1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Mối quan hệ văn hóa Tày - Việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản

319 4 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Mối Quan Hệ Văn Hóa Tày - Việt Dưới Góc Độ Thẩm Mỹ Qua Một Số Kiểu Truyện Kể Dân Gian Cơ Bản
Tác giả Hà Thị Thu Hương
Người hướng dẫn PGS. TS Vũ Anh Tuấn, GS. TS Kiều Thu Hoạch
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Văn học dân gian
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2007
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 319
Dung lượng 2,81 MB

Cấu trúc

  • MỤC LỤC

  • MỞ ĐẦU

  • CHƯƠNG 1 TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN HỆ VĂN HÓA TÀY - VIỆT QUA TRUYỆN KỂ DÂN GIAN

  • 1.1. Tổng quan về lý thuyết văn hoá tộc người:

  • 1.1.1. Tộc người, văn hoá tộc người và văn hoá của tộc người:

  • 1.1.2. Chức năng tộc người của văn hoá:

  • 1.2. Phác hoạ quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá Tày – Việt trong lịch sử :

  • 1.2.1. Tiếp biến văn hoá tộc người, tiếp biến văn hoá Tày – Việt:

  • 1.2.2. Những phác hoạ về quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá Tày - Việt trong lịch sử :

  • 1.3.Vai trò của truyện kể dân gian trong văn hóa tộc người:

  • 1.3.1. Vai trò của văn học dân gian trong văn hóa tộc người:

  • 1.3.2. Truyện kể dân gian và văn hóa tộc người:

  • 1.4.Tiếp cận truyện kể dân gian Tày, Việt theo tinh thần folklore học:

  • 1.4.1. Phân tích kiểu truyện và motif:

  • 1. 4. 2. Truyện kể dân gian Tày, Việt từ điểm nhìn mối quan hệ văn hoá tộc người:

  • CHƯƠNG 2 MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY- VIỆT QUA KHẢO SÁT, SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƢỜI ANH HÙNG KIẾN TẠO THẾ GIỚI, KIẾN TẠO VŨ TRỤ

  • 2.1. Tiếp cận hình thức cấu tạo cốt truyện:

  • 2.1.1. Các dạng kết cấu truyện kể của người Việt

  • 2.1.2. Các dạng kết cấu truyện kể của người Tày:

  • 2.2. Tiếp cận theo motif:

  • 2.2.1. Motif về người khổng lồ:

  • 2.2.2. Motif cặp đôi đối ứng:

  • 2.2.3. Motif về Mẹ khai sáng và các Nữ thần:

  • CHƯƠNG 3 MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT, SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƢỜI ANH HÙNG VĂN HOÁ

  • 3.1. Nhân vật anh hùng văn hoá - sự tiếp nối có cơ sở lịch sử :

  • 3.2. Các dạng thức của nhân vật anh hùng văn hoá:

  • 3.3. Sự tương đồng và khác biệt trong cấu tạo cốt truyện và trong việc tái tạo motif đặc trƣng của kiểu truyện nhân vật anh hùng văn hoá Tày - Việt:

  • 3.3.1. Nhân vật người anh hùng văn hoá với việc phát hiện ra lửa, tạo nên cuộc sống văn minh cho con người:

  • 3.3.2. Nhân vật người anh hùng văn hoá với việc tạo ra lúa nuôi sống con người:

  • 3.3.3.Nhân vật người anh hùng văn hoá với công cuộc sáng tạo các giá trị văn hoá khác giúp ích cho con người:

  • 3.3.4. Nhân vật anh hùng văn hoá trong cuộc đấu tranh chinh phục tự nhiên:

  • 3.4. Những nhân vật anh hùng văn hoá tiêu biểu mang dấu ấn văn hoá tộc người Tày và Việt, từ góc nhìn mối quan hệ văn hoá tộc người:

  • 3.4.1. Sự gặp gỡ trong việc lý giải cội nguồn:

  • 3.4.2. Nhân vật anh hùng văn hoá Thục Phán - An Dương Vương, hình tượng của sự hoà hợp thống nhất Tày - Việt :

  • 3.4.3. Rùa Vàng – biểu tượng văn hoá Tày – Việt đặc sắc:

  • 3.4.4. Nhân vật anh hùng văn hoá An Dương Vương trong mối quan hệ văn hoá Tày – Việt:

  • CHƯƠNG 4 MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT, SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG CHIẾN TRẬN CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM

  • 4.1.Sự vận động mang tính quy luật, tạo thành kiểu truyện:

  • 4.2. Kết cấu của kiểu truyện ngƣời anh hùng chiến trận trong truyện kể dân gian Tày, Việt:

  • 4.3.2. Motif đánh giặc:

  • KẾT LUẬN

  • DANH MỤC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

  • TÀI LIỆU THAM KHẢO

  • PHẦN PHỤ LỤC

Nội dung

TỔNG QUAN CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC NGHIÊN CỨU QUAN HỆ VĂN HÓA TÀY - VIỆT QUA TRUYỆN KỂ DÂN GIAN 1.1 Tổng quan về lý thuyết văn hoá tộc người 22

Phác hoạ quá trình giao lưu và tiếp biến văn hoá Tày – Việt trong lịch sử 28

1.2.1 Tiếp biến văn hoá tộc người, tiếp biến văn hoá Tày – Việt:

Văn hóa tộc người cần được nhìn nhận qua lăng kính hệ thống mở, cho thấy rằng sự hình thành văn hóa là kết quả của quá trình lâu dài và sự giao thoa giữa các tộc người khác nhau Nguyễn Từ Chi chỉ ra sự tương đồng giữa hệ thống thủy lợi và kỹ thuật xây thành của các tộc người, khẳng định rằng nhiều yếu tố văn hóa của đồng bằng sông Hồng, từ nông nghiệp đến cơ cấu xã hội, đều có nguồn gốc từ tộc người Thái Ông đặt ra giả thuyết rằng người Kinh có thể được hình thành từ sự kết hợp của nhiều cộng đồng khác nhau Hiện tượng này minh chứng cho quá trình "tiếp biến văn hóa" trong nghiên cứu văn hóa.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Tác giả Jean – Paul Piriou trong Lexique de sciences économiques et sociales đã cho biết: “ các nhà nhân chủng học Redfield, Linton và Herskovits trong tập

Khái niệm tiếp biến văn hoá (acculturation) được công bố lần đầu năm 1936 trong tạp chí Nhà nhân chủng học người Mỹ, định nghĩa là sự thay đổi của các mô hình văn hoá bản địa khi tiếp xúc lâu dài với các nhóm văn hoá khác, thể hiện qua vay mượn, trao đổi và diễn giải lại Tại Việt Nam, khái niệm này đã được hiểu theo định nghĩa trong Từ điển bách khoa toàn thư (Mỹ), mô tả hiện tượng biến đổi văn hoá khi các nhóm văn hoá khác nhau tiếp xúc trực tiếp và lâu dài Các thuật ngữ dịch như "hỗn dung văn hoá", "đan xen văn hoá", "thâu hoá văn hoá" và "tiếp biến văn hoá" đều nhấn mạnh mối quan hệ văn hoá giữa các tộc người trong cộng đồng văn hoá dân tộc Việt Nam Để làm rõ hơn, chúng tôi đưa ra phác đồ biến đổi văn hoá tộc người.

Tiếp nhận Giao lưu văn hoá biến đổi đan xen văn hoá Yếu tố nội sinh  

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

= hỗn dung văn hoá dung hợp văn hoá

Hội nhập văn hoá giữ vững bản sắc

Quốc gia (trong đất nước Việt Nam và giữa các tộc người) Khu vực (Trung Quốc - Ấn Độ) Châu lục (phương Tây)

Giao lưu và tiếp biến văn hóa là quá trình tiếp nhận văn hóa từ các tộc người khác, phản ánh sự vận động không ngừng của xã hội và văn hóa, đồng thời xử lý mối quan hệ giữa yếu tố nội sinh và ngoại sinh Việc tách biệt hai yếu tố này trong một thực thể văn hóa là rất khó khăn do khả năng chuyển hóa lẫn nhau Trong văn hóa dân tộc, sự tiếp nhận yếu tố ngoại sinh diễn ra dưới hai hình thức: tự nguyện và cưỡng bức Trong thời kỳ Bắc thuộc, văn hóa Việt Nam đã trải qua sự giao lưu văn hóa cưỡng bức với văn hóa Trung Hoa, trong khi thời kỳ Đại Việt, khi đã độc lập, sự giao lưu tự nguyện trở nên mạnh mẽ hơn Ở mức độ tộc người, sự tiếp nhận văn hóa cũng được nhận diện qua hai hình thức: tiếp nhận đơn thuần và tiếp nhận sáng tạo, có thể bao gồm cả mô phỏng.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Vùng Việt Bắc, nổi bật với sự hội tụ văn hóa của các tộc người, đặc biệt là tộc người Tày, được xem là tộc người chủ thể nhờ vào lịch sử định cư lâu dài, nền văn hóa phong phú và số lượng cư dân đông đảo Qua quá trình giao lưu văn hóa, sự tiếp nhận và sắp xếp các giá trị văn hóa của các tộc người anh em xung quanh tộc Tày đã hình thành một bức tranh văn hóa đa dạng nhưng vẫn giữ được những nét đặc trưng của tộc người chủ thể Tộc người Tày không chỉ là trung tâm văn hóa mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn và phát triển các giá trị văn hóa tại vùng Việt Bắc.

Vùng Hoà An, Cao Bằng từng là thủ phủ của người Tày qua nhiều triều đại, dẫn đến sự giao lưu văn hóa phong phú với các tộc người khác như Tày - Nùng, Tày - Kinh, Tày - Hoa, Tày - Dao, và Tày - Mông Hầu hết các tộc người sống trong khu vực đều sử dụng tiếng Tày làm ngôn ngữ giao tiếp phổ thông, đặc biệt khi họ xuống chợ Trong khi đó, người Tày cũng sử dụng tiếng Việt trong việc trao đổi văn hóa với người Kinh, tạo nên một mối quan hệ gắn bó giữa hai tộc người Theo Ngô Đức Thịnh, Việt Bắc là một trong bảy vùng văn hóa của Việt Nam, bao gồm sáu tỉnh phía Bắc Vùng này không chỉ nằm trong lãnh thổ của quốc gia Văn Lang Âu Lạc mà còn trở thành "phên dậu" của Đại Việt trong việc chống lại sự thôn tính từ phương Bắc Vai trò của các tộc người miền núi, đặc biệt là người Tày, rất quan trọng trong việc bảo vệ biên ải ở vùng Ải Bắc, và sự kết hợp giữa người Kinh và các tộc người miền núi luôn mang tính lịch sử trong việc gìn giữ đất nước.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

1.2.2 Những phác hoạ về quá trình giao lưu tiếp biến văn hoá Tày - Việt trong lịch sử :

Vấn đề nguồn gốc lịch sử của các tộc người, như tộc người Tày và tộc người Kinh (Việt), là một lĩnh vực phức tạp cần nghiên cứu liên ngành và tiếp tục khảo cứu Dựa trên các thành tựu nghiên cứu đã được công bố, chúng tôi nhận thấy mối quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa Tày và Việt diễn ra trên nhiều phương diện khác nhau.

Cả hai tộc người Tày và Việt đều có mối liên hệ lịch sử với cộng đồng Bách Việt, một nhóm bao gồm nhiều tộc người Việt khác nhau như Ô Việt ở Chiết.

Giang, Mân Việt ở Phúc Kiến, Dương Việt ở Giang Tây và người Tây Âu, Lạc Việt tại miền Bắc Việt Nam đều thuộc nhóm nhân chủng Mongoloid phương Nam Về văn hóa, hai tộc người Tày và Việt, cùng với các dân tộc khác ở Đông Nam Á, đã đóng góp quan trọng vào nền tảng văn hóa bản địa, thể hiện rõ nét văn hóa phương Nam trong khu vực này.

Trong không gian văn hoá Bách Việt, người Tày cổ và người Việt cổ có chung một cội nguồn văn hoá Theo nhà sử học Joseph Needham trong cuốn "Science and Civilization in China – Introduction", có 25 điểm đặc trưng văn hoá của Bách Việt, bao gồm văn hóa biển và sông nước, kỹ thuật đóng tàu dài, đặc điểm nhà làng, tục đua thuyền, huyền thoại con rồng, thờ phụng loài rắn, và linh thiêng hoá ngọn núi Ngoài ra, văn minh trống đồng, thuật dùng nỏ, làm quần áo bằng vỏ cây, tục xăm mình, đốt rừng làm rẫy, cùng các lễ hội mùa xuân và mùa thu cũng được nhấn mạnh Các kỹ thuật nông nghiệp như trồng lúa nước, đào mương dẫn nước, thuần hoá trâu, và tục thờ cúng ông bà, cũng như các kỹ thuật chế tạo như đúc sắt và làm sơn mài, đều thể hiện sự phong phú và đa dạng của văn hóa Bách Việt.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Các cư dân của hai tộc Việt ở phía Bắc Việt Nam, Âu Việt và Lạc Việt, đã có mối giao hoà lâu đời nhờ sống gần kề trong khu vực lịch sử dân tộc Mối quan hệ này được phản ánh qua truyền thuyết Hồng Bàng Thị, đặc biệt trong câu chuyện Lạc Long Quân - Âu Cơ Đỉnh cao của sự giao hoà giữa các dân tộc Tày cổ và Việt cổ là sự ra đời của nhà nước Văn Lang, đặt nền tảng cho nhà nước Âu Lạc, biểu tượng cho sự hoà nhập giữa hai khối Âu Việt và Lạc Việt.

Dựa trên các di chỉ khảo cổ học, nhân chủng học, và thư tịch lịch sử, cùng với nghiên cứu từ địa danh của người Kinh (Việt) quanh đền Hùng và Cổ Loa, bài viết khám phá các motif thần thoại trong truyền thuyết nguồn gốc của tộc người Tày và Việt, đặc biệt là hình ảnh Lạc Long Quân và Âu Cơ.

Giữa người Việt cổ và người Tày cổ đã diễn ra sự tiếp xúc lâu dài, đặc biệt từ cuối thiên niên kỷ thứ nhất trước Công nguyên, với những biểu hiện văn hóa như Kinh - Việt, Quả bầu mẹ (Tày Thái), Nàng Hươu Sao và Chàng Cá (Mường).

Tài liệu khảo cổ học đã phát hiện nhiều hiện vật quan trọng của văn minh Việt Nam, bao gồm Thạp đồng Đào Thịnh, một biểu tượng văn hóa của người Tày tại Hoàng Liên Sơn (Lào Cai và Yên Bái) Ngoài ra, trống đồng cũng được tìm thấy, thể hiện thành tựu văn minh của cộng đồng dân tộc Việt Nam ở vùng Việt Bắc Các hiện vật khác như khuôn đúc dao găm ở Cao Bằng, Lạng Sơn, rìu, lưỡi xéo ở Tuyên Quang, và chiếc đinh ba bằng đồng bốn mũi nhọn tại Văn Bàn, Lào Cai, cho thấy sự phát triển của vũ khí có độ sát thương cao trong lịch sử.

Tài liệu dân tộc học chỉ ra rằng tục búi tóc “tằng cấu”, mặc váy và đội mũ lông chim là những đặc trưng văn hóa nổi bật của các tộc người, đặc biệt là nhóm cư dân Tày Thái cổ Ngoài ra, các tài liệu còn ghi nhận rằng người dân vùng Lĩnh Nam, nơi sinh sống của các tộc người Tày và Choang hiện nay, thường sử dụng lông ngỗng để làm đệm và chăn.

[252, tr.191] Chăn đệm bằng lông ngỗng vốn là vật hữu dụng được dùng trong đời

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Người Tày đã trở thành biểu tượng văn hóa trong truyện Mỵ Châu Trọng Thủy của người Kinh, thể hiện sự tiếp biến văn hóa giữa các tộc người Cùng với người Việt và Mường, người Tày – Thái đã góp phần vào nền văn hóa nông nghiệp lúa nước, với quá trình canh tác ảnh hưởng lẫn nhau Các tộc người Tày – Thái không chỉ định cư sớm mà còn cùng người Việt khai hoang, tạo nên văn hóa Đông Sơn và nhà nước Văn Lang - Âu Lạc, góp phần hình thành nền văn minh Việt cổ Sự giao lưu văn hóa giữa hai tộc người Tày – Việt diễn ra thường xuyên, tạo nên sự hấp dẫn và tiếp nhận ảnh hưởng văn hóa từ cả hai phía Trong lịch sử giao lưu này, có hai thời điểm quan trọng: thời kỳ hình thành nhà nước Âu Lạc dưới sự lãnh đạo của Thục Phán An Dương Vương và thời kỳ liên minh của vương triều nhà Mạc tại Cao Bằng.

Vai trò của truyện kể dân gian trong văn hóa tộc người 39

1.3.1 Vai trò của văn học dân gian trong văn hóa tộc người:

Văn học dân gian là một thành phần của cấu trúc văn hóa Việt Nam thống nhất

[32, tr.138, 171] Nguyễn Xuân Kính khẳng định: “Văn học dân gian là thành tố của

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Văn học dân gian đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh bản sắc văn hóa dân tộc và thể hiện cách cảm, lối nghĩ của cộng đồng Nó không chỉ mang những đặc trưng riêng biệt mà còn thực hiện chức năng văn hóa tộc người, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa chung Trong mỗi nền văn hóa, văn học dân gian chiếm một vị trí đặc biệt, khẳng định giá trị và bản sắc riêng của dân tộc.

Theo Chu Xuân Diên, các ngành khoa học như khảo cổ học, dân tộc học, và ngôn ngữ học có vai trò quan trọng trong việc xác định mối quan hệ giao lưu và tiếp biến văn hóa giữa người Việt Mường và người Tày Thái, đặc biệt trong các lĩnh vực văn hóa sản xuất và đời sống vật chất, văn hóa xã hội Mặc dù những bằng chứng từ văn hóa dân gian được nghiên cứu tiếp nhận, nhưng vẫn cần có sự thận trọng, vì chúng chỉ là phản ánh của các hiện tượng văn hóa vật chất và xã hội Ông nhấn mạnh rằng chức năng văn hóa tộc người không chỉ thể hiện trong việc hình thành ý thức tộc người mà còn trong tổ chức đời sống tộc người, và sự đa dạng văn hóa tộc người cùng với biến đổi lịch sử – xã hội là nguyên nhân dẫn đến sự đa dạng trong cấu trúc chức năng tộc người.

Ông phác họa chức năng văn hóa tộc người của các thể loại văn học dân gian, đặc biệt là thần thoại, truyền thuyết và sử thi Chức năng này thể hiện qua các hoạt động sử dụng hoặc dựa trên thần thoại và truyền thuyết, như phong tục, nghi lễ lịch tiết, lễ hội lịch sử, lễ hội tôn giáo, và các nghi lễ chuyển tiếp như trưởng thành, hôn lễ, và tang lễ Tóm lại, chức năng văn hóa tộc người của những thể loại này là tôn giáo hóa, lịch sử hóa và nghệ thuật hóa.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Trong việc phân tích truyện dân gian như cổ tích, truyện cười và truyện ngụ ngôn, cần làm nổi bật các chức năng ma thuật, khuyến giáo và giải trí, thể hiện bản sắc tộc người Đối với tục ngữ và các hình thức ngôn ngữ khác, chức năng "lập pháp" của tục ngữ cùng với các biến thể của nó đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn dư luận và hành xử trong cộng đồng, đồng thời tổng kết tri thức về tự nhiên và xã hội Chu Xuân Diên cũng chỉ ra các chức năng tộc người của dân ca, từ bài hát lao động đến dân ca tình yêu, đều góp phần tổ chức và nâng cao hiệu quả lao động cũng như thực hành phong tục nghi lễ trong giao tiếp và hôn nhân Hướng phân tích chức năng văn hóa tộc người trong văn học dân gian theo từng thể loại là một lĩnh vực nghiên cứu cần được mở rộng và hoàn thiện, đặc biệt là trong việc so sánh truyện kể dân gian Tày và Việt, nhằm làm rõ chức năng văn hóa tộc người của chúng.

Chức năng tộc người của văn hoá đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện quan điểm và sự sáng tạo của các tác giả dân gian Điểm nhìn đại diện cho không gian, trong khi trường nhìn bao quát cả thời gian và không gian, phản ánh sự lựa chọn chủ quan trong cách biểu hiện quan niệm về con người và cuộc sống Sự lựa chọn này giúp văn học dân gian trở thành người bạn đồng hành đặc thù và khăng khít với lịch sử.

Chức năng tộc người của văn hóa, thông qua việc chọn lọc, bảo tồn và điều tiết, đã ảnh hưởng sâu sắc đến văn hóa thẩm mỹ, bao gồm folklore, văn hóa và văn học dân gian theo quan niệm của Đinh Gia Khánh Sự tác động này đã quyết định các giá trị đặc thù của văn học dân gian.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Văn hóa dân gian, đặc biệt là văn học dân gian, đã tồn tại song song với quá trình phát triển của các tộc người ở Việt Nam, trở thành nguồn tài liệu quý giá cho nghiên cứu văn hóa tộc người Văn học dân gian không chỉ phản ánh và lưu giữ các giá trị văn hóa mà còn tích hợp nhiều khía cạnh của đời sống, phong tục tập quán, lễ giáo và kinh nghiệm sống của người Tày và người Việt Kho tàng văn học dân gian này bao gồm cả đời sống vật chất và tinh thần, thể hiện sự phong phú và đa dạng trong nhận thức và sinh hoạt hàng ngày của hai cộng đồng văn hóa này.

1.3.2 Truyện kể dân gian và văn hóa tộc người:

Truyện kể dân gian là thuật ngữ chỉ các hình thức tự sự dân gian, bao gồm nhiều thể loại như thần thoại, sử thi, truyền thuyết, truyện cổ tích, truyện ngụ ngôn, truyện cười và truyện thơ dân gian Chúng tôi chọn sử dụng khái niệm này vì hai lý do chính, nhằm thể hiện sự đa dạng và phong phú của các loại hình văn học dân gian.

Chúng tôi tập trung khảo sát kiểu truyện trong văn bản của hệ thống mở, luôn vận động và biến đổi theo đặc trưng của văn học dân gian Nghĩa của văn bản phụ thuộc vào ngữ cảnh xã hội và môi trường văn hóa tộc người, dẫn đến sự khó khăn trong việc phân biệt các thể loại khi khảo sát chuỗi tác phẩm Sơn Tinh và Thủy Tinh, mặc dù là thần thoại nguyên thủy, nhưng khi chuyển hóa vào truyền thuyết Hùng Vương, Sơn Tinh trở thành Tản Viên, và các yếu tố như chiến tranh giành vợ được bổ sung, phản ánh phong tục tập quán và ước mơ trong những hư cấu kỳ ảo Việc nghiên cứu đòi hỏi phải bóc tách các lớp văn hóa để nhận diện và phân tích Một số yếu tố từ thời kỳ thần thoại vẫn tồn tại trong cấu trúc, trong khi cấu trúc đã mở rộng để thực hiện chức năng của truyền thuyết.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Trong luận án này, các kiểu truyện thuộc thể loại truyền thuyết được phân tích và xem xét như là những ví dụ tiêu biểu và cơ bản, nhằm làm rõ mục đích của đề tài nghiên cứu.

Truyện kể dân gian không chỉ đơn thuần là một hình thức nghệ thuật mà còn phản ánh sâu sắc mối quan hệ với văn hóa dân gian Đặc điểm nổi bật của loại hình này là việc sử dụng kể chuyện làm phương thức diễn xướng, với ngôn ngữ văn xuôi làm hình thức thể hiện Theo phân tích của Phan Đăng Nhật, các tộc người Tày - Thái đã đặc biệt nhấn mạnh tính chất kể qua thuật ngữ "quăm tô", chỉ ra sự phân biệt rõ ràng giữa "quăm tô" và "quăm khắp", trong đó "quăm khắp" đại diện cho lời hát.

Truyện kể dân gian, với ưu thế loại hình, phản ánh toàn diện cuộc sống con người trong các ứng xử với môi trường tự nhiên và xã hội Nó thể hiện rõ thế giới quan và nhân sinh quan của mỗi tộc người, bao gồm quan niệm về thiên nhiên, nguồn gốc loài người, lao động sản xuất, và mối quan hệ giữa con người với nhau trong cộng đồng Đồng thời, truyện kể dân gian cũng phản ánh cuộc đấu tranh chống lại kẻ thù và thế lực xấu xa, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn Là một phần của văn hóa dân gian, truyện kể dân gian không chỉ là hiện tượng sinh hoạt văn hóa mà còn mang giá trị thẩm mỹ, phản ánh thực tế qua các hình tượng văn học Nghiên cứu truyện kể dân gian từ góc độ văn hóa có thể mang lại những giá trị mới cho thể loại văn học dân gian.

Theo xu hướng phát triển của văn học dân gian Việt Nam, sự chuyển hóa thể loại diễn ra nhanh chóng, phản ánh sự đa dạng và phong phú trong thế giới thần thoại của các tộc người trên đất Việt.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Trong bối cảnh khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên và xã hội biến động, con người Việt Nam đã phát triển tinh thần cộng đồng mạnh mẽ để tồn tại và phát triển Sự hình thành ý thức dân tộc bắt nguồn từ nhu cầu khách quan về sự đoàn kết trong cộng đồng, điều này cho thấy tầm quan trọng của sự gắn kết và hợp tác trong lịch sử và văn hóa Việt Nam.

Môi trường sống của người làm ruộng nước đã hình thành ý thức thực tiễn để sinh tồn, từ đó dẫn đến việc truyền thuyết phát triển từ thần thoại Truyền thuyết không chỉ giáo dục ý thức lịch sử trong thời kỳ chưa có chữ viết mà còn đáp ứng nhu cầu thẩm mỹ Các yếu tố cổ tích được hòa quyện trong truyền thuyết, tạo nên sự đan xen văn hóa của các thời đại khác nhau Mặc dù mỗi thể loại có mục đích và hoàn cảnh lịch sử riêng, chúng đều góp phần vào một mạch liên tục, kết hợp nhiều hình thức nghệ thuật để thỏa mãn trí tưởng tượng và sự lưu truyền Do đó, chúng tôi coi truyền thuyết Tày và Việt là trung tâm, liên kết với thần thoại và cổ tích theo hướng dân tộc hóa - lịch sử hóa Những vấn đề này sẽ được phân tích trong các chương 2, 3 và 4 của luận án, đặc biệt là qua nghiên cứu so sánh các truyền thuyết tiêu biểu của người Tày và người Việt như Pú Lương Quân và Lạc.

Tiếp cận truyện kể dân gian Tày, Việt theo tinh thần folklore học 45

1.4.1 Phân tích kiểu truyện và motif:

Phương pháp phân tích kiểu truyện và motif là một trong những cách nghiên cứu đặc thù quan trọng đối với truyện kể dân gian Việc xác định rõ khái niệm này không chỉ là bước khởi đầu mà còn là nền tảng cho quá trình nghiên cứu sâu hơn.

1.4.1.1.Khái niệm kiểu truyện (type):

Từ góc nhìn lịch sử, các nhà nghiên cứu truyện kể dân gian đã ghi nhận những đóng góp to lớn của trường phái địa lý - lịch sử - Phần Lan, đặc biệt là từ hai cha con Julius Krohn và Kaarle Krohn, cùng với người kế tục xuất sắc Antti Aarne.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX đánh dấu sự khẳng định nguyên tắc nghiên cứu truyện kể dân gian thông qua các loại hình (type) Công trình nổi bật của Antti Aarne mang tên "Bảng tra cứu các truyện kể dân gian" (1910) đã đặt nền móng cho lĩnh vực này, và sau đó được nâng cấp bởi giáo sư Stith Thompson với "Motif - Index of Folk Literature".

Bảng tra cứu motif văn học dân gian, xuất bản từ năm 1932 đến 1936, là những công trình đầu tiên định nghĩa về típ (type) và mô típ (motif) Từ đó, các nhà nghiên cứu Folklore trên thế giới đã phát triển quan điểm về hai khái niệm này và áp dụng vào nghiên cứu truyện kể dân gian Tại Việt Nam, Nguyễn Tấn Đắc là người tiên phong trong việc nghiên cứu truyện kể dân gian dựa trên các bảng mục tra cứu về type và motif.

Trong chuyên khảo "Về các bảng mục lục tra cứu type và motif của truyện kể dân gian," Nguyễn Tấn Đắc đã giới thiệu quan điểm của Stith Thompson về khái niệm type và motif Ông định nghĩa "Type là một tập hợp những truyện có cùng một cốt kể thuộc cùng một kiểu truyện, hay một truyện đơn vị," nhấn mạnh rằng đây là một truyện độc lập.

Nguyễn Tấn Đắc nhấn mạnh quan niệm của Stith Thompson về típ truyện, cho rằng những cốt kể có thể tồn tại độc lập trong kho truyện truyền miệng Mỗi nền văn hóa chỉ có một số lượng típ truyện hạn chế, và típ truyện có thể đồng nhất với motif khi chỉ có một motif đơn lẻ Motif được hiểu là những yếu tố dễ nhớ và thường được lặp lại trong folklore Tại Việt Nam, phương pháp phân tích kiểu truyện đã được áp dụng từ vài thập kỷ trước, với Phan Đăng Nhật vào năm 1974 đã sử dụng khái niệm “dạng truyện” trong nghiên cứu về cổ tích và văn học dân gian các dân tộc thiểu số.

"dạng truyện" trong Khảo sát về dạng truyện người mồ côi trong truyện cổ tích H'Mông Năm 1994, tác giả Lại Phi Hùng dùng khái niệm “loại truyện” khi So

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Bài viết so sánh loại truyện "chàng trai khoẻ" của Lào với các loại truyện cùng tên ở Việt Nam, nhấn mạnh việc sử dụng các thuật ngữ như "dạng thức" của Phan Kế Hoành để chỉ những truyện có yếu tố lặp lại, và khái niệm "típ truyện" của Vũ Anh Tuấn trong nghiên cứu cấu trúc truyện kể dân gian Tày Các nhà nghiên cứu hiện nay thường sử dụng thuật ngữ "kiểu truyện" như Nguyễn Bích Hà, Nguyễn Thị Huế, và Phạm Thu Yến Dù có nhiều cách gọi khác nhau, tất cả đều phản ánh nội dung chung về những truyện kể có thành phần tương tự xoay quanh cốt truyện Việc gọi là "típ truyện" có thể xuất phát từ ảnh hưởng của từ "type" trong tiếng Anh, trong khi "kiểu truyện" là sự dịch nghĩa trực tiếp của từ này.

Trong nghiên cứu về Thạch Sanh và kiểu truyện dũng sĩ trong văn hóa dân gian Việt Nam và Đông Nam Á, Nguyễn Bích Hà định nghĩa kiểu truyện là tập hợp những truyện kể có mô típ tương đồng Kiểu truyện, hay còn gọi là típ truyện, bao gồm những câu chuyện xoay quanh cùng một đề tài và có cấu trúc tương tự, xuất phát từ một hạt nhân cốt lõi ban đầu Mặc dù hình thức cấu tạo của kiểu truyện là ổn định và bền vững, cốt truyện lại đa dạng và linh hoạt, phản ánh chức năng tộc người trong văn hóa Như vậy, một kiểu truyện có thể được xem là tập hợp các cốt truyện với hình thức cấu tạo chung, mang tính nội dung.

Trong công trình Cổ tích thần kỳ người Việt đặc điểm cấu tạo cốt truyện

Năm 1994, Tăng Kim Ngân đã đưa ra phân tích rõ ràng về khái niệm cốt truyện trong văn học, đặc biệt là cốt truyện của truyện kể dân gian Ông nhấn mạnh rằng trong truyện kể dân gian, cốt truyện không chỉ đơn thuần là cấu trúc mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành nội dung tác phẩm.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Cốt truyện của truyện kể dân gian khác biệt với cốt truyện trong văn học viết, vì nó phản ánh hiện thực đời sống xã hội thông qua hình tượng nghệ thuật đặc trưng của Folklore, theo phương thức phi không gian và phi thời gian Tác giả nhấn mạnh rằng cốt truyện thuộc phạm trù nội dung, có nhiệm vụ kể về những sự kiện đã xảy ra trong cuộc sống.

Cốt truyện là yếu tố thẩm mỹ quan trọng nhất trong truyện cổ tích, không thể tách rời khỏi hình tượng nhân vật Theo Vũ Anh Tuấn, cốt truyện của mỗi dân tộc mang sắc thái riêng, phản ánh triết lý dân gian và phong tục tập quán, là nguồn cảm hứng cho nghệ thuật dân gian Dựa trên những luận điểm trước đó, chúng tôi định nghĩa cốt truyện trong truyện kể dân gian là hệ thống sự kiện quan trọng, bao gồm các hành động và diễn biến cụ thể, được điều tiết bởi chức năng tộc người trong văn hóa.

Trong văn học, motif được định nghĩa là "thành tố bền vững vừa mang tính hình thức vừa mang tính nội dung của văn bản" Thuật ngữ này có nguồn gốc từ Latin "moveo", được phiên âm sang tiếng Pháp là motif, tiếng Đức là motive, có nghĩa là chuyển động Motif cũng được dịch sang tiếng Trung Quốc là mẫu đề và trong tiếng Việt, thuật ngữ này vẫn được giữ nguyên theo phiên âm tiếng Pháp.

Trong ngôn ngữ âm nhạc, motif thường được hiểu là âm điệu hoặc điệp khúc, trong khi trong văn hóa dân gian, motif là đơn vị nhỏ nhất của cốt truyện Từ đầu thế kỷ XX, motif đã được nghiên cứu như một phạm trù trong nghiên cứu văn học, đặc biệt qua các công trình của A.N Vêxêlốpski và V.Ia Propp Nhiều nhà nghiên cứu trước V.Ia Propp, do ảnh hưởng của quan điểm nguyên tử luận, đã coi đơn vị trần thuật nhỏ nhất là motif hoặc cốt truyện.

TIEU LUAN MOI download : skknchat@gmail.com

Người coi đơn vị này là motif chính là viện sĩ Viện Hàn lâm A.N Vêxêlốpski [220, tr.758- 759]

Năm 1913, A.N Vêxêlốpski trong "Thi pháp của cốt truyện" đã định nghĩa motif là đơn vị cơ bản không thể chia nhỏ của truyện kể, khẳng định rằng "mô típ là đơn vị đơn giản nhất của truyện kể." Ông cho rằng cốt truyện là sự kết hợp phức tạp của các motif, và một motif có thể xuất hiện trong nhiều cốt truyện khác nhau Sự kết hợp này được ông lý giải dưới góc độ số lượng, cho rằng việc lặp lại các motif là do sự vay mượn và du nhập.

Trong tác phẩm "Hình thái học truyện cổ tích" (1928), V.Ia.Propp đã khẳng định sự không thể tách rời giữa motif và cốt truyện, đồng thời đề xuất các tiêu chí để xác định ranh giới của cốt truyện, phân biệt giữa cốt truyện độc lập và các cốt truyện dị bản Ông nhấn mạnh rằng đặc trưng của truyện cổ tích là cấu trúc bất biến, trong đó sự liên kết, nhóm và phân bố các mô típ đều phụ thuộc vào một đơn vị cấu trúc cụ thể Theo Propp, "mô típ là đơn vị tự sự đơn giản nhất."

Sau này, trong công trình Những cội rễ lịch sử của truyện cổ tích thần kỳ

MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG KIẾN TẠO THẾ GIỚI, KIẾN TẠO VŨ TRỤ 2.1.Tiếp cận hình thức cấu tạo cốt truyện 55

MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY- VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG VĂN HOÁ 3.1 Nhân vật anh hùng văn hoá, sự tiếp nối có cơ sở lịch sử 98

MỐI QUAN HỆ VĂN HOÁ TÀY – VIỆT QUA KHẢO SÁT SO SÁNH KIỂU TRUYỆN NGƯỜI ANH HÙNG CHIẾN TRẬN CHỐNG GIẶC NGOẠI XÂM 4.1 Sự vận động mang tính quy luật tạo thành kiểu truyện 154

Ngày đăng: 29/06/2022, 06:04

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Hình tượng nhân vật "bán thần" này xuất hiện trong sự gắn kết với nghề làm ruộng, - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Mối quan hệ văn hóa Tày - Việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản
Hình t ượng nhân vật "bán thần" này xuất hiện trong sự gắn kết với nghề làm ruộng, (Trang 80)
Sơ đồ 1: Truyện kể người Tày - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Mối quan hệ văn hóa Tày - Việt dưới góc độ thẩm mỹ qua một số kiểu truyện kể dân gian cơ bản
Sơ đồ 1 Truyện kể người Tày (Trang 98)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w