Tính cấp thiết của đề tài
Thuế luôn là nguồn thu chủ yếu, chiếm hơn 90% tổng ngân sách nhà nước (NSNN) trong mọi chế độ xã hội và thời đại Là công cụ thể hiện quyền lực của nhà nước, thuế đóng vai trò quan trọng trong các chính sách kinh tế vĩ mô, đặc biệt là từ các hoạt động xuất nhập khẩu (XNK) Thông qua chính sách thuế, nhà nước có khả năng kiểm soát và hướng dẫn hoạt động XNK, bảo hộ nền kinh tế trong nước, góp phần giảm bội chi ngân sách, kiềm chế lạm phát, và ổn định kinh tế - xã hội Điều này cũng hỗ trợ thực hiện các chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước, đảm bảo công bằng xã hội và thúc đẩy phát triển kinh tế bền vững.
Hải quan Việt Nam, với vai trò chủ chốt trong việc thực thi chính sách kinh tế và hoạt động xuất nhập khẩu, đã đóng góp quan trọng vào nguồn thu ngân sách nhà nước (NSNN) suốt hơn 70 năm qua Trong 10 năm gần đây, ngành Hải quan luôn chiếm từ 25 đến 30% tổng thu NSNN, với tổng thu nộp đạt hơn 46 nghìn tỷ đồng vào năm 2004, tăng gấp 700 lần so với năm 1990 Từ năm 2004 đến nay, số thu này đã tăng gấp 5 lần, từ khoảng 50 nghìn tỷ đồng năm 2005 lên 268 nghìn tỷ đồng vào năm 2016, và tính đến 31 tháng 12 năm 2017, con số này đã vượt 297 nghìn tỷ đồng.
Với sự gia tăng nhanh chóng và đa dạng hóa trong hoạt động xuất nhập khẩu (XNK), tình trạng trốn thuế và gian lận thuế ngày càng trở nên nghiêm trọng, gây thiệt hại hàng trăm tỷ đồng cho ngân sách nhà nước mỗi năm Luật Thuế mới 2016, có hiệu lực từ ngày 01 tháng 09 năm 2016, đã đưa ra nhiều thay đổi nhằm phù hợp với xu hướng hội nhập và tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp Tuy nhiên, đây cũng là thách thức lớn trong công tác thu thuế XNK của ngành Hải quan Do đó, việc quản lý thuế XNK cần được hiện đại hóa toàn diện để vừa hỗ trợ doanh nghiệp hoạt động hiệu quả, vừa đảm bảo thu đúng và đủ thuế, đồng thời ngăn chặn tình trạng thất thu và gian lận thuế.
Chi cục Hải quan Gia Thụy, thuộc Cục Hải quan TP Hà Nội, có nhiệm vụ thu thuế xuất nhập khẩu (XNK) và đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước Năm 2017, Chi cục được giao chỉ tiêu thu NSNN là 2.568 tỷ đồng, đứng thứ 4 trong 14 Chi cục của Cục Hải quan TP Hà Nội Tuy nhiên, tình hình vi phạm pháp luật về hải quan, gian lận thương mại và buôn lậu tại Chi cục vẫn tồn tại và có xu hướng gia tăng Đến tháng 6 năm 2017, tỷ lệ doanh nghiệp vi phạm trong khai báo thuế là 10% tổng số tờ khai, trong khi 80% tờ khai XNK có nghi ngờ về giá trị khai báo Ngoài ra, tình trạng nợ xấu và nợ khó đòi vẫn chưa được quản lý hiệu quả, với nhiều doanh nghiệp nợ thuế đã ngừng hoạt động hoặc phá sản.
Chi cục Hải quan Gia Thụy cần tiến hành nghiên cứu kỹ lưỡng để xác định những hạn chế và yếu kém trong công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu Việc này sẽ giúp đưa ra những biện pháp quản lý hiệu quả, nhằm nâng cao năng lực quản lý hoạt động xuất nhập khẩu.
Chi cục Hải quan Gia Thụy cần hoàn thành chỉ tiêu thu ngân sách nhà nước năm 2018 và thực hiện hiệu quả công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu, phù hợp với chiến lược phát triển của ngành hải quan.
Dựa trên những lý do đã nêu, tôi quyết định chọn đề tài nghiên cứu: “Quản lý thuế xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội” cho luận văn thạc sĩ chuyên ngành quản lý kinh tế, thuộc chương trình định hướng ứng dụng.
Câu hỏi nghiên cứu của luận văn
Luận văn này nhằm mục đích tìm ra giải pháp cải thiện công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là quản lý thuế XNK tại Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội.
Phạm vi nghiên cứu
1.4.2.1 Phạm vi về không gian: Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội 1.4.2.2.Phạm vi về thời gian:
Thực trạng công tác quản lý thuế XNK tại Chi cục Hải quan Gia Thụy,
Gia Lâm, Hà Nội đã được nghiên cứu từ năm 2014, khi hệ thống thông quan điện tử tự động VNACCS/VCIS được triển khai trên toàn quốc, cho đến năm 2017.
Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội được đề xuất cho giai đoạn 2018-2020 Năm 2020 đánh dấu thời điểm kết thúc "Chiến lược phát triển hải quan đến năm 2020" theo Quyết định số 448/QĐ-TTg ngày 25/3/2011 của Thủ tướng Chính phủ, trong đó bao gồm cả chiến lược phát triển quản lý thuế xuất nhập khẩu.
1.4.2.3 Phạm vi về nội dung nghiên cứu:
Quản lý thuế xuất nhập khẩu trong lĩnh vực hải quan bao gồm nhiều nội dung quan trọng Bài viết này tập trung vào ba khía cạnh chính: đầu tiên là lập kế hoạch quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu; tiếp theo là tổ chức thực hiện quy trình quản lý thuế thông qua các biện pháp kiểm soát khai báo thuế; cuối cùng là quản lý quá trình nộp thuế, miễn giảm, hoàn thuế, truy thu thuế và thực hiện kiểm tra, giám sát công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu.
Trong nghiên cứu này, luận văn tập trung vào việc phân tích chủ thể quản lý thuế xuất nhập khẩu (XNK), cụ thể là Chi cục Hải quan Gia Thụy Chi cục này được Cục Hải quan TP Hà Nội giao quyền quản lý thuế XNK trong khu vực mà Chi cục phụ trách.
Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được kết cấu thành bốn chương, bao gồm:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thuế XNK
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3: Thực trạng công tác quản lý thuế XNK tại Chi cục Hải quan
Chương 4: Định hướng và giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế
XNK tại Chi cục Hải quan Gia Thụy
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU, CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ THUẾ XNK
Tổng quan tình hình nghiên cứu
1.1.1 Các công trình nghiên cứu
Toàn cầu hóa đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực xuất nhập khẩu (XNK) hàng hóa Thuế XNK là nguồn thu quan trọng cho ngân sách nhà nước và là công cụ quản lý hiệu quả của ngành hải quan, giúp điều tiết nền kinh tế và tạo điều kiện cho sự phát triển bền vững Nhiều nghiên cứu đã được thực hiện về công tác quản lý thuế XNK từ nhiều góc độ khác nhau, thu hút sự quan tâm của nhiều nhà khoa học và tác giả Tuy nhiên, nghiên cứu chuyên sâu về quản lý nhà nước trong lĩnh vực thuế XNK vẫn còn hạn chế, với một số công trình đáng chú ý liên quan đến công tác quản lý thuế XNK trong và ngoài ngành hải quan.
Nguyễn Ngọc Túc, 2007 Tiếp tục cải cách, hiện đại hoá Hải quan Việt
Luận án tiến sỹ tại Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội đã đạt được những kết quả nổi bật trong công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu (XNK), đặc biệt là việc đổi mới xác định trị giá tính thuế hải quan thông qua việc xây dựng cơ sở dữ liệu giá từ bốn nguồn chính: thông tin từ các nghiệp vụ hải quan, Internet, kiểm tra giá hàng hóa quốc tế, và các tùy viên hải quan ở nước ngoài Tác giả nhấn mạnh trách nhiệm trong công tác tham vấn giá tính thuế hải quan Tuy nhiên, nghiên cứu chỉ tập trung vào khía cạnh quản lý giá tính thuế mà chưa xem xét đầy đủ các yếu tố khác như số lượng, trọng lượng và xuất xứ hàng hóa, những yếu tố có thể bị lợi dụng để gian lận thuế, do đó cần có cái nhìn toàn diện và đánh giá tổng hợp hơn về công tác quản lý thuế XNK.
Văn Bá Tín (2012) đã nghiên cứu phương pháp kiểm tra sau thông quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu trong bối cảnh thông quan điện tử, thuộc đề án cấp ngành hải quan của Tổng cục Hải quan Đề tài tập trung vào thực trạng quy định pháp luật và hoạt động kiểm tra sau thông quan, đồng thời đề xuất các phương pháp kiểm tra cho các lĩnh vực cụ thể như trị giá tính thuế, gia công, sản xuất xuất khẩu, mã số hàng hóa, và hàng hóa nhập khẩu được miễn thuế trong lĩnh vực đầu tư Dữ liệu nghiên cứu được thống kê từ năm 2007 đến 2012, tuy nhiên chưa được cập nhật sau thời điểm này, đặc biệt là sau khi Hải quan Việt Nam áp dụng hệ thống hải quan điện tử VNACCS/VCIS từ ngày 01/04/2014.
Hà Minh Lục (2013) trong bài viết "Chống gian lận, thất thu thuế: thực trạng và giải pháp" đăng trên Tạp chí Tài chính, số 9, đã phân tích thực trạng thất thu thuế và đưa ra những giải pháp ngắn hạn nhằm khắc phục vấn đề này Bài viết chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thất thu thuế, tuy nhiên, các giải pháp được đề xuất chỉ áp dụng cho năm 2013 mà chưa có định hướng hay giải pháp dài hạn cho giai đoạn tiếp theo.
Bùi Thái Quang (2014) trong bài viết "Nâng cao năng lực quản lý hải quan đối với thuế xuất, nhập khẩu ở Việt Nam" trên Tạp chí Tài chính, số 7, đã phân tích một số nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thất thu ngân sách trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Bài viết cũng đề xuất các giải pháp cơ bản nhằm cải thiện năng lực quản lý hải quan liên quan đến thuế xuất nhập khẩu Tuy nhiên, tác giả chưa đề cập đến thực trạng quản lý thuế và những nguyên nhân toàn diện gây hạn chế trong công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu.
Bài viết của Phùng Quang Hội (2015) trên Tạp chí Kinh tế và phát triển phân tích thực trạng quản lý thuế xuất nhập khẩu (XNK) tại tỉnh Lạng Sơn Nghiên cứu chỉ ra rằng công tác quản lý thuế XNK đã đạt được những kết quả tích cực như tăng cường minh bạch, cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan Tuy nhiên, vẫn tồn tại nhiều hạn chế, bao gồm quản lý chưa tốt đối tượng nộp thuế, gian lận thuế XNK phổ biến, tình trạng nợ đọng phức tạp và vai trò kiểm tra sau thông quan chưa hiệu quả Mặc dù bài viết đã nêu rõ những tồn tại, nhưng chưa đề xuất giải pháp toàn diện để khắc phục.
Tăng Thị Hương (2016) đã thực hiện luận văn Thạc sĩ tại Trường Đại học Công Đoàn về quản lý thuế xuất nhập khẩu tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội Nghiên cứu đã hệ thống hóa nội dung quản lý thuế XNK, phân tích các yếu tố ảnh hưởng, và đánh giá thực trạng công tác này Bài viết chỉ ra những hạn chế và nguyên nhân của chúng, đồng thời đề xuất giải pháp nhằm cải thiện quản lý thuế XNK tại Cục Hải quan TP Hà Nội Tuy nhiên, tác giả chưa đi sâu vào phân tích các hạn chế và nguyên nhân dẫn đến những vấn đề còn tồn tại trong công tác này.
Trần Thanh Lam, 2016 Kiểm tra Sau thông quan tại Cục Hải quan thành phố Hà Nội Luận văn Thạc sĩ Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc
Gia Hà Nội đã tiến hành phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu (XNK) thông qua việc kiểm tra trị giá tính thuế ở giai đoạn sau thông quan Mục tiêu của nghiên cứu là nhằm nâng cao hiệu quả quản lý thuế XNK và ngăn chặn tình trạng thất thu thuế Tuy nhiên, đề tài này chỉ tập trung sâu vào một khía cạnh của quản lý thuế XNK, đó là công tác kiểm tra thuế tại khâu sau thông quan.
Các nghiên cứu trên đều tập trung vào các khía cạnh liên quan đến thuế, quản lý thuế và chống thất thu thuế trong ngành Hải quan qua các thời kỳ khác nhau Những đề tài này phân tích công tác quản lý thuế xuất nhập khẩu trong bối cảnh nghiệp vụ của cơ quan Hải quan còn nhiều thủ công từ năm trước đây.
Từ năm 2006 đến 2012, hệ thống thông tin hải quan điện tử chưa được áp dụng và cải cách Trong giai đoạn 2013 đến 2016, các nghiên cứu về quản lý thuế xuất nhập khẩu (XNK) đã tập trung vào cải cách thủ tục hành chính và hiện đại hóa hải quan, nhưng các đề tài này vẫn mang tính riêng rẽ và có phạm vi nghiên cứu khác nhau Điều này dẫn đến mục tiêu và phương hướng giải pháp khác nhau, chưa có nghiên cứu toàn diện nào về công tác quản lý thuế XNK tại Chi cục hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội.
1.1.2 Khoảng trống trong nghiên cứu
Công tác quản lý thuế của Ngành Hải quan đã trải qua nhiều biến động, đặc biệt từ năm 2014 đến nay, với sự thay đổi đáng kể trong quy định thủ tục hải quan, kiểm tra và giám sát hải quan, cũng như quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu Sự chuyển mình này được thể hiện rõ qua việc áp dụng hệ thống hải quan điện tử hiện đại, bao gồm hệ thống thông quan hàng hóa tự động mới của Hải quan Việt Nam.
Vnaccs, which stands for "Vietnam Automated Cargo and Port Consolidated System," is a new automated customs clearance system implemented by the Vietnamese customs authorities VCIS is an abbreviation that also relates to this advanced system designed to streamline cargo processing and enhance efficiency in Vietnam's trade operations.
Hệ thống Thông tin Tình báo Hải quan Việt Nam là công cụ quan trọng cho quản lý rủi ro và giám sát hoạt động của Hải quan Việc tích hợp Vnaccs/Vcis đã tạo ra một hệ thống hải quan điện tử hiện đại Luật Hải quan số 54/2014/QH13, có hiệu lực từ ngày 01/01/2015, quy định quản lý nhà nước về hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu của tổ chức và cá nhân, đồng thời bãi bỏ các luật hải quan trước đó.
Năm 2015, Thông tư số 38/2015/TT-BTC được ban hành, thay thế Thông tư số 128/2013/TT-BTC, quy định về thủ tục hải quan và quản lý thuế đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, có hiệu lực từ ngày 01/04/2015 Thông tư này áp dụng hải quan điện tử và hệ thống kê khai tự nộp thuế, đồng thời bãi bỏ nhiều quy định cũ Đáng chú ý, từ ngày 01/07/2016 và 01/09/2016, Luật Quản lý thuế số 106/2016/QH13 và Luật Thuế XNK số 107/2016/QH13 có hiệu lực, với nhiều điểm mới nhằm đơn giản hóa thủ tục, cải cách hành chính và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, trong khi vẫn đảm bảo quản lý thuế hiệu quả và chống thất thu thuế.
Đến nay, chưa có nghiên cứu nào dưới dạng luận văn thạc sĩ hoặc luận án tiến sĩ phân tích một cách toàn diện về quản lý thuế xuất nhập khẩu tại Chi cục Hải quan Gia Thụy, Gia Lâm, Hà Nội.
Cơ sở lý luận chung về quản lý thuế XNK
1.2.1.1 Khái niệm XK hàng hóa, NK hàng hóa:
Hàng hóa được định nghĩa là động sản có tên gọi và mã số theo Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của Việt Nam Những hàng hóa này có thể được xuất khẩu, nhập khẩu, quá cảnh hoặc lưu giữ trong lãnh thổ hải quan của một quốc gia, và phải tuân thủ quy định của quốc gia đó, đồng thời chịu sự quản lý của cơ quan hải quan.
Xuất khẩu hàng hóa được định nghĩa là việc đưa hàng hóa ra khỏi lãnh thổ Việt Nam hoặc vào khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam, được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật, theo Luật Hải quan số 54/2014/QH13 ngày 23/6/2014.
Nhập khẩu hàng hóa được định nghĩa theo Điều 28 Luật Thương mại 2005 là quá trình đưa hàng hóa vào lãnh thổ Việt Nam từ nước ngoài hoặc từ khu vực đặc biệt trên lãnh thổ Việt Nam, nơi được coi là khu vực hải quan riêng theo quy định của pháp luật.
(Nguồn: Điều 28 Luật Thương mại 2005)
1.2.1.2 Khái niệm, đặc điểm thuế, thuế XNK:
Cho đến nay, chưa có sự thống nhất tuyệt đối về khái niệm thuế trong các sách báo kinh tế trên thế giới Tùy thuộc vào các góc độ và quan điểm khác nhau của các nhà kinh tế, định nghĩa về thuế cũng sẽ có sự khác biệt.
Theo quan điểm kinh tế học, thuế được định nghĩa là khoản tiền mà công dân đóng góp cho nhà nước, có tính chất xác định và không hoàn trả trực tiếp Khoản thuế này được thu thông qua quyền lực của nhà nước nhằm bù đắp cho các chi tiêu công.
Theo từ điển Tiếng Việt, thuế được định nghĩa là khoản tiền hoặc hiện vật mà cá nhân và tổ chức kinh doanh phải nộp cho nhà nước, tùy thuộc vào tài sản, thu nhập và nghề nghiệp của họ, theo mức quy định.
Theo Từ điển Tiếng Việt, thuế được định nghĩa là khoản đóng góp bắt buộc mà mọi tổ chức và cá nhân phải thực hiện theo quy định của pháp luật Mục đích của việc đóng thuế là để đáp ứng nhu cầu chi tiêu cho các chức năng và nhiệm vụ của nhà nước.
Thuế được hiểu là khoản đóng góp bắt buộc từ cá nhân và tổ chức cho Nhà nước, theo quy định của pháp luật về mức độ và thời gian, nhằm phục vụ cho các mục đích công cộng.
* Khái niệm về thuế XNK:
Thuế XNK, hay còn gọi là thuế quan/thuế hải quan, là loại thuế mà các quốc gia áp dụng đối với hàng hóa xuất nhập khẩu Mục đích của thuế này là để tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước, bảo vệ sản xuất trong nước và can thiệp vào hoạt động thương mại quốc tế, nhằm đạt được các mục tiêu kinh tế nhất định.
Một khái niệm nữa về Thuế XNK: “Thuế XNK là sắc thuế đánh vào hàng hóa XNK theo quy định của pháp luật Việt Nam”
Thuế XNK, hay còn gọi là thuế quan, là loại thuế mà một quốc gia áp dụng đối với hàng hóa khi chúng đi qua biên giới hải quan, bao gồm thuế xuất khẩu và thuế nhập khẩu.
(Nguồn: Đại từ điển Tiếng Việt)
Thuế xuất nhập khẩu (XNK) là một phần thu nhập phát sinh từ hoạt động xuất nhập khẩu hàng hóa, mà các tổ chức và cá nhân có trách nhiệm đóng góp cho Nhà nước theo quy định của pháp luật Mục đích của thuế XNK là nhằm đáp ứng nhu cầu chi tiêu và quản lý điều hành của Nhà nước.
Thuế xuất nhập khẩu (XNK) thể hiện quyền lực và tính pháp lý cao của Nhà nước, với vai trò kiểm soát và điều tiết hoạt động XNK hàng hóa Nhà nước là cơ quan duy nhất có thẩm quyền áp đặt thuế XNK, nhằm bảo vệ nền sản xuất trong nước, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, và thực hiện phân biệt đối xử trong quan hệ thương mại Đồng thời, thuế XNK cũng tạo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước Việc nộp thuế là nghĩa vụ của mọi pháp nhân và thể nhân, được quy định rõ ràng bởi pháp luật.
Thuế xuất nhập khẩu (XNK) là loại thuế quan trọng trong hoạt động ngoại thương, chịu ảnh hưởng bởi các yếu tố quốc tế như biến động kinh tế toàn cầu và xu hướng thương mại quốc tế Việc đánh thuế XNK thường dựa vào giá trị và chủng loại hàng hóa, với giá trị cuối cùng của hàng hóa tại cửa khẩu xuất được áp dụng cho thuế xuất, và giá trị hàng hóa tại cửa khẩu nhập đầu tiên được dùng để tính thuế nhập.
Thuế xuất nhập khẩu (XNK) không chỉ là nguồn thu ngân sách mà còn phản ánh các yếu tố kinh tế xã hội Nó đóng vai trò quan trọng trong việc huy động tài chính cho xã hội, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững Mức thu thuế XNK thể hiện sự công bằng trong phân phối tài sản và tạo điều kiện cho các hoạt động thương mại quốc tế.
NSNN chịu ảnh hưởng từ sự tăng trưởng kinh tế, nhu cầu chi tiêu của Nhà nước và các mục tiêu kinh tế xã hội trong từng giai đoạn Thuế XNK được hình thành qua quy trình kiểm tra hồ sơ khai thuế, các chứng từ liên quan và kiểm tra thực tế hàng hóa, phương tiện vận tải do cơ quan hải quan thực hiện, nhằm xác định chính xác số thuế phải nộp và chuyển khoản thuế đó vào NSNN theo quy định.