Lý do lựa chọn đề tài
Sau hơn 30 năm đổi mới, Việt Nam đã có những thay đổi đáng kể về tầm vóc và vị thế, đạt được nhiều kết quả quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam đang hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp hiện đại, gắn với nền kinh tế tri thức Quy hoạch xây dựng các Khu công nghiệp (KCN) đóng vai trò quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội quốc gia, nhằm phát triển đồng bộ với hệ thống đô thị - nông thôn và đảm bảo phát triển bền vững Bên cạnh đó, quản lý nhà nước đối với KCN là yếu tố then chốt trong sự phát triển của các KCN trong nước, đặc biệt là tại tỉnh Phú Thọ.
Tỉnh Phú Thọ hiện có 07 khu công nghiệp, bao gồm KCN Thụy Vân, KCN Trung Hà, KCN Tam Nông, KCN Phú Hà, KCN Phù Ninh, KCN Cẩm Khê và KCN Hạ Hòa, tất cả đều kết nối thuận lợi với đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai và đường Hồ Chí Minh Đến nay, các khu công nghiệp này đã thu hút 110 dự án đầu tư với tổng vốn đăng ký 295 triệu USD và 9.800 tỷ đồng, trong đó có 46 dự án FDI Các dự án đầu tư đã hoạt động hiệu quả, chủ yếu tập trung vào ngành chế biến, sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí chế tạo, sản xuất nhựa và may mặc với công nghệ hiện đại, tạo ra sản phẩm có tính cạnh tranh cao Sự phát triển của ngành công nghiệp cũng kéo theo sự gia tăng các dịch vụ công nghiệp như vận tải, kho bãi, thủ tục hải quan, cung cấp điện, nước, viễn thông, và dịch vụ tài chính, tạo thành chuỗi sản xuất và dịch vụ khép kín, góp phần nâng cao giá trị gia tăng cho kinh tế tỉnh Phú Thọ.
Trong thời gian qua, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp (KCN) tỉnh Phú Thọ đã đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng giá trị sản xuất công nghiệp và kim ngạch xuất khẩu hàng năm, đồng thời hỗ trợ tích cực cho ngân sách tỉnh Chỉ tiêu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong KCN liên tục tăng trưởng bình quân 30% mỗi năm, chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng giá trị sản xuất Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích phát triển KCN, trong khi tỉnh uỷ, HĐND và UBND tỉnh Phú Thọ đã triển khai các cơ chế ưu đãi về sử dụng đất, dịch vụ hạ tầng, cải cách thủ tục hành chính, hỗ trợ san lấp mặt bằng, đào tạo và tuyển dụng lao động Những chính sách này nhằm thu hút nguồn lực đầu tư hạ tầng và tạo điều kiện thuận lợi nhất cho doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh hiện còn nhiều hạn chế, như chiến lược và quy hoạch phát triển KCN chưa phù hợp và đồng bộ với quy hoạch kinh tế xã hội Môi trường đầu tư và công tác xúc tiến thu hút đầu tư chưa hiệu quả, dẫn đến việc thu hút đầu tư mang tính dàn trải và thiếu định hướng, đặc biệt là trong việc thu hút nhà đầu tư nước ngoài Ngoài ra, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng vẫn gặp nhiều khó khăn và vướng mắc.
Việc nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh Phú Thọ là một nhiệm vụ cần thiết và cấp bách trong thời gian tới Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề này, tác giả đã tiến hành khảo sát và nghiên cứu để lựa chọn chủ đề “Quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ” làm đề tài cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành.
Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
Bài viết này phân tích các vấn đề lý luận về quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh Phú Thọ, đánh giá thực trạng quản lý nhà nước hiện nay và đề xuất các giải pháp chủ đạo nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN trong thời gian tới.
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về QLNN cấp tỉnh đối với KCN và kinh nghiệm thực tiễn
- Đánh giá thực trạng QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong giai đoạn 2015-2020
- Đề xuất giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ trong thời gian tới.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1 Đối tượng nghiên cứu: Đối tƣợng nghiên cứu là những vấn đề liên quan đến QLNN đối với các KCN trên địa bản tỉnh Phú Thọ
- Về thời gian: Từ năm 2015 đến 2020, đề xuất giải pháp đến năm
- Về Không gian: Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Nội dung nghiên cứu tập trung vào lý thuyết và thực tiễn quản lý nhà nước (QLNN) đối với các khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh Phú Thọ Bài viết sẽ làm rõ cơ sở lý luận, chia sẻ kinh nghiệm thực tiễn, đánh giá thực trạng hiện tại và đề xuất định hướng cùng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN đối với các KCN trong khu vực.
Quan điểm, phương pháp tiếp cận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn được xây dựng dựa trên cơ sở của chủ nghĩa Mác - Lênin, tập trung vào các nguyên lý duy vật biện chứng và duy vật lịch sử Bên cạnh đó, nó còn áp dụng các lý thuyết kinh tế và quản lý nhà nước để phân tích và giải quyết các vấn đề kinh tế hiện nay.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới và phát triển là rất quan trọng, đồng thời cần tuân thủ các chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước Việt Nam trong quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) Điều này giúp định hướng và đạt được mục tiêu phát triển các KCN không chỉ ở Việt Nam mà còn đặc biệt tại tỉnh Phú Thọ.
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả tuân thủ quan điểm khoa học phát triển, nhấn mạnh mối quan hệ giữa phát triển và quản lý phát triển Mục tiêu chính là hướng tới sự thịnh vượng và hạnh phúc cho người dân.
Quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với khu công nghiệp (KCN) được xem là một hệ thống toàn diện, bao gồm nhiều hoạt động như xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch phát triển KCN, hỗ trợ thành lập và đầu tư, cũng như thực hiện các thủ tục hành chính với doanh nghiệp trong KCN Hệ thống này còn bao gồm việc quản lý tuân thủ pháp luật và kiểm tra, thanh tra, xử lý vi phạm trong KCN Tác giả nhấn mạnh rằng quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với KCN là một phần thiết yếu trong quản lý kinh tế, góp phần vào đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội.
Bài viết này tập trung vào việc tiếp cận từ lý thuyết đến thực tiễn, bắt đầu bằng việc làm rõ các vấn đề lý thuyết liên quan đến quản lý nhà nước Tác giả sau đó phân tích các vấn đề thực tiễn để làm nổi bật bản chất của quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Phú Thọ.
Quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với khu công nghiệp cần phải được tiếp cận theo quan điểm liên ngành do sự liên quan đến nhiều lĩnh vực khác nhau Mỗi khu công nghiệp được phân bố trên một lãnh thổ cụ thể, có mối quan hệ chặt chẽ với các khu vực xung quanh, do đó cần xem xét vấn đề này từ góc độ liên vùng Hơn nữa, ngành công nghiệp là một phần quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có mối liên hệ mật thiết với các lĩnh vực kinh tế khác như nông nghiệp và dịch vụ, và trải rộng trên nhiều huyện trong phạm vi lãnh thổ tỉnh.
Tiếp cận theo nguyên lý nhân - quả giúp xác định nguyên nhân của thành công hoặc những hạn chế trong quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp tại tỉnh Phú Thọ Mỗi kết quả đều có nguyên nhân riêng, và việc phân tích này sẽ hỗ trợ trong việc cải thiện hiệu quả quản lý.
Bài viết thu thập số liệu thứ cấp từ các nguồn như Ban quản lý KCN, Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ, và các báo cáo kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm Đồng thời, tiến hành khảo sát thực tế quản lý nhà nước tại 6 địa phương có KCN hoạt động, bao gồm Thành phố Việt Trì, Thị xã Phú Thọ, huyện Tam Nông, huyện Phù Ninh, huyện Cẩm Khê và huyện Hạ Hòa Mục tiêu là đánh giá thực trạng, tổng hợp các vấn đề hạn chế, và đề xuất giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước của chính quyền tỉnh Phú Thọ đối với các KCN trên địa bàn.
Nghiên cứu đã tiến hành phỏng vấn các nhà quản lý và chuyên gia có kinh nghiệm trong quản lý khu công nghiệp (KCN) tỉnh Phú Thọ, nhằm phân tích kết quả, những hạn chế và nguyên nhân của các vấn đề trong quản lý nhà nước đối với KCN giai đoạn 2015 - 2020 Từ đó, bài viết đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước và thúc đẩy sự phát triển bền vững của các KCN trên địa bàn tỉnh trong giai đoạn 2021 - 2025.
Phương pháp thống kê mô tả được áp dụng trong nghiên cứu luận văn nhằm phân tích thực trạng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Phú Thọ Phương pháp này không chỉ giúp tổng hợp tài liệu mà còn đảm bảo tính chính xác trong việc tính toán số liệu, phân tích tài liệu một cách khoa học và khách quan, từ đó phản ánh đúng nội dung cần phân tích.
Phương pháp so sánh là công cụ quan trọng trong việc phân tích thực trạng quản lý nhà nước (QLNN) đối với các khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh Phú Thọ Việc đánh giá dựa trên các tiêu chí như tỷ lệ lấp đầy KCN, số dự án đầu tư, vốn thu hút, giấy chứng nhận đầu tư, số lao động và tần suất kiểm tra giúp rút ra nhận xét chính xác về hiệu quả QLNN Đồng thời, so sánh kết quả hoạt động của các KCN mang lại cái nhìn toàn diện, từ đó đề xuất các giải pháp phù hợp nhằm nâng cao hiệu quả QLNN trong tương lai.
Đóng góp mới của luận văn
Lý luận và học thuật về quản lý nhà nước (QLNN) đối với các khu công nghiệp (KCN) bao gồm việc làm rõ khái niệm, nội dung và các yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động QLNN trong lĩnh vực này Bài viết cũng chỉ ra những kinh nghiệm từ một số địa phương và rút ra bài học quý giá về QLNN đối với KCN tại tỉnh Phú Thọ.
Cung cấp cơ sở khoa học cho việc hoạch định chính sách quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp tại tỉnh Phú Thọ, nhằm hỗ trợ các nhà quản lý ở mọi cấp nghiên cứu và đưa ra quyết định hiệu quả.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài đƣợc kết cấu thành 3 chương :
Chương I: Cơ sở lý luận, kế hoạch thực hiện đánh giá về QLNN đối với các KCN và kinh nghiệm thực tiễn
Chương 2 Thực trạng QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Chương 3 Định hướng và giải pháp nâng cao hiệu quả QLNN đối với các KCN trên địa bàn tỉnh Phú Thọ.
Tổng quan tình hình nghiên cứu liến quan đến đề tài
Gần đây, nhiều tác giả đã tập trung nghiên cứu về quản lý nhà nước (QLNN) đối với các khu công nghiệp (KCN) tại cấp tỉnh Bài viết này sẽ tóm tắt một số công trình nghiên cứu tiêu biểu về QLNN trong lĩnh vực KCN.
Nghiên cứu của Hà Thị Thúy (2010) tập trung vào tác động của các khu công nghiệp (KCN) đối với sự phát triển kinh tế - xã hội tại Bắc Giang Tác giả đã phân tích cả những ảnh hưởng tích cực và tiêu cực của KCN đến sự phát triển của tỉnh và cả nước, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao vai trò tích cực của KCN trong việc thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội ở Bắc Giang hiện nay.
Công trinh nghiên cứu của Ngô Quang Đông (2010) về Công tác quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp ở Bắc Ninh: thực trạng và giải pháp
Nghiên cứu đã chỉ ra thực trạng quản lý nhà nước tại các khu công nghiệp (KCN) ở tỉnh Bắc Ninh và đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước đối với các KCN trong khu vực này.
Nghiên cứu của Cao Thị Lan (2013) tập trung vào quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Vĩnh Phúc, nêu rõ thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý này.
Nghiên cứu của Phạm Kim Thư (2017) về quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại Hà Nội đã chỉ ra những tác động từ bối cảnh quốc tế và trong nước đến việc hoàn thiện quản lý trong lĩnh vực này Tác giả đề xuất các giải pháp quan trọng như hoàn thiện quy hoạch các khu công nghiệp, nâng cao vai trò của Ban Quản lý các khu công nghiệp và các cơ quan liên quan, cũng như đổi mới công tác xúc tiến và thu hút đầu tư.
Nghiên cứu của Đỗ Minh Tuấn (2019) tập trung vào quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tại tỉnh Quảng Ninh, làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn liên quan Bài viết phân tích thực trạng quản lý nhà nước cấp tỉnh đối với các khu công nghiệp trong khu vực, đồng thời đưa ra phương hướng và giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nhà nước cấp tỉnh tại Quảng Ninh.
Các tác giả đã tổng hợp lý luận về khu công nghiệp (KCN) và tình hình phát triển của các KCN tại một số tỉnh, từ đó đánh giá những thành tựu đạt được cũng như những hạn chế trong quá trình phát triển các KCN.
Luận văn này kế thừa hệ thống lý thuyết về quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) và tập trung vào việc nghiên cứu, cập nhật thực trạng cũng như đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước tại các KCN ở tỉnh Phú Thọ đến năm 2025.
QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN
Kinh nghiệm thực tiễn về quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp và bài học rút ra cho tỉnh Phú Thọ
1.2.1 Kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp của một số địa phương
Trong giai đoạn 2015 - 2020, tỉnh Bình Dương đã áp dụng quan điểm kiến tạo trong quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN), coi doanh nghiệp là trung tâm Chính quyền tỉnh đã triển khai nhiều giải pháp đồng bộ nhằm tạo ra môi trường cạnh tranh bình đẳng, giúp các doanh nghiệp trong KCN phát triển một cách lành mạnh.
Tính đến năm 2017, Bình Dương đã quy hoạch 28 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích gần 9.500 ha, trong đó 26 KCN đã đi vào hoạt động, chiếm 8.871 ha Qua nhiều năm phát triển, Bình Dương đã rút ra những bài học quan trọng từ quá trình hình thành và phát triển các KCN.
Để đáp ứng nhu cầu đa dạng của nhà đầu tư, việc nâng cao chất lượng xây dựng và thực hiện quy hoạch phát triển khu công nghiệp (KCN) là rất quan trọng Cần đa dạng hóa các loại hình KCN nhằm thu hút và phục vụ hiệu quả hơn cho các nhà đầu tư khác nhau.
Hoạt động quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp trong các khu công nghiệp đã phát triển toàn diện, bao gồm quản lý xây dựng, lao động, hoạt động và bảo vệ môi trường Tỉnh Bình Dương đặc biệt chú trọng hướng dẫn và hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện các quy định của Nhà nước, đồng thời tăng cường kiểm tra, thanh tra để đảm bảo doanh nghiệp tuân thủ pháp luật Ngoài ra, tỉnh cũng nỗ lực tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp và cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa liên thông”, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong quá trình triển khai dự án.
Để hỗ trợ doanh nghiệp trong việc triển khai dự án, Ban Quản lý (BQL) cần chủ động hướng dẫn các thủ tục khi doanh nghiệp bắt đầu hoạt động, gặp khó khăn, hoặc trong trường hợp giải thể và tranh chấp hợp đồng kinh tế Đối với các doanh nghiệp đang hoạt động, BQL thường xuyên kiểm tra và hướng dẫn bổ sung hồ sơ đăng ký cấp giấy phép kinh doanh, cũng như quy trình đăng ký thành lập văn phòng đại diện.
Trong hoạt động sản xuất, kinh doanh, Ban quản lý luôn theo sát và hỗ trợ doanh nghiệp, đặc biệt là trong các thủ tục hành chính Đối với quản lý lao động, Ban quản lý thường xuyên theo dõi và đôn đốc doanh nghiệp thực hiện các quy định về sử dụng lao động, bao gồm cấp số lao động, cấp mới và gia hạn Giấy phép lao động cho người nước ngoài, cũng như hướng dẫn doanh nghiệp xây dựng nội quy lao động và ký kết thỏa ước lao động.
Công tác kiểm tra giám sát việc thực hiện Luật Lao động tại các doanh nghiệp cần được tăng cường, nhằm nắm bắt tình hình và giải quyết kịp thời các tranh chấp lao động BQL các KCN tỉnh Bình Dương sẽ chú trọng vào việc phối hợp trong các hoạt động này để đảm bảo quyền lợi cho người lao động và duy trì sự ổn định trong môi trường làm việc.
Sở Tài nguyên và Môi trường thường xuyên kiểm tra công tác bảo vệ môi trường của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất có tác động lớn như giấy, hóa chất và chế biến thực phẩm Các doanh nghiệp này phải thực hiện đánh giá tác động môi trường trước khi đầu tư và có thể bị kiểm tra đột xuất Tỉnh Bình Dương cũng đang đẩy mạnh cải cách hành chính để tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, bao gồm việc công khai quy trình xử lý công việc và các loại phí, lệ phí theo quy định, đồng thời hoàn thành việc xây dựng hệ thống quản lý chất lượng ISO 9001-2008.
Tính đến cuối năm 2017, Bắc Ninh đã phát triển 15 khu công nghiệp (KCN) tập trung với tổng diện tích 7.681ha, trong đó có 08 KCN hoạt động với hơn 600 dự án còn hiệu lực Thành công trong phát triển các KCN của tỉnh Bắc Ninh chủ yếu đến từ việc thu hút nhiều nhà đầu tư lớn và có thương hiệu toàn cầu, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhanh chóng, biến Bắc Ninh từ một tỉnh nông nghiệp thành một tỉnh công nghiệp hiện đại Một số kinh nghiệm quản lý nhà nước đối với các KCN của chính quyền tỉnh Bắc Ninh cũng đã được rút ra trong quá trình này.
Quản lý đầu tư tại Bắc Ninh được thực hiện một cách bài bản thông qua các hoạt động xúc tiến và hỗ trợ đầu tư từ khâu chuẩn bị xây dựng đến biên soạn tài liệu và kế hoạch xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN) Ban Quản lý các KCN tỉnh Bắc Ninh phối hợp chặt chẽ với các công ty đầu tư phát triển hạ tầng để triển khai hiệu quả Thành công của Bắc Ninh đến từ việc chính quyền yêu cầu xây dựng kế hoạch xúc tiến và thu hút đầu tư theo giai đoạn 5 năm, cùng với việc phê duyệt hàng năm để tổ chức thực hiện theo lộ trình cụ thể (Nguyễn Minh Tuấn, 2019).
Trong quá trình triển khai dự án đầu tư vào khu công nghiệp (KCN), chính quyền tỉnh chú trọng đến công tác quản lý nhà nước (QLNN) Ngay sau khi cấp Giấy chứng nhận đầu tư, các cơ quan QLNN đã chủ động hướng dẫn nhà đầu tư hoàn thiện thủ tục hành chính, giám sát và nắm bắt khó khăn của họ để tư vấn và hỗ trợ, phối hợp với các sở, ngành liên quan nhằm tháo gỡ vấn đề theo thẩm quyền (Nguyễn Minh Tuấn, 2019).
Quản lý xây dựng và môi trường: Chính quyền tỉnh làm tốt công tác
QLNN về xây dựng và môi trường thực hiện hiệu quả các hoạt động giám sát, thanh tra và kiểm tra Giám sát chủ yếu tập trung vào việc triển khai đầu tư xây dựng các công trình hạ tầng khu công nghiệp Trong khi đó, hoạt động thanh tra và kiểm tra chú trọng đến việc xả thải, xử lý chất thải rắn, chất thải nguy hại, và thực hiện quan trắc môi trường định kỳ của doanh nghiệp.
Tỉnh Vĩnh Phúc hiện có 18 khu công nghiệp (KCN) được quy hoạch với tổng diện tích 5.270 ha, trong đó 09 KCN đã được thành lập và cấp Giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đăng ký đạt 8.031,8 tỷ đồng và 117,42 triệu USD Tổng diện tích đất quy hoạch cho KCN là 1.837,75 ha, bao gồm 1.353,72 ha đất công nghiệp Đến nay, 1.007,23 ha đất công nghiệp đã được bồi thường giải phóng mặt bằng và xây dựng hạ tầng, trong khi 865,88 ha đã được cho thuê, đạt tỷ lệ lấp đầy 85,97% Đặc biệt, trong giai đoạn 2015-2020, tỉnh đã phát triển thêm 08 KCN mới.
Thành công trong phát triển các khu công nghiệp (KCN) của tỉnh Vĩnh Phúc đến từ sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, luôn quan tâm và quyết liệt trong việc điều hành Điều này đã tạo niềm tin cho các nhà đầu tư vào chính sách và quyết tâm của hệ thống chính trị Ngoài ra, sự tham gia tích cực của doanh nghiệp, nhà đầu tư và sự đồng thuận của người dân trong khu vực dự án cũng đóng vai trò quan trọng (Nguyễn Hằng, 2020).
Chính quyền tỉnh cần tăng cường quản lý các dự án sau khi cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư và kiểm soát chặt chẽ lao động tại các doanh nghiệp KCN Đồng thời, phát triển tổ chức công đoàn cơ sở để bảo vệ quyền lợi cho cả doanh nghiệp và người lao động Cần đẩy mạnh cải thiện môi trường đầu tư và cải cách thủ tục hành chính nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, giảm chi phí khởi nghiệp và chi phí đầu vào, cũng như khuyến khích đổi mới công nghệ để nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp.
1.2.2 Bài học kinh nghiệm cho quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
THỰC TRẠNG QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC ĐỐI VỚI CÁC KHU CÔNG NGHIỆP TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH PHÚ THỌ
Khái quát về các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
2.1.1 Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội để phát triển khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Phú Thọ là tỉnh trung du miền núi phía Bắc, nằm ở vị trí trung tâm vùng và là cửa ngõ phía Tây Bắc của thủ đô Hà Nội Tỉnh này giáp với tỉnh Vĩnh Phúc ở phía Đông, Thành phố Hà Nội ở phía Tây, tỉnh Hòa Bình ở phía Nam, và tỉnh Yên Bái cùng Tuyên Quang ở phía Bắc Phú Thọ cách sân bay quốc tế Nội Bài khoảng 50km và là nơi hợp lưu của ba con sông lớn: Sông Hồng, Sông Đà và Sông Lô.
Phú Thọ, với vị trí địa lý thuận lợi, sở hữu tiềm năng lớn cho sản xuất kinh doanh và phát triển kinh tế cả trong và ngoài nước Tỉnh được chia thành hai tiểu vùng chính: tiểu vùng núi cao phía Tây và phía Nam, bao gồm các huyện Thanh Sơn, Yên Lập, và một phần huyện Cẩm Khê, nơi có nhiều tiềm năng phát triển lâm nghiệp và khai thác khoáng sản Tiểu vùng đồi gò thấp, xen kẽ đồng ruộng và dải đồng bằng ven sông, rất thuận lợi cho chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản, đồng thời có khả năng phát triển công nghiệp tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp phụ trợ và chế biến.
2.1.1.2 Điều kiện kinh tế - xã hội
Theo Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ (2020), tỉnh Phú Thọ có 13 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã và thành phố, với tổng diện tích tự nhiên là 3.533,42 km² Tính đến ngày 1 tháng 4 năm 2019, dân số toàn tỉnh đạt 1.466.399 người, trong đó hơn 81,63% dân số cư trú tại khu vực nông thôn.
Tổng số lao động làm việc từ 737.100 người năm 2015 tăng lên
Năm 2019, tổng số lao động đạt 840.200 người, trong đó 742.400 người làm việc trong khu vực ngoài nhà nước và 32.500 người trong khu vực có vốn đầu tư nước ngoài Trong giai đoạn 2015 - 2019, lao động trong khu vực ngoài nhà nước và khu vực nông lâm thủy sản có xu hướng giảm, trong khi các khu vực khác lại có xu hướng tăng.
Bảng 2.1 Dân số, lao động của tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015 - 2019
SL (người) CC (%) SL (người) CC (%)
2 LĐ phân theo loại hình kinh tế 838.800 840.200
Khu vực ngoài nhà nước 719.000 85.71 706.300 84.06
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 47.100 5.62 62.500 7.44
3 LĐ phân theo ngành kinh tế 838.800 840.200
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2019
Kinh tế của tỉnh Phú Thọ có xu hướng tăng trưởng cao trong giai đoạn
2015 -2019 Năm 2015, tổng giá trị sản phẩm trên địa bàn tỉnh (GRDP) là 21.991,9 tỷ đồng, đến năm 2019 tăng lên 44.093,4 tỷ đồng (Bảng 2.2)
Bảng 2.2 Giá trị tổng sản phẩm trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015 - 2019
SL (tỷ đồng) CC (%) SL (tỷ đồng) CC (%)
1 GRDP theo khu vực kinh tế 31.958 44.093,4
Khu vực ngoài nhà nước 19.484 60,97 26.828,2 60,84
Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài 3.320 10,39 5.077,2 11,52
Thuế SP trừ trợ cấp SP 2.200 6,88 3.313,0 7,51
Nguồn: Niên giám thống kê tỉnh Phú Thọ năm 2015 và năm 2019
Cơ cấu ngành kinh tế của tỉnh Phú Thọ đang có sự chuyển biến tích cực với sự gia tăng của khu vực có vốn đầu tư nước ngoài và sự giảm sút của khu vực nhà nước Cụ thể, vào năm 2015, tỷ lệ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài đạt 10,39%, trong khi khu vực nhà nước chiếm 21,76% Đến năm 2019, tỷ lệ khu vực có vốn đầu tư nước ngoài tăng lên 11,52%, còn khu vực nhà nước giảm xuống 20,13% (Cục Thống kê tỉnh Phú Thọ, 2020).
Hạ tầng giao thông tại khu vực này được phát triển mạnh mẽ với mạng lưới đường bộ, đường sắt và đường thủy thuận lợi Các dự án như đường cao tốc Nội Bài - Lào Cai, đường xuyên Á và đường Hồ Chí Minh đang được xây dựng và hoàn thiện, hứa hẹn sẽ nâng cao khả năng kết nối và giao thương trong tương lai.
Tỉnh Phú Thọ có 43 tuyến đường tỉnh với tổng chiều dài 736km và 5 con sông dài 316,5km, cùng hệ thống cảng gồm cảng Việt Trì, cảng Yến Mao, cảng Bãi Bằng và cảng Thụy Vân Ngoài ra, tỉnh còn có tuyến đường sắt Hà Nội - Lào Cai dài 74,9km và 3 tuyến đường sắt chuyên dụng dài 16,4km Năm 2016, tỉnh đã hoàn thành 7 cầu lớn, nâng tổng số cầu xây dựng theo quy hoạch lên 8/13 cầu.
Hệ thống điện tỉnh Phú Thọ được cung cấp điện từ ba nguồn chính, bao gồm nguồn 220kV nhập khẩu từ Trung Quốc, nguồn 220kV từ lưới điện miền Bắc và thủy điện Thác Bà Hiện tại, trên địa bàn tỉnh có một trạm biến áp 110kV.
Trong tỉnh, có 28 trạm biến áp trung gian và 2.500 trạm biến áp phân phối, cùng với hệ thống đường dây tải điện đạt tiêu chuẩn, đảm bảo cung cấp điện ổn định Hệ thống điện hiện hoạt động tương đối ổn định, đáp ứng đủ nhu cầu điện cho sản xuất và kinh doanh, với 98,2% số xã được kết nối vào lưới điện quốc gia.
Hệ thống cấp thoát nước: 70% dân số đã được dùng nước sạch đủ tiêu
2 TNBQ đầu ngườitheo giá năm
Năm 2010, tổng công suất cung cấp nước sạch của các thành phố, thị xã và thị trấn đạt trên 108.000 m³/ngày đêm, đảm bảo đáp ứng nhu cầu cấp nước cho sản xuất và tiêu dùng, góp phần nâng cao chất lượng vệ sinh.
Hệ thống bưu chính viễn thông cung cấp tất cả các dịch vụ bưu chính viễn thông chất lượng cao, được hòa mạng vào hệ thống bưu chính viễn thông quốc gia, đảm bảo kết nối liên lạc toàn diện trên toàn quốc và quốc tế.
Hạ tầng thương mại và dịch vụ cơ bản đã được hoàn thiện, đáp ứng nhu cầu của người dân và du khách Một số dự án trọng điểm đã đi vào khai thác, bao gồm Siêu thị Big C Việt Trì, Trung tâm thương mại Vincom Center, khu du lịch đảo Ngọc Xanh, công viên Văn Lang, và quảng trường Hùng Vương.
2.1.2 Các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
Tỉnh Phú Thọ hiện có 07 khu công nghiệp (KCN) với tổng diện tích hơn 2.000 ha, bao gồm KCN Thụy Vân tại TP Việt Trì với diện tích 335 ha, KCN Trung Hà nằm ở huyện Tam Nông và huyện Thanh Thủy với 200 ha, KCN Tam Nông tại huyện Tam Nông có diện tích 450 ha, cùng với các KCN khác trong khu vực.
Tỉnh Phú Thọ hiện đang phát triển 04 khu công nghiệp với tổng diện tích lớn, bao gồm KCN Hà với 450 ha, KCN Phù Ninh tại huyện Phù Ninh với 100 ha, KCN Cẩm Khê tại huyện Cẩm Khê với 450 ha, và KCN Hạ Hòa tại huyện Hạ Hòa với 400 ha Các khu công nghiệp này đang được triển khai xây dựng hạ tầng, bao gồm Thụy Vân, Trung Hà và Phú.
Hà, Cẩm Khê) Trong các KCN đã thu hút 118 doanh nghiệp đăng ký đầu tƣ
Tính đến nay, có 129 dự án được triển khai, trong đó có 68 doanh nghiệp trong nước với 75 dự án và 50 doanh nghiệp FDI với 54 dự án, tổng vốn đăng ký đạt 13.132 tỷ đồng và 422,2 triệu USD Hiện có 89 doanh nghiệp hoạt động ổn định, doanh thu ước đạt 17.362 tỷ đồng, nộp ngân sách ước đạt 800 tỷ đồng, tạo việc làm cho hơn 27.000 lao động.
KCN Thụy Vân (Thành phố Việt Trì):
Thực trạng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ giai đoạn 2015-2020
2.2.1 Bộ máy quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp tỉnh Phú Thọ
Bộ máy quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) tại tỉnh Phú Thọ bao gồm UBND tỉnh và Ban quản lý các KCN tỉnh Hoạt động quản lý nhà nước được thực hiện theo nguyên tắc phối hợp, đảm bảo sự thống nhất và không chồng chéo trong các nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan liên quan Điều này giúp tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư trong quá trình đầu tư và sản xuất kinh doanh tại KCN Mọi hoạt động quản lý đều được thống nhất thông qua Ban quản lý các KCN, với sự phối hợp chặt chẽ giữa các sở, ngành và chính quyền địa phương.
UBND tỉnh Phú Thọ là cơ quan chủ trì trong việc lãnh đạo và quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp (KCN) trên địa bàn tỉnh UBND có trách nhiệm phê duyệt quy hoạch, kế hoạch và xây dựng các cơ chế, chính sách nhằm phát triển KCN, đồng thời thực hiện phân bổ ngân sách nhà nước cho công tác quản lý KCN.
Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ chịu trách nhiệm chủ trì và phối hợp, hoặc thực hiện theo ủy quyền của các sở, ngành khác trong việc quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
Ban quản lý KCN Phú Thọ được thành lập theo Quyết định số 97/1997/QĐ-TTg ngày 15/11/1997 của Thủ tướng Chính phủ UBND tỉnh Phú Thọ đã ban hành Quyết định quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu quản lý của Ban quản lý KCN Phú Thọ, với chức năng và nhiệm vụ được điều chỉnh phù hợp theo từng thời kỳ.
Vị trí và chức năng của Ban Quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ cụ thể như sau:
Ban Quản lý các KCN Phú Thọ, trực thuộc Uỷ ban nhân dân tỉnh, có trách nhiệm quản lý Nhà nước đối với các KCN và CCN được giao Ban cũng tổ chức cung cấp dịch vụ hành chính công và hỗ trợ đầu tư, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN trên địa bàn tỉnh.
Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ có nhiệm vụ và quyền hạn cụ thể như sau:
Ủy ban nhân dân tỉnh đã trình dự thảo văn bản quy định về chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Ban Quản lý Đồng thời, dự thảo cũng quy định các điều kiện và tiêu chuẩn chức danh đối với Trưởng và Phó các đơn vị trực thuộc Ban Quản lý.
Dự thảo quyết định nhằm thành lập, sáp nhập, chia tách, tổ chức lại và giải thể các tổ chức, đơn vị thuộc Ban Quản lý theo quy định pháp luật, đồng thời hỗ trợ Ủy ban nhân dân tỉnh trong việc quản lý nguồn vốn ngân sách nhà nước đầu tư cho việc xây dựng và phát triển khu công nghiệp.
Hướng dẫn và tổ chức thực hiện các văn bản pháp luật, quy hoạch, kế hoạch, đề án, dự án, cơ chế và chính sách liên quan đến khu công nghiệp (KCN) sau khi được ban hành và phê duyệt Đồng thời, thông tin, tuyên truyền, hướng dẫn và phổ biến các quy định pháp luật về KCN của tỉnh, cũng như theo dõi việc thực hiện các quy định này.
Quản lý đầu tư bao gồm việc tiếp nhận, cấp, điều chỉnh và thu hồi Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho các dự án theo quy định pháp luật Đồng thời, cần tổ chức các hoạt động xúc tiến đầu tư theo kế hoạch đã được phê duyệt.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với các Bộ ngành và Ủy ban nhân dân tỉnh, có trách nhiệm phê duyệt và tham gia các chương trình xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp do các cơ quan này tổ chức.
Các nhiệm vụ và quyền hạn liên quan đến quản lý môi trường, quy hoạch và xây dựng, quản lý nhà nước về lao động, cũng như quản lý thương mại là rất quan trọng Những lĩnh vực này yêu cầu sự phối hợp chặt chẽ để đảm bảo phát triển bền vững và hiệu quả trong quản lý tài nguyên.
Cơ cấu tổ chức bộ máy và biên chế của Ban quản lý các khu công nghiệp tỉnh Phú Thọ, gồm:
Hình 2.1: Sơ đồ tổ chức bộ máy Ban quản lý các KCN tỉnh Phú Thọ
Lãnh đạo Ban Quản lý: Trưởng ban và các Phó Trưởng Ban (03 người)
Cơ cấu tổ chức của Ban quản lý các KCN Phú Thọ gồm có 04 phòng chuyên môn, nghiệp vụ và một đơn vị dịch vụ
Văn phòng ban có vai trò tham mưu và thực hiện nhiệm vụ trong các lĩnh vực tổ chức, hành chính và quản trị văn phòng Nhiệm vụ chính bao gồm công tác tổ chức, quản lý cán bộ, hành chính và quản trị, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của Lãnh đạo ban.
Phòng Quản lý Đầu tư và Xây dựng có vai trò quan trọng trong việc tham mưu cho lãnh đạo ban về quản lý đầu tư và xúc tiến đầu tư cho các khu công nghiệp (KCN) cũng như các công trình hạ tầng liên quan Nhiệm vụ chính của phòng bao gồm quản lý và xúc tiến đầu tư, quản lý xây dựng, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của lãnh đạo ban.
Phòng Kế hoạch và Môi trường có chức năng tham mưu xây dựng các chương trình và kế hoạch định kỳ, đồng thời thực hiện nhiệm vụ quản lý quy hoạch, tài nguyên và bảo vệ môi trường trong các khu công nghiệp (KCN) và cụm công nghiệp (CCN) Nhiệm vụ bao gồm lập kế hoạch quản lý quy hoạch, bảo vệ môi trường, thanh tra và kiểm tra phòng chống tham nhũng, lãng phí, cũng như tham gia xây dựng các văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến quy hoạch, môi trường, đất đai, tài nguyên nước và phòng chống cháy nổ trong KCN, CCN.
Trưởng phòng kế hoạch và môi trường được ủy quyền bởi trưởng ban để ký thông báo kết luận giao ban hàng tháng, đồng thời thực hiện các nhiệm vụ khác theo sự phân công của lãnh đạo ban.
Đánh giá thực trạng quản lý nhà nước đối với các khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Phú Thọ
2.3.1 Những thành tựu đã đạt được
Xây dựng chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển KCN làm định hướng cho quá trình triển khai, tổ chức thực hiện
Tỉnh Phú Thọ đã chú trọng xây dựng chiến lược và quy hoạch phát triển các khu công nghiệp (KCN), coi đây là yếu tố then chốt quyết định sự phát triển công nghiệp của tỉnh Việc này không chỉ tạo ra định hướng rõ ràng cho ngành công nghiệp mà còn giúp các cơ quan chuyên môn thường xuyên rà soát và điều chỉnh quy hoạch phát triển các KCN, như điều chỉnh vị trí, quy mô và diện tích, nhằm phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội địa phương, ví dụ như quy hoạch phân khu KCN Thụy Vân và KCN Trung Hà.
Việc lập và điều chỉnh quy hoạch các khu công nghiệp (KCN) trọng điểm cần phù hợp với thực tiễn, nhằm thu hút đầu tư hiệu quả Đồng thời, tổ chức thực hiện quy hoạch linh hoạt, kết hợp giữa các KCN đã có và việc rà soát, bổ sung KCN mới theo nhu cầu phát triển của tỉnh.
Hỗ trợ thành lập, đầu tư, xây dựng KCNđạt được một số kết quả đáng ghi nhận
Chính quyền tỉnh đã cụ thể hóa các cơ chế và chính sách ưu đãi của Nhà nước dành cho các khu công nghiệp (KCN), nhằm phù hợp với thực tiễn Điều này đã mang lại chuyển biến tích cực, tạo niềm tin và sức thuyết phục cho các nhà đầu tư, khuyến khích họ yên tâm đầu tư vào các KCN trong tỉnh.
Tỉnh Phú Thọ đã phân tích các điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội để phát triển công nghiệp, từ đó đưa ra chính sách thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp (KCN) Nhờ đổi mới phương pháp xúc tiến đầu tư, tỉnh đã đạt được những kết quả khả quan, với số lượng dự án đầu tư tăng mạnh qua các năm Các dự án quan trọng được thu hút đã nâng cao hiệu quả sử dụng đất và tỷ lệ lấp đầy tại các KCN, cụm công nghiệp trên địa bàn.
Giá trị sản lượng kinh tế trên diện tích đất tại khu công nghiệp là tiêu chí quan trọng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài nguyên, giúp nhà quản lý hiểu rõ hơn về đóng góp kinh tế của khu công nghiệp cho ngân sách nhà nước Năm 2016, doanh thu từ các khu công nghiệp đạt 20.000 tỷ đồng, nộp ngân sách 800 tỷ đồng, giá trị xuất khẩu đạt 700 triệu USD, và thu nhập bình quân của người lao động là 6 triệu đồng/người/tháng, tạo việc làm cho hơn 30.000 lao động tại địa phương và các tỉnh lân cận.
Năm 2019, doanh thu đạt 40.000 tỷ đồng, với giá trị xuất khẩu lên tới 1.700 triệu USD Doanh nghiệp đã nộp ngân sách Nhà nước 1.500 tỷ đồng và tạo việc làm cho 42.000 lao động, với mức thu nhập bình quân 6,8 triệu đồng/người/tháng.
Giá trị thu hút đầu tư trên diện tích đất tại khu công nghiệp là chỉ số quan trọng giúp nhà quản lý đánh giá khả năng thu hút nguồn lực đầu tư bên ngoài vào tỉnh Trong 6 tháng đầu năm 2020, tỉnh đã cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho 135 dự án, trong đó có 105 dự án đầu tư trong nước với tổng vốn đăng ký đạt 2.619 tỷ đồng và 30 dự án đầu tư nước ngoài với vốn đăng ký mới và tăng vốn mở rộng lên tới 142 triệu USD.
Thủ tục hành chính đã thay đổi căn bản theo hướng đơn giản hoá, công khai, minh bạch
Thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa và công khai, tạo điều kiện thuận lợi cho việc kết nối giữa cơ quan quản lý nhà nước và doanh nghiệp Điều này giúp đảm bảo môi trường cạnh tranh bình đẳng cho các doanh nghiệp Công tác kiểm tra và giám sát quy trình giải quyết thủ tục hành chính được thực hiện thường xuyên, nhằm đảm bảo tính minh bạch và công khai, từ đó giúp các thủ tục được giải quyết nhanh chóng, giảm chi phí và thời gian, đồng thời hạn chế tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực và quan liêu.
Hoạt động thanh, kiểm tra luôn được quan tâm, chú trọng
Tỉnh Phú Thọ đã chỉ đạo các đơn vị chức năng phối hợp chặt chẽ để xây dựng kế hoạch thanh tra, kiểm tra và xử lý kịp thời các vi phạm Công tác này được thực hiện nghiêm túc và đúng quy trình, góp phần phát hiện và xử lý vi phạm tại các khu công nghiệp (KCN) và doanh nghiệp KCN Nhờ đó, môi trường đầu tư trở nên minh bạch, cạnh tranh lành mạnh, đảm bảo quyền lợi cho doanh nghiệp, người lao động và Nhà nước.
2.3.2 Hạn chế và nguyên nhân
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp (KCN) hiện nay chưa được xây dựng một cách đồng bộ và phù hợp, chưa gắn kết chặt chẽ với quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, dẫn đến nhiều bất cập trong quá trình triển khai.
Quy hoạch phát triển khu công nghiệp (KCN) tỉnh Phú Thọ đã trải qua một quá trình dài nhưng hiện nay cần được xem xét lại do các điều kiện kinh tế xã hội đã thay đổi Mặc dù có sự điều chỉnh trong quy hoạch, việc thực hiện vẫn còn manh mún và thiếu tính hệ thống, do sự phân công không rõ ràng giữa các đơn vị như Sở Công Thương và Ban quản lý các KCN Phú Thọ Điều này dẫn đến việc quy hoạch chưa phản ánh đúng thực tế và thiếu khả thi trong triển khai, khiến cho việc phát triển KCN chỉ dừng lại ở mức kế hoạch mà chưa có một chiến lược phát triển lâu dài và cụ thể.
Hiện nay, chưa có một phương pháp luận khoa học nào để nghiên cứu và lập quy hoạch một cách tổng thể, phù hợp với các Quy hoạch kinh tế - xã hội, phát triển vùng, sử dụng đất, đô thị và kết cấu hạ tầng Tư duy quy hoạch hiện tại vẫn còn mang tính cục bộ, chỉ chú trọng đến lợi ích của từng địa phương mà chưa xem xét đầy đủ lợi ích của vùng và quốc gia Hơn nữa, trong quá trình thực hiện, việc điều chỉnh quy hoạch dựa trên đề xuất của địa phương và nhà đầu tư chưa được thực hiện một cách khách quan và khoa học Chẳng hạn, vị trí KCN Phú Ninh đã trải qua hai lần điều chỉnh trong thời gian ngắn, lần đầu vào năm 2015 khi chuyển từ Đồng Lạng về xã khác.
Từ Đà, An Đạo - huyện Phù Ninh; lần 2 (điều chỉnh năm 2016) chuyển từ xã
Từ Đà, An Đạo về xã Vĩnh Phú, huyện Phù Ninh
Việc xây dựng môi trường đầu tư và công tác xúc tiến thu hút đầu tư hiện nay chưa đạt hiệu quả cao, dẫn đến tình trạng thu hút đầu tư mang tính dàn trải, thiếu định hướng và không có sự chọn lọc rõ ràng.
Công tác xúc tiến đầu tư tại tỉnh Phú Thọ còn thiếu kinh nghiệm và chưa được thực hiện thường xuyên Tỉnh chưa đưa ra lợi thế so sánh để ban hành chính sách ưu đãi đặc biệt, khác với các chính sách khuyến khích đầu tư của Chính phủ Chương trình xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp (KCN) chưa đồng bộ và thống nhất với định hướng thu hút các ngành nghề ưu tiên, gắn với lợi thế và điều kiện phát triển thực tế Hoạt động thu hút đầu tư chưa chuyên nghiệp, thiếu tính dài hạn, và còn dàn trải, với phương pháp xúc tiến hạn chế và thiếu sáng tạo Tỉnh cũng chưa có chính sách cụ thể để thu hút các dự án có vốn lớn và công nghệ cao vào KCN, dẫn đến hiệu quả kinh tế và tính bền vững của KCN chưa được nâng cao, kết quả thu hút đầu tư vẫn còn hạn chế.
Việc thu hút đầu tư thiếu chọn lọc và tràn lan đã dẫn đến nhiều trường hợp không phù hợp với định hướng quy hoạch đã đề ra, làm giảm hiệu quả sử dụng đất Chẳng hạn, KCN Thụy Vân đã thu hút các nhà máy như xi măng Hữu Nghị và nhà máy nghiền bột canxit, gây tác động xấu đến môi trường Hệ quả là điều này đã ảnh hưởng không nhỏ tới khả năng thu hút đầu tư từ các nhà đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp mới và công nghiệp điện tử.