1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và hàm ý cho Việt Nam

201 6 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Điều Chỉnh Mô Hình Quản Lý Của Các Tập Đoàn Kinh Tế Nhật Bản Và Hàm Ý Cho Việt Nam
Tác giả Phùng Kim Anh
Người hướng dẫn GS.TS. Phùng Xuân Nhạ, PGS.TS. Nguyễn Duy Dũng
Trường học Đại học Quốc gia Hà Nội
Chuyên ngành Kinh tế thế giới và Quan hệ kinh tế Quốc tế
Thể loại luận án tiến sĩ
Năm xuất bản 2017
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 201
Dung lượng 2,51 MB

Cấu trúc

  • CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ (22)
    • 1.1. Những nghiên cứu về nền kinh tế Nhật Bản từ cuối thập kỷ 1990 đến nay11 1.2. Những nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế Nhật Bản (22)
    • 1.3. Những nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam (29)
    • 1.4. Đánh giá những công trình nghiên cứu đã tổng quan và một số vấn đề đặt (35)
  • CHƯƠNG 2. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ (37)
    • 2.1. Khái quát tập đoàn kinh tế và mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (37)
      • 2.1.1. Khái niệm tập đoàn kinh tế, mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (37)
      • 2.1.2. Một số lý thuyết về mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (43)
      • 2.1.3. Đặc điểm chủ yếu của tập đoàn kinh tế (49)
      • 2.1.4. Cấu trúc và mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (51)
    • 2.2. Điều chỉnh mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (58)
      • 2.2.1. Khái niệm điều chỉnh mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế (58)
      • 2.2.2. Nguyên nhân của việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn (59)
      • 2.2.3. Nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế (63)
    • 3.1. Bối cảnh chung và nguyên nhân của việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản (67)
      • 3.1.1. Bối cảnh kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai (67)
      • 3.1.2. Nguyên nhân của việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn (76)
    • 3.2. Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu thập kỷ 1990 (80)
      • 3.2.1. Nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản (80)
      • 3.2.2. Đánh giá quá trình đổi mới mô hình quản lý của Keiretsu (90)
    • 3.3. Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ 1990 đến nay (94)
      • 3.3.1. Những khó khăn, hạn chế, thách thức đối với các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và nhu cầu phải điều chỉnh mô hình quản lý (94)
      • 3.3.2. Quá trình và nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ 1990 đến nay (99)
      • 3.3.3. Điều chỉnh mô hình quản lý của một số Tập đoàn của Nhật Bản (116)
    • 3.4. Đánh giá chung quá trình điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn (127)
  • CHƯƠNG 4. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM (67)
    • 4.1. Bài học kinh nghiệm rút ra từ việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản (143)
      • 4.1.1. Những bài học thành công (143)
      • 4.1.2. Những bài học chưa thành công (148)
    • 4.2. Khái quát về Tập đoàn kinh tế và mô hình quản lý của các Tập đoàn kinh tế Việt Nam (151)
      • 4.2.1. Một số đặc điểm của tập đoàn kinh tế Việt Nam (151)
      • 4.2.2. Khái quát về mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Việt Nam (161)
    • 4.3. Một số hàm ý đối với Việt Nam (166)
      • 4.3.1. Đối với các Tập đoàn kinh tế Việt Nam (166)
      • 4.3.2. Đối với cơ quan quản lý vĩ mô (174)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (186)

Nội dung

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

Những nghiên cứu về nền kinh tế Nhật Bản từ cuối thập kỷ 1990 đến nay11 1.2 Những nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế Nhật Bản

Cuối thế kỷ XX, đặc biệt là những năm 1990, kinh tế Nhật Bản trải qua giai đoạn suy thoái nghiêm trọng, khiến các tập đoàn kinh tế phải đối mặt với nhiều khó khăn và nỗ lực vượt qua thách thức Sự quan tâm từ giới nghiên cứu đối với thực trạng này đã dẫn đến việc xuất hiện nhiều công trình nghiên cứu về giai đoạn khó khăn của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản, trong đó có một số công trình đáng chú ý.

S.Kwan (1998), Khủng hoảng tiền tệ châu Á nhìn từ đồng Yên và đồng

Trong ấn phẩm của mình, tác giả Kwan - chuyên gia nghiên cứu tại Viện nghiên cứu Tổng hợp Nomura, đã phân tích mối quan hệ giữa sự biến động tỷ giá Yên và Đôla với sự gia tăng đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào các nước Đông Á, bao gồm bốn nước ASEAN và Trung Quốc Nghiên cứu này tập trung vào giai đoạn từ năm 1982 đến nay, nhằm làm rõ ảnh hưởng của tỷ giá hối đoái đến tăng trưởng kinh tế của khu vực này.

Joseph E Stiglitz và Shahid Yusuf (2002), Suy ngẫm lại sự thần kỳ Đông Á, Ngân hàng thế giới Chương 2 và Chương 3 của cuốn sách xuất bản năm

Năm 1993, đã tiến hành phân tích sự tăng trưởng và khủng hoảng của kinh tế Đông Á, bao gồm Nhật Bản, đồng thời dự báo khả năng phục hồi của khu vực này Bài viết gợi mở các con đường đổi mới và phát triển công nghệ, đặc biệt trong các tập đoàn kinh tế Ấn phẩm năm 2002 đã điều chỉnh và bổ sung những nhận xét về sự phát triển thần kỳ của Đông Á Mặc dù khủng hoảng kinh tế ở Nhật Bản đã khiến các nhà nghiên cứu xem xét lại mô hình tập đoàn kinh tế, nhiều người vẫn khẳng định tiềm năng lớn về khoa học công nghệ của doanh nghiệp Nhật Bản và khả năng tự điều chỉnh, đổi mới của các tập đoàn trong bối cảnh mới.

Mirey a Solís trong tác phẩm "Banking on Multinationals" (2004) đã phân tích chính sách công nghiệp Nhật Bản, đặt ra hai câu hỏi quan trọng: Tại sao Nhật Bản, nổi tiếng với việc kiểm soát thị trường và bảo vệ ngành công nghiệp non trẻ, lại thực hiện chương trình công nghiệp lớn nhất thế giới để hỗ trợ sự hợp tác của các công ty đa quốc gia? Và tại sao Nhật Bản không lo ngại về việc mất kiểm soát trong hợp tác đa quốc gia và ảnh hưởng đến xuất khẩu nội địa qua FDI? Tác phẩm cung cấp cái nhìn sâu sắc về đầu tư trực tiếp Nhật Bản trong bối cảnh lý thuyết và so sánh, cũng như phân tích quan điểm chính trị của chính sách công nghiệp và sự hợp tác của các công ty đa quốc gia Nhật Bản thông qua nghiên cứu trường hợp về điều chỉnh công nghiệp và FDI.

Hibino Shozo (2009), Tư duy đột phá Tập quán tư duy của Toyota,

NXB Trẻ khẳng định bản lĩnh và trí tuệ của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản, đặc biệt là Toyota, thông qua tư duy kinh doanh luôn đổi mới và khả năng đáp ứng linh hoạt với nhu cầu của thị trường và hoàn cảnh kinh tế toàn cầu.

Top Managemnet Forum (2009), Management Innovation for Productivity

Cải thiện trong lĩnh vực dịch vụ là chủ đề chính của hội nghị thường niên do Tổ chức Năng suất Châu Á (APO) tổ chức tại Tokyo, Nhật Bản Tại đây, các nhà lãnh đạo APO, gồm những chuyên gia hàng đầu từ các tập đoàn dịch vụ nổi tiếng, đã trình bày và chia sẻ những ví dụ điển hình về các mô hình quản lý thành công đã giúp các tập đoàn Nhật Bản vươn lên mạnh mẽ trên thị trường trong nước và quốc tế Ấn phẩm này không chỉ khẳng định sức mạnh tiềm tàng của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản mà còn chứng minh khả năng vượt qua khó khăn trong những năm tháng thử thách.

Trong cuốn sách "Quản trị kinh doanh học và quản trị doanh nghiệp tại Nhật Bản" của Yoshiaki Takahashi (2009), tác giả phân tích sự chuyển đổi mạnh mẽ trong cơ cấu tổ chức của các doanh nghiệp lớn tại Nhật Bản, nhấn mạnh xu hướng đa dạng hoá và mềm dẻo hoá Ông cũng đề cập đến quá trình tập đoàn hoá và tái cơ cấu tổ chức trong các tập đoàn, cùng với tiến trình đa quốc tịch hoá của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Các công trình của Hibino Shozo, của APO 2009, của Yoshiaki Takahashi

Bài viết đã cung cấp cái nhìn khách quan về sự phát triển của các doanh nghiệp Nhật Bản trong thập niên qua, giúp nhận diện đầy đủ và toàn diện hơn về diện mạo của họ Đồng thời, nó cũng gợi mở những xu hướng tự điều chỉnh và đổi mới của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản, từ đó cho phép dự báo triển vọng phát triển của các tập đoàn này trong tương lai gần.

Vẫn theo hướng nghiên cứu này đã được các tác giả bàn luận thông qua nhiều Hội thảo được tổ chức ở Việt Nam và nước ngoài Đó là:

Ariyoshi Akira (2012) đã chia sẻ bài học từ bong bóng tài sản của Nhật Bản tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý kinh tế vĩ mô do Bộ Tài chính Việt Nam tổ chức vào ngày 24/7/2012 Nagase Toshio (2012) đã trình bày một số kinh nghiệm của Nhật Bản về giải quyết nền kinh tế bong bóng và tái cơ cấu công nghiệp tại hội nghị của Nhóm đối tác về quản lý tài chính công vào ngày 31/5/2012 Naito Junichi (2012) đã thảo luận về bài học của Nhật Bản từ kinh nghiệm khủng hoảng tài chính tại Hội thảo tại Viện Khoa học Xã hội Việt Nam vào ngày 5/5/2012 Wada Yoshio (2012) cũng đã đưa ra những gợi ý từ kinh nghiệm của Nhật Bản trong bối cảnh tương tự.

Bài tham luận tại Civil Service College, Singapore, tập trung vào việc loại bỏ nợ xấu thông qua việc khôi phục tài chính và công nghiệp sau sự sụp đổ của nền kinh tế bong bóng.

Nghiên cứu đã chỉ ra những khó khăn và thách thức mà kinh tế Nhật Bản đang phải đối mặt, điều này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của các công ty, đặc biệt là các tập đoàn lớn trong nước.

1.2 Những nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế Nhật Bản

Từ cuối những năm 1960 đến đầu những năm 2000, nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về sự thành công của nền kinh tế Nhật Bản và các tập đoàn kinh tế của nước này.

Có thể kể đến các công trình: Michaelis and Me Keown (1969 ); 20th Century Asia ( Châu Á thế kỷ XX ), Me Graw – Hill; Ono Toyoaki (1979):

Chiến lược tổ chức của doanh nghiệp Nhật Bản, theo William Ouichi (1987), được thể hiện qua mô hình quản lý xí nghiệp Nhật Bản và thuyết Z Mô hình này nhấn mạnh sự kết hợp giữa quản lý hiệu quả và phát triển nguồn nhân lực, góp phần tạo nên một môi trường làm việc bền vững và năng động Thuyết Z khuyến khích sự hợp tác, cam kết lâu dài của nhân viên và tính linh hoạt trong tổ chức, giúp doanh nghiệp Nhật Bản duy trì lợi thế cạnh tranh trong thị trường toàn cầu.

Kinh tế thế giới đã xuất bản nhiều tài liệu quan trọng, trong đó có cuốn "Kaisha: Công ty Nhật Bản" của James C Alegglen Stak (1988) và "Người Nhật quản lý sản xuất thế nào?" của J Schonberger (1989), được phát hành bởi Nxb Khoa học xã hội Những tác phẩm này cung cấp cái nhìn sâu sắc về cách thức hoạt động và quản lý của các công ty Nhật Bản.

L.D Ladanov (1989 ): Người Nhật, Nxb Tổng hợp Hậu Giang; Yutaka Kosai (1991): Kỷ nguyên tăng trưởng nhanh – những nhận xét về nền kinh tế Nhật sau chiến tranh, Viện Kinh tế thế giới xuất bản; Pierre Atoine – Donnet

Những nghiên cứu về các tập đoàn kinh tế Việt Nam

Mảng đề tài này có khá nhiều công trình nghiên cứu.TrầnThị Nhung, Nguyễn Duy Dũng (2005), Phát triển nguồn nhân lực trong các công ty Nhật

Hiện nay, có nhiều tài liệu quan trọng về tập đoàn kinh tế tại Việt Nam, bao gồm: Trần Tiến Cường (2005) với cuốn "Tập đoàn kinh tế - lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam", Nxb Giao thông vận tải; Nguyễn Văn Đặng (2005) với "Tổng công ty nhà nước hướng tới hội nhập kinh tế quốc tế", Nxb Giao thông vận tải; và Bùi Văn Huyền (2006) trong luận án tiến sĩ về "Sự hình thành và phát triển tập đoàn kinh tế ở Việt Nam" tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Bên cạnh đó, Lê Đức Khải và Hà Huy Ngọc (2009) cũng đóng góp vào lĩnh vực này.

Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế, việc phát triển các tập đoàn kinh tế ở Việt Nam trở nên cấp thiết Theo bài viết của Nguyễn Tuấn Cường (2009) trên Tạp chí Khoa học & ứng dụng, cần có những suy nghĩ sâu sắc về vai trò của tập đoàn kinh tế nhà nước trong việc thúc đẩy nền kinh tế Bên cạnh đó, Võ Văn Sen (2009) đã chỉ ra rằng việc học hỏi từ kinh nghiệm của Nhật Bản có thể là một con đường quan trọng cho quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam, như đã nêu trong Tạp chí Phát triển khoa học & công nghệ.

Trần Thị Lan Hương (2010), Những vấn đề rút ra từ thí điểm mô hình tập đoàn kinh tế, Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng 8/2010; Đặng Văn Mỹ

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, các tập đoàn kinh tế cần xác định rõ định hướng chiến lược kinh doanh để phát triển bền vững Theo nghiên cứu của Nguyễn Khương (2012), mô hình quản lý và chiến lược phát triển của các tập đoàn này đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động Những tài liệu từ Tạp chí Khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng (2010) và Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội (2012) đã chỉ ra rằng việc áp dụng các chiến lược thích hợp sẽ giúp các tập đoàn vượt qua thách thức và tận dụng cơ hội trong môi trường kinh doanh toàn cầu.

Ngoài các bài viết trên các tạp chí chuyên ngành, nhiều công trình nghiên cứu tiêu biểu đã được công bố về bối cảnh quốc tế và các TĐKT.

Nguyễn Văn Dân (2001) trong ấn phẩm "Những vấn đề của toàn cầu hóa kinh tế" đã trình bày về đối sách của các quốc gia và khu vực đối với toàn cầu hóa, cùng với vai trò của các công ty xuyên quốc gia trong quá trình này Tương tự, Nguyễn Sỹ Hiệp (2003) trong công trình "Sự ra đời và một số đặc điểm chính của các công ty xuyên quốc gia của các nước mới công nghiệp hóa ở Đông Á" đã phân tích bối cảnh ra đời và các đặc điểm hoạt động của các công ty này, bao gồm mô hình tổ chức và cơ chế quản lý Cuối cùng, bài viết của Hoàng Thị Bích Loan (11/2005) về "Mô hình nền kinh tế thị trường Nhật Bản cộng đồng" cung cấp cái nhìn sâu sắc về nền kinh tế Nhật Bản trong bối cảnh toàn cầu hóa.

Chuyên luận 330 nêu bật mô hình Zaibatsu như một hình thức liên minh doanh nghiệp và phân tích quá trình giải thể các Zaibatsu sau Thế chiến II, dẫn đến sự hình thành các công ty thương xã tổng hợp (TNCs) Trong bài viết "Đầu tư trực tiếp của TNCs Nhật Bản ở Việt Nam - tổng quan và triển vọng" (Đinh Trung Thành, 2006), tác giả đã đánh giá tình hình đầu tư trực tiếp của TNCs Nhật Bản tại Việt Nam từ 1991-2005 và các yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư Bài viết cũng nhấn mạnh triển vọng thu hút FDI từ TNCs Nhật Bản vào Việt Nam, đặc biệt là các chính sách cải thiện môi trường đầu tư để nâng cao sức cạnh tranh kinh tế trong bối cảnh tự do hóa thương mại và đầu tư.

Chiến lược chiếm lĩnh thị trường của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản tại Việt Nam được phân tích qua hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) trong bài viết này Tạp chí Nghiên cứu Đông Bắc Á, Số 4, làm rõ cách thức các TNCs Nhật Bản định hình thị trường Việt Nam thông qua cơ cấu ngành kinh tế, hình thức đầu tư theo vùng lãnh thổ, trình tự công nghệ và quy mô dự án.

Phùng Kim Anh và Vũ Anh Dũng (2011) trong bài viết "Áp lực và xu hướng đổi mới của các công ty xuyên quốc gia" đã phân tích tình hình hiện tại của các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản, nhấn mạnh vai trò quan trọng của chúng trong nền kinh tế đất nước Tuy nhiên, các công ty này đang phải đối mặt với nhiều áp lực và thách thức nghiêm trọng từ cuộc khủng hoảng toàn cầu và "thập kỷ mất mát thứ ba" Để duy trì sự phát triển bền vững, các công ty cần phải đổi mới và thích ứng với những biến động này.

Các TNCs Nhật Bản đang chủ động điều chỉnh và đổi mới theo bốn hướng chính: đa dạng hóa mô hình kinh doanh để thích ứng, thúc đẩy tiến trình “đa quốc tịch hóa”, cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm và nguồn nhân lực, cũng như mở rộng thị trường Mặc dù gặp nhiều khó khăn, nhưng với nỗ lực đổi mới, các TNCs Nhật Bản sẽ có thêm động lực để tiếp tục phát triển.

Bài nghiên cứu của Vũ Anh Dũng (2011) trong Tạp chí Tuyên giáo đã khái quát quá trình phát triển, những thành tựu và thách thức mà các tập đoàn kinh tế Nhật Bản đối mặt từ sau Chiến tranh thế giới cho đến nay Nghiên cứu cũng nêu bật những nỗ lực sáng tạo và tìm tòi của các tập đoàn này nhằm vượt qua khó khăn và tiếp tục phát triển bền vững.

Trên mạng www.massagroup.com, ngày 24/6/2008 có đăng tải bài viết:

Mô hình tập đoàn kinh tế tiêu biểu ở Châu Á, đặc biệt là Keiretsu của Nhật Bản, đã được giới thiệu sơ lược trong tài liệu này Bài viết trình bày về sự ra đời và cơ cấu tổ chức của các Keiretsu, đồng thời phân tích tình hình hoạt động, thành công cũng như những hạn chế của mô hình này trong bối cảnh kinh tế hiện tại.

Bùi Nguyên Hƣng (2011) đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam, bao gồm tình trạng "quá tải" của các văn bản pháp lý, sự bất bình đẳng trong đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, và sự thiếu nhất quán trong quan niệm về tập đoàn kinh tế nhà nước Các tập đoàn kinh tế tư nhân gặp khó khăn trong việc phát triển do không có khung pháp lý thống nhất, điều này ảnh hưởng đến môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh.

Jacob Trần (2016) trong bài viết "Bí quyết quản trị doanh nghiệp của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản" đã phân tích những điểm mạnh trong quản trị doanh nghiệp của các tập đoàn Nhật Bản, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc xác định mục tiêu kinh doanh rõ ràng, sự phối hợp giữa các bộ phận và cuộc cách mạng quản trị theo tinh thần đổi mới sáng tạo Tại Việt Nam, từ năm 2010, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương đã triển khai nghiên cứu về mô hình tập đoàn kinh tế nhà nước, tổ chức hai hội thảo lớn nhằm phân tích lý luận và thực trạng hoạt động của các tập đoàn này, đồng thời định hướng phát triển trong bối cảnh đổi mới Công trình này có ý nghĩa quan trọng trong việc tổng kết lý luận và thực tiễn, so sánh với mô hình tập đoàn kinh tế ở một số nước khác, bao gồm Nhật Bản.

Báo cáo thường niên doanh nghiệp Việt Nam 2010 do Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam phát hành cung cấp cái nhìn tổng quan về môi trường kinh doanh tại Việt Nam Ấn phẩm này không chỉ phân tích năng lực của các doanh nghiệp Việt Nam mà còn nêu bật những xu hướng tái cấu trúc trong lĩnh vực doanh nghiệp Đặc biệt, báo cáo có một phần chi tiết về sự hình thành và phát triển của các tập đoàn kinh tế tại Việt Nam, cùng với xu hướng tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế nhà nước và tư nhân.

Nguyễn Đức Thành (chủ biên, 2012), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2015 “Đối diện với thách thức tái cơ cấu kinh tế”, Nxb Đại học quốc gia

Hà Nội vừa phát hành ấn phẩm gồm 7 chương, trong đó chương 5 tập trung vào "Hướng tới lộ trình thực sự tái cơ cấu các doanh nghiệp nhà nước" Các tác giả trình bày những bài học kinh nghiệm quốc tế về cải cách doanh nghiệp nhà nước, đồng thời đánh giá thực trạng của các doanh nghiệp nhà nước tại Việt Nam và đưa ra những đề xuất cụ thể cho quá trình tái cơ cấu.

Nguyễn Đức Thành (2013), Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2013,

Đánh giá những công trình nghiên cứu đã tổng quan và một số vấn đề đặt

đề đặt ra cần đƣợc tiếp tục nghiên cứu

Từ các công trình đã phân tích ở trên có thể rút ra một số đóng góp có giá trị sau:

Các nghiên cứu đã chỉ ra nguồn gốc hình thành và sự phát triển của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản, đồng thời đánh giá vai trò quan trọng của các tập đoàn này trong sự phát triển kinh tế của đất nước.

Mô hình quản lý kiểu Nhật Bản nổi bật với những đặc điểm riêng biệt trong tổ chức công ty, phương thức quản lý và chế độ đãi ngộ Những yếu tố này tạo nên một phong cách quản lý độc đáo, khó có thể nhầm lẫn, góp phần vào sự thành công bền vững của các doanh nghiệp Nhật Bản.

Các công trình nghiên cứu đã chỉ ra những bất cập và thách thức đối với mô hình quản lý Nhật Bản, đặc biệt là sự chậm trễ trong việc thích ứng với điều kiện mới cả trong nước lẫn quốc tế Khó khăn và suy thoái kinh tế tại Nhật Bản, cùng với sự trỗi dậy của các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc, đã tạo ra áp lực buộc các tổ chức kinh tế Nhật Bản phải thay đổi.

Nội dung lý luận về mô hình quản lý của TĐKT vẫn chưa được khai thác một cách sâu sắc, đặc biệt trong bối cảnh kinh tế thế giới đang trải qua nhiều biến động.

- Chƣa phân tích và làm rõ những bất cập, nguyên nhân khách quan, chủ quan dẫn đến việc điều chỉnh mô hình quản lý của các TĐKT Nhật Bản

- Các nội dung cũng nhƣ quá trình điều chỉnh mô hình và cách thức quản lý của các TĐKT Nhật Bản chƣa phân tích đầy đủ và sâu sắc

Việt Nam cần rút ra các bài học kinh nghiệm từ mô hình quản lý của các Tổ chức Kinh tế Nhật Bản, tuy nhiên, những hạn chế trong việc làm rõ các điều chỉnh này vẫn chưa được giải quyết Điều này cho thấy sự cần thiết phải nghiên cứu sâu hơn về những vấn đề này để cải thiện hiệu quả quản lý.

“khoảng trống” mà luận án sẽ tập trung phân tích và làm rõ

Những vấn đề Luận án sẽ đi sâu nghiên cứu:

Dựa trên việc kế thừa kết quả từ các nghiên cứu trong và ngoài nước, kết hợp với các nguồn tư liệu phong phú, luận án sẽ tập trung nghiên cứu và làm rõ các vấn đề quan trọng liên quan đến chủ đề này.

+ Bổ sung và làm rõ hơn khái niệm và nội dung về mô hình quản lý của các TĐKT

Sau Thế chiến thứ Hai, các tập đoàn kinh tế Nhật Bản đã trải qua một quá trình điều chỉnh mô hình quản lý sâu sắc Bối cảnh kinh tế và chính trị sau chiến tranh đã đặt ra những thách thức và cơ hội mới cho các doanh nghiệp Nhật Bản Nguyên nhân chính của quá trình điều chỉnh này là sự thay đổi trong môi trường kinh doanh, sự phát triển của công nghệ và sự tăng trưởng của thị trường toàn cầu Các tập đoàn kinh tế Nhật Bản đã phải thích nghi với những thay đổi này để duy trì sự cạnh tranh và phát triển bền vững.

Mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản hiện nay đang gặp phải một số hạn chế và thách thức đáng kể Sự cứng nhắc trong cấu trúc tổ chức có thể dẫn đến việc thiếu linh hoạt trong việc thích ứng với thay đổi của thị trường toàn cầu Bên cạnh đó, văn hóa doanh nghiệp truyền thống có thể cản trở sự đổi mới và sáng tạo, khiến các tập đoàn khó khăn trong việc thu hút nhân tài trẻ Cuối cùng, việc phụ thuộc vào các mối quan hệ nội bộ có thể làm giảm khả năng cạnh tranh và khả năng đáp ứng nhanh chóng trước những biến động của nền kinh tế.

Trong quá trình tái cơ cấu và đổi mới hoạt động của các tập đoàn kinh tế Việt Nam, các bài học kinh nghiệm quan trọng cần được rút ra bao gồm việc nâng cao năng lực quản lý, tối ưu hóa quy trình sản xuất, và tăng cường khả năng cạnh tranh Đồng thời, việc áp dụng công nghệ mới và đổi mới sáng tạo cũng là yếu tố then chốt giúp các tập đoàn thích ứng với xu hướng thị trường Hơn nữa, việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp mạnh mẽ và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao sẽ góp phần quan trọng vào sự thành công bền vững của các TĐKT trong tương lai.

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA TẬP ĐOÀN KINH TẾ

Khái quát tập đoàn kinh tế và mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế

Để đánh giá chính xác về tập đoàn kinh tế Nhật Bản và quá trình điều chỉnh mô hình quản lý của họ từ sau chiến tranh thế giới thứ Hai, cần làm rõ những nhận thức chung về tập đoàn kinh tế và mô hình quản lý của chúng.

2.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế, mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế 2.1.1.1 Khái niệm tập đoàn kinh tế

Các TĐKT đã hình thành tại các quốc gia có nền kinh tế phát triển lâu dài và đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển kinh tế của các quốc gia này Ở các nước phát triển, TĐKT tập trung vào phát triển nguồn vốn, trong khi các tập đoàn tại các nền kinh tế mới nổi và các nước đang phát triển lại chú trọng vào việc đa dạng hóa kinh doanh với chi phí thấp Nếu không kiểm soát được hệ thống tài chính, TĐKT sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc sử dụng ngân sách để hỗ trợ chính trị cho doanh nghiệp, cho phép họ khai thác tài nguyên hiệu quả.

TĐKT đóng vai trò quan trọng trong các nền kinh tế mới nổi như Brazil, Chile, Trung Quốc, Ấn Độ, Indonesia, Hàn Quốc, Mexico, Pakistan và Thái Lan, cũng như ở các nước phát triển như Italia và Thụy Điển TĐKT được đặc trưng bởi sự kết hợp của các công ty độc lập về mặt pháp lý, hoạt động trong nhiều ngành công nghiệp khác nhau, với các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức Sự đa dạng của các doanh nghiệp toàn cầu được thể hiện qua mức độ tham gia của các nhà đầu tư bên ngoài Các tập đoàn rất đa dạng, từ những tập đoàn tập trung vào một số ngành đến những tập đoàn hoạt động trên nhiều lĩnh vực, với cấu trúc tích hợp theo chiều ngang hoặc chiều dọc Ví dụ, tập đoàn kinh tế ở Chile có sự đa dạng hơn so với Hàn Quốc, trong khi các tập đoàn Hàn Quốc lại đa dạng hơn Đài Loan Định nghĩa về TĐKT được diễn giải theo nhiều cách khác nhau, trong đó Leff (1978) mô tả TĐKT như một nhóm các công ty kinh doanh trong các thị trường khác nhau dưới cùng một kiểm soát, còn Granovetter (1995) nhấn mạnh mối liên kết giữa các công ty theo cách chính thức hoặc không chính thức.

Các tài liệu lý thuyết về sự hình thành của các tập đoàn kinh tế hiện nay bao gồm nhiều mô hình khác nhau Raja Kali (1999) nghiên cứu sự hình thành nội sinh của mạng lưới kinh doanh để đối phó với hạn chế trong thực hiện hợp đồng của hệ thống pháp luật, trong khi Maurer và Sharma (2001) tập trung vào quyền sở hữu hoàn hảo Maitreesh Ghatak và Kali (2001) cùng Kali (2003) nhấn mạnh vai trò của thông tin không hoàn hảo trong thị trường vốn Các nghiên cứu thực nghiệm về sự hình thành của các tập đoàn kinh tế thường dựa vào bộ dữ liệu nhỏ và kỹ thuật thực nghiệm, nhưng vẫn chưa hoàn toàn thuyết phục Ví dụ, Chung (2001, 2006) đã xem xét nguồn gốc và sự tiến hóa của các tập đoàn kinh tế tại Đài Loan, phân biệt giữa các yếu tố liên quan đến lực lượng thị trường, văn hóa, và tổ chức xã hội.

Năm 2005, một nghiên cứu đã chỉ ra rằng có một xu hướng rõ rệt trong cộng đồng doanh nhân người Trung Quốc tại Singapore, cho thấy họ có xu hướng hình thành các tổ chức kinh doanh đa dạng hơn so với các doanh nhân người Ấn Độ Xu hướng này phản ánh sự khác biệt trong cách tiếp cận kinh doanh giữa hai cộng đồng, với người Trung Quốc ưu tiên sự đa dạng trong mô hình tổ chức để tối ưu hóa cơ hội phát triển.

TĐKT được định nghĩa bởi sự đa dạng của các doanh nghiệp trong một tổ chức Ghemawat và Khanna (1998) mô tả tập đoàn kinh tế là một hình thức tổ chức đặc trưng bởi sự đa dạng trên nhiều lĩnh vực, với sự liên kết tài chính một phần và thường có sự kiểm soát hệ thống Fisman và Khanna (2004) cũng xác định TĐKT là một tập hợp đa dạng của các doanh nghiệp, thường khởi nguồn từ một hệ thống duy nhất và được kết nối qua sở hữu cổ phần cùng thành viên hội đồng quản trị.

TĐKT là tập hợp các công ty độc lập về mặt pháp lý, được kết nối với nhau thông qua các mối quan hệ chính thức hoặc không chính thức Mô hình này phổ biến ở nhiều nơi trên thế giới, đặc biệt là trong các nền kinh tế mới nổi.

Theo định nghĩa năm 2012, TĐKT được hiểu là một nhóm các công ty liên kết với nhau thông qua việc nắm giữ cổ phiếu và các phương tiện phối hợp khác.

TĐKT có thể được định nghĩa một cách kỹ thuật, theo Cục Quản lý Nhà nước về Công nghiệp và Thương mại Trung Quốc, một tập đoàn kinh tế cần có công ty cốt lõi với vốn điều lệ trên 50 triệu nhân dân tệ và tối thiểu 5 công ty chi nhánh Tổng vốn điều lệ của công ty mẹ và các chi nhánh phải đạt trên 100 triệu nhân dân tệ.

Nghiên cứu đã chỉ ra rằng các TĐKT có thể hình thành dựa trên nhiều kiểu liên minh khác nhau, bao gồm quan hệ ngân hàng (Frank & Myer, 1994; Kojima, 1998), sự phối hợp giữa các ban giám đốc (Mizruchi & Galaskiewicz, 1993), liên minh chủ sở hữu (Kim, 1991), chia sẻ thông tin (Japelli & Pagano, 1993), các liên doanh (Bergluwf & Perotti, 1994) và các liên minh kiểu Cartel (Green & Porter).

Có nhiều định nghĩa khác nhau về "Tập đoàn kinh tế" (TĐKT) Trong ngữ cảnh ngôn ngữ, ở các nước Tây Âu và Bắc Mỹ, thuật ngữ thường được sử dụng để chỉ TĐKT là "Consortium".

Tại châu Á, các khái niệm như "Keiretsu" và "Zaibatsu" được người Nhật sử dụng, trong khi người Hàn Quốc gọi là "Cheabol" và Trung Quốc sử dụng cụm từ "Jituan Gongsi" để chỉ tổ hợp doanh nghiệp (TĐKT) Mặc dù có sự khác biệt về ngôn ngữ, việc sử dụng thuật ngữ TĐKT phụ thuộc vào nguồn gốc và tính chất của từng loại tổ hợp TĐKT được định nghĩa là sự kết hợp của các công ty có mối quan hệ sở hữu chéo, liên kết chiến lược và hoạt động kinh doanh nhằm tối ưu hóa tài nguyên, tăng cường khả năng cạnh tranh và đạt được lợi nhuận tối đa Ở Việt Nam, theo Điều 38 Nghị định 102/2010/NĐ-CP, TĐKT bao gồm các công ty lớn có tư cách pháp nhân độc lập, hình thành từ sự liên kết qua đầu tư, góp vốn, sáp nhập hoặc các hình thức khác, tạo thành một tổ hợp kinh doanh với ít nhất hai cấp doanh nghiệp dưới hình thức công ty mẹ.

Trong mô hình tập đoàn công ty mẹ - công ty con, công ty mẹ kiểm soát công ty con khi nắm giữ hơn 50% vốn góp Nếu vốn góp dưới 50%, công ty mẹ vẫn có thể kiểm soát thông qua uỷ quyền của các cổ đông khác.

Từ những phân tích nhƣ trên, có thể hiểu tập đoàn kinh tế nhƣ sau:

Tập đoàn kinh tế là một thực thể lớn bao gồm nhiều tổ chức thành viên liên kết về kinh tế, tài chính, công nghệ, thông tin, đào tạo và nghiên cứu Với cấu trúc tổ chức rõ ràng, tập đoàn được quản lý bởi một bộ máy thống nhất Đây là một hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đặc biệt, thể hiện qua nhiều cấu trúc đa dạng Để hiểu rõ hơn về tập đoàn kinh tế, cần nghiên cứu các đặc điểm cơ bản của loại hình tổ chức này và nhận diện các sắc thái phong phú trong thực tiễn.

Hộp 2.1:Sự hình thành, phát triển tập đoàn kinh tế thông qua các lý thuyết kinh tế học cận đại và hiện đại

Theo lý thuyết kinh tế học vi mô tân cổ điển, mục tiêu chính của doanh nghiệp là đạt được hiệu quả và lợi nhuận Để thực hiện điều này, các doanh nghiệp cần nâng cao năng lực cạnh tranh và chiếm lĩnh thị trường, từ đó ảnh hưởng đến giá mua và giá bán Để đạt được mục tiêu này, doanh nghiệp cần tích tụ và mở rộng quy mô, hoặc thực hiện các hình thức thôn tính, hợp nhất, sáp nhập và liên kết với các doanh nghiệp khác, nhằm hình thành nhóm công ty hoặc tập đoàn kinh tế.

Điều chỉnh mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế

2.2.1 Khái niệm điều chỉnh mô hình quản lý của tập đoàn kinh tế Điều chỉnh mô hình quản lý các TĐKT là những thay đổi có tính bước ngoặt về cơ chế và chính sách quản lý, tạo lập mô hình quản lý hợp lý nhằm phân bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực cần thiết để đạt đƣợc mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn phát triển Phần lớn nội dung điều chỉnh mô hình quản lý TĐKT thường tập trung vào việc nâng cao chất lượng quản trị/quản lý tập đoàn, nâng cao hiệu quả hoạt động hoặc đảm bảo sự phù hợp và tạo điều kiện thuận lợi cho việc triển khai và thực hiện chiến lƣợc phát triển của tập đoàn Mỗi loại hình tập đoàn cũng nhƣ dạng cấu trúc tập đoàn khác nhau đều có những đặc điểm riêng, ưu điểm và nhược điểm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của tập đoàn đó nói riêng và của nền kinh tế nói chung Vì vậy, việc tìm ra một cấu trúc và cơ chế quản trị phù hợp trong các giai đoạn nhất định là rất cần thiết để nâng cao hiệu quả của các tập đoàn cũng nhƣ nâng cao hiệu quả của toàn bộ khu vực doanh nghiệp và nền kinh tế

Việc điều chỉnh quản lý trong các tập đoàn kinh tế là cần thiết để nâng cao hiệu quả hoạt động và giảm thiểu tác động tiêu cực đến nền kinh tế Cải thiện cấu trúc và cơ chế quản lý tập đoàn tập trung vào việc điều chỉnh mô hình tổ chức và mối quan hệ nội bộ giữa các công ty, cũng như giữa công ty mẹ và các công ty con Đồng thời, cần chú trọng đến mối quan hệ giữa tập đoàn và các đối tác bên ngoài như chủ nợ, khách hàng, và các cơ quan quản lý nhà nước.

Sắp xếp và tổ chức lại tập đoàn theo định hướng chiến lược cho từng lĩnh vực kinh doanh là cần thiết để tận dụng lợi thế cạnh tranh, phù hợp với quy mô hoạt động, tốc độ tăng trưởng và điều kiện thị trường Điều này tạo nền tảng cho sự phát triển bền vững và ổn định của tập đoàn.

2.2.2 Nguyên nhân của việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế

Có nhiều nguyên nhân dẫn đến điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Sau đây là một số nguyên nhân chính:

Sự biến động của kinh tế - chính trị thế giới từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đã dẫn đến sự gia tăng xu thế toàn cầu hóa với nhiều biểu hiện mới, bao gồm vai trò quan trọng của tài chính tiền tệ và sự tăng trưởng nhanh chóng của mậu dịch quốc tế Công nghệ thông tin đã thay đổi cách tổ chức sản xuất và đời sống, tạo ra tác động mạnh mẽ đến chính trị và xã hội Quá trình toàn cầu hóa không chỉ mang lại cơ hội phát triển kinh tế cho từng quốc gia mà còn thúc đẩy việc sử dụng hiệu quả nguồn tài nguyên toàn cầu Tuy nhiên, nó cũng đặt ra nhiều thách thức, như rủi ro kinh tế gia tăng và mâu thuẫn giữa kinh tế với chính trị và xã hội, dẫn đến sự giảm sút tính độc lập của quốc gia và tăng cường sự phụ thuộc vào các trung tâm kinh tế lớn Do đó, mỗi nền kinh tế cần điều chỉnh các chiến lược phát triển để duy trì tốc độ tăng trưởng và ổn định.

Thứ hai, xu hướng cải cách và tái cấu trúc nền kinh tế của một số nước

Khủng hoảng tài chính toàn cầu 2008 - 2009 đã thúc đẩy quá trình tái cấu trúc kinh tế thế giới với những đặc trưng chính: chuyển đổi tư duy phát triển sang tăng trưởng bền vững và toàn diện; chuyển đổi mô hình kinh tế quốc gia ưu tiên các mô hình bền vững và thân thiện với môi trường như kinh tế xanh; dịch chuyển mạng lưới sản xuất và chuỗi giá trị sang khu vực Châu Á - Thái Bình Dương; và tăng cường liên kết kinh tế quốc tế và khu vực Xu hướng này mở ra cơ hội cho các nền kinh tế điều chỉnh chính sách phát triển bền vững, nhưng cũng đặt ra thách thức cho những nền kinh tế không thích nghi, khiến họ đối mặt với nguy cơ tụt hậu.

Trước những yêu cầu cấp thiết của nền kinh tế toàn cầu, nhiều quốc gia như Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc và Việt Nam đã tiến hành tái cấu trúc nền kinh tế Một phần quan trọng trong quá trình này là tái cấu trúc các tập đoàn kinh tế, trong đó các quốc gia tập trung vào việc điều chỉnh và chuyển đổi mô hình quản lý của các tập đoàn để phù hợp với mục tiêu của quá trình tái cấu trúc.

Sự gia tăng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp hiện nay Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế thúc đẩy cạnh tranh giữa các quốc gia và doanh nghiệp, buộc những đơn vị không đủ năng lực phải rời bỏ thị trường Để tồn tại và phát triển, doanh nghiệp cần không ngừng cải tiến hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt trong bối cảnh cuộc cách mạng khoa học công nghệ đang diễn ra mạnh mẽ Người tiêu dùng ngày càng có yêu cầu cao về chất lượng sản phẩm, trong khi nhu cầu của họ thì vô tận Do đó, doanh nghiệp nào nhạy bén và linh hoạt hơn sẽ có cơ hội thành công lớn hơn Việc cải tiến và đổi mới hoạt động kinh doanh, đặc biệt là điều chỉnh mô hình quản lý và chiến lược phát triển, trở thành yêu cầu thiết yếu trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng khốc liệt.

Chiến lược kinh doanh là kế hoạch tổng hợp và thống nhất của doanh nghiệp, định hướng phát triển trong tương lai, xác định mục tiêu và phân bổ nguồn lực hiệu quả Nó giúp doanh nghiệp nhận diện cơ hội và nguy cơ, từ đó đưa ra quyết định nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động Việc xây dựng chiến lược cần dựa vào khách hàng, bản thân doanh nghiệp và đối thủ cạnh tranh, nhằm tạo ra sự khác biệt và thỏa mãn nhu cầu khách hàng tốt hơn Một chiến lược kinh doanh thành công đảm bảo sự tương xứng với đối thủ, tạo lợi thế cạnh tranh và nâng cao khả năng của doanh nghiệp.

Tập đoàn kinh tế ở một số nước đang gặp phải những bất cập trong hoạt động do hạn chế trong công tác quản lý Mục tiêu và hiệu quả hoạt động của các tập đoàn này chưa tương xứng với tiềm lực hiện có Nhiều tập đoàn thay vì tập trung vào ngành nghề chính và thực hiện nhiệm vụ kinh tế trọng yếu, lại mở rộng đầu tư ngoài ngành mặc dù năng lực tài chính hạn chế Hơn nữa, công tác giám sát và kiểm soát nội bộ vẫn còn nhiều thiếu sót, không phát hiện kịp thời các vấn đề để ngăn chặn tổn thất trong sản xuất kinh doanh Việc đổi mới quản trị tập đoàn, đặc biệt là trong công khai, minh bạch và tăng cường trách nhiệm giải trình của chủ sở hữu, còn chậm trễ.

2.2.3 Nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế

2.2.3.1 Điều chỉnh cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý

Nội dung điều chỉnh về cơ cấu, tổ chức bộ máy quản lý của các tập đoàn kinh tế hướng tới việc đảm bảo các yêu cầu sau:

Tính tối ưu trong quản lý doanh nghiệp yêu cầu thiết lập mối quan hệ hợp lý và năng động giữa các khâu và cấp quản lý, nhằm phục vụ hiệu quả cho mục đích đã đề ra.

Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý được thiết kế để đảm bảo tính linh hoạt, cho phép thích ứng hiệu quả với mọi tình huống phát sinh cả trong và ngoài hệ thống.

Tính tin cậy trong cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý là yếu tố then chốt để đảm bảo thông tin được xử lý chính xác trong hệ thống Điều này giúp tăng cường sự phối hợp nhịp nhàng giữa các hoạt động và nhiệm vụ trong toàn bộ doanh nghiệp.

Tính kinh tế trong tổ chức bộ máy quản lý được đảm bảo bằng cách tối ưu hóa chi phí trong quá trình xây dựng và sử dụng, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất với mức chi phí thấp nhất.

Tính bí mật trong tổ chức bộ máy quản lý là yếu tố then chốt để kiểm soát hệ thống thông tin, ngăn chặn rò rỉ thông tin ra ngoài Điều này quyết định sự tồn tại và phát triển bền vững của doanh nghiệp Nội dung điều chỉnh này sẽ được thực hiện dựa trên các vấn đề liên quan.

Để đạt được hiệu quả cao trong hoạt động quản lý, cần xác định rõ mục tiêu, chức năng và nhiệm vụ mà bộ máy quản lý hướng tới Mục tiêu của bộ máy quản lý phải đồng nhất với mục tiêu sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đảm bảo sự thống nhất và hiệu quả trong mọi hoạt động.

Bối cảnh chung và nguyên nhân của việc điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản

3.1.1 Bối cảnh kinh tế Nhật Bản sau Chiến tranh thế giới thứ hai

3.1.1.1 Suy thoái kinh tế Nhật Bản

Sau Chiến tranh thế giới thứ hai, Nhật Bản nhanh chóng phát triển và thống trị các ngành công nghiệp như máy móc, ô tô và điện tử tiêu dùng Tuy nhiên, sự đầu tư quá mức vào bất động sản đã dẫn đến "kinh tế bong bóng," gây ra suy thoái nghiêm trọng trong thập kỷ 1990, với GDP chỉ tăng 1,8%/năm, thấp hơn nhiều so với các thập kỷ trước Tình trạng phá sản gia tăng và nợ nần chồng chất, dẫn đến tỷ lệ thất nghiệp tăng gấp đôi, mặc dù vẫn thấp hơn so với tiêu chuẩn phương Tây Hệ quả là số vụ tự tử và tội phạm gia tăng, buộc các công ty phải cắt giảm chi phí Tuy nhiên, việc sa thải lao động không phải là giải pháp truyền thống của Nhật Bản trong khủng hoảng kinh tế Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng sự thất bại này xuất phát từ khả năng thích ứng chậm của mô hình kinh tế Nhật Bản trước sự bùng nổ của công nghệ mới, đặc biệt là công nghệ thông tin.

Mỹ đầu tư 4% GDP vào công nghệ thông tin, trong khi Anh, Đức và Pháp chỉ 3%, và Nhật Bản thấp nhất với 2% Chi phí cho công nghệ thông tin của các công ty Nhật Bản chỉ bằng một nửa so với Mỹ, với chỉ 17% hộ gia đình Nhật Bản sở hữu máy vi tính, so với 46% ở Mỹ và 24% ở châu Âu Nhật Bản chậm trong việc nghiên cứu sáng chế công nghệ mới, khi 80% hoạt động R&D tập trung tại các phòng thí nghiệm tư nhân với tầm nhìn ngắn hạn, không khuyến khích sáng tạo Chế độ làm việc suốt đời kìm hãm tài năng trong các tập đoàn lớn, trong khi công nghệ thông tin và Internet bị coi là “quá mạo hiểm” bởi các ngân hàng, cùng với quy định chặt chẽ của thị trường vốn đã hạn chế sự phát triển của doanh nghiệp công nghệ mới.

Nhật Bản đang đối mặt với những đánh giá không mấy lạc quan về nền kinh tế do những đặc điểm cố hữu khó khắc phục Trong suốt thập kỷ 1990, nước này đã bỏ lỡ cơ hội và không giải quyết được những vấn đề căn bản trong thể chế kinh tế, chính trị và tài chính Vì vậy, các chính phủ Nhật Bản quyết tâm cải cách mô hình kinh tế, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng, nhằm mở cửa ra thế giới và nâng cao khả năng cạnh tranh quốc tế.

Mỹ đang đẩy mạnh ứng dụng công nghệ tiên tiến để giữ vững vị trí hàng đầu trong nền kinh tế toàn cầu Để thoát khỏi tình trạng trì trệ và duy trì sức mạnh kinh tế, Nhật Bản cần thực hiện các cải cách mạnh mẽ trước xu thế toàn cầu hóa Việc tự do hóa thương mại và đầu tư sẽ thúc đẩy thay đổi trong cấu trúc công nghiệp, giúp Nhật Bản thích ứng với vấn đề già hóa dân số và giảm áp lực xã hội, chính trị do bất cân bằng vùng Hơn nữa, Nhật Bản cần điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế và phát triển các chính sách để theo kịp “nền kinh tế thông tin”, đặc biệt thông qua cải cách giáo dục ở cấp tiểu học nhằm giảm tải học tập.

Nhật Bản đang đối mặt với thách thức lớn trong việc khôi phục vị thế kinh tế sau hơn một thập kỷ trì trệ, với nhiệm vụ quan trọng là thúc đẩy tính sáng tạo và đầu tư cho hoạt động R&D tại các trường đại học Đặc biệt, cần chuyển hướng nghiên cứu ứng dụng sang các phát minh sáng tạo để tạo ra những bước đột phá mới trong nền kinh tế.

Kể từ năm 1988, Nhật Bản đã trải qua sự sụt giảm nghiêm trọng trong tỷ lệ tăng trưởng hàng năm của GDP thực tế Đặc biệt, vào năm 1993, GDP thực tế giảm 0,2%, đánh dấu tình hình kinh tế tồi tệ nhất kể từ năm 1974 khi GDP giảm 0,6% do cuộc Khủng hoảng Dầu mỏ lần đầu Cuộc suy thoái này được đánh giá là mang tính chất cơ cấu hơn là chu kỳ, với nhiều nhà kinh tế chỉ ra rằng có một số nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng này.

Sự xì hơi của nền kinh tế bong bóng

Sau khi "kinh tế bong bóng" vỡ vào đầu thập niên 1990, Nhật Bản bước vào giai đoạn trì trệ kéo dài với tốc độ tăng trưởng GDP thực tế bình quân hàng năm chỉ đạt 0.5% trong giai đoạn 1991-2000 Thời kỳ này được gọi là "thập kỷ mất mát", phản ánh sự suy giảm đáng kể so với thời kỳ phát triển trước đó.

Sự sụp đổ của nền "kinh tế bong bóng" đã gây áp lực lớn lên các tổ chức tài chính Nhật Bản, làm giảm chi tiêu của người tiêu dùng và đầu tư kinh doanh Nhiều ngân hàng Nhật Bản đang phải đối mặt với gánh nặng nợ nần, trong khi thị trường chứng khoán Tokyo đang giảm giá trị cổ phiếu nhanh chóng Tuy nhiên, Nhật Bản vẫn có khả năng khắc phục tình trạng thiếu vốn nghiêm trọng nhờ vào nguồn tiền tiết kiệm lớn và tỷ lệ đầu tư cao, điều này được thể hiện qua các khoản thặng dư lớn Mặc dù vậy, các doanh nghiệp Nhật Bản dường như không còn mặn mà với việc tiếp cận nguồn vốn chi phí thấp, điều từng mang lại cho họ lợi thế cạnh tranh trong quá khứ.

Hộp 3.4: Bong bóng tài sản của Nhật Bản

Nền kinh tế Nhật Bản đã trải qua một giai đoạn tăng trưởng thần kỳ kéo dài gần 40 năm, từ sau Chiến tranh Thế giới thứ hai đến giữa những năm 1980, dẫn đến sự giàu có vượt bậc cho đất nước này Sự thịnh vượng nhanh chóng đã tạo ra tâm lý lạc quan trong dân chúng, trong khi các doanh nghiệp tin tưởng vào một tương lai phát triển bền vững, thúc đẩy đầu tư và mua sắm tài sản cố định Bên cạnh đó, nhu cầu về nhà đất gia tăng do quỹ đất ngày càng hạn hẹp đã góp phần hình thành cơn sốt trên thị trường chứng khoán và bất động sản.

Chính sách giữ đồng Yên Nhật ở mức thấp và ổn định nhằm thúc đẩy xuất khẩu đã tạo điều kiện cho sự hình thành các đại doanh nghiệp sản xuất và xuất khẩu lớn trên toàn cầu, đồng thời gia tăng ảnh hưởng của họ trong việc hoạch định chính sách tại Nhật Bản Việc duy trì đồng Yên ở mức thấp trong nhiều năm cùng với tốc độ tăng trưởng cao liên tục đã thu hút dòng vốn quốc tế vào Nhật Bản, góp phần làm gia tăng giá trị tài sản và tạo ra bong bóng giá.

Cán cân thanh toán thặng dư của Hoa Kỳ ngày càng lớn đã khiến Nhật Bản phải từ bỏ việc neo đồng Yên vào USD, tiến tới thả nổi đồng Yên để trở về giá trị thực (Hiệp định Plaza, 1985) Sự tăng giá mạnh của đồng Yên đã gây khó khăn cho các công ty xuất khẩu và đe dọa tăng trưởng kinh tế Nhật Bản, buộc Ngân hàng Trung ương Nhật Bản (Boj) phải nới lỏng tiền tệ bằng cách hạ lãi suất cơ bản nhằm ngăn chặn suy thoái và phục hồi xuất khẩu Lạm phát thấp dưới 1% cũng ủng hộ việc không cần thắt chặt chính sách tiền tệ theo quan điểm truyền thống, trong khi chính sách tài khoá được mở rộng để hỗ trợ tăng trưởng Tuy nhiên, thặng dư vốn đầu tư đã dẫn đến bong bóng giá tài sản trong thị trường chứng khoán và bất động sản vào cuối những năm 1980.

Khi thị trường chứng khoán Nhật Bản tăng trưởng quá nóng, Chính phủ đã can thiệp mạnh mẽ dẫn đến sự sụp đổ của bong bóng giá chứng khoán Khi lợi nhuận từ chứng khoán giảm, dòng tiền đã chuyển hướng sang bất động sản như một nơi trú ẩn an toàn Tuy nhiên, sau khi bong bóng bất động sản vỡ do chính sách hạn chế tín dụng và tăng thuế đất, nợ xấu nhanh chóng gia tăng trong hệ thống ngân hàng Các doanh nghiệp gặp khó khăn do tỷ giá cao và chính sách thắt chặt, dẫn đến nhiều công ty phá sản và khối nợ xấu trong ngân hàng tăng lên đáng kể.

Nguồn: Nguyễn Đức Thành (2013): Báo cáo thường niên kinh tế Việt Nam 2013, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội; trang 190-191

Khả năng sản xuất dư thừa

Nền kinh tế Nhật Bản đang đối mặt với tình trạng sản xuất dư thừa do những đầu tư mạnh mẽ vào nhà máy và thiết bị trong thập kỷ 1980 Trước suy thoái kinh tế toàn cầu, các công ty Nhật Bản gặp khó khăn trong việc tiêu thụ sản phẩm giữa bối cảnh cạnh tranh quốc tế gay gắt Hệ quả là họ buộc phải thu hẹp quy mô sản xuất, giảm nhân lực và chịu tổn thất tài chính lớn Việc tuyển dụng lao động không ổn định không chỉ làm giảm lòng tin của người tiêu dùng mà còn làm trầm trọng thêm tình hình suy thoái kinh tế.

Sự tăng giá của đồng Yên

Nhật Bản phải đối đầu với một môi trường kinh doanh giao dịch bất lợi

Sự tăng giá của đồng Yên đã làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa Nhật Bản so với hàng hóa nước ngoài, với tài khoản thặng dư cao nhất đạt 130 tỷ đôla Mỹ vào năm 1992 Mặc dù thặng dư này phản ánh tỷ lệ tiết kiệm cao của quốc gia, nhưng lại không cần thiết cho việc duy trì giá trị cao của đồng Yên Nếu Nhật Bản có thể nhanh chóng xoay vòng thặng dư ngoại tệ, áp lực lên đồng Yên sẽ giảm Tuy nhiên, ngành tài chính Nhật Bản đã siết chặt chu trình này, cùng với việc giảm lợi nhuận và tăng chi phí tái cơ cấu, các tập đoàn đa quốc gia Nhật Bản có xu hướng chuyển đổi thu nhập từ USD sang Yên, làm gia tăng áp lực lên đồng Yên.

Sự phục hồi kinh tế yếu ớt của Mỹ và Tây Âu đã khiến Nhật Bản gặp khó khăn trong việc chuyển đổi tình hình suy thoái nội bộ ra bên ngoài, như trong quá khứ Nguy cơ căng thẳng kinh tế gia tăng đã làm giảm khả năng thâm nhập của Nhật Bản vào các thị trường Mỹ và Châu Âu Áp lực chính trị tại Mỹ đang gia tăng, buộc Nhật Bản phải giảm thặng dư thương mại song phương và tự do hóa thị trường nội địa Nhật Bản đang gặp khó khăn trong việc theo đuổi chiến lược hồi phục kinh tế dựa vào xuất khẩu, đồng thời khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế cũng đang suy giảm so với các quốc gia công nghiệp phát triển.

Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai đến đầu thập kỷ 1990

3.2.1 Nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản

3.2.1.1 Xây dựng mô hình quản lý mới tập đoàn: Sự ra đời các Keiretsu

Sau chiến tranh, Nhật Bản nhanh chóng phục hồi kinh tế nhờ vào các cuộc cải cách và sự ra đời của nhiều tổ chức kinh tế tư nhân Vào tháng 4 năm 1946, Hội Đồng hữu kinh tế - Keizai Doyukai được thành lập bởi những nhà kinh doanh như Kanichi và Otsuka, nhằm phê phán những người kinh doanh lỗi thời và khẳng định vị trí của mình trong bối cảnh dân chủ hóa sau chiến tranh Đồng thời, nhiều tổ chức khác như Keidanren cũng được thành lập để đối phó với phong trào công đoàn, kêu gọi bảo vệ quyền kinh doanh Các nhà kinh doanh Nhật Bản sau Thế chiến II được chia thành ba loại chính.

Những nhà kinh doanh trẻ đã được thăng chức để thay thế các nhà lãnh đạo của những tập đoàn lớn bị loại bỏ qua quá trình giải thể Zaibatsu và thanh lọc kinh tế Điển hình như Chikara Karuta từ hãng chế tạo Hitachi, Ishisaka từ xí nghiệp đồ điện Toshiba, và Nishiyama từ hãng sắt thép Kawasaki.

Sau chiến tranh, nhiều doanh nhân trẻ và các nhà lãnh đạo cấp cao trong các công ty trung, tiểu đã nhanh chóng nắm bắt cơ hội từ việc giải thể Zaibatsu, tạo ra một môi trường cạnh tranh mạnh mẽ Những công ty mới này đã phát triển vượt bậc, trở thành những tập đoàn lớn với những nhà lãnh đạo xuất sắc như Kosuke Matsushita của công ty điện Matsushita và Sazo Idemitsu của công ty Idemitsu Hun San.

Sau chiến tranh, các doanh nghiệp mới nổi lên tại Nhật Bản đã chứng tỏ khả năng làm ăn hiệu quả, trở thành một lực lượng quan trọng trong lĩnh vực sản xuất kinh tế.

Ví dụ: Oh Ibuka (Sony), Tsuyoshi Mitarai (Canon )…

Dưới tác động của các cuộc cải cách toàn diện, các tập đoàn tài phiệt ở Nhật Bản đã bị giải thể, tạo điều kiện cho sự ra đời của nhiều doanh nghiệp mới trong bối cảnh tự do sau chiến tranh Những doanh nhân này mang tinh thần đổi mới, tiếp thu công nghệ từ Mỹ và phương Tây, rồi cải biến thành kỹ thuật Nhật Bản để sản xuất các sản phẩm tốt hơn, đẹp hơn với giá cả hợp lý Các nhà lãnh đạo mới đã tích cực cải cách và đầu tư vào thiết bị, giúp kinh tế Nhật Bản thích ứng với môi trường thay đổi Họ áp dụng các phương pháp kinh doanh sáng tạo và đổi mới kỹ thuật, điều mà trước đây ít thấy ở các nhà lãnh đạo sản xuất Chẳng hạn, vào năm 1951, công ty Toyo Rayon đã quyết định nhập khẩu công nghệ sản xuất Nilon 66 từ Mỹ, dẫn đến sự phát triển mạnh mẽ của ngành tơ sợi tổng hợp Năm 1953, Sony cũng đã mua công nghệ bán dẫn từ Western Electronic và thành công trong việc sản xuất radio bán dẫn.

Các nhà kinh doanh Nhật Bản đóng vai trò quan trọng trong việc hướng dẫn hành chính, lập kế hoạch và xác định mục tiêu tương lai Với tính cách năng động, sáng tạo và liêm chính, bộ máy quan chức Nhật Bản đã chịu ảnh hưởng của các cuộc cải cách dân chủ sau chiến tranh, dẫn đến sự thay đổi trong tư duy kinh doanh Những cải cách kinh tế đã thiết lập các thể chế và cơ chế mới, chuyển đổi từ cấu trúc độc quyền sang cấu trúc cạnh tranh dân chủ, đồng thời chuyển từ nền kinh tế thị trường hạn chế sang cơ chế thị trường đầy đủ.

Các cải cách kinh tế sau chiến tranh do SCAP khởi xướng đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao khả năng cạnh tranh của nền kinh tế Nhật Bản Ba cuộc cải cách lớn bao gồm cải cách ruộng đất, giải thể các doanh nghiệp độc quyền và thanh lọc kinh tế đã loại bỏ các yếu tố hạn chế thị trường Những cải cách này đã tạo ra các lĩnh vực cạnh tranh, hình thành các chủ thể cạnh tranh và xây dựng quan hệ hợp tác trong nội bộ doanh nghiệp, từ đó thúc đẩy sự phát triển kinh tế Nhật Bản.

Vào những năm 1950, sự biến đổi nhanh chóng của hoàn cảnh quốc tế, đặc biệt là cuộc chiến tranh Triều Tiên, đã tạo điều kiện thuận lợi cho sự phục hồi kinh tế Nhật Bản và sự phát triển của các công ty Nhật Bản Các doanh nghiệp Nhật Bản trở thành nhà cung cấp nhu yếu phẩm cho quân đội Mỹ, từ đó đẩy mạnh sản xuất và đa dạng hóa sản phẩm, khôi phục các mối quan hệ kinh doanh vốn có từ trước Những mối quan hệ này không chỉ được củng cố trong lĩnh vực sản xuất mà còn mở rộng tới ngân hàng, hình thành các xí nghiệp liên doanh Đây chính là khởi đầu cho việc các công ty xuyên quốc gia Nhật Bản chi phối các chính sách quốc gia và tham gia sâu vào hoạch định, thực thi các chính sách kinh tế của Chính phủ Trong giai đoạn này, sản lượng công nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực đóng tàu và sản xuất sắt thép, tăng trưởng nhanh chóng.

Sau khi chiến tranh kết thúc, Nhật Bản đã khởi đầu quá trình xây dựng các nhà máy và khu công nghiệp mới, đặc biệt là ở miền duyên hải, nơi có khả năng nhập khẩu nguyên liệu với giá rẻ Sản lượng và doanh thu từ ngành thép tăng trưởng mạnh mẽ, cùng với sự phát triển của ngành đóng tàu và nhiều ngành công nghiệp khác Những lĩnh vực mới như điện tử, sản xuất ô tô và đồ điện cũng bắt đầu hình thành, dẫn đến sự xuất hiện của các thương hiệu hàng đầu thế giới như Sony, Panasonic và Honda.

Khi Zaibatsu bị phá vỡ, các công ty đã tái liên kết thông qua việc mua cổ phần, dẫn đến sự hình thành các tập đoàn Keiretsu Sự ra đời của Keiretsu ở Nhật Bản bắt đầu từ giữa những năm 1950, với các Keiretsu nguyên mẫu xuất hiện trong thời kỳ "phát triển thần kỳ của nền kinh tế" sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Vào những năm nửa cuối thập kỷ 1950, Nhật Bản bắt đầu quá trình phục hồi và phát triển các Tập đoàn kinh tế, dựa trên tư tưởng phương Tây về tầm quan trọng của cơ chế thị trường Để nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế và đối phó với sự đầu tư của các công ty đa quốc gia, Bộ Công nghiệp và Thương mại Nhật Bản đã tích cực khuyến khích việc liên kết các doanh nghiệp, hình thành các liên minh gọi là Keiretsu.

3.2.1.2.Mô hình quản lý của Keiretsu

Trong tiếng Nhật, "Keiretsu" chỉ một chuỗi hoặc hệ thống các công ty liên kết với nhau, được hình thành từ việc xóa bỏ các Zaibatsu Các công ty này mua cổ phần lẫn nhau, tạo nên các liên minh liên kết theo chiều ngang giữa các ngành nghề khác nhau.

Keiretsu là một hệ thống các công ty thành viên được tổ chức xung quanh một định chế tài chính, thường là ngân hàng, đóng vai trò cổ đông lớn và cung cấp tài trợ cũng như đảm bảo thanh khoản cho các công ty này Tương tự như các Chaebol ở Hàn Quốc, Keiretsu tại Nhật Bản được chính phủ ưu ái Sau chiến tranh, Nhật Bản hình thành 6 Keiretsu lớn như Mitsubishi, Mitsui, Sumitomo, Dai-Ichi Kangyo, Fuyo và Sanwa, mỗi Keiretsu đều có ngân hàng riêng Ngoài các tập đoàn lớn này, còn tồn tại nhiều Keiretsu nhỏ hơn từ các công ty như Nissan, Hitachi và Hankyo-Toho Group.

Tập đoàn Mitsubishi, một trong 6 Keiretsu lớn nhất Nhật Bản, được xây dựng dựa trên ngân hàng Mitsubishi cùng với các công ty thành viên chủ chốt trong lĩnh vực công nghiệp nặng Với tổng doanh thu hàng năm đạt 175 tỷ USD và 160 công ty thành viên, trong đó 124 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán Tokyo, tập đoàn này cho thấy sức mạnh và tầm ảnh hưởng lớn trong nền kinh tế Nhật Bản Mặc dù mỗi công ty hoạt động độc lập, nhưng sự liên kết nội bộ của tập đoàn được dẫn dắt và định hướng bởi Ngân hàng Mitsubishi.

Keiretsu là một mô hình kinh doanh quan trọng, tập trung vào việc thiết lập mối liên kết chặt chẽ giữa các công ty thông qua việc mua cổ phần lẫn nhau Phương thức này phổ biến trong mối quan hệ giữa các nhà sản xuất và nhà thầu phụ, giúp tăng cường sự hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau Một ví dụ điển hình là Nissan Motor, trước khi được cải tổ bởi Carlos Ghosn, đã đầu tư cổ phần vào khoảng 1.400 công ty, chủ yếu là các nhà cung cấp và đối tác Thông thường, các nhà sản xuất lớn sẽ nắm giữ cổ phần trong hàng trăm công ty liên quan, tạo nên một mạng lưới kinh doanh vững mạnh và bền vững.

Hộp 3.2: Keiretsu và sự thần kỳ châu Á

Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ 1990 đến nay

3.3.1.Những khó khăn, hạn chế, thách thức đối với các tập đoàn kinh tế

Nhật Bản và nhu cầu phải điều chỉnh mô hình quản lý

Thời kỳ suy thoái của Nhật Bản vào những năm 1990 đã ảnh hưởng sâu sắc đến các Keiretsu, khi nhiều ngân hàng lớn phải đối mặt với nợ xấu và buộc phải sát nhập hoặc phá sản Sự kiện này đã làm mờ ranh giới giữa các Keiretsu, như sự hợp nhất của Ngân hàng Sumitomo và Ngân hàng Mitsui thành Sumitomo Mitsui Banking Corporation vào năm 2001, hay Ngân hàng Sanwa trở thành một phần của Ngân hàng Tokyo - Mitsubishi UFJ Đồng thời, nhiều công ty bên ngoài hệ thống Keiretsu như Sony và Toyota đã cải thiện vai trò đối tác của họ Những yếu tố này đã dẫn đến quan niệm rằng hệ thống Keiretsu cũ không còn hiệu quả, dẫn đến việc nới lỏng các liên minh Keiretsu Mặc dù vẫn tồn tại, các Keiretsu hiện nay không còn sự tập trung hay liên kết như trước những năm 1990.

Cụ thể như trường hợp của Nissan:

Khi tiếp quản Nissan Motors vào tháng 10 năm 1999, tập đoàn này đang đối mặt với nguy cơ phá sản do khoản nợ lên tới 20 tỷ USD và gần như không có khả năng thanh toán Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là cấu trúc Keiretsu phức tạp Để khắc phục sự dàn trải trong mối quan hệ với 1.400 công ty khác, Carlos Ghosn đã quyết định bán hết cổ phần mà Nissan nắm giữ, chỉ giữ lại 4 nhà cung cấp Nhờ vào nhiều biện pháp cải cách khác, chỉ sau một năm, Nissan đã lội ngược dòng với lợi nhuận đạt 2,7 tỷ USD và vươn lên vị trí thứ hai trong ngành sản xuất ôtô tại Nhật Bản, chỉ sau Toyota.

Nissan đã gia tăng đầu tư vào các nhà cung cấp được chọn lọc, cụ thể là trong tháng 1 năm 2005, công ty đã nâng tỷ lệ sở hữu trong tập đoàn Calsonic Kansei, chuyên sản xuất mô-đun lắp ráp từ linh kiện phức tạp, từ 28% lên 42%.

Nissan đã gây ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng và phương thức hoạt động của Keiretsu, khiến nhiều công ty Nhật Bản, dù có truyền thống bảo thủ, phải xem xét và điều chỉnh lại quan điểm của mình.

Khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thập kỷ “mất mát thứ 3” của Nhật Bản

Sau hai thập niên mất mát, kinh tế Nhật Bản bước vào thiên niên kỷ mới với nhiều kỳ vọng, nhưng tình hình thực tế vẫn không khả quan khi tăng trưởng đạt mức rất thấp Trong bối cảnh phục hồi chậm chạp, cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 đã xảy ra, gây tác động mạnh mẽ đến mọi lĩnh vực và các nền kinh tế hàng đầu Theo báo cáo của Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD), dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng.

2008 của các nước này giảm 35% và dòng vốn ra giảm tới 19% so với năm

Năm 2007, các ngành kinh tế gặp khó khăn dẫn đến tình trạng thiếu việc làm và gia tăng nghèo đói, với khoảng 6,5-7,4% dân số thế giới không có việc làm theo Tổ chức Lao động Thế giới Tình hình trở nên nghiêm trọng khi vào tháng 8/2011, Chủ tịch Ngân hàng Thế giới Robert Zoellick cảnh báo về nguy cơ kinh tế toàn cầu Chuyên gia kinh tế Nourel cũng nhận định rằng các nền kinh tế phát triển đang bị kẹt giữa tăng trưởng trì trệ và nhu cầu cần các gói kích thích kinh tế lớn Tại Nhật Bản, tình hình trở nên bi quan hơn khi đất nước này đối mặt với thảm họa động đất và sóng thần vào tháng 3/2011, cho thấy thập kỷ mất mát thứ ba đang hiện hữu rõ ràng Sự bất ổn kinh tế toàn cầu đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến Nhật Bản, tác động trực tiếp đến "số phận và tương lai" của các TNCs nước này, làm gia tăng rủi ro và gây tổn thương lớn cho nền kinh tế Nhật Bản.

Hộp 3.4: Tác động ngắn hạn của thiên tai ở Nhật Bản

Trận động đất và sóng thần Nhật Bản ngày 11/3/2011 ước tính gây tổn thất khoảng 3-5% GDP, ảnh hưởng trực tiếp đến khu vực chiếm 4% GDP và 4,5% dân số Khoảng 450 nghìn người mất nhà cửa và hơn 20.000 người đã chết và mất tích Mặc dù trận động đất này có quy mô tương đương với trận động đất Kobe năm 1995, nhưng tác động lớn hơn nhiều, bao gồm khủng hoảng hạt nhân, số người thiệt mạng và thiệt hại tài sản Trận động đất đã làm hư hại khoảng 7,3% nguồn cung điện của Nhật Bản, và mặc dù nguồn cung điện đã phục hồi vào tháng 5, các nhà máy điện hạt nhân sẽ bị đóng cửa lâu dài Hiện tại, nguồn cung điện ở Tokyo, nơi chiếm 40% GDP của Nhật Bản, đã vượt cầu khoảng 20% nhờ vào các nỗ lực cắt giảm tiêu thụ tự nguyện.

Trận động đất và sóng thần năm nay đã gây ra tác động nghiêm trọng đến nền kinh tế Nhật Bản, với sản xuất công nghiệp giảm 15,5% so với tháng 2 do mất điện và tiêu dùng sụt giảm Mức tiêu thụ bán lẻ cũng giảm 8,5% so với năm trước, trong đó tiêu thụ máy móc và thiết bị giảm 17% Ngành công nghiệp ô tô dự kiến sẽ suy giảm mạnh, giảm khoảng một nửa sản lượng cho đến quý II năm 2011 GDP ước tính giảm 3,7% trong quý I và có thể giảm thêm 3-7% trước khi các nỗ lực tái thiết được triển khai Tác động đến khu vực không quá nặng nề, chỉ làm giảm 0,5% điểm phần trăm trong quý đầu năm, ảnh hưởng đến các quốc gia có quan hệ thương mại lớn như Malaysia, Việt Nam và Thái Lan.

Thách thức đối với mô hình tổ chức và hiệu quả của TNCs

Các tập đoàn kinh tế đa quốc gia (TNCs) Nhật Bản nổi tiếng với mô hình tổ chức và quản lý hiệu quả, đã tích cực mở rộng mạng lưới sản xuất toàn cầu để khai thác lợi thế và gia tăng lợi nhuận Tuy nhiên, trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế thế giới, các TNCs Nhật Bản gặp nhiều thách thức về quy mô và cơ cấu cồng kềnh, khó thích ứng với thay đổi Tình trạng thất nghiệp gia tăng đã khiến việc hợp tác với nhà nước để giải quyết vấn đề này trở nên cấp bách hơn Việc cắt giảm lao động trở nên phổ biến, như trường hợp của Tập đoàn Viễn thông NEC với 20.000 chỗ làm bị cắt giảm và Hitachi buộc phải cho 7.000 nhân viên nghỉ việc Trong khi trước đây, các TNCs Nhật Bản mạnh mẽ chuyển sản xuất ra nước ngoài và duy trì trụ sở chính tại Nhật, thì hiện nay, họ cần thay đổi mô hình quản lý để phản ứng linh hoạt với thực tế Việc tìm kiếm chiến lược kinh doanh mới và mô hình tổ chức phù hợp đang là thách thức lớn mà các TNCs Nhật Bản phải đối mặt trong thời gian tới.

Cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu ngày càng mở rộng và

Trước hết, cạnh tranh chuyển từ cấp độ doanh nghiệp sang các mạng sản xuất với nhau

Sự liên kết giữa các công ty và nhóm công ty trong sản xuất, phân phối và hỗ trợ tiêu dùng đã tạo ra mạng sản xuất mở rộng cả trong nước và quốc tế Các công ty TNCs hàng đầu Nhật Bản đã thành công trong việc này, nhưng cũng phải đối mặt với chiến lược cạnh tranh phức tạp để giữ vững thị phần Trong bối cảnh kinh tế khó khăn, việc thu hút khách hàng trở nên thách thức hơn, đòi hỏi các doanh nghiệp không chỉ nâng cao năng lực mà còn cải thiện toàn bộ hệ thống tập đoàn Sự chuyển mình từ tổ chức đơn lẻ sang hình thái tập thể và từ công ty đa quốc gia sang mạng sản xuất toàn cầu đã làm tăng cường tính cạnh tranh trên thị trường.

Vấn đề hiện nay không chỉ nằm ở cạnh tranh trong thị trường nội địa mà còn mở rộng ra toàn cầu, đặc biệt là giữa các công ty hàng đầu trong các mạng sản xuất.

Trong bối cảnh cạnh tranh toàn cầu, các TNCs từ các nền kinh tế mới nổi đang gia tăng sức mạnh đáng kể Theo báo cáo của Liên Hợp Quốc, có khoảng 21.500 TNCs tại các quốc gia mới nổi, với số lượng TNCs trong nhóm BRIC tăng từ 15 lên 62 công ty trong danh sách 500 công ty lớn nhất thế giới chỉ trong hai năm Dự báo, 70% tăng trưởng toàn cầu trong hai năm tới sẽ đến từ các thị trường mới nổi, trong đó Trung Quốc và Ấn Độ đóng góp 40% Các TNCs này không chỉ tận dụng lợi thế nội địa mà còn áp dụng nhiều chiến lược linh hoạt, như bản địa hóa nhân tài và mở rộng hệ thống marketing Đặc biệt, các nền kinh tế châu Á như Trung Quốc, Hàn Quốc và Đài Loan đã học hỏi kinh nghiệm từ Nhật Bản và trở thành đối thủ cạnh tranh mạnh mẽ, với Trung Quốc hiện là nền kinh tế lớn thứ hai thế giới Điều này tạo ra áp lực lớn đối với kinh tế Nhật Bản và các TNCs của nước này.

Cạnh tranh ngày càng trở nên quyết liệt và toàn diện, ảnh hưởng đến mọi khía cạnh từ chiến lược phát triển kinh doanh, tổ chức sản xuất, phân phối, tiêu thụ, đến đầu tư R&D và đào tạo, sử dụng nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao.

Các TNCs Nhật Bản đang đối mặt với nhiều thách thức, yêu cầu họ phải điều chỉnh và đổi mới một cách triệt để để duy trì và phát triển hoạt động trong nước cũng như toàn cầu Đây là một bài toán khó khăn, đặc biệt khi cả các TNCs và nền kinh tế Nhật Bản đang phải vượt qua nhiều khó khăn từ cả bên trong lẫn bên ngoài.

3.3.2.Quá trình và nội dung điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản từ 1990 đến nay

3.3.2.1 Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản trong thập niên cuối thế kỷ XX (1990 - 2000)

BÀI HỌC KINH NGHIỆM TỪ QUÁ TRÌNH ĐIỀU CHỈNH MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA CÁC TẬP ĐOÀN KINH TẾ NHẬT BẢN VÀ MỘT SỐ HÀM Ý ĐỐI VỚI VIỆT NAM

Ngày đăng: 29/06/2022, 05:59

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. Ariyoshi Akira (2012), Bài học từ bong bóng tài sản của Nhật Bản, tham luận tại Hội thảo chia sẻ kinh nghiệm trong quản lý kinh tế vĩ mô, Bộ Tài chính Việt Nam Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bài học từ bong bóng tài sản của Nhật Bản
Tác giả: Ariyoshi Akira
Năm: 2012
2. Athur M. Whitehill (1996), Quản trị Nhật Bản – truyền thống và quá độ, Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia xuất bản Sách, tạp chí
Tiêu đề: Quản trị Nhật Bản – truyền thống và quá độ
Tác giả: Athur M. Whitehill
Năm: 1996
3. Ngô Xuân Bình – Hồ Việt Hạnh (2001), Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI, NXB. Khoa học xã hội, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Nhật Bản những năm đầu thế kỷ XXI
Tác giả: Ngô Xuân Bình – Hồ Việt Hạnh
Nhà XB: NXB. Khoa học xã hội
Năm: 2001
4. Các lý thuyết kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực tế Việt Nam, Nxb ĐHQGHN, 2011 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Các lý thuyết kinh tế trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu và thực tế Việt Nam
Nhà XB: Nxb ĐHQGHN
5. Nguyễn Đình Cung (2012), Áp đặt kỷ luật của thị trường cạnh tranh thúc đẩy tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước. Tài liệu hội thảo “Diễn đàn kinh tế mùa Xuân”tổ chức tại Tp Đà Nẵng Sách, tạp chí
Tiêu đề: Áp đặt kỷ luật của thị trường cạnh tranh thúc đẩy tái cơ cấu Doanh nghiệp nhà nước. "Tài liệu hội thảo “Diễn đàn kinh tế mùa Xuân
Tác giả: Nguyễn Đình Cung
Năm: 2012
7. Minh Châu (2005), Tập đoàn kinh tế và một số vấn đề về xây dựng tập đoàn kinh tế ở Việt Nam, NXB Bưu Điện, Hà Nội, 2005 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập đoàn kinh tế và một số vấn đề về xây dựng tập đoàn kinh tế ở Việt Nam
Tác giả: Minh Châu
Nhà XB: NXB Bưu Điện
Năm: 2005
8. Trần Sỹ Chương (2007), Một cách nhìn khác về tập đoàn kinh tế, tuanvietnam.net Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một cách nhìn khác về tập đoàn kinh tế
Tác giả: Trần Sỹ Chương
Năm: 2007
9. Chương trình khoa học công nghệ cấp nhà nước, KHXH – 06. Đề tài KHXH 06 – 05( 2000), “Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới, chính sách của ta”, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản chất, đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới, chính sách của ta
10. Chương trình khoa học cấp Nhà nước (2000), Bản chất , đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới, chính sách của ta, Hà nội, NXB KHXH Sách, tạp chí
Tiêu đề: Bản chất , đặc điểm và vai trò của các công ty xuyên quốc gia và đa quốc gia trên thế giới, chính sách của ta
Tác giả: Chương trình khoa học cấp Nhà nước
Nhà XB: NXB KHXH
Năm: 2000
11. Huỳnh Tuấn Cường (2009), Một số suy nghĩ về tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Ứng dụng, số 10, 2009 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Một số suy nghĩ về tập đoàn kinh tế nhà nước Việt Nam, Tạp chí Khoa học & Ứng dụng
Tác giả: Huỳnh Tuấn Cường
Năm: 2009
12. Trần Tiến Cường (2005), Tập đoàn kinh tế: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế - ứng dụng vào Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập đoàn kinh tế: Lý luận và kinh nghiệm quốc tế - ứng dụng vào Việt Nam
Tác giả: Trần Tiến Cường
Nhà XB: NXB Giao thông vận tải
Năm: 2005
13. Trần Tiến Cường (2005), Tập đoàn kinh tế - lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam, NXB Giao thông vận tải, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Tập đoàn kinh tế - lý luận và kinh nghiệm quốc tế ứng dụng vào Việt Nam
Tác giả: Trần Tiến Cường
Nhà XB: NXB Giao thông vận tải
Năm: 2005
16. Công Văn Dị (2005), Liên kết kinh tế trong công ty mẹ - công ty con ở nước ta: vấn đề và giải pháp, Tạp chí nghiên cứu kinh tế, (số 329), tr.18- 22 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Liên kết kinh tế trong công ty mẹ - công ty con ở nước ta: vấn đề và giải pháp
Tác giả: Công Văn Dị
Năm: 2005
17. Nguyễn Ngọc Diên, Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương, Phạm Lan Hương, Hoàng Bình (1996), Đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia ở các nước đang phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Đầu tư trực tiếp của các công ty đa quốc gia ở các nước đang phát triển
Tác giả: Nguyễn Ngọc Diên, Bùi Thanh Sơn, Nguyễn Thái Yên Hương, Phạm Lan Hương, Hoàng Bình
Nhà XB: NXB Chính trị quốc gia
Năm: 1996
18. Nguyễn Duy Dũng, Thương mại Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI- Những xu thế chủ yếu, Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới, số 3, tr41-44 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Thương mại Nhật Bản trong thập niên đầu thế kỷ XXI- Những xu thế chủ yếu
19. Nguyễn Anh Dũng (2013), Phương thức và lộ trình tái cơ cấu Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, Diễn đàn Kinh tế mùa xuân 2013 Sách, tạp chí
Tiêu đề: Phương thức và lộ trình tái cơ cấu Tập đoàn Hóa chất Việt Nam
Tác giả: Nguyễn Anh Dũng
Năm: 2013
20. Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.21. Đảng cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII", Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội. 21. Đảng cộng sản Việt Nam (1996)
Tác giả: Đảng cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội.21. Đảng cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 1996
22. Đảng cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Tác giả: Đảng cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2001
23. Đảng cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X
Tác giả: Đảng cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2006
24. Đảng cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, Hà Nội Sách, tạp chí
Tiêu đề: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
Tác giả: Đảng cộng sản Việt Nam
Nhà XB: Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia
Năm: 2011

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 2.1: Một số TĐKT chủ yếu - đặc điểm chung - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và hàm ý cho Việt Nam
Bảng 2.1 Một số TĐKT chủ yếu - đặc điểm chung (Trang 51)
Bảng 4.2:Xếp hạng một số tập đoàn kinh tế nhà nướctrong TOP 500 - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và hàm ý cho Việt Nam
Bảng 4.2 Xếp hạng một số tập đoàn kinh tế nhà nướctrong TOP 500 (Trang 154)
Bảng 4.3:Dự toán chi ngân sách Trung ƣơng cho các tập đoàn - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và hàm ý cho Việt Nam
Bảng 4.3 Dự toán chi ngân sách Trung ƣơng cho các tập đoàn (Trang 155)
Bảng 4.4: Vị trí của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong các doanh  nghiệp Việt Nam và trong khu vực doanh nghiệp nhà nước năm 2009 - (LUẬN ÁN TIẾN SĨ) Điều chỉnh mô hình quản lý của các tập đoàn kinh tế Nhật Bản và hàm ý cho Việt Nam
Bảng 4.4 Vị trí của các tập đoàn kinh tế nhà nước trong các doanh nghiệp Việt Nam và trong khu vực doanh nghiệp nhà nước năm 2009 (Trang 156)

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN