1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở tỉnh Vĩnh Phúc

92 15 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Phát Triển Nguồn Lực Con Người Trong Sự Nghiệp Công Nghiệp Hoá, Hiện Đại Hoá Ở Tỉnh Vĩnh Phúc
Tác giả Nguyễn Ngọc Diệp
Người hướng dẫn PGS.TS. Đỗ Minh Hợp
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Triết học
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2012
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 92
Dung lượng 863,78 KB

Cấu trúc

  • A. Mở đầu (0)
  • B. Néi dung CHƯƠNG 1: KHáI QUáT CHUNG Về TRIếT HọC BÊCƠN 1.1. Khái quát chung về triết học Bêcơn (0)
    • 1.1.1. Những điều kiện kinh tế – xã hội n-ớc Anh thời Bêcơn (13)
    • 1.1.2. Những tiền đề lý luận (19)
    • 1.1.3. Cuộc đời và sự nghiệp của Bêcơn (28)
    • 1.2. Quan niệm của Bêcơn về các nhiệm vụ cơ bản của triết học và của khoa học (31)
  • CHƯƠNG 2: NHữNG NộI DUNG CƠ BảN CủA TRIếT HọC BÊCƠN Về NHậN THứC 2.1. Bản chất và mục đích của nhận thức (0)
    • 2.2. Ph-ơng pháp nhận thức (48)
      • 2.2.1. Phê phán những sai lầm về ph-ơng pháp luận nhận thức (48)
      • 2.2.2. Học thuyết ph-ơng pháp luận của Bêcơn (61)
    • 2.3. Đánh giá khái quát nhận thức luận Bêcơn (81)

Nội dung

Néi dung CHƯƠNG 1: KHáI QUáT CHUNG Về TRIếT HọC BÊCƠN 1.1 Khái quát chung về triết học Bêcơn

Những điều kiện kinh tế – xã hội n-ớc Anh thời Bêcơn

Cuộc cách mạng Anh năm 1689 kết thúc với sự thoả hiệp giữa giai cấp tư sản công thương và giới quý tộc điền chủ, phản ánh những đặc điểm phát triển riêng của chủ nghĩa tư bản Anh Sự thoả hiệp này đánh dấu sự chuyển mình của giai cấp trung đẳng, vốn đã trở thành một tầng lớp mới, khác biệt với các địa chủ phong kiến cũ Những quý tộc này, mặc dù có nguồn gốc từ dòng họ cũ, nhưng đã phát triển theo hướng tư sản, nhận thức rõ giá trị của tiền và gia tăng địa tô bằng cách thay thế tá điền nhỏ bằng chăn nuôi Henri VIII đã góp phần tạo ra lớp quý tộc địa chủ mới từ giai cấp tư sản thông qua việc tịch thu đất đai của giáo hội, dẫn đến sự phát triển liên tục của các trang trại lớn Từ Henri VII trở đi, quý tộc Anh không chỉ không cản trở sản xuất công nghiệp mà còn tìm cách khai thác sự phát triển này, với một bộ phận địa chủ lớn sẵn sàng hợp tác với lãnh đạo giai cấp tư sản công nghiệp và tài chính, tạo nên sự thoả hiệp quan trọng trong lịch sử kinh tế Anh.

Năm 1869, việc thực hiện các chính sách đã trở nên dễ dàng hơn khi các chiến lợi phẩm chính trị vẫn nằm trong tay các gia đình quý tộc lớn, miễn là họ tôn trọng lợi ích kinh tế của giai cấp trung đẳng tài chính, công nghiệp và thương nghiệp Những lợi ích này đã trở nên mạnh mẽ và chi phối chính sách chung của cả nước Mặc dù có những tranh cãi về một số vấn đề cụ thể, nhưng các trùm quý tộc nhận thức rõ rằng sự thịnh vượng của họ gắn liền với sự phát triển của giai cấp tư sản công nghiệp và thương nghiệp Ở Pháp, cách mạng tư sản đã xóa bỏ các đặc quyền phong kiến, tiêu diệt sở hữu đất đai của quý tộc, chế độ chuyên chế và tình trạng phân tán phong kiến, mở đường cho sự phát triển của chủ nghĩa tư bản.

Cuộc đại cách mạng Pháp đánh dấu sự nổi dậy thứ ba của giai cấp tư sản, nhưng đây là lần đầu tiên họ từ bỏ những ràng buộc tôn giáo để chiến đấu trên lĩnh vực chính trị công khai Đây cũng là cuộc nổi dậy đầu tiên thực sự quyết liệt, nhằm tiêu diệt hoàn toàn giai cấp quý tộc và đạt được thắng lợi trọn vẹn cho giai cấp tư sản.

Tình hình ở nước Anh cho thấy chế độ phong kiến và chuyên chế không mạnh mẽ như ở các nước khác, nhờ vào sự phát triển đặc trưng của nền kinh tế Anh, nơi chủ nghĩa tư bản đã thâm nhập sớm vào nông nghiệp Cuộc xâm lược của các vua Noócmăng vào thế kỷ XI-XII đã thúc đẩy sự hợp nhất dân tộc và phát triển thương mại, cùng với việc chuyển giao công nghiệp và thủ công nghiệp từ các nước tiên tiến Sự phát triển của ngành công nghiệp dệt ở Bengơ và Phlăngđi đã kích thích ngành chăn nuôi cừu ở Anh để xuất khẩu lông cừu.

Ngành công nghiệp ở Anh bắt đầu phát triển vào thế kỷ XIV, chủ yếu nhờ vào sự nhập cư đông đảo của người Phlăngđi do khủng hoảng kinh tế và đấu tranh xã hội tại quê hương họ Vào cuối thời trung cổ, quan hệ phong kiến ở Anh không phát triển mạnh mẽ như ở các nước lục địa, nguyên nhân chủ yếu là do nền kinh tế của các huân tước từ thế kỷ XII - XIII không hoàn toàn phụ thuộc vào lao động nông nô Nông dân sở hữu ít đất đai, nhiều người không thể tự nuôi sống trên mảnh ruộng được phân chia và buộc phải tìm kiếm kế sinh nhai trên đất của huân tước hoặc nông dân khá giả Điều này dẫn đến sự phát triển sớm của chế độ bóc lột tư bản chủ nghĩa đối với nông dân ít đất đai, bên cạnh sự cưỡng bức phi kinh tế.

Sự thâm nhập của quan hệ hàng hóa vào kinh tế phong kiến là yếu tố cản trở sự xác lập đầy đủ của nó Hình thức điều hành kinh tế tiêu dùng của quý tộc đã trở nên lỗi thời từ thế kỷ X - XI, khi họ bắt đầu bán hàng hóa dư thừa tại thị trường địa phương Sự phát triển của công nghiệp và đô thị đã thúc đẩy sự phát triển của thị trường này, làm cho quý tộc Anh không còn quan tâm đến việc điều hành nền kinh tế tiêu dùng dựa trên lao động tạp dịch Thay vào đó, tiền đã trở thành mục đích tối cao của quý tộc, thay thế cho lao động tạp dịch.

Vào thế kỷ XIII, nhiều quý tộc đã chuyển từ chế độ lao động tạp dịch sang chế độ nộp tiền lao dịch, nhằm giúp nông dân thoát khỏi sự giám sát của địa chủ Tuy nhiên, các điền chủ lớn và tu viện vẫn không chấp nhận sự thay đổi này.

Việc phát triển ngành buôn bán sợi từ thế kỷ XII đã thay thế ngành trồng trọt bằng chăn nuôi cừu, biến nông dân nhỏ thành thợ thủ công sơ chế sợi Sự phát triển công nghiệp đô thị ở thế kỷ XIII - XIV đã thu hút nông dân vào thành phố do tiền công cao hơn, dẫn đến tình trạng thiếu lao động trong kinh tế địa chủ Nông dân sung túc đã lợi dụng tình hình để thuê đất với điều kiện thuận lợi và mua lại đất của nông dân khác Theo Mác, vào cuối thế kỷ XIV, chế độ nông nô ở Anh đã thực sự không còn, với phần lớn dân cư là nông dân tự do và có kinh tế độc lập, mặc dù quyền sở hữu của họ vẫn bị che đậy dưới những chiêu bài phong kiến Tại các trang trại lớn hơn, người quản lý trước kia là nông nô đã nhường chỗ cho người phêcmiê tự do.

Cuộc nổi dậy của nông dân thời đó đã thu hút sự tham gia tích cực của nông dân khá giả, dẫn đến yêu cầu xóa bỏ hoàn toàn chế độ lao động tạp dịch và chế độ nông nô, cũng như địa tô Sự gia tăng nhập khẩu bánh mỳ từ các nước Bantích và sự phát triển không ngừng của ngành buôn bán sợi đã làm suy yếu ngành trồng trọt, đẩy nhanh quá trình tan rã của chế độ nông nô và lao động tạp dịch Nhiều nông dân đã giành lại tự do cá nhân và nghĩa vụ lao động tạp dịch, dẫn đến việc nền kinh tế nông nô hoàn toàn tan rã vào thế kỷ XV, kéo theo sự sụp đổ của công xã nông nghiệp.

Sự phát triển của thương nghiệp và công nghiệp đã hình thành giai cấp tư sản, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của chủ nghĩa tư bản Những dấu hiệu đầu tiên của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa đã xuất hiện từ thế kỷ XIV và XV tại một số thành phố ở vùng Địa Trung Hải, nhưng thời kỳ chủ nghĩa tư bản thực sự chỉ bắt đầu từ thế kỷ XVI Ở những nơi bước vào thời kỳ này, chế độ nông nô đã bị xóa bỏ và chế độ thành thị - biểu tượng của thời Trung cổ - cũng đã dần nhạt nhòa.

Chủ nghĩa tư bản đã khởi đầu một sự phát triển đáng kể, tạo ra cả tầng lớp công nhân làm thuê và nhà tư bản Tuy nhiên, điều này cũng dẫn đến tình trạng nô lệ của người công nhân, phản ánh sự bất công trong mối quan hệ lao động.

B-ớc tiến triển này bao hàm ở chỗ thay đổi hình thức của sự nô dịch ấy, biến sự bóc lột phong kiến thành sự bóc lột t- bản chủ nghĩa" [35; 998] Đất n-ớc nh- vậy đã là n-ớc Anh thế kỷ XVII Tại Anh, chế độ nông nô đã bị xoá bỏ từ lâu, những khám phá về địa lý và sự thuộc địa hoá diễn ra sau đó đã làm tăng rất nhiều thị tr-ờng tiêu thụ và đã đẩy nhanh sự tăng tr-ởng các công x-ởng công nghiệp ở thành thị, từ đó, các thành thị ven biển (đặc biệt là Luân Đôn) đã mọc lên, trở thành các trung tâm th-ơng nghiệp và công nghiệp

Sự phát triển nhanh chóng của ngành công nghiệp dệt và các ngành khác đã tạo ra nhu cầu cấp bách về lực lượng lao động, trong khi các nhà tư bản áp đặt các điều kiện lao động khắc nghiệt Để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho ngành công nghiệp len dạ, cần mở rộng nguồn cung từ việc tăng đàn cừu lông dài, dẫn đến việc mở rộng các bãi chăn cừu Thực tế này giải thích vì sao vào cuối thế kỷ XV, suốt thế kỷ XVI và đầu thế kỷ XVII, các điền chủ lớn đã thực hiện "rào đất", đẩy các chủ sở hữu nhỏ và nông dân ra khỏi đất đai của họ, chuyển đổi ruộng đồng thành bãi chăn nuôi Như T Morơ đã nói, "cừu đã ăn thịt người", tình trạng này đã góp phần vào sự phá hủy công xã nông nghiệp và sự vô sản hóa của nông dân nhỏ.

Việc tước đoạt ruộng đất của nông dân đã dẫn đến sự gia tăng hàng triệu người vô sản, tạo ra tình trạng công xưởng không thể đáp ứng đủ số lượng công nhân tự do ngày càng tăng Khi bị tước mất tư liệu sản xuất và đuổi khỏi quê hương, nhiều nông dân rơi vào cảnh bần cùng, trở thành những kẻ lang thang, ăn xin xuất hiện khắp nơi ở Anh.

Thế kỷ XVI và XVII đánh dấu thời kỳ nông dân liên tục đấu tranh chống lại việc "rào đất", trong khi quân đội hoàng gia dùng bạo lực để đàn áp các cuộc nổi dậy Hệ quả của việc này là những người nông dân mới được giải phóng lại trở thành nô lệ cho chính mình, sau khi bị tước đoạt mọi tài sản và phương tiện sản xuất Lịch sử của sự tước đoạt này đã được ghi lại bằng máu và lửa, phản ánh sự khắc nghiệt của chế độ phong kiến.

Những tiền đề lý luận

Triết học Bêcôn đóng vai trò quan trọng trong sự chuyển mình của khoa học và triết học từ cuối thời kỳ Trung cổ đến thời Phục hưng Để hiểu rõ hơn về điểm mạnh và điểm yếu của triết học Bêcôn, cần phải nghiên cứu các triết gia tiền bối của ông Thời kỳ Trung cổ đã tạo nền tảng cho sự phát triển của triết học và khoa học, ảnh hưởng đến tư tưởng của Bêcôn.

Thế giới quan Thiên Chúa giáo được hình thành từ thế kỷ II và III bởi những người theo thuyết ngộ đạo, với A Ôrighien và học thuyết Ôgustanh ở thế kỷ V đóng vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện hệ thống duy linh luận Ôgustanh coi Thượng đế là tinh thần có nhân cách sống vô hạn, khác biệt với phái Platôn mới Ông cho rằng bản chất của mọi vật chỉ có thể được biểu thị qua các khái niệm tinh thần, đồng thời là người sáng lập nhị nguyên luận khắc kỷ, phân chia thế giới thành hai lĩnh vực: những người được chọn và những kẻ phạm tội Theo Ôgustanh, con người không có mầm mống thiện, mỗi trẻ em đều mang dấu ấn của tội tổ tông, dẫn đến thiên hướng phạm tội và phải chịu sự trừng phạt của Chúa Lẽ sống của con người là chạy trốn khỏi cuộc sống và những ham muốn tự nhiên, với giải thoát chỉ là sự thoát ly khỏi những điều trần tục Ôgustanh đã trở thành quyền uy tối thượng trong thần học và triết học Trung cổ sơ kỳ.

Từ thế kỷ VIII - IX, tác phẩm của Aristốt đã bắt đầu ảnh hưởng đến châu Âu, dẫn đến sự hình thành triết học kinh viện bên cạnh các vấn đề thần học Các nhà triết học kinh viện chú trọng vào triết học Aristốt, tìm kiếm câu trả lời cho những thắc mắc và áp dụng quy tắc lôgíc học trong tranh luận Mặc dù ban đầu triết học Aristốt bị giáo hội truy nã, nhưng triết học kinh viện lại trở thành công cụ hỗ trợ giáo lý và chống lại các đối thủ của thần học Giáo hội đã thử nghiệm hợp nhất triết học Aristốt với thần học trong học thuyết của Tômát Đacanh, biến triết học thành tay sai cho thần học Sự hợp nhất này đã dẫn đến việc "Chủ nghĩa thầy tu đã giết chết cái gì là sinh động ở Aristốt và làm thành bất tử cái gì đã chết rồi" Lôgíc của Aristốt trở thành nhu cầu và là sự cố gắng tìm tòi, gần gũi với lôgíc của Hêghen.

Triết học kinh viện đã trở thành một hệ thống cứng nhắc, bỏ qua sự tìm tòi và sáng tạo, khi tiếp nhận những lý thuyết lôgíc của Aristốt, người đã đặt ra những vấn đề cơ bản về phép biện chứng Tuy nhiên, những điểm yếu trong học thuyết của ông, đặc biệt là sự dao động giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm, đã được phản ánh rõ nét trong triết học kinh viện này.

Học thuyết của Aristốt về linh hồn như hình thức của thể xác được sử dụng để chứng minh tính phi vật chất và bất tử của linh hồn Các nhà triết học kinh viện đã lý luận để củng cố niềm tin Thiên Chúa giáo, đồng thời biến hệ giáo lý Cơ Đốc giáo thành một hệ thống chân lý lý tính trừu tượng Họ thường nghiên cứu thế giới tự nhiên và khi thảo luận về các vấn đề thần học, họ sử dụng các luận điểm từ các cha cố và triết gia cổ đại Theo họ, chân lý được hình thành qua cuộc tranh luận giữa các quan điểm "ủng hộ" và "phản đối", và các cuộc tranh luận này được giải quyết bằng cách kết hợp hài hòa các nguyên tắc đối lập.

Phương pháp cơ bản của triết học kinh viện bao gồm phép diễn dịch qua tam đoạn luận và phép quy nạp qua tập hợp, khái quát lời nói của các nhân vật có uy tín Mặc dù được giáo hội phê chuẩn, học thuyết Tômát đã gặp nhiều phản bác từ chính các nhà triết học kinh viện Đ.Scốt nhấn mạnh mâu thuẫn giữa niềm tin và tri thức, giữa thần học và triết học, cho rằng chân lý của triết học có thể trở thành sai lầm trong thần học Ông lập luận rằng không thể chứng minh sự tồn tại của Chúa bằng lý trí, mà cần xem Chúa là nguyên nhân tối hậu của thế giới Đ.Scốt phản đối tính trực quan của triết học kinh viện, cho rằng ý chí chứ không phải lý trí sẽ dẫn đến sự hoàn hảo tối cao Cuộc đấu tranh giữa các môn đệ của Scốt và Tômát nhằm giải phóng khoa học và triết học khỏi niềm tin, được tiến hành dưới chiêu bài thuyết hai chân lý.

Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy thực và chủ nghĩa duy danh phản ánh sự hình thành thế giới quan mới, với thế giới quan duy vật là trung tâm Trong thời Trung cổ, chủ nghĩa duy danh đã thể hiện những yếu tố đầu tiên của chủ nghĩa duy vật Anh Cuộc tranh luận chủ yếu xoay quanh câu hỏi về bản chất của thực tại: khái niệm hay vật là thứ nhất? Những người theo chủ nghĩa duy danh cho rằng khái niệm chỉ là tên gọi của vật, tồn tại sau vật, trong khi những người theo chủ nghĩa duy thực lại khẳng định rằng khái niệm là thực tại, tồn tại trước vật và sinh ra vật Khoa học và triết học thời Phục hưng đã đóng góp quan trọng vào cuộc tranh luận này.

Sự phát triển thương mại ở các thành phố ven Địa Trung Hải vào cuối thế kỷ XIII đã làm tan rã nền kinh tế tự nhiên, đặc biệt tại các thành phố tự do ở Italia, nơi giai cấp tư sản bắt đầu nổi lên và tri thức khoa học dần xuất hiện Đến nửa sau thế kỷ XV, quyền lực nhà vua, dựa vào thị dân, đã lật đổ thế lực quý tộc phong kiến, tạo ra những quốc gia quân chủ lớn dựa trên cơ sở dân tộc, thúc đẩy sự phát triển của các dân tộc châu Âu hiện đại và xã hội tư sản Các cuộc viễn chinh đã mở ra cho người châu Âu cái nhìn về sự phong phú của khoa học và nghệ thuật cổ đại, dẫn đến việc tìm kiếm các mẫu mực để bắt chước trong tri thức và nghệ thuật Người châu Âu lần đầu tiếp xúc với các tác phẩm gốc của Hy Lạp trong khoa học và triết học, gây kinh ngạc với tự do tư tưởng và những kết luận táo bạo Tình hình này đã làm nảy sinh một nền văn học hiện đại ở Italia, Pháp và Đức, đánh dấu sự khởi đầu của một thời kỳ phồn vinh chưa từng có về nghệ thuật Sự phát triển này cũng dẫn đến việc phá vỡ ranh giới của trái đất cũ, đặt nền móng cho buôn bán quốc tế và chuyển đổi sản xuất thủ công sang sản xuất công nghiệp, đồng thời đánh bại chuyên chính tinh thần của giáo hội, thúc đẩy tư tưởng tự do và triết học Hy Lạp.

Thế giới quan Phục hưng được hình thành từ hai xu hướng chính: khát vọng về tư duy độc lập và thiên hướng về chủ nghĩa tự nhiên Sự quan tâm đến thế giới tự nhiên, cùng các quy luật của nó, xuất phát từ lợi ích thương mại hàng hải và ngành thủ công Khoa học trở thành công cụ quan trọng cho giai cấp tư sản, đối lập với tư tưởng tôn giáo Lêôna đờ Vanhxi, một thiên tài đa diện, là đại diện tiêu biểu của thời đại, không chỉ là họa sĩ mà còn là nhà toán học, vật lý học và kiến trúc sư, người đã sáng lập cơ học khoa học Ông khẳng định rằng trái đất chỉ là một hành tinh, không phải trung tâm của vũ trụ Ăngghen đã nhấn mạnh rằng thời đại này đã tạo ra những con người vĩ đại, với khả năng suy nghĩ sâu sắc, nhiệt tình và kiến thức phong phú, những người đã đặt nền tảng cho sự thống trị của giai cấp tư sản Những nhân vật này thường có tinh thần phiêu lưu, am hiểu nhiều ngôn ngữ và nổi bật trong nhiều lĩnh vực sáng tạo, khác với những người kế tục họ, thường bị giới hạn bởi sự phân công lao động.

Sự sáng chế của Hutenbéc về máy in đã dẫn đến sự ra đời của nhiều xưởng in tại Niurơbéc và Pari, mở ra cơ hội phát hành số lượng lớn sách Trước đây, sách chỉ được chép tay, hạn chế khả năng phổ biến, và việc viết sách chủ yếu là công việc của tu sĩ, cho phép họ kiểm soát nội dung In ấn đã giúp phổ biến tri thức và dân chủ hóa học vấn, cho phép thương gia và con cháu họ trở thành nhà tự nhiên học Công cụ in ấn trở thành vũ khí mạnh mẽ cho giai cấp tư sản non trẻ trong cuộc đấu tranh chống lại sự thống trị tinh thần của giai cấp phong kiến, nhờ việc phổ biến các văn bản gốc của người Hy Lạp, tạo ra sự ủng hộ và đoàn kết cho họ Vai trò cách mạng của ngành in ấn còn thể hiện ở việc xóa bỏ độc quyền tư tưởng của giáo hội.

Thuốc súng đã đóng vai trò quan trọng trong việc giúp chính quyền nhà vua vượt qua sức mạnh của phong kiến Nhờ vào hoả khí này, nhà vua có thể xuyên thủng thiết giáp và phá hủy các thành trì của các lãnh địa, từ đó quét sạch các pháo đài phong kiến.

Việc áp dụng thuốc súng trong chiến tranh và sự lan rộng của nghề in sách đã chỉ ra sự suy yếu của tổ chức xã hội phong kiến Thời kỳ này đánh dấu sự bùng nổ của khoa học tự nhiên, mở ra một kỷ nguyên mới trong sự phát triển của tri thức và công nghệ.

Vào thế kỷ XV, tri thức thiên văn học đã tích lũy đáng kể, cần được lý thuyết hóa và xây dựng một quan điểm chung về vũ trụ Những quan sát mới đã làm cho hệ thống Aristốt - Ptôlêmê, được giáo hội bảo vệ, trở nên lỗi thời Quan niệm về trái đất là trung tâm không còn phù hợp với nhu cầu thực tiễn của giai cấp tư sản, dẫn đến việc ngày càng nhiều người phản đối quan điểm này.

Hệ thống của Côpécníc đã đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc hình thành thế giới quan mới, khi trái đất không còn là trung tâm vũ trụ mà chỉ là một hành tinh trong số nhiều hành tinh khác Thời Trung cổ, trái đất được coi là nơi cư trú của con người tội lỗi, nơi cái ác và sự không hoàn hảo thống trị Tuy nhiên, với quan niệm mới của Côpécníc, bầu trời trở thành một không gian rộng lớn, chứa đựng nhiều thế giới tương tự như trái đất, chuyển động và được cấu thành từ vật chất Điều này dẫn đến những kết luận về tính vô hạn của vật chất, sự thống nhất và quy luật tự nhiên chi phối trong vũ trụ.

Các nhà triết học kinh viện xem con người là trung tâm của vũ trụ, biểu thị ý nghĩa của "cuộc sống trong vũ trụ" Tuy nhiên, Copernicus đã thay đổi quan điểm này, coi con người chỉ là một sinh vật nhỏ bé sống trên một hành tinh trong số vô vàn hành tinh xoay quanh mặt trời.

Cuộc đời và sự nghiệp của Bêcơn

Phranxít Bêcơn, sinh ngày 22 tháng 1 năm 1561 tại Luân Đôn, được coi là "ông tổ đích thực của chủ nghĩa duy vật Anh và của các khoa học kinh nghiệm hiện đại." Ông xuất thân từ một gia đình huân tước, với cha là Nicôlai Bêcơn.

Cha của Phranxít thuộc tầng lớp trên của quan lại Anh, được hỗ trợ bởi chế độ chuyên chế của triều đại Tuđôrơ Mẹ của Ph.Bêcơn, Anna Cook, là một phụ nữ có học vấn từ gia đình quan lại lớn, thông thạo tiếng Hy Lạp và am hiểu thần học, mang tư tưởng tự do Nhà của Bêcơn thường xuyên là nơi hội họp của các đại biểu tiến bộ từ tầng lớp tư sản Luân Đôn và quan lại cao cấp Người thân và bạn bè của Ph.Bêcơn thuộc về giai cấp non trẻ.

- giai cấp t- sản, giai cấp đang v-ơn tới quyền lực và đang trải qua cơn sốt tích luỹ ban đầu rất thuận lợi

Ph.Bêcơn bộc lộ năng lực trí tuệ và lòng ham hiểu biết từ sớm Năm 13 tuổi, ông nhập học tại Đại học Tổng hợp Cambridge và học trong 3 năm, chuyên nghiên cứu thần học và triết học Ông đã nung nấu ý tưởng về một sự chuyển biến triệt để trong hệ thống tri thức khoa học, mà vào thời điểm đó gần như không có giá trị thực tiễn đối với giai cấp tư sản Anh.

Sau khi tốt nghiệp đại học, Bêcôn chuyển tới Paris và được sứ quán Anh tiến cử vào vị trí ngoại giao Tại Paris, ông đã có cơ hội tiếp xúc với nhiều đảng phái chính trị, từ đó hình thành quan niệm riêng về kinh tế và chế độ chính trị ở châu Âu Với sự nhạy bén và tinh tế trong quan sát, Bêcôn đã gây ấn tượng mạnh mẽ với mọi người xung quanh Sau khi hoàn thành chương trình cao đẳng pháp lý, ông tiếp tục làm việc trong lĩnh vực khoa học pháp lý, nỗ lực lý luận và loại bỏ các yếu tố Trung cổ.

Bêcơn được bổ nhiệm làm cố vấn đặc biệt của Nữ hoàng, với nhiệm vụ tư vấn pháp lý về ngân khố và bảo vệ lợi ích của hoàng gia trong các vụ án Ông sau đó trở thành đại biểu của Hạ nghị viện, nơi ông đại diện cho giai cấp tư sản và kêu gọi cải cách triệt để luật dân sự Bêcơn yêu cầu loại bỏ thói chuyên quyền của quan lại và tiêu diệt các tàn dư của quan hệ pháp luật phong kiến, đồng thời đấu tranh cho việc xây dựng bộ luật dân sự tư sản Tuy nhiên, tư tưởng của ông đã bị Thượng nghị viện thẳng thừng bác bỏ.

Bêcơn đã tìm được người bảo trợ là bá tước Etxétxơ, người đã tặng cho ông một thái ấp gần Luân Đôn Tại đây, Bêcơn lẩn tránh và tập trung vào nghiên cứu khoa học, dẫn đến việc ông cho xuất bản một tác phẩm quan trọng.

Ông nhấn mạnh tầm quan trọng của kinh nghiệm trong việc hình thành quan điểm về đạo đức và chính trị, phản đối việc coi ngôn ngữ chỉ là hình ảnh của vật thể Thay vì dựa vào các nguyên tắc siêu hình trừu tượng, ông khuyên mọi người nên bắt đầu từ kinh nghiệm thực tế, quan sát cuộc sống và con người như họ đang tồn tại Ông cho rằng, việc giáo dục nên dựa trên những tri thức thực tiễn để nuôi dưỡng con người thành những người thiện, tránh việc áp đặt những nguyên tắc khó hiểu và đạo đức trừu tượng.

Giai đoạn từ năm 1603 đến 1623 đánh dấu thời kỳ đỉnh cao trong hoạt động khoa học của Bêcơn Trong thời gian này, ông đã trình bày những tư tưởng sâu sắc về việc phục hồi các khoa học thông qua hàng loạt tác phẩm công bố.

Năm 1605, Bêcơn cho xuất bản tác phẩm "Về thắng lợi của các khoa học", sau đó được sửa chữa và phát hành lại vào năm 1623 với tên gọi "Về ưu điểm và sự hoàn thiện của các khoa học" Cùng năm đó, ông cũng công bố "Bách khoa tri thức" Trước đó, vào năm 1610, Bêcơn đã xuất bản "Lược khảo về sự thông thái của người cổ".

Trong những năm gần đây, Bêcơn đã công bố nhiều nghiên cứu quan trọng về các vấn đề trong lĩnh vực khoa học tự nhiên, bao gồm mô tả thế giới trí tuệ, phân loại khoa học, hệ thống thiên thể, cũng như các nguyên tắc và cơ sở khoa học.

Vào năm 1620, ông đã công bố tác phẩm quan trọng nhất của mình mang tên "Organon mới", với "mới" được hiểu là trái ngược với "Organon" của Aristot Tác phẩm này được ông dành tặng cho Vua Giacốp I, người vừa mới lên ngôi sau sự ra đi của Nữ hoàng Êlidabét.

Organon mới được chia thành hai phần: phần đầu phê phán triết học kinh viện và chỉ ra sự vô ích của khoa học tách rời thực tế, trong khi phần hai trình bày phương pháp quy nạp của Bêcơn Sự ra mắt của Organon mới đã tạo nên tiếng vang lớn, mang lại vinh quang cho tác giả và củng cố vị thế của ông trong giới triết học và khoa học kinh nghiệm Sau khi Giacốp lên ngôi vào năm 1604, Bêcơn nhanh chóng được bổ nhiệm làm luật sư hoàng gia.

Vào năm 1607, ông được trao danh hiệu kiểm sát trưởng, và đến ngày 7 tháng 3 năm 1617, ông nhận danh hiệu huân tước - người giữ quốc ấn Chẳng bao lâu sau, ông được bổ nhiệm vào vị trí cao nhất trong nhà nước, trở thành huân tước - thủ tướng.

Ngày 2 tháng 4 năm 1626, trong lúc làm thí nghiệm để kiểm tra tác động của không khí lạnh nh- nhân tố làm chậm sự phân huỷ, Bêcơn đã bị cảm nặng Sau tám ngày mắc bệnh, ngày 9 tháng 4 năm 1626, Bêcơn đã tạ thế ở tuổi 66

Bêcơn, được coi là ông tổ của các khoa học kinh nghiệm và là người sáng lập triết học duy vật Cận đại, đã để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử nhân loại Ph Ăngghen đã nhận định rằng thời đại của Bêcơn là một cuộc cách mạng tiến bộ, nơi mà những con người vĩ đại với năng lực suy nghĩ, nhiệt tình, và học thức phong phú đã xuất hiện Những nhân vật nổi bật trong thời kỳ này không chỉ tham gia vào các phong trào xã hội mà còn tích cực đấu tranh cho lý tưởng của mình, sử dụng cả lời nói, văn chương và vũ khí Điều này đã tạo nên một tính cách phong phú và kiên cường, giúp họ trở thành những nhân vật toàn diện, khác biệt với những nhà bác học chỉ làm việc trong phòng thí nghiệm.

Quan niệm của Bêcơn về các nhiệm vụ cơ bản của triết học và của khoa học

Bêcơn đã phê phán các cơ sở của khoa học và triết học kinh viện, nhấn mạnh rằng nhiệm vụ chính của triết học là xây dựng một phương pháp mới để nhận thức hiện thực vật chất Ông cho rằng triết học và lôgíc học phải mang ý nghĩa thực tiễn, không trở thành hệ thống chân lý bất biến hay phụ thuộc vào những công thức phức tạp Bêcơn xác định triết học của mình là "Organon" chỉ là lôgíc học, không phải một hệ thống triết học Ông nhấn mạnh rằng nhiệm vụ thực tiễn của lôgíc học là định hướng tư duy, không bám vào những trừu tượng, mà phải phân tích tự nhiên, phát hiện đặc tính thực của vật chất và xây dựng một khoa học dựa trên bản chất của lý trí cũng như bản chất của sự vật.

Theo Bêcơn, triết học kinh viện chỉ là "đầy tớ" của thần học và cần được tách biệt hoàn toàn khỏi thần học Ông nhấn mạnh rằng triết học phải phục vụ nhiệm vụ thực tiễn trong việc nghiên cứu giới tự nhiên, nhằm tạo dựng sự hùng mạnh và vĩ đại của con người trên cơ sở vững chắc Việc xem xét lại toàn bộ tri thức khoa học cần dẫn đến việc xây dựng một khoa học mới, xuất phát từ thực tiễn và phục tùng các mục đích thực tiễn, có khả năng phục vụ cho việc sáng chế công cụ lao động và nghiên cứu khoa học.

Bêcơn chỉ trích các nhà khoa học chỉ ngồi trong văn phòng và rút ra kết luận từ các khái niệm trừu tượng, thay vì dựa vào thực tế Ông cho rằng việc quan sát tự nhiên từ xa chỉ mang lại cái nhìn hời hợt Để có được hiểu biết thực tế và hữu ích hơn, cần phải tiếp cận các sự kiện cụ thể một cách kiên nhẫn và chăm chú Do đó, việc cải thiện khả năng quan sát và đưa nó gần hơn với đối tượng là rất quan trọng.

Bêcơn không phủ nhận vai trò quan trọng của lý tính trong việc nhận thức thế giới tự nhiên, nhưng ông cho rằng cần hạn chế quyền lực của lý tính, đồng thời mở rộng quyền hạn của khoa học kinh nghiệm Ông nhấn mạnh sự cần thiết phải loại bỏ tình trạng mà các khái niệm không được rút ra từ thực tế, mà chỉ từ suy luận trừu tượng, nhằm làm cho khoa học trở nên hữu ích hơn Bêcơn kêu gọi tạo ra sự thống nhất giữa lý luận và thực tiễn, điều này sẽ mang lại lợi ích cho cả hai lĩnh vực và giúp nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học.

Bêcơn mong muốn xây dựng một nền tảng vững chắc cho khoa học kinh nghiệm, kết hợp giữa phương pháp hợp quy luật và phương pháp lý tính Ông nhấn mạnh rằng sự tách rời và bất đồng trong nhân loại cần được khắc phục, nhằm hướng tới việc sử dụng phương pháp lý tính để phân tích tài liệu cảm tính.

Mặc dù có sự phong phú về bề ngoài, các nhà khoa học đương thời lại rất nghèo nàn trong tư duy Họ thường lặp lại những điều đã biết từ năm này qua năm khác, chỉ thay đổi hình thức trình bày tài liệu mà không làm mới nội dung.

Các khoa học từ người Hy Lạp ban đầu chỉ ở trạng thái phôi thai, thiếu tính ứng dụng thực tiễn và không có căn cứ thực tế Tính vô bổ của chúng thể hiện qua sự bất biến và thiếu sáng tạo, với chỉ thầy và trò mà không có người sáng chế Các nhà khoa học thường chỉ đưa ra những tranh luận mà thiếu sự kiện cụ thể, dẫn đến sự phức tạp của thế giới mà họ không thể giải thích Bêcơn đã kêu gọi phá hủy khoa học cũ và xây dựng khoa học mới, phản đối việc sử dụng nền tảng cũ để phát triển cái mới Ông cho rằng thái độ tôn trọng các ý kiến và tập tục hiện tồn gây cản trở sự phát triển của khoa học Với phương pháp nhận thức và cải tạo khoa học, Bêcơn được xem là một nhà cách mạng, nhận thức rằng khoa học mới chỉ có thể được xây dựng trên nền tảng đã được dọn sạch khỏi các khái niệm cũ Ông đánh giá cao những kết quả từ trực giác và quan sát, coi phát minh có chủ ý là nhiệm vụ cốt lõi của khoa học mới.

Các nhiệm vụ mới trong khoa học yêu cầu cải cách triệt để nhận thức con người và xây dựng một phương pháp nhận thức mới Để tiếp cận các hiện tượng phức tạp của tự nhiên, cần phát hiện một phương thức điều khiển lý tính hoàn hảo hơn Khoa học cần trang bị cho mình lôgíc học phát minh, giúp nâng cao khả năng lý tính vượt qua những công cụ thô sơ hiện có Bêcơn nhấn mạnh rằng lôgíc học mới phải được trang bị lại cho mọi khoa học, mang tinh thần phát minh vào trong đó Ông nỗ lực phát triển tinh thần phát minh về mặt triết học, từ chối sự ràng buộc của các hệ thống và lý luận cứng nhắc Phương pháp phát minh mà Bêcơn đề xuất là công cụ giúp khoa học có khả năng thống trị thế giới, đồng thời khẳng định rằng con người cần chinh phục tự nhiên thông qua việc hiểu biết và nhận thức về các quy luật của nó.

Nhận thức về giới tự nhiên là điều kiện tiên quyết cho sự phát minh, và con đường dẫn đến điều này là thông qua kinh nghiệm khoa học Việc nghiên cứu các quy luật tự nhiên giúp chúng ta tự giác áp dụng và khai thác chúng trong quá trình sáng tạo Khoa học tự nhiên đóng vai trò quan trọng, là nền tảng cho mọi lĩnh vực khoa học khác, vì sức mạnh và tri thức luôn đi đôi với nhau, hướng tới một mục đích chung.

Sự thiếu nhận thức về nguyên nhân cản trở chúng ta hành động đúng đắn và áp dụng các kết quả khoa học Chiến thắng tự nhiên chỉ có thể đạt được thông qua việc tuân thủ các quy luật của nó Nghiên cứu nguyên nhân của các hiện tượng tự nhiên giúp chúng ta làm chủ các quy luật này; nếu không có điều đó, khoa học sẽ không thể phát triển tích cực và thực hiện các phát minh Bêcơn đã chỉ trích các nhà triết học kinh viện Trung cổ vì đã theo đuổi những nguyên nhân vĩnh cửu mà không nghiên cứu các nguyên nhân gần gũi, dẫn đến việc không phát hiện ra các quy luật tự nhiên và chỉ gán cho chúng những quy luật trừu tượng từ các khái niệm logic.

Theo Bêcơn, tri thức trừu tượng không có giá trị nếu không có lợi ích thực tiễn Mọi sự tồn tại đều xứng đáng được nhận thức và không có đối tượng nào là cao siêu hay không xứng đáng với khoa học Ông nhấn mạnh rằng "Cái gì xứng đáng với sự tồn tại thì cũng xứng đáng với khoa học, khoa học chỉ là sự phản ánh của hiện thực."

Khoa học cần được dân chủ hóa, không còn là đặc quyền của một số ít người mà phải trở thành tài sản của quần chúng Định hướng này phù hợp với lợi ích của giai cấp tư sản, nhằm tăng cường số lượng chuyên gia trong mọi lĩnh vực tri thức "Nếu có các hình thức chính trị khác nhau thì chỉ có một hình thức đối với các khoa học Hình thức này đã, đang và sẽ luôn là hình thức nhân dân."

Bêcơn nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển tri thức lý luận, cho rằng không nên dừng lại ở những thành tựu của người cổ đại mà cần tiến xa hơn Ông khẳng định rằng việc trang bị lại lý luận và phát minh dựa trên đó là nền tảng cho sự tiến bộ kỹ thuật, gia tăng của cải và thịnh vượng chung Để thực hiện điều này, cần phải xem xét lại một cách triệt để các khái niệm thống trị trong khoa học đương thời Vậy nguyên nhân của sự cần thiết này là gì?

Bêcơn chỉ ra rằng nguyên nhân đầu tiên dẫn đến sự phát triển không đồng đều của tri thức khoa học là do không phải lúc nào cũng có những điều kiện thuận lợi cho sự phát triển này.

Trong lịch sử 2500 năm của nhân loại, chỉ có 600 năm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của khoa học, được chia thành ba thời kỳ: thời kỳ đầu ở Hy Lạp, thời kỳ thứ hai ở La Mã và thời kỳ thứ ba ở Tây Âu hiện đại Mặc dù Bêcơn không chỉ ra rõ ràng nội dung của những điều kiện thuận lợi này, nhưng ông đã đặt các đặc điểm của thời đại lên hàng đầu trong việc giải thích sự phát triển yếu kém của khoa học, cho thấy ông là một nhà duy vật Tuy nhiên, Bêcơn dường như không nhận thức được tác động thực sự của các điều kiện kinh tế - xã hội đối với sự phát triển của khoa học.

NHữNG NộI DUNG CƠ BảN CủA TRIếT HọC BÊCƠN Về NHậN THứC 2.1 Bản chất và mục đích của nhận thức

Ngày đăng: 30/06/2022, 15:18

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Dr. Mortimer J. Adler (2004), Những t- t-ởng lớn từ những tác phẩm vĩ đại, Nxb Văn hóa Thông tin, H, do Mai Sơn, Phạm Viêm Ph-ơng dịch Sách, tạp chí
Tiêu đề: Những t- t-ởng lớn từ những tác phẩm vĩ "đại
Tác giả: Dr. Mortimer J. Adler
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2004
2. Lý Chấn Anh (2007), Nghiên cứu triết học cơ bản, Ng-ời dịch: Nguyễn Tài Th-, Nxb Tri thức, H Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghiên cứu triết học cơ bản
Tác giả: Lý Chấn Anh
Nhà XB: Nxb Tri thức
Năm: 2007
3. Trịnh Đình Bảy (2003), Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, H Sách, tạp chí
Tiêu đề: Niềm tin và xây dựng niềm tin khoa học
Tác giả: Trịnh Đình Bảy
Nhà XB: Nxb Chính trị Quốc gia
Năm: 2003
4. Ph.Bêcơn (1977), Tác phẩm, tập 1, Nxb T- t-ởng, M (Tham khảo bản dịch của PGS.TS. Đỗ Minh Hợp) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác phẩm
Tác giả: Ph.Bêcơn
Nhà XB: Nxb T- t-ởng
Năm: 1977
5. Ph.Bêcơn (1978), Tác phẩm, tập 2, Nxb T- t-ởng, M (Tham khảo bản dịch của PGS.TS. Đỗ Minh Hợp) Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tác phẩm
Tác giả: Ph.Bêcơn
Nhà XB: Nxb T- t-ởng
Năm: 1978
6. Francis Bacon, New Organon, published by the press syndicate of the university of Cambridge, 2000, edited by Lisa Jardine and Michael Silver Thorne Sách, tạp chí
Tiêu đề: New Organon
8. Crane Brinton (2007), Con ng-ời và t- t-ởng ph-ơng Tây, Nxb Từ điển Bách khoa, H, do Cao Hùng Linh dịch Sách, tạp chí
Tiêu đề: n ng-ời và t- t-ởng ph-ơng Tây
Tác giả: Crane Brinton
Nhà XB: Nxb Từ điển Bách khoa
Năm: 2007
9. GS.TS. Nguyển Trọng Chuẩn, PGS.TS. Nguyễn Thế Nghĩa; PGS.TS. Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên) (2002); Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam (Lý luận và thực tiễn); NXB chính trị Quốc gia Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam (Lý luận và thực tiễn)
Nhà XB: NXB chính trị Quốc gia Hà Nội
10. Edward Craig (2010), Triết học, Nxb Tri thức, H, Dịch giả Phạm Kiều Tùng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học
Tác giả: Edward Craig
Nhà XB: Nxb Tri thức
Năm: 2010
11. Doãn Chính - Đinh Ngọc Thạch (Chủ biên, 2003), Triết học Trung cổ Tây Âu, Nxb Thanh niên, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học Trung cổ Tây Âu
Nhà XB: Nxb Thanh niên
12. David E Cooper (2005), Các tr-ờng phái triết học trên thế giới, Nxb Văn hóa Thông tin, H Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các tr-ờng phái triết học trên thế giới
Tác giả: David E Cooper
Nhà XB: Nxb Văn hóa Thông tin
Năm: 2005
13. Nguyễn Tiến Dũng (2006), Lịch sử triết học ph-ơng Tây của, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lịch sử triết học ph-ơng Tây
Tác giả: Nguyễn Tiến Dũng
Nhà XB: Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh
Năm: 2006
14. Will Durant (2009), Câu chuyện triết học, Nha Tu Th- và S-u khảo – Viện Đại học Vạn Hạnh, Trí Hải và Bửu Đích dịch, Nxb Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Câu chuyện triết học
Tác giả: Will Durant
Nhà XB: Nxb Đà Nẵng
Năm: 2009
15. Vũ Cao Đàm (2005), Ph-ơng pháp luận nghiên cứu khoa học, Nxb Khoa học và Kĩ thuật, H Sách, tạp chí
Tiêu đề: Ph-ơng pháp luận nghiên cứu khoa học
Tác giả: Vũ Cao Đàm
Nhà XB: Nxb Khoa học và Kĩ thuật
Năm: 2005
16. L-u Phóng Đồng (2004), Giáo trình h-ớng tới thế kỷ XXI: Triết học ph-ơng Tây hiện đại, Ng-ời dịch: Lê Khánh Tr-ờng, Nxb Lý luận Chính trị, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Triết học ph-ơng Tây hiện đại
Tác giả: L-u Phóng Đồng
Nhà XB: Nxb Lý luận Chính trị
Năm: 2004
17. Nguyễn Huy Hoàng (2002), Mối quan hệ giữa văn hóa và tiến bộ xã hội trong triết học Ph.Bêcơn, Tạp chí triết học số 9/2002 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mối quan hệ giữa văn hóa và tiến bộ xã "hội trong triết học Ph.Bêcơn
Tác giả: Nguyễn Huy Hoàng
Năm: 2002
18. Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn (2006), Đại c-ơng lịch sử triết học ph-ơng Tây, Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại c-ơng lịch sử triết học ph-ơng Tây
Tác giả: Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn
Nhà XB: Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
Năm: 2006
19. Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn (2008), Đại c-ơng lịch sử triết học ph-ơng Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX, Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đại c-ơng lịch sử triết học ph-ơng Tây hiện đại cuối thế kỷ XIX - nửa đầu thế kỷ XX
Tác giả: Đỗ Minh Hợp – Nguyễn Thanh – Nguyễn Anh Tuấn
Nhà XB: Nxb. Tổng hợp TP Hồ Chí Minh
Năm: 2008
20. Đỗ Minh Hợp (2006), Diện mạo triết học ph-ơng Tây hiện đại, Nxb. Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Diện mạo triết học ph-ơng Tây hiện đại
Tác giả: Đỗ Minh Hợp
Nhà XB: Nxb. Hà Nội
Năm: 2006
21. Đỗ Minh Hợp (2011), Nhập môn triết học, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhập môn triết học
Tác giả: Đỗ Minh Hợp
Nhà XB: Nxb Giáo dục Việt Nam
Năm: 2011

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN