TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA VÀ HƯỚNG NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1.2.1 Những vấn đề đă ̣t ra cần đươ ̣c tiếp tu ̣c nghiên cứu
Một số học thuyết kinh tế đã tiếp cận vấn đề liên quan đến CDCCKT, nhưng các cách tiếp cận này chủ yếu tập trung vào việc tối ưu hóa lợi ích kinh tế mà không chú trọng đến sự phát triển bền vững Thực tế, định nghĩa rõ ràng về phát triển bền vững chỉ được hình thành vào cuối thế kỷ XX.
Những lý thuyết về phát triển bền vững (PTBV) thường tập trung vào các vấn đề kỹ thuật, dẫn đến việc xa rời thực tế Điều này đặc biệt rõ ràng ở một số quốc gia và tổ chức, nơi mà chưa có sự kết nối chặt chẽ giữa lợi ích kinh tế và mục tiêu của PTBV.
Đến nay, chưa có nghiên cứu toàn diện nào về CDCCKT theo hướng PTBV từ góc độ kinh tế chính trị tại Việt Nam Các công trình hiện có chủ yếu tập trung vào từng vấn đề riêng lẻ như CCKT, CDCCKT, môi trường và phát triển, hoặc mối quan hệ giữa TTKT và PTBV, thường chỉ giới hạn trong một khu vực kinh tế hoặc khoảng thời gian cụ thể.
1.2.2 Hướng nghiên cứu của luâ ̣n án:
Nghiên cứu về CDCC trong ngành kinh tế theo hướng phát triển bền vững được tiếp cận từ ba khía cạnh chính: kinh tế, xã hội và môi trường, dưới góc nhìn của kinh tế chính trị học.
Luận án xây dựng cơ sở lý thuyết về chuyển đổi số ngành kinh tế theo hướng phát triển bền vững, nhấn mạnh các tiêu chí đánh giá quá trình chuyển đổi này trên ba phương diện: kinh tế, xã hội và môi trường Bên cạnh đó, nghiên cứu cũng phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch, nhằm đảm bảo sự phát triển bền vững trong ngành kinh tế.
+ Luâ ̣n án sẽ tham khảo kinh nghiê ̣m CDCCKT ở mô ̣t số nước để từ đó rút ra bài ho ̣c cho CDCC ngành KT theo hướng PTBV ở Viê ̣t Nam
Luận án sẽ phân tích và đánh giá thực trạng chuyển đổi cơ cấu kinh tế (CDCC) ngành kinh tế theo hướng phát triển bền vững (PTBV) từ năm 2000 đến nay, tập trung vào ba mặt: kinh tế, xã hội và môi trường, dựa trên lý thuyết đã được xây dựng trong chương 2.
Dựa trên phân tích và đánh giá thực trạng tại chương 3, bài luận sẽ đề xuất các định hướng và giải pháp nhằm đảm bảo phát triển bền vững ngành kinh tế Việt Nam, với mục tiêu nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong công tác quản lý và phát triển.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA CHUYỂN DỊCHCƠ CẤU KINH TẾ THEO HƯỚNG PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG
KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC RÚT RA CHO VIỆT NAM
2.2.1 Kinh nghiệm của các nền kinh tế thuô ̣c APEC
Mặc dù phát triển bền vững (PTBV) luôn là mục tiêu quan trọng của APEC, nhưng cải cách cơ chế kinh tế để đảm bảo PTBV cho các nền kinh tế thành viên đang gặp nhiều thách thức Sự chênh lệch lớn về trình độ phát triển kinh tế giữa các nền kinh tế APEC là một trong những vấn đề cần được giải quyết để thúc đẩy sự phát triển đồng đều và bền vững trong khu vực.
Các nền kinh tế công nghiệp và công nghiệp mới với trình độ công nghệ cao và năng suất lao động lớn đang đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế Trong những năm gần đây, các cải cách cơ cấu trong những nền kinh tế này tập trung vào việc giải quyết những vấn đề đặc thù và khiếm khuyết của nền kinh tế, bao gồm cải cách dịch vụ, cải cách sở hữu nước ngoài trong khu vực FDI, cải cách giáo dục và dạy nghề, cải cách sử dụng lao động, cải cách hệ thống tài chính, cải cách hệ thống thuế và cải cách trợ cấp nông nghiệp.
Các nền kinh tế đông dân, thu nhập thấp thường có trình độ phát triển kinh tế hạn chế và phụ thuộc nhiều vào yếu tố bên ngoài, dẫn đến nghèo đói và bất bình đẳng xã hội Hiệu quả thực thi pháp luật về bảo vệ môi trường còn yếu kém, cùng với việc thiếu kinh phí đầu tư cho kiểm soát ô nhiễm, đã làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ năng lượng và khả năng gây ô nhiễm Diện tích đất nông nghiệp giảm sút tạo ra áp lực lớn cho các nền kinh tế đang phát triển Thiên tai thường xuyên và sự xuất hiện các bệnh dịch mới cũng đe dọa sự phát triển bền vững của những nền kinh tế này Trong vài thập kỷ qua, các nền kinh tế có thu nhập trung bình và thấp chủ yếu dựa vào nông, lâm nghiệp và công nghiệp với năng suất lao động chưa cao Để cải cách cơ cấu hiệu quả, các nền kinh tế này cần thực hiện một cách toàn diện và cần sự hỗ trợ từ các nền kinh tế phát triển.
Bài học từ quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế (CDCCKT) của các nền kinh tế APEC theo hướng phát triển bền vững nhấn mạnh rằng cần tập trung vào việc chuyển dịch từ các ngành có năng suất lao động thấp sang các ngành có năng suất cao hơn để đóng góp tích cực cho tăng trưởng kinh tế Đối với các nền kinh tế đông dân, việc phát triển các ngành công nghiệp và dịch vụ dựa vào nguồn nhân lực chất lượng cao là rất quan trọng, đồng thời cần giảm tỷ lệ tăng dân số và tránh tác động tiêu cực từ di chuyển lao động, đặc biệt là lao động kỹ thuật cao Bên cạnh đó, việc tận dụng lợi thế tự nhiên để tạo ra các sản phẩm công nghiệp và dịch vụ có trình độ cao hơn là cần thiết Hơn nữa, tự do hóa thương mại và đầu tư đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, nhưng cần đảm bảo rằng sự phát triển này phù hợp với yêu cầu hội nhập, không gây ra cú sốc cho nền kinh tế và khai thác triệt để cơ hội từ bên ngoài.
Cải cách cơ cấu kinh tế trong các nền kinh tế APEC đang đối mặt với nhiều thách thức liên quan đến phát triển bền vững, cần nghiên cứu sâu để tìm ra giải pháp hiệu quả Các phương hướng cải cách cần tập trung vào cải cách thể chế, chuyển dịch cơ cấu ngành và tối ưu hóa hệ thống phân công lao động quốc tế, đồng thời khai thác lợi thế so sánh của từng nền kinh tế Việc giảm bớt cạnh tranh gay gắt và thu hẹp khoảng cách thu nhập giữa các vùng và nền kinh tế là rất quan trọng Hơn nữa, cần xây dựng một hệ thống tài chính ổn định trong khu vực, đánh giá thiệt hại do ô nhiễm ảnh hưởng đến sức khỏe con người và sản phẩm nông, lâm, thủy sản, đồng thời nâng cao ý thức bảo vệ môi trường trong cộng đồng Cuối cùng, việc hình thành khung hợp tác quốc tế để giải quyết các vấn đề môi trường và xây dựng hệ thống cảnh báo chung về thiên tai và dịch bệnh là cần thiết.
2.2.1.1 Kinh nghiệm của Trung Quốc
Cải cách cơ chế quản lý kinh tế tại Trung Quốc, bắt đầu từ năm 1978, đã chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, quốc tế hoá nền kinh tế và thiết lập cơ chế thị trường, đồng thời nâng cao vai trò của khu vực tư nhân Chính sách phát triển phi cân đối nhưng có trọng tâm đã mang lại những thành tựu ấn tượng cho đất nước Những bài học kinh nghiệm từ cải cách cơ cấu kinh tế của Trung Quốc rất đáng để nghiên cứu và áp dụng.
Nông nghiệp được xem là khâu đột phá trong công cuộc cải cách mở cửa và cải cách cơ chế quản lý kinh tế của Trung Quốc Trong giai đoạn đầu, Trung Quốc đã điều chỉnh mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp với phương châm tích cực sản xuất lương thực và phát triển đa dạng nghề nghiệp Việc xác định cơ cấu hợp lý giữa trồng trọt, chăn nuôi và nghề phụ dựa trên thị trường và điều kiện từng vùng là rất quan trọng.
Trung Quốc đang tập trung vào việc phát triển lực lượng sản xuất và tăng cường lưu thông hàng hóa tại nông thôn Điều này bao gồm việc hình thành nhiều hình thức thương mại, cải cách cơ chế hợp tác xã cung tiêu, và thực hiện thu mua theo hợp đồng cũng như mua bán tự do trên thị trường Chính phủ khuyến khích phát triển hộ chuyên, cung cấp ưu đãi về vốn và tín dụng cho các gia đình sản xuất chuyên môn hóa nhằm tăng nhanh sản phẩm hàng hóa Ngoài ra, việc chuyển biến trong phân công lao động và tận dụng lao động dư thừa ở nông thôn cũng được thúc đẩy thông qua việc khuyến khích phát triển xí nghiệp hương trấn và dịch vụ, đồng thời đẩy mạnh đầu tư cho nông nghiệp và hoàn thiện chế độ hợp tác ở nông thôn.
Điều chỉnh cơ cấu công nghiệp theo hướng đa thành phần gắn liền với cải cách cơ chế kinh tế ở thành phố dựa trên bốn nguyên tắc: kiên trì định hướng xã hội chủ nghĩa, coi hiệu quả là mục tiêu hàng đầu, thực hiện kinh tế hàng hoá có kế hoạch, và kết hợp kinh tế ngành với khu vực Trong giai đoạn 1 (1979 - 1984), nhà nước phân chia quyền lực cho địa phương và ngành trong quản lý và kinh doanh Giai đoạn 2 (1985 - 1987) tập trung vào cải cách cơ chế quản lý xí nghiệp, mở rộng quyền tự chủ kinh doanh và từng bước xoá bỏ cơ chế quản lý tập trung Từ 1988 đến nay, việc cải cách được thực hiện sâu sắc hơn Để cân đối lại cơ cấu kinh tế công nghiệp, Trung Quốc đã giảm quy mô và tốc độ phát triển của công nghiệp nặng, tăng cường công nghiệp nhẹ, đồng thời giảm sản lượng của các thành phần kinh tế do Trung ương quản lý và tăng sản lượng của các thành phần do địa phương và tư nhân quản lý, kết hợp quản lý ngành và lãnh thổ, xoá bỏ sự chia cắt theo ngành và vùng lãnh thổ.
Trong quá trình cải cách cơ cấu kinh tế, Trung Quốc chú trọng đến việc giải quyết động lực tăng trưởng, bao gồm tích lũy tư bản vật chất, tiến bộ khoa học - công nghệ, thay đổi thể chế và phát triển nguồn nhân lực Sau Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất năm 1992, Trung Quốc đã triển khai 10 chính sách nhằm thúc đẩy bảo vệ môi trường và phát triển bền vững Vào ngày 25 tháng 3 năm 1994, Hội đồng Nhà nước Trung Quốc đã thông qua Chương trình Nghị sự 21 với 78 chương trình liên quan đến dân số, kinh tế, xã hội, tài nguyên và môi trường Gần đây, Trung Quốc cũng đã đề ra chủ trương phát triển xã hội hài hòa, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo sự cân bằng giữa các mối quan hệ kinh tế, xã hội và môi trường để đạt được hiệu quả bền vững.
Quá trình cải cách cơ cấu kinh tế của Trung Quốc đang đối mặt với nhiều thách thức cho sự phát triển bền vững, bao gồm nguy cơ cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên và ô nhiễm môi trường Thiệt hại do thiên tai ước tính chiếm khoảng 3 - 6% GDP hàng năm, trong khi hiệu quả sử dụng tài nguyên thiên nhiên chỉ đạt 34,5%, thấp hơn 10% so với các nước tiên tiến Năng lượng tiêu hao trong sản xuất gang, thép, lọc dầu, và các ngành khác cao từ 1,2 đến 2,7 lần so với tiêu chuẩn quốc tế, và mức tiêu hao năng lượng luôn vượt mức tăng trưởng GDP Với cấu trúc năng lượng chủ yếu dựa vào than, nếu không thay đổi, đến năm 2010, nhu cầu than của Trung Quốc có thể chiếm 1/2 tổng sản lượng toàn cầu, dẫn đến ô nhiễm môi trường nghiêm trọng Sự chuyển đổi cơ cấu sản phẩm toàn cầu và tốc độ đô thị hóa nhanh chóng cũng là những thách thức lớn đối với phát triển bền vững Tình trạng ô nhiễm nghiêm trọng diễn ra ở nhiều hệ thống sông lớn và vùng biển, trong khi 2/3 sông ngòi và hơn 10 triệu ha đất nông nghiệp cũng bị ảnh hưởng Dân số đông và chất lượng dân số hạn chế tạo ra mối nguy cơ về an ninh lương thực cho Trung Quốc.
2.2.2.2 Kinh nghiệm của Hàn Quốc [34], [100]
Hàn Quốc đã học hỏi từ kinh nghiệm của Nhật Bản trong việc thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa, với sự hỗ trợ và định hướng từ nhà nước Bằng cách kết hợp các yếu tố chính trị, tài chính, kỹ thuật và tổ chức, Hàn Quốc đã thành lập các tổng công ty lớn (chaebols) làm xương sống cho sự phát triển kinh tế trong nhiều thập niên sau chiến tranh.
Trong giai đoạn 1960 - 1980, CDCCKT của Hàn Quốc đạt được nhiều thành công nhờ vào chính sách hỗ trợ tín dụng với lãi suất ưu đãi từ Chính phủ, nhằm khuyến khích phát triển công nghiệp Nền kinh tế Hàn Quốc tăng trưởng nhanh chóng, với mức tăng trưởng bình quân 8,5% trong thập niên 1950 - 1960 Đến đầu những năm 1970, Hàn Quốc đã trở thành một trong những nền kinh tế lớn tại Châu Á, với sự mở rộng xuất khẩu chủ yếu trong các ngành ô tô, đóng tàu và điện tử viễn thông Những năm đầu thập niên 1980 chứng kiến sự bùng nổ xuất khẩu, với tăng trưởng hàng năm vượt 15%, đưa Hàn Quốc trở thành nền kinh tế lớn thứ 10 thế giới.
Hàn Quốc đã phát triển một nền công nghiệp phụ thuộc quá nhiều vào thị trường xuất khẩu và đầu tư quốc tế, trong khi các doanh nghiệp nội địa phục vụ thị trường trong nước lại bị bỏ quên Sự kết hợp giữa nhà nước, doanh nghiệp và ngân hàng trong chiến lược phát triển đã dẫn đến những yếu kém trong hệ thống tài chính và quản lý, góp phần gây ra cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997 Thay đổi cơ cấu ngành đã tạo ra mất cân đối trong thị trường lao động, với sự gia tăng lao động tìm việc trong ngành dịch vụ nhưng thiếu hụt lao động trong các ngành nặng nhọc như luyện kim và chế tạo máy Quá trình công nghiệp hóa cũng đã tạo gánh nặng cho nông nghiệp, với tỷ lệ di cư từ nông thôn ra thành phố cao nhất thế giới Chính phủ duy trì mức lương thấp trong ngành công nghiệp để tăng cường sức cạnh tranh kinh tế.
Sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 1997, Hàn Quốc đã thực hiện các chính sách cải cách cơ cấu trong lĩnh vực tài chính, doanh nghiệp và hệ thống chính phủ Các biện pháp cải cách bao gồm: trợ cấp cho doanh nghiệp bị thiệt hại và nâng cao tính tự chủ của các chaebols thông qua thay đổi cơ cấu sở hữu; ban hành quy định mới về quản lý tài chính như Luật phá sản và Luật quản lý doanh nghiệp năm 1998; nhận trợ giúp từ Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF); và thiết lập cơ chế kiểm soát nội bộ và bên ngoài, tập trung vào xây dựng thể chế và hệ thống giám sát minh bạch.
2.2.1.3 Kinh nghiệm của Nhật Bản [58], [64]
THỰC TRẠNG CHUYỂN DỊCH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM
3.1.1 Đánh giá chung đối với sự chuyển di ̣ch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát triển bền vững ở Việt Nam
3.1.1.1 Tính bền vững của tăng trưởng kinh tế
Từ năm 1991, Việt Nam đã thực hiện bốn kế hoạch 5 năm phát triển kinh tế - xã hội, với giai đoạn 20 năm (1991 - 2010) ghi nhận GDP tăng trung bình 7,28% và GDP bình quân đầu người tăng khoảng 5,7% Mặc dù có sự biến động, tốc độ tăng trưởng của đất nước vẫn duy trì ổn định trong gần 30 năm đổi mới toàn diện.
Biểu đồ 3.1 Giao động lên xuống của tăng trưởng GDP tại Việt Nam từ năm 1980 - 2012 và dự báo đến năm 2015
Nguồn: Số liệu của Tổng cục Thống kê Việt Nam qua các năm và của IMF và tính toán của tác giả
Bảng 3.1 Tốc đô ̣ tăng bình quân GDP của cả nước giai đoa ̣n 2001 - 2010
Tốc đô ̣ tăng bình quân (%) Giai đoa ̣n 2001 - 2005 Giai đoa ̣n 2006 - 2010
Nguồn: Tác giả tự tính dựa vào số liệu của Tổng cục thống kê qua các năm
So với các nước trong khu vực, Việt Nam có thành tích tăng trưởng nhỉnh hơn Indonesia trong những thập kỷ 60 và 70 Tuy nhiên, để được coi là tăng trưởng bền vững, một nền kinh tế cần duy trì tốc độ tăng GDP cao liên tục trong 25 năm trở lên Hàn Quốc là ví dụ điển hình với tốc độ tăng GDP trên 7,5% kéo dài suốt 3 thập kỷ từ 60 đến 80 Hiện nay, Trung Quốc được xem là nền kinh tế "thần kỳ" với tốc độ tăng GDP thực cao liên tục từ thập kỷ 70 đến nay Do đó, mục tiêu tăng trưởng bền vững vẫn là một thách thức cần giải quyết đối với Việt Nam trong tương lai.
Biểu đồ 3.2 Tăng trưởng kinh tế qua các năm
Nguồn: Tác giả số liệu của Tổng cục thống kê qua các năm
Tăng trưởng bền vững là điều kiện cần thiết để cải thiện chỉ tiêu quan trọng của phát triển bền vững, bao gồm tăng thu nhập bình quân đầu người và thu hẹp khoảng cách thu nhập với các nước phát triển Brazil đã thành công trong tăng trưởng kinh tế từ năm 1930 đến 1980, nhưng từ năm 1981 đến nay, nước này đã trải qua suy giảm tăng trưởng, dẫn đến thu nhập bình quân đầu người giảm so với các nước khác Việt Nam có mức cải thiện thu nhập chậm hơn so với Trung Quốc và Thái Lan; vào năm 2007, tổng thu nhập quốc gia bình quân đầu người của Việt Nam chỉ đạt khoảng 7% mức của OECD, với mức tăng chỉ 2% so với năm 2000 (WB, 2008).
Bảng 3.2 Tăng trưởng kinh tế của cả nước giai đoa ̣n 2001- quý I/2015
Tăng trưởng kinh tế GDP (%)
Nguồn: Niên giám thống kê qua các năm
3.1.1.2 Mức độ ổn định của tăng trưởng kinh tế Để đánh giá mức độ ổn định, thế giới sử dụng chỉ số ổn định tăng trưởng Tính cho giai đoạn 20 năm (1991- 2010), chỉ số này của Việt Nam là 1,38 (đo bằng độ lệch chuẩn của tốc độ tăng GDP thực), thấp hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP trung bình trong cả giai đoạn Qua đó có thể đánh giá tăng trưởng của nước ta khá ổn định mặc dù có dao động nhất định Bảng sau so sánh chỉ số ổn định theo các kế hoạch 5 năm
Bảng 3.3 Mức độ ổn định tăng trưởng theo các kế hoạch 5 năm
Kế hoạch 5 năm Tốc độ tăng GDP trung bình (%) Chỉ số ổn định
Nguồn: Tổng cục Thống kê và tính toán của Viện NCQLKTTW
Kế hoạch 5 năm (1996 - 2000) ghi nhận tốc độ tăng GDP trung bình thấp nhất, đi kèm với mức độ bất ổn tăng trưởng cao nhất Đây là giai đoạn khởi đầu cho định hướng tăng trưởng cao và bền vững, nhưng cũng là thời điểm nền kinh tế phải đối mặt với ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính châu Á.
Với tốc độ tăng GDP năm 2010 là 7,28%, chỉ số ổn định của 5 năm (2006-
2010) sẽ xấp xỉ 1,35, tức là mức độ bất ổn cao hơn gấp đôi so với giai đoạn 2001-
Sau khi suy giảm vào năm 2005, việc phục hồi tăng trưởng sẽ gặp khó khăn trong việc đạt được tốc độ cao ngay lập tức Hơn nữa, khả năng phục hồi và tăng trưởng bền vững phụ thuộc vào nhiều yếu tố của tăng trưởng dài hạn Đây là một thách thức lớn đối với Việt Nam trong việc lựa chọn mô hình tăng trưởng nhằm đạt được sự tăng trưởng cao và bền vững trong những năm tới.
3.1.1.3 Hiệu quả kinh tế - xã hội
Tăng trưởng cao, bền vững và hiệu quả đã được công nhận từ năm 1996, nhưng hiện tại chưa có tiêu chí nào để đo lường và đánh giá sự phát triển theo chiều sâu, hiệu quả kinh tế - xã hội, cũng như tính bền vững của nền kinh tế Thiếu nghiên cứu định lượng về hiệu quả kinh tế đã gây khó khăn trong việc xác định các yếu điểm và nguyên nhân của hiệu quả thấp, đồng thời cản trở việc đề xuất chính sách phù hợp Các báo cáo hàng năm thường chỉ ra rằng hiệu quả tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta vẫn còn thấp và chưa đạt được tiềm năng tối đa.
Trong bối cảnh chưa có đánh giá trực tiếp về mức sản lượng tiềm năng, thế giới thường sử dụng chỉ số đóng góp của năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) vào GDP để đo lường hiệu quả kinh tế TFP phản ánh sự đóng góp của tất cả các yếu tố khác như vốn, con người, công nghệ và yếu tố thể chế vào GDP, bên cạnh vốn và lao động.
Trong các giai đoạn 1995 - 2010, vốn vẫn là yếu tố chính đóng góp vào tốc độ tăng trưởng hay tăng trưởng được “đẩy” nhờ yếu tố vốn Từ kế hoạch 2001-
Từ năm 2005, đóng góp của TFP đã giảm mạnh, đặc biệt trong hai năm đầu của kế hoạch 2006-2010, khi tốc độ tăng trưởng chủ yếu được thúc đẩy bởi vốn Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế lại giảm sút đáng kể, cho thấy các chính sách kinh tế đã quá tập trung vào việc "tăng trưởng nhanh" kể từ năm 2006.
Trong giai đoạn 1991-2010, hiệu quả kinh tế còn thấp và thiếu ổn định, đặc biệt là từ năm 2006, nhưng chưa được đánh giá đúng mức Việc tiếp tục các chính sách nhằm thúc đẩy tăng trưởng, như nới lỏng chính sách tiền tệ và tài khóa, trong khi thiếu sự đánh giá hiệu quả kinh tế, đã hạn chế khả năng điều chỉnh chính sách kịp thời Sự đóng góp âm của TFP vào tăng trưởng từ năm 2007 phản ánh rõ ràng những bất ổn trong chính sách kinh tế và hiệu quả quản lý của Nhà nước Bên cạnh đó, những hạn chế lâu dài như trình độ lao động và công nghệ cho thấy lợi thế cạnh tranh và tính sáng tạo của nền kinh tế đang rất yếu, không đảm bảo cho sự phát triển bền vững.
3.1.2 Thực tra ̣ng chuyển di ̣ch cơ cấu ngành kinh tế theo hướng phát triển bền vƣ̃ng ở Việt Nam tƣ̀ năm 2000 đến nay
Cơ cấu ngành kinh tế Việt Nam đang có sự chuyển dịch nhanh chóng, với tỷ trọng khu vực phi nông nghiệp và sản xuất hàng hóa xuất khẩu ngày càng tăng Cụ thể, tỷ trọng ngành công nghiệp trong GDP đã tăng từ 36,73% (162.220 tỷ đồng) vào năm 2000 lên 41,53% (348.518 tỷ đồng) trong những năm gần đây Sự gia tăng này cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của ngành công nghiệp và dịch vụ trong nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2000-2010, tỷ trọng ngành nông nghiệp đã giảm từ 24,53% (108.356 tỷ đồng) xuống 20,58% (407.647 tỷ đồng), trong khi ngành công nghiệp tăng từ 41,64% (824.904 tỷ đồng) lên 46,55% Ngành dịch vụ cũng có sự biến động, giảm từ 38,74% (171.070 tỷ đồng) năm 2000 xuống 37,78% (748.363 tỷ đồng) năm 2010 Từ đó, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm 3,95 điểm %, ngành công nghiệp tăng 4,91 điểm %, và khu vực dịch vụ giảm 0,96 điểm % trong cơ cấu GDP.
Bảng 3.4 Tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước theo giá so sánh năm 2010 Đơn vị tính: %
Nông, lâm nghiệp và thủy sản 4,00 2,68 2,67 3,49 2,14
Công nghiệp và xây dựng 5,53 5,75 5,43 7,14 8,35
Nguồn: Tổng cục Thống kê qua các năm
Khu vực công nghiệp hiện đang dẫn đầu về tốc độ tăng trưởng, tiếp theo là khu vực dịch vụ, trong khi khu vực nông nghiệp có mức tăng trưởng thấp nhất nhưng vẫn cao hơn 1-2 điểm % so với mức tăng trưởng chung của cả nước Trong giai đoạn 2000 - 2010, cả ngành công nghiệp và dịch vụ đều ghi nhận tốc độ tăng trưởng cao, với ngành chế biến trong lĩnh vực công nghiệp tăng trưởng nhanh nhất Tuy nhiên, sự chênh lệch trong tăng trưởng giữa các ngành kinh tế đã ảnh hưởng đến tính cân đối và bền vững của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế Các ngành có tốc độ tăng trưởng vượt trội sẽ kéo theo sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực hơn.
Mặc dù CDCCKT nông nghiệp và nông thôn phát triển chậm, nhưng đã đi đúng hướng và khai thác tốt lợi thế cây trồng và vật nuôi theo từng vùng lãnh thổ Tuy nhiên, một hạn chế lớn là sự thiếu gắn kết giữa việc tăng năng suất, mở rộng diện tích và đảm bảo thị trường tiêu thụ, dẫn đến sự phát triển chưa bền vững.
Cơ cấu công nghiệp đang có sự chuyển dịch nhưng chưa đạt được đột phá về chất lượng và hiệu quả, với sản phẩm công nghiệp chất lượng cao chiếm tỷ trọng nhỏ Trong lĩnh vực dịch vụ, một số ngành như tài chính, ngân hàng và bảo hiểm có tỷ trọng thấp và có xu hướng giảm, từ 1,39% năm 2005 xuống 1,46% năm 2010 Tương tự, ngành chuyên môn, khoa học và công nghệ cũng giảm từ 1,54% năm 2005 xuống 1,44% năm 2010 Nhiều hoạt động dịch vụ vẫn do các cơ quan và doanh nghiệp kiêm nhiệm, dẫn đến năng suất và chất lượng thấp, cản trở sự tập trung vào chức năng và nhiệm vụ chính của các tổ chức này.
MƢ́C BỀN VƢ̃NG CỦA CHUYỂN DI ̣CH CƠ CẤU NGÀNH KINH TẾ Ở VIỆT NAM 97 1 Sự bền vững trong tăng trưởng kinh tế
3.2.1 Sự bền vững trong tăng trưởng kinh tế
3.2.1.1 Tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, khá ổn định, GDP bình quân đầu người tăng lên liên tục, nhưng chưa tương xứng với tiềm năng, thế mạnh của đất nước
Tốc độ tăng trưởng kinh tế của đất nước đã liên tục tăng qua các năm, thể hiện sự vững chắc và ổn định Tuy nhiên, mức tăng trưởng này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và thế mạnh của quốc gia, đồng thời chưa đáp ứng được các mục tiêu quy hoạch và yêu cầu phát triển toàn diện Điều này cho thấy tiềm lực kinh tế hiện tại vẫn còn hạn chế.
Sự tăng trưởng GDP hiện nay chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thiên nhiên và sử dụng năng lượng, dẫn đến những thiệt hại về xã hội và môi trường mà chưa được đánh giá đầy đủ Bên cạnh đó, tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa các ngành và vùng lãnh thổ có sự chênh lệch đáng kể.
GDP bình quân đầu người thấp đã hạn chế khả năng tích lũy cho đầu tư phát triển, dẫn đến tình trạng di cư từ nông thôn ra thành phố lớn Năng suất lao động và ứng dụng công nghệ trong các ngành kinh tế còn thấp, cho thấy sự chênh lệch giữa các địa phương Sự không đồng đều trong GDP/người làm gia tăng phân hóa và chênh lệch mức sống, ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững và hài hòa.
3.2.1.2 Cơ cấu thu nhập quốc dân theo ngành đã chuyển dịch theo hướng tích cực, nhưng chưa bảo đảm tính hợp lý
Trong giai đoạn 2001 - 2010, CCKT đã chuyển dịch theo hướng công nghiệp
Trong bối cảnh kinh tế quốc gia, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ đang gia tăng, trong khi tỷ trọng ngành nông nghiệp có xu hướng giảm Mặc dù tỷ trọng ngành phi nông nghiệp đã tăng, nhưng sự phát triển giữa các khối ngành chưa đạt được sự cân đối hợp lý, đặc biệt là tỷ lệ tăng trưởng giữa ngành sản xuất và dịch vụ cần đạt ít nhất 1:1,8 để đảm bảo tính bền vững Bên cạnh đó, với trình độ công nghệ còn thấp và chất lượng nguồn nhân lực hạn chế, ngành nông nghiệp truyền thống vẫn chưa thể được cải cách hiệu quả.
Tỷ trọng thu ngân sách so với GDP đang có xu hướng tăng, tuy nhiên vẫn ở mức thấp Tại các địa phương, tỷ lệ này cũng liên tục gia tăng, với năm sau cao hơn năm trước Chỉ số này phản ánh rằng sự tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu của ngành kinh tế chưa tạo ra đủ nguồn tích lũy để đầu tư trở lại cho sự phát triển.
Sự không hợp lý trong cơ cấu phát triển kinh tế đã dẫn đến việc chưa khai thác tối ưu tiềm năng và lợi thế so sánh của các địa phương, ảnh hưởng đến sự tăng trưởng nhanh và bền vững của cả nước Mặc dù các dự án quy hoạch địa phương mong muốn tăng cường tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp, nhưng thiếu giải pháp khả thi Các ngành công nghiệp công nghệ cao và dịch vụ giá trị lớn vẫn còn hạn chế, trong khi việc phát triển công nghiệp trong nước để hỗ trợ công nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và thu hút các dự án đầu tư nước ngoài quy mô lớn với tỷ lệ nội địa hóa cao vẫn còn yếu.
Mặc dù các thành phố lớn đã trải qua nhiều thay đổi trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp, nhưng chúng vẫn chưa trở thành trung tâm công nghiệp hấp dẫn, thu hút sự phát triển từ các vùng lân cận Sự phối hợp trong phát triển công nghiệp giữa các vùng và địa phương vẫn còn nhiều hạn chế, chủ yếu dựa vào sự hợp tác tự phát.
Các khu công nghiệp hiện nay chưa được khai thác hiệu quả, với tỷ lệ diện tích đất cho thuê chỉ đạt khoảng 30-40% Nhiều khu đã được phê duyệt quy hoạch nhưng chưa triển khai, chuyên môn hóa thấp và công nghệ trung bình Việc quy hoạch các khu công nghiệp gần nhau, sát đường quốc lộ, thiếu tính toán khoa học, có thể gây thiệt hại cho đất nông nghiệp và khu dân cư Quy hoạch thường không đồng bộ với phát triển đô thị, hạ tầng kỹ thuật và bảo vệ môi trường, dẫn đến tình trạng "quy hoạch chạy theo DN" Sự tự phát trong thu hút đầu tư và cạnh tranh không lành mạnh giữa các khu công nghiệp làm giảm hiệu quả hoạt động và không tận dụng được lợi thế địa phương Một số khu công nghiệp không đáp ứng yêu cầu đầu tư đã bị bỏ hoang và giải thể.
Cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn đang chuyển dịch theo hướng đa dạng hóa và thị trường, nhưng sản xuất nông nghiệp chưa áp dụng công nghệ hiện đại và sản xuất nông phẩm xanh, sạch một cách nhanh chóng Ruộng đất nông thôn bị chia nhỏ, không đáp ứng yêu cầu sản xuất hàng hóa lớn, trong khi cơ giới hóa và ứng dụng kỹ thuật sản xuất tiên tiến diễn ra chậm Hầu hết các công đoạn sản xuất vẫn thủ công, dẫn đến năng suất lao động nông nghiệp thấp Công nghiệp chưa tác động mạnh mẽ đến nông, lâm nghiệp, đặc biệt là chế biến nông sản, và tình trạng giảm sút đa dạng gen ở giống cây trồng, vật nuôi do thay thế giống truyền thống bằng giống mới gây khó khăn trong phòng chống sâu bệnh.
Công nghiệp nhỏ, tiểu thủ công nghiệp và làng nghề đang phát triển mạnh mẽ ở nhiều vùng nông thôn, góp phần tạo ra việc làm và tăng thu nhập cho người dân Tuy nhiên, các vấn đề như công nghệ sản xuất lạc hậu, sức cạnh tranh thấp, thiếu thị trường tiêu thụ và ô nhiễm môi trường vẫn là thách thức lớn cần được giải quyết.
Tỷ trọng GDP của các ngành dịch vụ trong cơ cấu kinh tế hiện nay còn thấp, và mức độ tăng trưởng của ngành dịch vụ chưa đạt yêu cầu, không tương xứng với tiềm năng phát triển của cả nước.
Ngành du lịch hiện đang đối mặt với nhiều thách thức do đầu tư chưa đủ mạnh và công tác quy hoạch, quản lý còn hạn chế, dẫn đến sự phát triển manh mún và tự phát của các điểm đến và dịch vụ Đồng thời, các ngành dịch vụ chất lượng cao như ngân hàng, viễn thông, tư vấn pháp lý, sở hữu trí tuệ, chứng khoán và bảo hiểm vẫn chưa được chú trọng nâng cao chất lượng, khiến cho sự phát triển của chúng diễn ra chậm chạp Ngoài ra, các hoạt động trong lĩnh vực y tế, giáo dục, thể dục và thể thao cũng chưa được xã hội hóa một cách hiệu quả.
CCKT vẫn chưa có sự vững chắc trong xuất khẩu, mặc dù ngành tiểu thủ công mỹ nghệ có tiềm năng nhưng phát triển còn hạn chế Độ mở của nền kinh tế (XK/GDP) đã tăng lên sau khi Việt Nam gia nhập WTO, nhưng sự phụ thuộc vào kinh tế bên ngoài ngày càng lớn Việc chuẩn bị cho lộ trình hội nhập AFTA và WTO của các doanh nghiệp và chính quyền diễn ra chậm và bị động, đặc biệt là trong ngành thương mại Xuất khẩu chủ yếu tập trung vào hàng thô và sơ chế, dẫn đến giá trị quốc gia trong sản phẩm thấp Đồng thời, việc nhập khẩu hàng hóa độc hại, máy móc lạc hậu và chất thải trá hình đang gia tăng, gây ra nguy cơ ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng tiêu cực đến năng suất lao động, hiệu quả sản xuất và sức khỏe cộng đồng.
3.2.1.3 Tỷ trọng giá trị hàng hoá và các ngành chế biến sâu trong GDP tăng nhưng vẫn còn ở mức thấp, năng lực cạnh tranh còn yếu
Tỷ trọng các ngành sản xuất phi vật chất và có năng suất lao động cao ngày càng gia tăng, trong khi tỷ trọng các ngành có năng suất thấp giảm dần, phản ánh sự chuyển biến trong cơ cấu lao động xã hội Mặc dù năng suất lao động bình quân đã có sự cải thiện so với trước đây, nhưng mức tăng không đáng kể cho thấy các ngành then chốt vẫn chưa phát huy hiệu quả thực tế Giá trị quốc gia trong nhiều sản phẩm hàng hóa chỉ đạt từ 20-25%, dẫn đến khả năng cạnh tranh kém và lợi nhuận thấp cho người dân, làm giảm khả năng tích lũy trong nền kinh tế Điều này cũng góp phần vào nguy cơ ô nhiễm và suy thoái môi trường Hơn nữa, việc đầu tư phát triển các sản phẩm chủ lực của đất nước vẫn chưa được chú trọng.