1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN văn THẠC sĩ) thi pháp kịch việt nam những năm 1940 1945 ( qua một số tác giả)002

105 13 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Thi Pháp Kịch Việt Nam Những Năm 1940 - 1945 (Qua Một Số Tác Giả)
Tác giả Nguyễn Thị Liên
Người hướng dẫn TS. Phạm Xuân Thạch
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Văn học Việt Nam
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2014
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 105
Dung lượng 775,12 KB

Cấu trúc

  • 1. Lí do chọn đề tài (7)
  • 2. Lịch sử vấn đề (8)
  • 3. Mục đích nghiên cứu (15)
  • 4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu (15)
  • 5. Phương pháp nghiên cứu (15)
  • 6. Cấu trúc luận văn (16)
  • Chương 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KỊCH VIỆT NAM NHỮNG NĂM 1940 - 1945 (17)
    • 1.1. Lí luận chung về kịch (17)
      • 1.1.1. Khái niệm về “Kịch” (17)
      • 1.1.2. Những đặc trưng cơ bản kịch (19)
    • 1.2. Kịch Việt Nam trước năm 1940 và kịch Việt Nam trong giai đoạn (25)
      • 1.2.1. Kịch Việt Nam trước 1940 (25)
      • 1.2.2. Kịch Việt Nam trong giai đoạn 1940 – 1945 (30)
  • Chương 2. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT, KẾT CẤU, KHÔNG – THỜI GIAN TRONG KỊCH VIỆT NAM 1940 – 1945 (43)
    • 2.1. Nhân vật kịch (43)
      • 2.1.1. Hành động nhân vật (43)
      • 2.1.1. Ngôn ngữ nhân vật (50)
    • 2.2. Kết cấu kịch (59)
      • 2.2.1. Tình huống kịch (59)
      • 2.2.2. Kết cấu chương hồi (64)
    • 2.3. Không – thời gian (68)
  • Chương 3. THI PHÁP VÀ CÁC VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG KỊCH VIỆT (76)
    • 3.1. Mâu thuẫn, xung đột kịch (76)
      • 3.1.1. Mâu thuẫn, xung đột về lợi ích (76)
      • 3.2.2. Mâu thuẫn, xung đột về giá trị (81)
    • 3.2. Các vấn đề tư tưởng cơ bản (84)
      • 3.2.1. Vấn đề quốc gia dân tộc (85)
      • 3.2.2. Vấn đề con đường tìm lí tưởng sống (89)
      • 3.2.3. Vấn đề con đường đi tìm hạnh phúc (95)
  • KẾT LUẬN (98)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (102)

Nội dung

Lịch sử vấn đề

Qua quá trình khảo sát các tài liệu liên quan đến đề tài “ Thi pháp kịch

Việt Nam những năm 1940 – 1945 (Qua một số tác giả) ”, chúng tôi nhận thấy như sau:

Trong lĩnh vực thi pháp kịch, đã có nhiều công trình lí luận từ thời cổ đại đến hiện đại trên toàn thế giới Tại Việt Nam, vào những năm 1990, các nhà nghiên cứu văn học đã tích cực đưa thi pháp vào nghiên cứu văn học thông qua việc dịch thuật và phân tích các công trình lí luận cơ bản Một số nhà nghiên cứu tiêu biểu trong lĩnh vực này bao gồm Phạm Vĩnh Cư, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy và Nguyễn Hải.

Hà, Cao Xuân Hạo, Lại Nguyên Ân, Nguyễn Tri Niên, Lê Ngọc Trà, Chu Xuân Diên, Hoàng Ngọc Hiến, Bùi Mạnh Nhị, Trần Duy Châu, và Nguyễn Tài Cẩn là những tên tuổi nổi bật trong lĩnh vực thi pháp học Các nhà nghiên cứu này thường được đề cập trên các tạp chí danh tiếng như Aristotle, Lưu Hiệp, Viên Mai, Bakhtin, Jakobson, Khrapchenco, Todorov, Meletinski, và Propp Cuối những năm

Năm 1990, Trần Đình Sử đã nghiên cứu và viết các giáo trình về thi pháp học cho bậc Đại học và Cao đẳng tại Việt Nam Tiếp nối công trình này, Đỗ Đức Hiểu đã biên soạn cuốn "Thi pháp hiện đại" vào năm 2000, tập hợp các bài nghiên cứu về thi pháp từ các báo và tạp chí văn học Những đóng góp của các nhà nghiên cứu đã khẳng định và phát triển thi pháp học ở Việt Nam trong thế kỷ XX Cuốn "Thi pháp hiện đại" của Đỗ Đức Hiểu được chú ý vì giới thiệu một cái nhìn toàn diện về thi pháp học qua phạm vi thể loại Mặc dù quan điểm về thi pháp học còn phân tán, nhưng các nhà nghiên cứu đều công nhận đây là một môn khoa học Nguyễn Văn Nam đã khẳng định rằng thi pháp học tồn tại như một phương pháp nghiên cứu và phê bình văn học mới mẻ, đồng thời nhấn mạnh vai trò của thi pháp trong việc đánh giá các hiện tượng nghệ thuật trong bối cảnh lịch sử và văn hóa rộng lớn hơn.

Bên cạnh các công trình lý luận về thi pháp học, nghiên cứu về thể loại kịch cũng rất quan trọng Nhiều nhà nghiên cứu và tác giả trong lĩnh vực sân khấu đã đóng góp các công trình chuyên luận, giúp người đọc và khán giả hiểu rõ hơn về vị trí và vai trò của văn bản kịch Năm 2009, Tất Thắng đã xuất bản công trình "Lý luận kịch" tại Nxb Sân Khấu, được đánh giá là công phu và đầy đủ nhất về kịch Ngoài ra, "Nghệ thuật viết kịch" của Hồ Ngọc cũng là một công trình có giá trị Những nghiên cứu này giúp nhận diện kịch như một tác phẩm văn học có mối quan hệ với sân khấu Giai đoạn 1940 là thời kỳ lịch sử quan trọng, ảnh hưởng mạnh mẽ đến văn học Việt Nam Các công trình văn học sử, như "Bước đầu tìm hiểu lịch sử kịch nói Việt Nam" của Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý, đã miêu tả chi tiết sự phát triển của kịch từ khởi thủy đến năm 1945 Các tác giả cho rằng từ 1936 đến 1940 là thời kỳ bắt đầu trưởng thành của kịch nói Việt Nam, và giai đoạn 1940-1945 là đỉnh cao của sự phát triển, khi việc viết và diễn kịch trở thành phong trào nghệ thuật quần chúng.

Nguyễn Huy Tưởng chọn những chi tiết nhỏ trong lịch sử thay vì những đề tài lớn, nhưng tác phẩm "Vũ Như Tô" lại mang đến một khung cảnh kịch tính đồ sộ và bề thế.

Khung cảnh kịch Vũ Như Tô diễn ra tại Cửu Trùng Đài, một công trình vĩ đại thể hiện khát vọng và tâm huyết của những người yêu nước, muốn phục vụ nghệ thuật và làm đẹp non sông Tuy nhiên, trước thực tế đời sống nghèo khổ của nhân dân, tòa kì đài trở thành biểu tượng của sự căm thù và oán giận Bi kịch của tác phẩm nằm ở sự đối lập giữa sáng tạo nghệ thuật và thực tại cuộc sống Trong bối cảnh này, phong trào phục cổ diễn ra mạnh mẽ, với kịch thơ trở thành thể loại chủ đạo, nổi bật qua các tác phẩm lịch sử như "Trần Can" và "Lý Chiêu Hoàng" của Phan Khắc Khoan Những nhận định và đánh giá trong công trình của tác giả cung cấp cơ sở quan trọng cho việc phân tích và so sánh trong nghiên cứu của chúng tôi.

Trong những năm gần đây, công trình "Những vấn đề lịch sử văn học kịch Việt Nam (Nửa đầu thế kỉ XX)" của Phan Trọng Thưởng, xuất bản năm 1996, đã kế thừa giá trị từ các nghiên cứu trước đó của Phan Kế Hoành và Huỳnh Lý Điểm mới của công trình này là làm rõ đặc trưng của kịch qua mối quan hệ giữa nông thôn và thành thị, cũng như sự khác biệt trong thói quen thưởng thức nghệ thuật giữa các nền văn hóa Tiếp theo, trong cuốn "Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23 (kịch nói Việt Nam)" năm 1997, Hà Minh Đức đã đánh giá khái lược thành tựu của kịch Việt Nam, nhưng vẫn mang tính chủ quan do dựa vào quan điểm đấu tranh giai cấp Để có cái nhìn hiện đại hơn, tập thể tác giả Viện văn học đã công bố công trình "Nhìn lại Văn học Việt Nam thế kỉ" vào năm 2002, góp phần làm phong phú thêm nghiên cứu văn học Việt Nam.

Trong cuốn sách, tác giả Tất Thắng phân tích sự đổi mới của kịch Việt Nam thế kỷ XX, tập trung vào sự phát triển của nhiều thể loại kịch như kịch nói, kịch thơ, và các hình thức kịch hát truyền thống Tuy nhiên, cần xem xét lại tính chất thể loại của một số hình thức như kịch hát ví dặm và kịch hát Huế Tác giả cũng cho rằng vở Bóng giai nhân của Yến Lan và Nguyễn Bính, ra mắt năm 1941, là vở kịch đầu tiên của kịch thơ Việt Nam, nhưng quan điểm này không chính xác vì Huy Thông đã sáng tác Anh Nga vào năm 1934.

Năm 1935 đánh dấu sự ra đời của thể loại kịch thơ trong văn học Việt Nam, với tác giả Đình Quang tổng kết rằng trong 25 năm trước Cách mạng, kịch chỉ mang tính tự phát và tài tử, chủ yếu do trí thức thực hiện cho trí thức xem, thiếu trình độ nghệ thuật thực sự Tuy nhiên, sự phát triển của kịch từ 1940 đến 1945, đặc biệt là vở Vũ Như Tô, cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của thể loại này, được coi là một bi kịch mẫu mực Công trình Văn học Việt Nam thế kỷ XX, do Giáo sư Phan Cự Đệ chủ biên, đã khắc phục những hạn chế trước đó, đánh giá khách quan sự phát triển của kịch theo từng giai đoạn và xu hướng bị ảnh hưởng bởi điều kiện lịch sử, xã hội Tác phẩm “Mấy điều về kịch và thi pháp kịch” của Đỗ Đức Hiểu nêu rõ thi pháp kịch bản với hai bộ phận chính là kịch bản và trình diễn, nhấn mạnh vai trò của đối thoại trong kịch Ông cũng chỉ ra rằng cảnh tượng sân khấu kịch Việt Nam đã có sự đa dạng phong phú, bao gồm nhiều loại hình kịch hiện đại như kịch lãng mạn, hiện thực, tượng trưng và kịch thơ, tạo nên một thời kỳ sáng tạo phong phú với nhiều tác phẩm nổi bật.

Nhiều công trình nghiên cứu của các nhà phê bình như Nguyễn Đình Nghi, Phan Trọng Thưởng, Phạm Vĩnh Cư, Tôn Thảo Miên và Đỗ Đức Hiểu đã được đăng trên các tạp chí uy tín, thảo luận về sự phát triển của kịch và tác giả, tác phẩm kịch Đặc biệt, Đỗ Đức Hiểu đã có công trình "Kịch Nguyễn Huy Tưởng" đăng trên Tạp chí Văn học số 10 năm 1997, tổng kết và đánh giá các tác phẩm kịch của Nguyễn Huy Tưởng trước và sau cách mạng Tác giả chỉ ra rằng phong cách sáng tác của Nguyễn Huy Tưởng thường mượn đề tài lịch sử để phản ánh thời đại, với khuynh hướng lãng mạn xuyên suốt Đặc biệt, trong việc đánh giá vở kịch "Vũ Như Tô", Đỗ Đức Hiểu nhận định rằng tác phẩm này kết hợp tinh hoa của cả hai nền sân khấu Đông và Tây, thể hiện sự kết hợp giữa lý trí và biểu tượng, giữa "đời thường" và "linh thiêng" Ngoài ra, còn có nhiều công trình nghiên cứu khác bàn về bi kịch và nhân vật Vũ Như Tô, như "Bàn thêm về bi kịch Vũ Như Tô" của Phạm Vĩnh Cư.

Cư, Tạp chí văn học số 7 – 2000, đã giới thiệu về Vũ Như Tô qua bài viết của Nguyễn Huy Thắng trong Tạp chí Văn học số 3 - 2006 Bên cạnh đó, Phương Ngân đã khám phá khát vọng sáng tạo trong tác phẩm "Nguyễn Huy Tưởng – khát vọng một đời văn" (2001) do NXB Văn hóa thông tin phát hành Cuối cùng, Đặng Minh Tâm đã phản ánh bi kịch của cái đẹp bị bức tử trong tác phẩm "Vĩnh biệt Cửu Trùng Đài".

Bài viết của Lý Hoàn Thục Trâm về "Văn học kịch Việt Nam với đề tài lịch sử" đã làm nổi bật các khuynh hướng và xu hướng chính trong đề tài lịch sử của kịch Việt Nam Đóng góp quan trọng của tác phẩm nằm ở việc nâng cao nhận thức và cung cấp cơ sở lý luận khoa học cho nghiên cứu kịch, giúp độc giả hiểu rõ hơn về sự phát triển và vai trò của văn học kịch trong bối cảnh lịch sử.

Giai đoạn 1930 – 1945 trong kịch lịch sử được chia thành hai mảng chính: một mảng tập trung vào lịch sử Trung Quốc và một mảng về lịch sử dân tộc Các vở kịch thơ liên quan đến Trung Quốc thường không mang nội dung mới mẻ Trong sự giao thoa giữa kịch và thơ, yếu tố thơ thường chiếm ưu thế hơn.

Những kịch bản viết về lịch sử dân tộc đã thể hiện sự thành công vượt trội về mặt đặc trưng và yêu cầu của thể loại Điểm nổi bật của tác giả so với những người viết khác về văn học kịch Việt Nam là việc kết hợp lý luận chung với thực tiễn sáng tác Điều này giúp khám phá mối quan hệ giữa tính chân thật lịch sử và tính hư cấu nghệ thuật, cũng như giữa nội dung lịch sử và tính chất hiện đại.

Nghiên cứu hiện tại cho thấy, mặc dù có nhiều công trình đã khảo sát giai đoạn hình thành và phát triển của kịch, nhưng chưa có nghiên cứu nào tập trung vào thi pháp kịch từ 1940 đến 1945 Việc nghiên cứu thi pháp trong giai đoạn này là cần thiết để làm sáng tỏ các vấn đề liên quan, từ đó hỗ trợ cho việc nghiên cứu và học tập về kịch một cách hiệu quả hơn Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sẽ tham khảo các tài liệu nghiên cứu trước đó như một nguồn gợi ý để giải quyết các vấn đề liên quan đến đề tài.

Mục đích nghiên cứu

Luận văn nghiên cứu đặc điểm thi pháp kịch từ năm 1940 đến 1945 qua các tác phẩm của những tác giả tiêu biểu Bài viết không chỉ phân tích những đặc trưng thi pháp mà còn chỉ ra các vấn đề tư tưởng trong các tác phẩm kịch giai đoạn này Qua đó, luận văn làm nổi bật những thành công và đóng góp của các kịch gia đối với nền văn học Việt Nam hiện đại.

Bài viết này nhằm cung cấp tài liệu tham khảo hữu ích cho sinh viên trong việc nghiên cứu và học tập về kịch.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn áp dụng phương pháp thi pháp học để phát triển nội dung, trong đó tác giả đã khảo sát tài liệu và bài viết nghiên cứu Người viết kết hợp các thao tác so sánh, phân tích – tổng hợp, và thống kê – phân loại để làm rõ các vấn đề cụ thể Để tìm hiểu về kịch, bao gồm kịch nói và kịch thơ, tác giả sử dụng phương pháp loại hình học nhằm phân biệt hai thể loại này.

Cấu trúc luận văn

Ngoài phần mở đầu, mục lục, kết luận và tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm có 3 chương:

Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn kịch Việt Nam những năm 1940 -

Chương 2: Nghệ thuật xây dựng nhân vật, kết cấu, không – thời gian trong kịch Việt Nam 1940 – 1945

Chương 3: Thi pháp và các vấn đề tư tưởng kịch Việt Nam 1940 – 1945

CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN KỊCH VIỆT NAM NHỮNG NĂM 1940 - 1945

Lí luận chung về kịch

Kịch là một trong ba thể loại chính của văn học, bên cạnh tự sự và trữ tình Theo "Từ điển thuật ngữ văn học", kịch không chỉ là một phần của sân khấu mà còn là một hình thức văn học, đóng vai trò là nền tảng cho các vở diễn và có thể được thưởng thức qua việc đọc.

Trong công trình "Lý luận văn học", tác giả Lý Hoài Thu đã phân tích các loại thể văn học và đưa ra khái niệm kịch dưới hai cấp độ khác nhau.

Kịch là một loại hình nghệ thuật sân khấu và cũng là một trong ba phương thức phản ánh của văn học, bên cạnh tự sự và trữ tình Sự tồn tại của kịch phản ánh quy luật rằng văn học nghệ thuật cần tiếp cận và tái tạo hiện thực đời sống một cách toàn diện Kịch được sáng tạo bởi nhà văn và có phương thức phản ánh độc lập So với các loại hình nghệ thuật sân khấu khác như kịch múa, kịch hát, kịch dân ca và kịch câm, kịch nói (được gọi để phân biệt với múa, hát) có những đặc điểm riêng biệt Chất liệu sáng tạo của vũ kịch là ngôn ngữ múa, nhạc kịch là ngôn ngữ âm nhạc, trong khi chất liệu cho kịch nói chính là ngôn ngữ văn học.

Kịch bản văn học, như một thể loại văn học trong nghệ thuật kịch, chỉ được khai thác đầy đủ khi được biểu diễn trên sân khấu Đời sống của kịch bao gồm hai giai đoạn sáng tạo khác nhau: việc sáng tác kịch bản của nhà văn và sự thể hiện của các nghệ sĩ sân khấu Do đó, kịch vừa là một phần của văn học, vừa là một phần của nghệ thuật sân khấu.

Kịch là một thể loại nghệ thuật đặc biệt, khác biệt rõ rệt so với tự sự và trữ tình Trong khi trữ tình thể hiện cảm xúc và tâm trạng thông qua độc thoại, kịch chủ yếu dựa vào đối thoại giữa các nhân vật Kịch tập trung vào hành động và xung đột, với tính kịch cao và những xung đột gay gắt, trong khi tự sự thường mô tả và giải thích sự kiện bằng chi tiết cụ thể Để hiểu rõ tâm lý và tính cách nhân vật trong kịch, người đọc cần chú ý đến ngôn ngữ và hành động của họ, vì kịch không có sự miêu tả tỉ mỉ M.Gorki từng cho rằng kịch là hình thức văn học khó nhất vì mọi thông điệp chỉ được truyền tải qua đối thoại Khác với thơ ca, nơi cảm xúc được thể hiện qua ngôn ngữ và hình ảnh, kịch truyền tải ý tưởng của tác giả qua việc xây dựng nhân vật và tình huống xung đột.

Kịch là một thể loại văn học độc đáo, khác biệt với tự sự và trữ tình, trong đó ngôn ngữ đối thoại đóng vai trò chủ đạo Đối thoại không chỉ là hình thức thể hiện mà còn là đặc trưng cơ bản, nổi bật nhất của kịch, giúp người đọc cảm nhận sâu sắc nội dung và ý nghĩa tác phẩm.

1.1.2 Những đặc trưng cơ bản kịch

Nhân vật kịch chủ yếu được khắc họa qua hành động, từ đó bộc lộ tính cách của mình Theo tác giả Lý Hoài Thu, “thế giới nhân vật kịch là thế giới con người khát khao hành động, cảm hóa, thuyết phục mang lại nhận thức cho độc giả, khán giả bằng hành động.” Do đặc trưng của thể loại, nhân vật kịch không được khắc họa tỉ mỉ như trong tác phẩm tự sự dài; người viết kịch không sử dụng lời kể để miêu tả tâm trạng hay suy nghĩ của nhân vật, mà chủ yếu qua đối thoại và hành động Nhờ vậy, tư tưởng, tình cảm và suy nghĩ của nhân vật được thể hiện rõ nét Trong kịch, nhân vật thường tập trung vào một nét chủ đạo trong tính cách, tạo nên hình tượng với đường nét và sắc màu nổi bật hơn.

Nhân vật trong kịch thường thể hiện những cuộc đấu tranh nội tâm sâu sắc, phản ánh mâu thuẫn xung đột trong đời sống Điều này khác biệt với các thể loại văn học khác, nơi nội tâm cũng được khai thác nhưng không nhất thiết phải đối mặt với những xung đột gay gắt Những nhân vật nổi tiếng như Prômêtê, Ơ đíp, Ăngtigôn, Mêđê trong bi kịch cổ Hi Lạp, hay Hamlet, Ôtenlô, Rômeô, Giuliét, và vua Lia của Shếxpia đều là những ví dụ tiêu biểu cho những cuộc chiến nội tâm mạnh mẽ này.

1.1.2.2 Hành động và cốt truyện kịch

Kịch là một thể loại nghệ thuật phản ánh thực tại thông qua hành động, giúp con người nhận thức rõ hơn về đời sống tinh thần của mình Hành động của nhân vật trong kịch không chỉ thể hiện tư tưởng, tình cảm, và ước mơ, mà còn là yếu tố cốt lõi làm nên sự hấp dẫn của thể loại này Aristole, cách đây hơn hai nghìn năm, đã khẳng định rằng hành động chính là đặc trưng nổi bật của kịch Vậy hành động là gì và tại sao nó lại có vai trò quan trọng trong kịch?

Theo Hồ Ngọc trong cuốn “Nghệ thuật viết kịch”, hành động là hình thức hoạt động của con người trong các mối quan hệ xã hội và thiên nhiên, có mục đích rõ ràng Tính chất có mục đích này phân biệt hành động với các hoạt động thuần túy như cử chỉ hay lời nói Hành động trong kịch cần có tính chất hữu cơ và hoàn chỉnh, phù hợp với đặc trưng sân khấu, do đó nội dung kịch phải cô đọng và chặt chẽ Cốt truyện phải tập trung vào xung đột, không thừa không thiếu, với các chi tiết và sự kiện liên kết chặt chẽ theo quy luật nhân quả Một cốt truyện kịch tốt là khi các sự kiện đều hướng về một chủ đề chung, tạo ra sự liên hệ tự nhiên, nhưng cũng cần có những bất ngờ và chỗ ngoặt hợp lý để giữ sự hứng thú cho khán giả Yếu tố bất ngờ trong kịch, theo lý thuyết 3S (Suspense, Surprise, Satisfaction), là rất quan trọng để tạo sự hấp dẫn cho người xem.

Trong nghệ thuật thi ca, Aristót đã chỉ ra rằng bi kịch là sự bắt chước một hành động quan trọng và hoàn chỉnh, có quy mô nhất định và sử dụng ngôn ngữ Sự liên tiếp của các dòng đối thoại trong văn bản tạo ra chuỗi hành động liên tục, thúc đẩy cốt truyện kịch tiến nhanh đến kết thúc Theo Lý Hoài Thu, hành động kịch cần được hiểu trong tính thống nhất toàn vẹn, với cốt truyện được tổ chức chặt chẽ trong khuôn khổ của một chỉnh thể nghệ thuật là văn bản kịch.

Xung đột là đặc điểm quan trọng trong kịch bản văn học, xuất phát từ mâu thuẫn giữa các sự vật đối lập Theo quan niệm của chủ nghĩa Mác – Lênin, mâu thuẫn là hiện tượng phổ biến và là động lực phát triển của mọi sự vật Trong đời sống xã hội, mâu thuẫn thường dẫn đến xung đột khi đạt đến cao điểm cần giải quyết Xung đột trong kịch là sự khái quát nghệ thuật của những mâu thuẫn xã hội, mang ý nghĩa xã hội lớn hơn thực tế Nó không phản ánh tất cả mâu thuẫn, mà chỉ chọn những mâu thuẫn có tính kịch, thể hiện sự va chạm giữa các tư tưởng đối kháng Những xung đột này phải có ý nghĩa xã hội sâu sắc và chân thực, thể hiện qua những cuộc đấu tranh giữa các khuynh hướng xã hội, giữa cái đẹp và cái xấu, thiện và ác, cũ và mới, theo một lý tưởng thẩm mỹ nhất định.

Trong bài viết “Bi kịch Vũ Như Tô”, Đỗ Đức Hiểu đã đưa ra nhận định:

Xung đột được coi là đặc trưng cơ bản của kịch theo thi pháp cổ điển, trong khi thi pháp hiện đại nhìn nhận xung đột như biểu hiện bề mặt của những lực nội tại, tạo ra mâu thuẫn và xung đột giữa chúng Điều này không chỉ quyết định sự tiến triển của hành động mà còn làm nổi bật mối quan hệ phức tạp giữa các lực này Do đó, xung đột đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện nội dung và tư tưởng của tác phẩm kịch.

Trong tác phẩm kịch, xung đột và hành động có mối quan hệ chặt chẽ, với xung đột là điều kiện cần thiết để hình thành tác phẩm, trong khi hành động duy trì sự phát triển của nó Xung đột tập trung và tổ chức hành động kịch, và hành động chính là sự thể hiện trực tiếp nội dung của xung đột Tính kịch của tác phẩm thường nằm ở xung đột, và hành động đóng vai trò quan trọng trong việc giải quyết xung đột đó Hành động trong kịch không chỉ mang xung đột mà còn thể hiện rõ nét sự căng thẳng, mạnh mẽ của nó Khi xung đột trở nên gay gắt, hành động sẽ quyết liệt hơn, từ đó tăng cường sức hấp dẫn và lôi cuốn của tác phẩm.

M Gorki trong bài Bàn về kịch đã khẳng định vai trò quan trọng của ngôn ngữ kịch: “Ngôn ngữ đối thoại có ý nghĩa to lớn và thậm chí có ý nghĩa… quyết định đối với việc sáng tác kịch”[12, tr132], ông cũng nhấn mạnh rằng kịch là thể loại khó vì “một vở kịch đòi hỏi mỗi nhân vật phải tự biểu hiện tính cách bằng lời nói và hành động, không có những lời mách bảo, gợi ý của tác giả…Các nhân vật kịch hình thành là do những lời lẽ của họ, và tuyệt đối chỉ do những lời lẽ đó mà thôi, nghĩa là tác giả xây dựng nhân vật bằng ngôn ngữ đối thoại, chứ không phải bằng ngôn ngữ miêu tả”[12, tr 133] Như vậy ngôn ngữ kịch là ngôn ngữ nhân vật Ngôn ngữ nhân vật tồn tại ở hai hình thức: đối thoại và độc thoại Đối thoại là các nhân vật nói với nhau, độc thoại là nhân vật tự nói với mình Ngôn ngữ của tác giả không có chỗ đứng trong tác phẩm và chỉ tồn tại trường hợp: lời chú thích, hướng dẫn ít ỏi nhưng tỉ mỉ, cụ thể được gọi là phần ngôn ngữ “không đối thoại” Đó là về chỉ dẫn về phương pháp dàn cảnh, bài trí sân khấu, thời gian, không gian… về cách xử lý động tác của diễn viên, trang phục của diễn viên Khi trình diễn được thay thế bằng ngôn ngữ sân khấu

Kịch Việt Nam trước năm 1940 và kịch Việt Nam trong giai đoạn

Kịch là một thể loại văn học hiện đại của Việt Nam, tuy nhiên, nó ra đời muộn hơn so với nhiều quốc gia khác trên thế giới Trong khi đó, từ thời Cổ đại, nhiều vở kịch nổi tiếng như "Prômêtê bị xiềng" của Êsilơ, "Ơđíp làm vua" của Xôphôclơ và "Mêđê" đã được sáng tác và trở thành biểu tượng của nghệ thuật kịch.

Kịch nói Việt Nam ra đời vào đêm 22/10/1921 tại nhà Hát lớn Hà Nội với vở kịch "Chén thuốc độc" của Vũ Đình Long, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử sân khấu Việt Nam Đây là vở kịch đầu tiên được viết theo lối cổ điển, phản ánh đời sống con người Việt Nam và được trình diễn trước công chúng Sự kiện này không chỉ thúc đẩy sự phát triển của kịch Việt Nam mà còn tạo nền tảng cho mô hình thể loại văn học, kết hợp giữa kịch, tự sự và trữ tình Theo nghiên cứu của Tất Thắng, sự ra đời của kịch nói ở Việt Nam là kết quả của giao lưu văn hóa Đông – Tây, áp lực từ xu hướng hiện thực trong nghệ thuật, nhu cầu của khán giả thời đại mới và tinh thần dân tộc của trí thức Hà Nội khi tiếp xúc với kịch cổ điển Pháp.

Quá trình phát triển của kịch từ khi ra đời đến năm 1940 kéo dài hai mươi năm, trong thời gian này kịch đã trưởng thành và hình thành diện mạo riêng trong nền văn học Hành trình phát triển của kịch được chia thành hai giai đoạn chính.

Giai đoạn từ năm 1920 đến 1930 là thời kỳ xã hội Việt Nam trải qua sự phân hóa mạnh mẽ, dẫn đến sự hình thành các lực lượng và giai cấp với lý tưởng chính trị, đạo đức và thẩm mỹ khác nhau Trong bối cảnh này, kịch nói phản ánh sự giằng co giữa hai ý thức hệ và chuẩn mực đạo đức, với hai khuynh hướng sáng tác chính: phê phán hiện thực và tâm lý - xã hội Các tác giả như Vũ Đình Long, Vi Huyền Đắc, Nguyễn Hữu Kim và Tương Huyền đại diện cho khuynh hướng phê phán hiện thực, chỉ trích những thói hư tật xấu của xã hội tư sản và bảo vệ đạo đức cũ Ngược lại, các tác giả theo khuynh hướng tâm lý như Đoàn Ân, Nam Xương và Nguyễn Văn Nam lại chỉ trích các chuẩn mực đạo đức phong kiến và đấu tranh cho tình yêu tự do Về thể loại, kịch trong giai đoạn này chủ yếu theo quy tắc bi kịch và hài kịch cổ điển, tuy nhiên, ranh giới giữa các thể loại chưa rõ ràng, dẫn đến hiện tượng phá cách và tạo tiền đề cho sự hình thành chính kịch sau này.

Giai đoạn từ năm 1930 đến 1940 chứng kiến sự biến động phức tạp trong xã hội, ảnh hưởng đến kịch nói Việt Nam Đầu những năm 30, kịch nói có dấu hiệu chững lại, nhưng từ năm 1936, sự xuất hiện của ban kịch Tinh hoa do Thế Lữ và các nhà viết kịch khác thành lập đã đánh dấu bước chuyển mình quan trọng Ban kịch này cũng cho ra đời báo Tinh hoa, trở thành cơ quan ngôn luận chuyên giới thiệu về hoạt động kịch và văn chương Nội dung kịch phản ánh hiện thực ngày càng phong phú, trong đó, Vi Huyền Đắc gây ấn tượng mạnh mẽ với vở kịch Kinh Kha (1934).

Giai đoạn kịch nói từ năm 1931 đến 1938 chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ với những tác phẩm nổi bật như "Kim tiền" và "Ông Ký cóp" của Vi Huyền Đắc, cùng các vở bi kịch và hài kịch của Vũ Trọng Phụng Những tác phẩm này không chỉ phản ánh hiện thực xã hội mà còn thoát khỏi vai trò thuyết giáo, trở về với bản chất nghệ thuật thuần túy Đoàn Phú Tứ, được coi là nhà soạn kịch tiêu biểu của thanh niên, đã mang đến những câu chuyện tình yêu lãng mạn qua các tác phẩm như "Những bức thư tình" và "Mơ hoa" Nội dung kịch bắt đầu chú ý đến người lao động, thể hiện qua các tác phẩm như "Không một tiếng vang" Thể loại chính kịch cũng bắt đầu xuất hiện, mang đến xu hướng sáng tác mới Đồng thời, sự ra đời của kịch thơ không chỉ làm phong phú thêm lĩnh vực kịch mà còn tạo ra những nét độc đáo trong đời sống văn học, hòa quyện giữa thơ và văn xuôi, như trong tác phẩm của Thạch Lam.

Hàn Mặc Tử đã góp phần quan trọng trong việc hình thành thể loại kịch thơ, một sự kết hợp độc đáo giữa Thơ mới và kịch Kịch thơ sử dụng lời thơ có vần để xây dựng hình ảnh, tính cách nhân vật và xung đột kịch, khác biệt với kịch nói, nơi ngôn ngữ thường được sử dụng Kịch thơ mang đến cảm xúc mạnh mẽ và chất thơ trong ngôn từ, trong khi kịch nói tập trung vào các vấn đề bức thiết của đời sống Mâu thuẫn trong kịch thơ diễn ra chậm rãi hơn, phù hợp với thể loại lãng mạn và hiện thực tâm lý, thường xoay quanh những câu chuyện tình yêu và bi kịch Những tác giả tiên phong trong phong trào sáng tác kịch thơ bao gồm Huy Thông với các tác phẩm nổi bật như "Anh Nga" và "Tiếng địch sông Ô".

Huyền Trân công chúa và tác phẩm Pháp đã góp phần làm phong phú thêm sự nghiệp văn chương của Hàn Mặc Tử, đặc biệt là trong những năm cuối đời khi ông sáng tác hai vở kịch thơ nổi bật là Duyên kì ngộ và Quần tiên hội.

Cuối những năm 1930 – 1940, kịch Việt Nam đã có những bước tiến đáng kể, thoát khỏi ảnh hưởng của kịch cổ điển và phản ánh tư tưởng, lối sống của thế hệ trẻ qua các tác phẩm của Vi Huyền Đắc, Đoàn Phú Tứ, Huy Thông Sự ra đời của thể loại kịch thơ là minh chứng cho nỗ lực của các tác giả trong việc phát triển kịch Mặc dù chưa đạt đến đỉnh cao nghệ thuật, giai đoạn này đã tích lũy những điều kiện cần thiết cho sự bùng nổ của kịch trong tương lai.

1.2.2 Kịch Việt Nam trong giai đoạn 1940 – 1945

1.2.2.1 Khái quát về kịch Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945

Kịch Việt Nam giai đoạn 1940 – 1945 chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ trong sáng tác, đạt được nhiều thành tựu nghệ thuật nổi bật Thời kỳ này, viết kịch trở thành một phong trào sôi nổi, thu hút sự tham gia của nhiều tác giả, bao gồm cả những tên tuổi từ giai đoạn trước và những cây bút mới như Vi Huyền Đắc.

Vũ Đình Long, Thế Lữ, Hoàng Cầm, Đoàn Phú Tứ, Vũ Hoàng Chương, Phan Khắc Khoan, Lưu Quang Thuận, Thao Thao, và Nguyễn Huy Tưởng là những tác giả nổi bật trong lĩnh vực văn học kịch, nhiều người trong số họ đã thành công trong thơ ca và tiểu thuyết Sự góp mặt của họ không chỉ gia tăng đội ngũ tác giả mà còn mang đến nhiều tác phẩm phong phú và chất lượng nghệ thuật vượt trội, chứng tỏ sự trưởng thành của kịch Việt Nam so với giai đoạn trước 1940.

Vào những năm 1940, kịch Việt Nam chứng kiến sự chuyển mình mạnh mẽ khi các nhà văn bắt đầu sáng tác về đề tài lịch sử, tạo nên một hoạt động văn học sôi nổi Sự phát triển này một phần do ảnh hưởng từ bối cảnh chính trị xã hội căng thẳng, đặc biệt trong giai đoạn 1940-1945, khi đất nước đối mặt với áp lực của Chiến tranh thế giới và sự xâm lược của các nước đế quốc Trong bối cảnh ngặt nghèo, nhân dân chịu đựng nhiều nỗi khổ, dẫn đến việc tìm kiếm giá trị tinh thần từ lịch sử dân tộc như một cách giải thoát Các nghệ sĩ đã tích cực tham gia vào phong trào phục cổ, sử dụng các câu chuyện lịch sử để khơi dậy tinh thần yêu nước và ý thức dân tộc Những vở kịch mang tinh thần dân tộc, với hình tượng anh hùng và nhân vật lịch sử, đã được khán giả đón nhận nồng nhiệt, khuyến khích các nhà viết kịch tiếp tục khai thác đề tài này như một hành trình trở về nguồn cội.

Trong giai đoạn 1940 – 1945, các vở kịch mang cảm hứng yêu nước chủ yếu được viết dưới hình thức kịch thơ, với sự phát triển từ những tác phẩm trước đó Kịch thơ lúc đầu còn nặng về hình thức và chỉ dùng để ngâm, nhưng sau này, nhờ vào những sáng tác của các tác giả như Phan Khắc Khoan và Hoàng Cầm, kịch thơ đã được định hình rõ nét hơn với sự hòa hợp giữa ngôn ngữ thơ và hình thức kịch Nhiều vở kịch thơ đã được trình diễn, ảnh hưởng sâu sắc đến nhận thức và tình cảm của khán giả, đặc biệt trong bối cảnh đất nước đang diễn ra các cuộc vận động cứu nước Những cảnh giam cầm, khủng bố và tin tức về các đoàn thể cách mạng đã được phản ánh trong nội dung các vở kịch, khiến cho các tác phẩm lịch sử thường bị chính quyền thực dân cấm đoán Tuy nhiên, sức sống của các vở kịch này vẫn tồn tại mạnh mẽ trong lòng người dân Bên cạnh đó, các tác giả cũng khai thác những câu chuyện và nhân vật trong dã sử Trung Quốc, tạo nên những hình tượng mới qua lăng kính chủ quan của mình, thể hiện sự sáng tạo độc đáo trong kịch thơ Những gương mặt tiêu biểu như Phan Khắc Khoan đã đóng góp nhiều tác phẩm lịch sử nổi bật trong giai đoạn này.

(1940), Vua Lê Chiêu Thống (1942), Phạm Thái (1943), Nguyễn Hoàng

(1943), Quỳnh Như (1944); Hoàng Cầm có hai vở kịch thơ nổi tiếng Hận Nam Quan (1942) và Kiều Loan (1945); Thao Thao viết Quán biên thùy

(1943) và Người mù dạo trúc (1944); Lưu Quang Thuận sáng tác các vở kịch

Yêu Ly (1942), Lê Lai đổi áo (1943), Kiều Công Tiễn (1944) Người Hoa Lư

(1945); Thế Lữ có vở Dương Quý Phi (1942)gồm hai trường đoạn là: Trầm Hương Đình và Mã Ngôi Pha…

Kịch thơ giai đoạn này thể hiện sự đa dạng phong phú về đề tài sáng tác, đặc biệt là các vở kịch lịch sử liên quan đến lịch sử dân tộc và Trung Quốc Những tác phẩm này thường chọn những mốc quan trọng trong chính trị và các nhân vật nổi tiếng, kết hợp với các câu chuyện hư cấu như tình cha con, tình vợ chồng hay tình yêu đôi lứa, tạo nên sự hấp dẫn cho vở kịch Một số tác giả như Vũ Hoàng Chương đã khai thác đề tài từ truyền thuyết và huyền thoại, với các tác phẩm nổi bật như Vân Muội (1943) và Trương Chi (1944) Kịch thơ giai đoạn này đã cách tân thể loại, biến những chi tiết lịch sử và huyền thoại thành những vấn đề lớn của thời đại, khơi dậy cảm xúc và ý chí hướng con người đến điều tốt đẹp Các giá trị lịch sử được miêu tả sâu sắc, tạo ấn tượng tốt đẹp trong nền văn học Trước 1940, kịch thơ chỉ mang tính chất thể nghiệm, nhưng sau đó khẳng định được vị thế độc lập, chiếm tới gần 78% số lượng tác phẩm kịch của giai đoạn này.

Mặc dù không có sự bùng nổ về số lượng vở kịch trong giai đoạn này, nhưng những tác giả và tác phẩm xuất sắc vẫn được ghi nhận Đoàn Phú Tứ, một tác giả có kinh nghiệm từ giai đoạn trước, tiếp tục đóng góp nhiều vở kịch có giá trị trong thời kỳ này.

NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT, KẾT CẤU, KHÔNG – THỜI GIAN TRONG KỊCH VIỆT NAM 1940 – 1945

THI PHÁP VÀ CÁC VẤN ĐỀ TƯ TƯỞNG KỊCH VIỆT

Ngày đăng: 30/06/2022, 15:09

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Aristotle (1964), Nghệ thuật thi ca, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nghệ thuật thi ca
Tác giả: Aristotle
Nhà XB: Nxb Văn hóa nghệ thuật
Năm: 1964
2. Hoàng Cầm (1992), Kiều Loan: kịch thơ, Nxb Văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kiều Loan
Tác giả: Hoàng Cầm
Nhà XB: Nxb Văn học
Năm: 1992
3. Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá (2004), Từ điển văn học(bộ mới), Nxb Thế gới, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Từ điển văn học(bộ mới)
Tác giả: Nguyễn Huệ Chi, Phùng Văn Tửu, Trần Hữu Tá
Nhà XB: Nxb Thế gới
Năm: 2004
4. Phạm Thị Chiên (2013), Bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại: Qua một số tác phẩm tiêu biểu, luận án tiến sĩ, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bi kịch trong văn học Việt Nam hiện đại: Qua một số tác phẩm tiêu biểu
Tác giả: Phạm Thị Chiên
Năm: 2013
5. Hà Diệp (2005), Nhân vật trung tâm của kịch nói 1920 – 2000, Nxb văn học, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhân vật trung tâm của kịch nói 1920 – 2000
Tác giả: Hà Diệp
Nhà XB: Nxb văn học
Năm: 2005
6. Phạm Đình Dũng, Bi kịch Vũ Như Tô - xung đột giữa tài năng và hoàn cảnh, http://vntimes.com.vn/san-khau/kich-noi/81934-kich-vu-nhu-to-dinh-cao-cua-nghe-thuat-nguyen-huy-tuong.html, 19/08/2014 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bi kịch Vũ Như Tô - xung đột giữa tài năng và hoàn cảnh
7. Phan Cự Đệ (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX(Những vấn đề lịch sử và lý luận), Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam thế kỉ XX(Những vấn đề lịch sử và lý luận)
Tác giả: Phan Cự Đệ
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 2004
8. Phan Cự Đệ (chủ biên 1997,1998,1999), Văn học Việt Nam 1900 – 1945, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn học Việt Nam 1900 – 1945
Nhà XB: Nxb Giáo dục
9. Hà Minh Đức (1963), Kịch Nguyễn Huy Tưởng (Lời giới thiệu), Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Kịch Nguyễn Huy Tưởng
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1963
10. Hà Minh Đức (1992), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: Nxb Giáo dục
Năm: 1992
11. Hà Minh Đức (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 23, (Kịch bản kịch nói), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tổng tập văn học Việt Nam
Tác giả: Hà Minh Đức
Nhà XB: Nxb Khoa học xã hội
Năm: 1997
12. Cao Xuân Hạo (biên dịch, 1965), Gorki bàn về văn học, Nxb Văn học Sách, tạp chí
Tiêu đề: Gorki bàn về văn học
Nhà XB: Nxb Văn học
13. Đỗ Đức Hiểu (1997), Bi kịch Vũ Như Tô, Tạp chí Văn học, số 10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bi kịch Vũ Như Tô
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Năm: 1997
14. Đỗ Đức Hiểu (1998), Mấy điều về kịch và thi pháp kịch, Tạp chí Văn học, số 2,3-10 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Mấy điều về kịch và thi pháp kịch
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Năm: 1998
15. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi Pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thi Pháp hiện đại
Tác giả: Đỗ Đức Hiểu
Nhà XB: Nxb Hội Nhà văn
Năm: 2000
17. Hoài Hương (2005), Hồi âm từ kịch thơ của Hoàng Cầm: Kiều Loan từng đứng trên sân khấu Sài Gòn,http://chuyentrang.tuoitre.vn/TTC/Index.aspx?ArticleID=88685&ChannelID=124, 15/07/2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Hồi âm từ kịch thơ của Hoàng Cầm: "Kiều Loan" từng đứng trên sân khấu Sài Gòn
Tác giả: Hoài Hương
Năm: 2005
18. Phong Lê (1997), Vũ Như Tô thời gian và thẩm định, Giáo dục và thời đại, 4/5/1997 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Vũ Như Tô thời gian và thẩm định
Tác giả: Phong Lê
Năm: 1997
19. Phương Lựu (chủ biên,1996), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Lí luận văn học
Nhà XB: Nxb Giáo dục
20. Tôn Thảo Miên (2003), Về một giai đoạn văn học kịch, tạp trí văn học, số 9 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Về một giai đoạn văn học kịch
Tác giả: Tôn Thảo Miên
Năm: 2003
21. Phương Ngân (2001), Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nguyễn Huy Tưởng - khát vọng một đời văn
Tác giả: Phương Ngân
Nhà XB: Nxb Văn hóa thông tin
Năm: 2001

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w