hỗ trợ cho kết luận, dẫn đến việc đây trở thành một lỗi trong lập luận.

Trong thế kỷ XX, trường phái Amsterdam đã mở rộng quan điểm về ngụy biện, coi đây là một lỗi lập luận trong hội thoại và áp dụng nhiều phương pháp phân tích phong phú hơn so với các trường phái trước đó.

Nghiên cứu của Hamblin (1970) đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lĩnh vực phân tích lập luận, chỉ ra những hạn chế của các phương pháp truyền thống Ông cho rằng "Ngụy biện là một luận cứ có vẻ như có hiệu lực, nhưng thực tế lại không".

Sau Hamblin, các nhà nghiên cứu về ngụy biện đã nhấn mạnh rằng ngụy biện liên quan chặt chẽ đến giao tiếp và tương tác, cho thấy rằng vấn đề này không chỉ nằm ở logic thuần túy mà còn ở cách thức diễn đạt và truyền đạt thông tin.

Nghiên cứu ngụy biện tại Việt Nam hiện nay chủ yếu dựa trên các giáo trình logic học cổ điển trước thế kỷ XX, như “Logic học đại cương” của Tô Duy Hợp và “Nhập môn về Logic hình thức & Logic phi hình thức” của Nguyễn Đức Dân Những tài liệu này chỉ liệt kê một số loại ngụy biện phổ biến mà không cung cấp cơ sở lý thuyết để giải thích, đồng thời chưa khai thác các lý thuyết đương đại về ngụy biện.

Gần đây, các nghiên cứu về ngụy biện và mạch lạc cho thấy nhiều điểm tương đồng, đặc biệt là trong việc phân tích mối quan hệ giữa người nói và người nghe Điều này nhấn mạnh tầm quan trọng của việc kết hợp tri thức từ nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ giới hạn trong ngôn ngữ học và logic học.

Mụ c đ ích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của luận văn này là kết hợp các thành tựu trong nghiên cứu mạch lạc và ngụy biện gần đây nhằm cung cấp cái nhìn sâu sắc hơn về mạch lạc trong lập luận Cụ thể, chúng tôi sẽ xác định tiêu chí nhận diện mạch lạc như là quá trình điền vào khoảng trống trong giải thuyết, kết hợp các lý thuyết để làm rõ mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc, phân tích từng loại ngụy biện để khẳng định lại mối quan hệ này, và khảo sát các văn bản báo chí để kiểm chứng hệ thống đã đề xuất.

Đối tượ ng nghiên cứu

Luận văn này nghiên cứu mối liên hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong luận cứ Chúng tôi không chỉ làm rõ mối quan hệ này về mặt lý thuyết mà còn áp dụng lý thuyết vào việc phân tích một số văn bản báo chí cụ thể Việc lựa chọn các văn bản này là cần thiết vì nghiên cứu liên quan đến ngụy biện và mạch lạc logic, đòi hỏi phải xem xét các luận cứ và bối cảnh rõ ràng.

Phươ ng pháp nghiên cứu

Trong luận văn này, chúng tôi áp dụng các phương pháp phân tích nội dung để khảo sát các luận cứ và sử dụng các kỹ thuật đặc trưng của phân tích diễn ngôn Phương pháp khảo sát và phân tích các loại ngụy biện sẽ được trình bày chi tiết trong chương 1, phần Nội dung của luận văn.

Bố cục luậ n vă n

Khoá luận này được cấu trúc thành ba chương, trong đó chương 1 tập trung vào các vấn đề lý thuyết liên quan đến khái niệm mạch lạc và ngụy biện, cùng mối quan hệ giữa chúng Chương 2 sẽ nghiên cứu mạch lạc trong các loại ngụy biện thuộc nhóm viện dẫn, trong khi chương 3 sẽ khám phá mạch lạc trong các ngụy biện phi hình thức Cả hai chương 2 và 3 sẽ khảo sát từng loại ngụy biện, bao gồm phần giới thiệu, ví dụ và ngữ cảnh, cũng như phân tích mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong luận cứ.

Cụ thể hơn như sau:

Chương 1: Cơ sở lí luận

1.2 Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong một luận cứ

1.3 Quan điểm của Walton về luận cứ trong truyền thông

Chương 2: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện thuộc nhóm viện dẫn (Ad)

2.1 Ngụy biện tấn công cá nhân

2.2 Ngụy biện viện dẫn thẩm quyền

2.3 Ngụy biện viện dẫn điều bất khả tri

2.4 Ngụy biện viện dẫn lòng thương

Chương 3: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện phi hình thức khác

3.1 Ngụy biện hình nhân thế mạng

3.3 Ngụy biện loại suy sai

CƠ SỞ LÍ LUẬN

Lịch sử vấn đề

1.2 Mối quan hệ giữa ngụy biện và mạch lạc trong một luận cứ

1.3 Quan điểm của Walton về luận cứ trong truyền thông

Chương 2: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện thuộc nhóm viện dẫn (Ad)

2.1 Ngụy biện tấn công cá nhân

2.2 Ngụy biện viện dẫn thẩm quyền

2.3 Ngụy biện viện dẫn điều bất khả tri

2.4 Ngụy biện viện dẫn lòng thương

Chương 3: Mối quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một số ngụy biện phi hình thức khác

3.1 Ngụy biện hình nhân thế mạng

3.3 Ngụy biện loại suy sai

Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN

Mặc dù nghiên cứu về mạch lạc chưa có lịch sử lâu dài và chỉ bắt đầu được chú trọng từ nửa sau thế kỷ XX, nhưng đã xuất hiện nhiều hướng tiếp cận khác nhau Chúng tôi phân chia nghiên cứu mạch lạc thành hai giai đoạn: giai đoạn 1 - mạch lạc trong mối quan hệ với liên kết, và giai đoạn 2 - mạch lạc trong phân tích diễn ngôn.

Trong giai đoạn này có những quan điểm đáng chú ý sau:

Tác giả của công trình “Cohesion in English”, lần đầu xuất bản năm 1976, không tập trung chủ yếu vào mạch lạc, nhưng từ nghiên cứu này, chúng ta có thể nhận thấy quan điểm của hai tác giả về vấn đề mạch lạc trong ngôn ngữ.

Theo hai tác giả, mạch lạc được định nghĩa là tập hợp các quan hệ có ý nghĩa, giúp phân biệt văn bản với phi văn bản và phát hiện mối liên hệ nội dung giữa các đoạn Mạch lạc không chỉ nói về thông điệp của văn bản mà còn về cách tổ chức ngữ nghĩa của nó Hai tác giả cũng nhấn mạnh rằng khái niệm liên kết có thể được bổ sung bởi ngữ vực, vì cả hai khái niệm này cần phải kết hợp để xác định hiệu quả một văn bản Một văn bản được coi là mạch lạc khi nó có sự liên kết trong cả hai khía cạnh: phù hợp với ngữ cảnh tình huống và nhất quán trong ngữ vực, đồng thời có mạch lạc nội tại và sự liên kết giữa các phần của nó.

Từ quan điểm của hai tác giả, mạch lạc và liên kết có sự phân biệt nhưng cũng có mối quan hệ chặt chẽ với nhau Mạch lạc cùng với liên kết là yếu tố quan trọng giúp một đoạn văn trở thành văn bản hoàn chỉnh Nói một cách đơn giản, mạch lạc và liên kết là hai điều kiện thiết yếu để hình thành chất văn bản; trong đó, mạch lạc không chỉ là sự liên kết giữa các câu mà còn là yếu tố tạo nên sự rõ ràng và mạch lạc trong diễn đạt.

Theo Galperin, mặc dù hai tác giả có ý định hình thức hóa các phương tiện mạch lạc, nhưng trong công trình của họ vẫn tồn tại nhiều đề xuất ở bình diện ngữ pháp hơn là văn bản Nhận xét này có phần nặng nề nhưng cũng đúng, vì hai tác giả thường tập trung quá mức vào việc phân tích đại từ và mối quan hệ giữa các vế câu, trong khi ví dụ về mạch lạc lại chưa được chú trọng đầy đủ.

Trong tác phẩm "Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học" của Galperin (1978), tác giả dành một chương để bàn về khái niệm "Mạch lạc" Ông định nghĩa mạch lạc là những hình thức liên kết riêng biệt, đảm bảo tính liên tục, tức là sự liên tục logic về thời gian và không gian, cũng như sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các thông báo, sự kiện và hành động cụ thể.

Tác giả phân tích sâu sắc mạch lạc qua các ví dụ cụ thể như văn kiện ngoại giao, bài báo và tác phẩm văn học Từ những phân tích này, tác giả tổng kết và đưa ra nhiều loại mạch lạc, bao gồm mạch lạc ngữ pháp, mạch lạc theo thời gian, mạch lạc giãn cách, liên tưởng, logic, bố cục, tu từ và tạo tiết điệu Tuy nhiên, tác giả nhận thấy không có sự thống nhất hay tiêu chí chung để đánh giá mạch lạc, dẫn đến việc chương "Mạch lạc" chỉ thực hiện ý đồ cụ thể hóa ở mức độ có thể.

- Trần Ngọc Thêm / Đỗ Hữu Châu

Trong tác phẩm “Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt” (1985), Trần Ngọc Thêm đã giới thiệu khái niệm “liên kết nội dung” nhưng chưa đưa ra định nghĩa cụ thể Ông nhấn mạnh rằng “liên kết nội dung” có phạm vi rộng hơn “liên kết ngữ nghĩa” vì nó chú trọng đến các yếu tố bên ngoài ngôn ngữ Đỗ Hữu Châu cũng đề cập đến “liên kết nội dung” và phân chia thành “liên kết chủ đề” và “liên kết logic” Ông định nghĩa liên kết chủ đề là sự liên kết giữa các câu có cùng đối tượng quy chiếu, trong khi liên kết logic là cách tổ chức ngữ nghĩa phù hợp với thực tế khách quan và nhận thức của con người.

(nhưng thế nào là phù hợp với thực tế khách quan, thế nào là phù hợp với nhận thức con người thì không thấy tác giả làm rõ)

Thuật ngữ “liên kết nội dung” của hai tác giả có sự tương đồng với khái niệm “mạch lạc”, nhưng khi phân tích sâu hơn, cả hai đều tập trung vào khía cạnh “liên kết” Chúng tôi cho rằng mạch lạc là một khái niệm rộng hơn nhiều so với liên kết, do đó nghiên cứu của hai tác giả này cần được xem xét trong bối cảnh rộng hơn.

“liên kết nội dung” còn nhiều hạn hẹp, nếu so với “mạch lạc”

Diệp Quang Ban trong tác phẩm “Giao tiếp diễn ngôn và cấu tạo văn bản” (2009) định nghĩa mạch lạc là sự kết nối hợp lý về mặt nghĩa và chức năng trong văn bản, nhằm tạo ra các sự kiện liên kết chặt chẽ hơn là chỉ đơn thuần là sự liên kết giữa các câu Tác giả đã chỉ ra các biểu hiện cụ thể của mạch lạc và phạm vi tác động của chúng đến văn bản Ông nêu ra tám biểu hiện quan trọng của mạch lạc, thể hiện sự cần thiết trong việc xây dựng và triển khai nội dung văn bản một cách hiệu quả.

(1) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ giữa các từ ngữ trong câu

(2) Mạch lạc trong quan hệ giữa các đề tài - chủ đề của các câu

(3) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ giữa các phần nêu đặc trưng ở những câu có quan hệ nghĩa với nhau

(4) Mạch lạc biểu hiện trong trật tự hợp lí giữa các câu (hay các mệnh đề)

(5) Mạch lạc theo kiểu quan hệ suy kết

(6) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ ngoại chiếu

(7) Mạch lạc trong quan hệ thích hợp giữa các hành động nói

(8) Mạch lạc biểu hiện trong quan hệ lập luận

Trong tám biểu hiện đã nêu, biểu hiện (1) không liên quan đến mạch văn bản mà chỉ phản ánh tính mạch lạc của câu Biểu hiện (8) lại là một phần của biểu hiện (4), do Diệp Quang Ban phân chia giữa mạng mạch và mạch lạc, vì vậy cần tách riêng thành hai biểu hiện khác nhau.

Các biểu hiện mạch lạc trong văn bản của Diệp Quang đã đạt được sự hoàn thiện tương đối, tuy nhiên vẫn có thể được bổ sung và hệ thống hóa để nâng cao chất lượng nội dung.

Các nhà khoa học ngày càng nhận ra rằng mạch lạc là một vấn đề khác biệt so với liên kết, liên quan đến nhiều khía cạnh ngôn ngữ học và ngoài ngôn ngữ học Sự phát triển của phân tích diễn ngôn, ngôn ngữ học xã hội và ngôn ngữ học nhân học đã mở ra nhiều hướng nghiên cứu mới về mạch lạc Trong đó, ba hướng tiếp cận chính đáng chú ý đang thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu.

- Giải thuật chức năng giao tiếp

Các nhà ngôn ngữ nhận định rằng việc giải thích lý do gắn kết giữa các phát ngôn chỉ dựa trên các dấu hiệu hình thức của ngôn ngữ sẽ gặp nhiều khó khăn.

B: Vâng, người đưa thư vừa đến rồi (1)

Mặc dù hai câu không có dấu hiệu liên kết hình thức rõ ràng, chúng vẫn có mối liên hệ tiềm ẩn Sau khi lý thuyết hành động ngôn từ ra đời, các nhà ngôn ngữ học đã chuyển hướng giải thích mạch lạc sang “các hành động được thực hiện bởi các phát ngôn” (Labov) thay vì chỉ tập trung vào bản thân phát ngôn Họ phân tích các đoạn hội thoại để chứng minh rằng các cấu trúc tương tác xã hội phi ngôn ngữ tạo nên sự mạch lạc trong diễn ngôn Green (1980) đã đưa ra quan điểm rằng “Một văn bản mạch lạc cho phép người đọc dễ dàng tái tạo dàn ý của người nói, bằng cách suy đoán mối quan hệ giữa các câu và các mục đích khác nhau trong dàn ý đó.”

Lí thuy ết về lập luận

Lập luận đã được nghiên cứu từ xa xưa trong lĩnh vực tu từ học và toán học Theo Đỗ Hữu Châu, lập luận được định nghĩa là việc đưa ra các lí lẽ nhằm dẫn dắt người nghe đến một kết luận hoặc thuyết phục họ chấp nhận một kết luận cụ thể.

10 Walton cũng không đưa ra một con số chắc chắn về số lượng các loại ngụy biện

Trong phần này, chúng tôi tóm tắt những vấn đề chính trong lý thuyết lập luận liên quan đến nghiên cứu này Một lập luận được hình thành từ nhiều luận cứ, trong đó mỗi luận cứ có cấu trúc gồm lý lẽ (p) và kết luận (r).

Từ những năm 60, lý thuyết về logic phi hình thức đã có nhiều biến chuyển quan trọng, với sự chú ý không chỉ vào cấu trúc của lập luận mà còn vào cách lập luận được sử dụng trong các loại đối thoại khác nhau Nghiên cứu hiện nay tập trung vào mặt ngữ dụng của lập luận, với trường phái Hà Lan phân tích các quy tắc xây dựng lượt lời, trong khi Walton phát triển mô hình luận cứ để làm rõ chức năng của lý lẽ trong lập luận Ông đề xuất mô hình hóa lập luận thông qua các bước cụ thể.

Việc đưa ra A là cần thiết cho a đưa ra G (đến chừng mực mà a biết)

Vì thế mà việc đưa ra A là đúng một cách cẩn trọng như là một phần mà a phải thực hiện

Trong đó G là mục đích (đối thoại), a là một tác nhân cá thể và A là một thực trạng

Ngoài ra, chúng ta còn xem xét một số quan điểm khác của Walton về lập luận trong phần 1.4 của luận văn.

Mố i quan hệ giữa ngụy bi ện và m ạch l ạc trong mộ t luận cứ

Sau khi phân tích mạch lạc trong luận suy và ngụy biện theo quan điểm của Walton, chúng tôi sẽ giải đáp câu hỏi trọng tâm của luận văn này: liệu luận cứ ngụy biện có mạch lạc hay không Tiếp theo, chúng tôi sẽ xem xét ví dụ (V1’).

(V1’) [Hai sinh viên nói chuyện về cú pháp học]

A: Vì sao vấn đề cú pháp X là đúng?

B: Vì thầy Hiệp đã nói X là đúng

B: Vì thầy Hiệp đang dạy môn Cú pháp học

Khi xem xét từ góc độ liên kết, (V1’) có vẻ mạch lạc do hai bên cùng thảo luận về vấn đề cú pháp X, với "thầy Hiệp" là nhân vật liên quan đến môn cú pháp học Tuy nhiên, nếu đánh giá từ góc độ luận suy, cần xem xét tính mạch lạc của (V1’) Trong (V1’), có thể có ít nhất hai trường hợp luận suy khi điền các giả định bắc cầu.

Thầy Hiệp, giảng viên chuyên môn về cú pháp học, có đủ kiến thức và khả năng để khẳng định rằng vấn đề cú pháp X là chính xác.

Thầy Hiệp, giảng viên môn cú pháp học, có thể gây ảnh hưởng đến điểm số của sinh viên nếu họ không công nhận vấn đề X là đúng Quyết định về việc xảy ra tình huống nào phụ thuộc vào ngữ cảnh Nếu thầy Hiệp được công nhận là chuyên gia có thẩm quyền trong lĩnh vực cú pháp học, tình huống (a1’) sẽ xảy ra Ngược lại, nếu thầy Hiệp là người ít chấp nhận quan điểm khác biệt, sinh viên có ý kiến trái ngược có thể bị điểm kém trong môn học này.

Nếu (a1’) xảy ra, (V1’) sẽ trở nên mạch lạc vì chủ đề đối thoại tập trung vào cú pháp học như một bộ môn khoa học với sự tham gia của các chuyên gia có thẩm quyền Ngược lại, nếu (a1’’) xảy ra, các câu trong (V1’) sẽ không mạch lạc do chủ đề đối thoại không liên quan Trong giai đoạn đầu, A và B thảo luận về cú pháp X như một vấn đề khoa học, nhưng ở giai đoạn sau, B lại chuyển sang nói về quyền uy của giảng viên môn cú pháp học Điều này cho thấy B đã không duy trì chủ đề mà A đã cố ý đánh tráo chủ đề hội thoại.

Trong trường hợp này, (V1’) là một hội thoại mang tính lập luận tỏ ra là mạch lạc nhưng (thực ra) là không

Phân tích cho thấy ngữ cảnh đóng vai trò quan trọng trong việc luận suy, quyết định tính mạch lạc của các câu trong văn bản.

Bài viết tiếp tục phân tích hội thoại V1’ dưới góc độ ngụy biện Trong hội thoại này, B cần xác minh tính chính xác của vấn đề cú pháp X, và A là người có khả năng cung cấp thông tin đó Mục tiêu chính của cuộc hội thoại là truyền đạt thông tin liên quan đến cú pháp X.

Trong trường hợp hội thoại tương tự như (a1’), mục tiêu đã được hoàn thành khi A nhận được thông tin về vấn đề cú pháp X từ uy tín chuyên môn của “thầy Hiệp”, do đó (V1’) không bị coi là ngụy biện.

Mục đích của hội thoại tìm thông tin đã được hoàn thành khi B chia sẻ các nghiên cứu về cú pháp học của “thầy Hiệp”, từ đó khẳng định thẩm quyền chuyên môn của ông Nhờ đó, A đã thu thập được những thông tin cần thiết để đưa ra kết luận về vấn đề X dựa trên chuyên môn của “thầy Hiệp”.

Trong ngữ cảnh tương tự như trường hợp (a1’’), mục đích của cuộc đối thoại không được thực hiện khi A chỉ nhận được thông tin về thẩm quyền của “thầy Hiệp” thay vì thông tin cần thiết về vấn đề cú pháp X B đã cố tình gây khó khăn cho việc đạt được mục đích đối thoại bằng cách dựa vào quyền uy, dẫn đến việc phá vỡ mục tiêu tìm kiếm thông tin Do đó, trong trường hợp này, (V1’) là một cuộc hội thoại sử dụng luận cứ ngụy biện “lợi dụng thẩm quyền”, khi nó chuyển hướng mục đích đối thoại một cách cố ý thông qua việc viện dẫn đến thẩm quyền không liên quan đến vấn đề cú pháp X.

Ta có thể tóm tắt phân tích trên qua sơ đồ sau

Th Hiệp nói X đúng Th Hiệp có thẩm quyền chuyên môn về X X đúng

Th Hiệp có nhiều công trình Là sách “A”… nghiên cứu về cú pháp

Trong sơ đồ, các mũi tên thẳng biểu thị các chặng hội thoại thực tế, trong khi các mũi tên đứt thể hiện những giả định bắc cầu dựa trên ngữ cảnh để làm rõ luận cứ Mục đích tìm thông tin của A đã thành công khi có thêm thông tin về thẩm quyền chuyên môn của thầy Hiệp liên quan đến cú pháp học và vấn đề X Chủ đề học thuật X tiếp tục được phát triển.

Vấn đề X đúng không Th Hiệp nói X đúng X đúng

Th Hiệp không chấp nhận ý kiến trái chiều và cho sv điểm kém

Trong sơ đồ này, giả định bắc cầu đã chuyển hướng chủ đề hội thoại từ vấn đề học thuật X sang quyền uy của “thầy Hiệp” trong môn cú pháp học, dẫn đến việc không đạt được mục đích tìm kiếm thông tin Việc nhấn mạnh quyền uy của “thầy Hiệp” đã làm khép lại hội thoại, thay vì mở ra cơ hội để tiếp tục khám phá thông tin Do đó, đây là một luận cứ ngụy biện viện dẫn thẩm quyền.

Qua phân tích, tầm quan trọng của ngữ cảnh được nhấn mạnh, đồng thời thể hiện quan điểm của Walton rằng ngụy biện không nằm ở bản thân luận cứ (V1’ có thể là ngụy biện hoặc không), mà chính ở cách thức sử dụng luận cứ đó.

Chúng tôi nhận thấy rằng, hai phân tích từ hai góc độ ngụy biện và mạch lạc đối với (V1’) có nhiều điểm tương đồng và hỗ trợ lẫn nhau Qua đó, chúng tôi rút ra những điểm nổi bật sau:

Để xác định một hội thoại có tính lập luận mạch lạc hay ngụy biện, cần phải xem xét ngữ cảnh để đưa ra kết luận chính xác.

Quan đ iểm củ a Walton về luận cứ trong truyền thông

Ngôn ngữ và logic thường không tương đồng một cách hoàn hảo Có những luận cứ ngụy biện, không có hiệu lực, trong đó các phần không liên kết logic nhưng vẫn có sự mạch lạc với nhau.

(V3) “1+1 F là đúng Các anh công nhận đi, đằng nào tôi cũng sắp chết rồi”

Trong logic học, (V3) không có hiệu lực vì "1+1F" và "tôi sắp chết" không liên quan đến nhau, đồng thời (V3) là một ngụy biện viện dẫn lòng thương cảm Tuy nhiên, (V3) vẫn có tính mạch lạc vì người đọc có thể dễ dàng bổ sung giả định rằng "Tôi sắp chết, vì vậy anh ta đang cầu xin mọi người công nhận điều anh ta muốn" Đây là điều thường thấy trong lập luận hàng ngày, dẫn đến khó khăn trong việc xác định mối quan hệ giữa ngụy biện và tính mạch lạc trong các cuộc tranh luận hàng ngày.

Trong nghiên cứu này, chúng tôi tập trung vào việc lập luận trên truyền thông Walton khẳng định rằng truyền thông lý tưởng cần phải đảm bảo tính khách quan tuyệt đối, và để đạt được điều này, các phát ngôn cần được trình bày dưới dạng các luận cứ logic Người viết hoặc người nói phải thực hiện cuộc đối thoại lập luận với công chúng, độc giả hoặc phe đối lập nhằm thuyết phục họ theo quan điểm của mình Chính tính chất đối thoại này khiến Walton cho rằng luận cứ trên truyền thông là lĩnh vực nghiên cứu phù hợp với ngụy biện theo lý thuyết dụng hành.

Các đối thoại mang tính lập luận cần tuân thủ các quy tắc logic để đảm bảo tính hợp lý của giả định Khi khảo sát luận cứ trên truyền thông, chúng tôi có thể phân tích cách thức luận suy được thực hiện, xác định giả định nào được chấp nhận và giả định nào khó chấp nhận Điều này giúp chúng tôi đánh giá tính mạch lạc của luận cứ Qua đó, chúng tôi vừa tránh được nhược điểm của cách tiếp cận “mạch lạc như là luận suy”, vừa tận dụng các phân tích về ngụy biện để xác định tính mạch lạc của luận cứ.

Tựu chung lại, các luận cứ trên truyền thông là phù hợp với việc nghiên cứu quan hệ giữa mạch lạc và ngụy biện trong một luận cứ

Trong chương hai và chương ba, chúng tôi sẽ xem xét khái niệm “không mạch lạc” theo nghĩa rằng người nghe hoặc người đọc gặp khó khăn trong việc đưa ra các giả định bắc cầu trong các luận cứ lập luận hoặc trong các cuộc thảo luận phê phán Chúng tôi chỉ tập trung vào các luận cứ trong truyền thông, không đề cập đến các lập luận hàng ngày.

Tiểu kết chương 1

Trong chương 1, chúng tôi đã trình bày lý thuyết ngụy biện và lý thuyết mạch lạc, nhấn mạnh sự cần thiết của ngữ cảnh và mối liên hệ bổ trợ giữa hai phương pháp nghiên cứu này Chúng tôi sẽ giới hạn nghiên cứu vào luận cứ logic, không mở rộng ra luận cứ hàng ngày nói chung.

Trong chương 2 và chương 3, chúng tôi sẽ phân tích các ví dụ thực tế về luận cứ được sử dụng trong các thảo luận phê phán trên truyền thông, nhằm làm rõ các giả thuyết đã trình bày ở phần 1.3 Các loại ngụy biện được chọn trong hai chương này đều là những ngụy biện đã được Walton phân tích kỹ trong tác phẩm “A Pragmatic Theory of Fallacy”, giúp chúng tôi dễ dàng phân tích tính mạch lạc của chúng.

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN TRONG MỘT SỐ LOẠI NGỤY BIỆN THUỘC NHÓM VIỆN DẪN (AD)

MỐI QUAN HỆ GIỮA MẠCH LẠC VÀ NGỤY BIỆN

Ngày đăng: 30/06/2022, 15:24

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giao ti"ế"p, di"ễ"n ngôn và c"ấ"u t"ạ"o v"ă"n b"ả"n
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2009
2. Diệp Quang Ban (2009), Văn bản và liên kết trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: V"ă"n b"ả"n và liên k"ế"t trong ti"ế"ng Vi"ệ"t
Tác giả: Diệp Quang Ban
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2009
3. Đỗ Hữu Châu (2009), Ngôn ngữ học đại cương (tập 1), Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ngôn ng"ữ" h"ọ"c "đạ"i c"ươ"ng
Tác giả: Đỗ Hữu Châu
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2009
4. Nguyễn Thụy Khánh Chương (2012), Những trò ngụy biện, Nxb Lao động Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nh"ữ"ng trò ng"ụ"y bi"ệ"n
Tác giả: Nguyễn Thụy Khánh Chương
Nhà XB: Nxb Lao động Xã hội
Năm: 2012
5. Nguyễn Thiện Giáp (2008), Giáo trình ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Giáo trình ngôn ng"ữ" h"ọ"c
Tác giả: Nguyễn Thiện Giáp
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2008
6. Nguyễn Hòa (2008), Phân tích diễn ngôn - Một số vấn đề lí luận và phương pháp, Nxb Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích di"ễ"n ngôn - M"ộ"t s"ố" v"ấ"n "đề" lí lu"ậ"n và ph"ươ"ng pháp
Tác giả: Nguyễn Hòa
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2008
7. Nguyễn Chí Hòa (2006), Các phương tiện liên kết và tổ chức văn bản, Nxb Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các ph"ươ"ng ti"ệ"n liên k"ế"t và t"ổ" ch"ứ"c v"ă"n b"ả"n
Tác giả: Nguyễn Chí Hòa
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2006
8. Nguyễn Thái Hòa (2005), Từ điển tu từ - phong cách học- thi pháp học, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: T"ừ đ"i"ể"n tu t"ừ" - phong cách h"ọ"c- thi pháp h"ọ"c
Tác giả: Nguyễn Thái Hòa
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2005
9. Đinh Trọng Lạc (1994), Phong cách học văn bản, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong cách h"ọ"c v"ă"n b"ả"n
Tác giả: Đinh Trọng Lạc
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1994
10. Đinh Trọng Lạc (2009), Phong cách học tiếng Việt, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phong cách h"ọ"c ti"ế"ng Vi"ệ"t
Tác giả: Đinh Trọng Lạc
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2009
11. Nguyễn Anh Tuấn (2006), Logic học đại cương, Nxb Đại học Quốc gia Sách, tạp chí
Tiêu đề: Logic h"ọ"c "đạ"i c"ươ"ng
Tác giả: Nguyễn Anh Tuấn
Nhà XB: Nxb Đại học Quốc gia
Năm: 2006
12. Trần Ngọc Thêm (2008), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: th"ố"ng liên k"ế"t v"ă"n b"ả"n ti"ế"ng Vi"ệ"t
Tác giả: Trần Ngọc Thêm
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2008
13. Brown và Yule (2002), Phân tích diễn ngôn (bản dịch tiếng Việt), Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phân tích di"ễ"n ngôn
Tác giả: Brown và Yule
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2002
14. Galperin I.R (1987), Văn bản với tư cách đối tượng nghiên cứu ngôn ngữ học (bản dịch tiếng Việt), Nxb Khoa học Xã hội Sách, tạp chí
Tiêu đề: V"ă"n b"ả"n v"ớ"i t"ư" cách "đố"i t"ượ"ng nghiên c"ứ"u ngôn ng"ữ" h"ọ"c
Tác giả: Galperin I.R
Nhà XB: Nxb Khoa học Xã hội
Năm: 1987
15. Moskalskaja (1996), Ngữ pháp văn bản (bản dịch tiếng Việt), Nxb Giáo dục Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ng"ữ" pháp v"ă"n b"ả"n
Tác giả: Moskalskaja
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1996
16. Nunan D (1993), Dẫn nhập phân tích diễn ngôn (bản dịch tiếng Việt), Nxb Giáo dục.Các tài liệu bằng tiếng nước ngoài Sách, tạp chí
Tiêu đề: D"ẫ"n nh"ậ"p phân tích di"ễ"n ngôn" (bản dịch tiếng Việt), Nxb Giáo dục. "Các tài li"ệ"u b"ằ"ng ti"ế"ng n"ướ
Tác giả: Nunan D
Nhà XB: Nxb Giáo dục. "Các tài li"ệ"u b"ằ"ng ti"ế"ng n"ướ"c ngoài
Năm: 1993
1. Engel, S. Morris (1994), With Good Reason: An Introduction to Informal Fallacies. New York: St. Martin’s Sách, tạp chí
Tiêu đề: With Good Reason: An Introduction to Informal Fallacies
Tác giả: Engel, S. Morris
Năm: 1994
2. Hamblin, Charles (1970), Fallacies. London: Methuen Sách, tạp chí
Tiêu đề: Fallacies
Tác giả: Hamblin, Charles
Năm: 1970
3. Hans V. Hansen & Robert C.Pinto (editor) (1995), Fallacies: Classical and Contemporary Readings. The Pennsylvania State Unviersity Press Sách, tạp chí
Tiêu đề: Fallacies: Classical and Contemporary Readings
Tác giả: Hans V. Hansen & Robert C.Pinto (editor)
Năm: 1995
4. Walton, Douglas (1995), A Pragmatic Theory of Fallacy, Tuscaloosa, University of Alabama Press Sách, tạp chí
Tiêu đề: A Pragmatic Theory of Fallacy
Tác giả: Walton, Douglas
Năm: 1995

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN