Tính cấp thiết của đề tài
Bảo hiểm xã hội (BHXH) đã xuất hiện hàng trăm năm và trở thành công cụ nhân văn quan trọng giúp con người vượt qua khó khăn trong cuộc sống và lao động BHXH không chỉ nâng cao đời sống tinh thần mà còn đảm bảo đời sống vật chất cho người lao động, trở thành nền tảng cơ bản cho an sinh xã hội ở nhiều quốc gia Tại Việt Nam, BHXH và bảo hiểm y tế (BHYT) là hai chính sách xã hội chủ chốt, góp phần thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, đồng thời ổn định chính trị - xã hội và phát triển kinh tế Quản lý thu BHXH, BHYT, và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) ngày càng trở nên quan trọng, quyết định đến sự hình thành và duy trì quỹ đảm bảo cho việc thực hiện các chính sách này.
Để đạt mục tiêu đến năm 2020 có 50% lực lượng lao động tham gia BHXH, 35% tham gia BHTN và hơn 90% dân số tham gia BHYT, ngành BHXH đang đối mặt với thách thức trong việc quản lý thu hiệu quả Mặc dù đã triển khai nhiều giải pháp để phát triển đối tượng tham gia và nâng cao quản lý thu, Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước vẫn gặp nhiều khó khăn, như thiếu kinh nghiệm trong đội ngũ nhân sự và tình trạng biến động nhân sự thường xuyên Công tác quản lý đối tượng chưa chặt chẽ, dẫn đến việc thu sai đối tượng, trong khi hoạt động tuyên truyền chưa hiệu quả khiến số lượng người tham gia còn thấp Ngoài ra, tình trạng chậm đóng và trốn đóng BHXH tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh đã trở thành vấn nạn, đồng thời tình trạng thu không cân đối chi có nguy cơ gây vỡ quỹ BHXH, BHYT.
Trước những thách thức cấp bách trong quản lý thu, tác giả đã chọn đề tài “Quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hoá” cho luận văn thạc sĩ, dựa trên kiến thức học được và kinh nghiệm thực tiễn trong công tác.
Luận văn nghiên cứu về những bất cập trong quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước và đề xuất các giải pháp cần thiết để hoàn thiện quy trình này Những vấn đề hiện tại trong quản lý thu cần được xác định rõ ràng, từ đó Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước có thể triển khai các biện pháp cải thiện hiệu quả thu ngân sách và nâng cao chất lượng dịch vụ.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu của luận văn là hoạt động quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hoá
Về không gian: Luận văn tập trung nghiên cứu hoạt động quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hoá
Tài liệu và số liệu nghiên cứu được thu thập từ các báo cáo tổng hợp trong khoảng thời gian từ năm 2011 đến năm 2015, cùng với 6 tháng đầu năm 2016.
Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích về quản lý thu, bao gồm thu BHXH, BHYT và BHTN.
Đóng góp và ý nghĩa của Luận văn
Đề tài luận văn nghiên cứu tập trung vào nhiệm vụ quan trọng của ngành Bảo hiểm xã hội (BHXH), nhằm giải quyết những hạn chế trong công tác quản lý thu Việc này không chỉ góp phần phát triển bền vững sự nghiệp BHXH mà còn đáp ứng mục tiêu "Bảo hiểm y tế toàn dân" và "Bảo hiểm xã hội cho người lao động" Các giải pháp được đề xuất có thể được tham khảo và áp dụng vào thực tiễn quản lý thu tại BHXH huyện Bá Thước.
Luận văn còn có ý nghĩa là tài liệu để BHXH cấp huyện tham khảo và áp dụng.
Kết cấu của luận văn
Luận văn được bố cục gồm 4 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu, cơ sở lý luận và thực tiễn về quản lý thu tại Bảo hiểm xã hội cấp huyện
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu
Chương 3 trình bày thực trạng quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước, nêu rõ những vấn đề hiện tại và thách thức gặp phải trong quá trình thu phí Chương 4 đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước trong thời gian tới, với mục tiêu nâng cao hiệu quả và tính minh bạch trong công tác thu phí.
Tổng quan tình hình nghiên cứu
Để thực hiện đề tài “Quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội huyện Bá Thước tỉnh Thanh Hoá”, tác giả đã tiến hành nghiên cứu các tài liệu trong nước liên quan đến vấn đề này Bài viết sẽ giới thiệu tổng quan các nghiên cứu quan trọng đã được công bố, từ đó làm cơ sở cho tài liệu nghiên cứu và tham khảo Trong phạm vi đề tài, tác giả sẽ trích dẫn những tài liệu nghiên cứu có liên quan đến lĩnh vực này.
Kể từ khi ngành bảo hiểm xã hội được thành lập vào năm 1995, đã có nhiều công trình nghiên cứu từ các cán bộ lãnh đạo, quản lý và chuyên gia trong và ngoài ngành Những nghiên cứu này bao gồm đề tài cấp bộ, luận án tiến sĩ và luận văn thạc sĩ, tập trung vào các vấn đề chung cũng như những lĩnh vực cụ thể Tuy nhiên, về quản lý thu, chỉ có một số ít đề tài được nghiên cứu một cách hệ thống.
Bảo hiểm Xã hội Việt Nam đã hoàn thiện quy trình quản lý thu bảo hiểm xã hội từ năm 2000, với cơ sở khoa học vững chắc Đề tài này là một nghiên cứu quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả quản lý trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội.
Tiến sĩ Dương Xuân Triệu là chủ biên của đề tài nghiên cứu về quy trình thu Bảo hiểm xã hội (BHXH), khẳng định rằng việc thu BHXH là yếu tố quyết định cho sự tồn tại và phát triển của BHXH trong cơ chế thị trường, không phụ thuộc vào ngân sách Nhà nước Đỗ Văn Sinh (2005) trong luận án Tiến sĩ kinh tế tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã làm rõ cơ sở khoa học và thực tiễn của quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam Tác giả tổng kết các mô hình và phương thức quản lý quỹ BHXH từ nhiều quốc gia, rút ra bài học kinh nghiệm để áp dụng vào thực tiễn quản lý quỹ BHXH tại Việt Nam, đồng thời đề xuất các quan điểm và giải pháp nhằm hoàn thiện quản lý quỹ BHXH.
Phạm Trường Giang (2010) trong luận án Tiến sĩ tại Trường Đại học Lao động xã hội đã nghiên cứu về cơ chế thu bảo hiểm xã hội (BHXH) ở Việt Nam, bao gồm phân cấp quản lý, chế tài về đóng BHXH và xử lý vi phạm Tác giả đã phân tích các chính sách hiện hành và đưa ra những khuyến nghị thực tiễn nhằm hoàn thiện cơ chế thu BHXH, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và thực thi chính sách này tại Việt Nam.
Phạm Thị Phong, 2013 Tăng cường quản lý thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm
Xã hội tỉnh Nghệ An đang đối mặt với thực trạng công tác quản lý lỏng lẻo của Bảo hiểm xã hội (BHXH) trong giai đoạn gần đây Luận văn thạc sĩ kinh tế từ Trường Đại học Kinh tế quốc dân đã chỉ ra những vấn đề tồn tại trong quản lý BHXH tại tỉnh này, đồng thời đề xuất các giải pháp nhằm cải thiện hiệu quả công tác quản lý, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và quyền lợi cho người dân.
2009 – 2012 đồng thời chỉ ra nguyên nhân từ “lỗ hổng” của Luật BHXH
Trần Ngọc Tuấn (2013) đã thực hiện nghiên cứu về việc hoàn thiện công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội (BHXH) trong khu vực kinh tế tư nhân tại tỉnh Gia Lai Luận văn Thạc sĩ kinh tế này được trình bày tại Trường Đại học Đà Nẵng, nhằm đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý thu BHXH, góp phần phát triển bền vững hệ thống bảo hiểm xã hội tại địa phương.
Tác giả nghiên cứu và phân tích công tác quản lý thu bảo hiểm xã hội (BHXH) tại khu vực kinh tế tư nhân, dựa trên các quy định hiện hành Bài viết đánh giá thực trạng quản lý thu BHXH trong khu vực này tại tỉnh Gia Lai và đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình quản lý thu BHXH, góp phần nâng cao hiệu quả thu nộp và bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Nguyễn Tuấn Hùng (2014) đã thực hiện một nghiên cứu quan trọng về việc hoàn thiện công tác thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm Xã hội tỉnh Vĩnh Phúc Luận văn Thạc sĩ kinh tế của tác giả, được thực hiện tại Trường Đại học Kinh tế, nhằm mục tiêu cải thiện quy trình thu bảo hiểm xã hội, góp phần nâng cao hiệu quả quản lý và phục vụ người dân.
Đề tài nghiên cứu của sinh viên ngành Quản trị kinh doanh tại Đại học Thái Nguyên phân tích thực trạng thu bảo hiểm xã hội (BHXH) tại BHXH tỉnh Vĩnh Phúc trong giai đoạn 2011-2013 Nghiên cứu chỉ ra nguyên nhân khiến nhiều chủ sử dụng lao động muốn trốn tránh việc tham gia BHXH cho người lao động, bao gồm sự thiếu hiểu biết của người lao động về chính sách BHXH, cũng như áp lực từ công việc buộc họ phải thỏa thuận với chủ sử dụng lao động để không tham gia BHXH.
Trần Thị Thu Phương (2015) đã thực hiện luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế tại Trường Đại học Thương Mại, nghiên cứu về quản lý thu bảo hiểm xã hội (BHXH) tại tỉnh Nam Định Đề tài hệ thống hóa các vấn đề lý luận cơ bản liên quan đến BHXH, thu BHXH và quản lý thu BHXH Ngoài ra, tác giả còn phân tích và đánh giá thực trạng quản lý thu BHXH tại tỉnh Nam Định, đồng thời đề xuất những giải pháp khả thi nhằm cải thiện công tác quản lý thu BHXH trên địa bàn.
Trần Thị Thúy, 2015 Quản lý thu bảo hiểm xã hội tại Bảo hiểm Xã hội Hà
Nội Luận văn Thạc sĩ Quản lý kinh tế, Trường Đại học Kinh tế - Đại học Quốc gia
Hà Nội Bài viết phân tích và đánh giá các yếu tố ảnh hưởng đến việc tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) của người lao động và người sử dụng lao động kể từ khi Luật BHXH sửa đổi năm 2014 có hiệu lực từ 01/01/2016 Đồng thời, tác giả đề xuất các giải pháp nhằm phát triển bền vững quỹ BHXH.
Nghiên cứu cho thấy hầu hết các đề tài chỉ tập trung vào quản lý thu trong lĩnh vực bảo hiểm xã hội (BHXH), mà chưa mở rộng sang bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN), dù đây là những nhiệm vụ liên quan chặt chẽ Hơn nữa, hiện nay còn thiếu các công trình nghiên cứu về quản lý thu tại BHXH cấp huyện.
Cơ sở lý luận về quản lý thu tại Bảo hiểm Xã hội cấp huyện
1.2.1.1 Tính tất yếu khách quan và sự ra đời của BHXH
Lịch sử phát triển bảo hiểm xã hội (BHXH) cho thấy rằng sự ra đời của BHXH là thành quả của cuộc đấu tranh kéo dài giữa giai cấp công nhân và giới chủ tư bản.
Khi nền kinh tế hàng hóa phát triển, việc thuê mướn nhân công trở nên phổ biến, nhưng NLĐ thường bị bóc lột và đối xử không công bằng Giờ làm việc kéo dài, cường độ lao động cao nhưng tiền công thấp khiến họ không thể đảm bảo cuộc sống Nhà nước và giới chủ thiếu quan tâm, dẫn đến việc giai cấp công nhân liên kết hỗ trợ lẫn nhau, lập quỹ cứu trợ và đấu tranh đòi quyền lợi Mâu thuẫn giữa giới chủ và thợ ngày càng sâu sắc, buộc Nhà nước phải can thiệp để điều hòa Sự can thiệp này không chỉ tăng vai trò của Nhà nước mà còn yêu cầu cả giới chủ và thợ đóng góp cho quỹ đảm bảo đời sống NLĐ Quỹ này giúp dàn trải rủi ro và đảm bảo ổn định cuộc sống cho NLĐ, đồng thời bảo vệ lợi ích của giới chủ Nhờ đó, quỹ tiền tệ tập trung ngày càng lớn, khả năng giải quyết phát sinh cũng được nâng cao, dẫn đến sự ra đời của bảo hiểm xã hội.
Qua nhiều thời kỳ, sự tranh chấp giữa giới chủ và giới thợ, cùng với sự phát triển kinh tế xã hội và nâng cao nhận thức về bảo hiểm xã hội (BHXH) của người lao động, đã dẫn đến những cách thức chủ động khắc phục rủi ro ngày càng hoàn thiện Tuy nhiên, chỉ khi BHXH ra đời như một thiết chế xã hội, những tranh chấp và khó khăn mới được giải quyết một cách ổn thỏa và hiệu quả Đây chính là giải pháp chung cho xã hội trong quá trình phát triển, thể hiện qua sự chia sẻ rủi ro.
Sự xuất hiện của bảo hiểm xã hội (BHXH) là điều tất yếu, phản ánh nhu cầu của mọi thành viên trong xã hội Tham gia BHXH không chỉ là quyền lợi mà còn là nhu cầu thiết yếu của người lao động (NLĐ), tương tự như quy luật cung - cầu trong kinh tế BHXH đã được công nhận là một trong những quyền lợi cơ bản của con người, như đã nêu trong Tuyên ngôn nhân quyền của Đại hội đồng Liên hợp quốc.
1.2.1.2 Khái niệm về BHXH, BHYT, BHTN
Khi chưa có Luật BHXH, khái niệm về BHXH được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau:
Bảo hiểm xã hội (BHXH) được xem như một chính sách xã hội quan trọng, nhằm giải quyết các chế độ liên quan đến người lao động, đồng thời bảo vệ sự phát triển kinh tế - xã hội và duy trì ổn định quốc gia.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong quản lý nhà nước, giúp điều chỉnh quan hệ kinh tế giữa người lao động, người sử dụng lao động và Nhà nước Đồng thời, BHXH còn thực hiện quá trình phân phối và phân phối lại thu nhập trong xã hội, góp phần đảm bảo công bằng xã hội.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) là một quỹ tài chính độc lập và tập trung, được hình thành từ sự đóng góp của các bên tham gia cùng với sự hỗ trợ từ Nhà nước.
Bảo hiểm xã hội (BHXH) đóng vai trò quan trọng trong việc đảm bảo và thay thế một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải tình trạng mất hoặc giảm thu nhập do tham gia BHXH.
Theo Tổ chức Lao động Thế giới (ILO), bảo hiểm xã hội (BHXH) là sự bảo vệ của xã hội dành cho các thành viên thông qua các biện pháp công cộng nhằm đối phó với khó khăn kinh tế do mất thu nhập do ốm đau, mất khả năng lao động, tuổi già và tử vong, cũng như cung cấp chăm sóc y tế và trợ cấp cho các gia đình đông con Tại Việt Nam, cơ quan Bảo hiểm Xã hội có trách nhiệm thực hiện chính sách BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Người lao động tham gia BHXH bắt buộc cũng đồng thời tham gia BHYT và BHTN, do đó khi đề cập đến BHXH, thường bao gồm cả BHYT và BHTN Tuy nhiên, các khái niệm BHXH, BHYT và BHTN được quy định riêng biệt và cụ thể theo Luật BHXH, Luật BHYT và Luật Việc làm.
Theo Luật BHXH năm 2014, bảo hiểm xã hội (BHXH) là cơ chế đảm bảo thay thế hoặc bù đắp một phần thu nhập cho người lao động khi họ gặp phải tình trạng giảm hoặc mất thu nhập do ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, hết tuổi lao động hoặc qua đời, dựa trên việc đóng góp vào quỹ bảo hiểm xã hội.
Theo quy định của Luật Bảo hiểm y tế (BHYT), BHYT là hình thức bảo hiểm bắt buộc nhằm chăm sóc sức khỏe cho các đối tượng nhất định, được tổ chức thực hiện bởi Nhà nước và không vì mục đích lợi nhuận.
Theo Luật Việc làm, bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) là chế độ hỗ trợ người lao động bằng cách bù đắp một phần thu nhập khi họ mất việc Chế độ này cũng giúp người lao động học nghề, duy trì công việc và tìm kiếm việc làm, dựa trên việc đóng góp vào Quỹ bảo hiểm thất nghiệp.
1.2.1.3 Bản chất của BHXH, BHYT, BHTN
BHXH, BHYT, BHTN mang tính xã hội, tính nhân đạo và nhân văn sâu sắc
Tính xã hội, nhân đạo và nhân văn trong các chế độ BHXH, BHYT, BHTN thể hiện bản chất chính sách bảo vệ các thành viên trong xã hội Các biện pháp công cộng này nhằm hỗ trợ người dân vượt qua khó khăn kinh tế và xã hội do mất hoặc giảm thu nhập, gây ra bởi ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, thương tật, tuổi già hoặc tử vong.
BHXH, BHYT, BHTN là chính sách xã hội quan trọng của Đảng và Nhà nước, nhằm nâng cao hiệu quả xã hội Quỹ thực hiện các chế độ này được hình thành từ sự đóng góp của người lao động và người sử dụng lao động, cùng với sự hỗ trợ của Nhà nước, thể hiện rõ tính chất xã hội trong cấu trúc nguồn quỹ.
BHXH, BHYT và BHTN là những công cụ quan trọng trong quản lý xã hội, đảm bảo sự ổn định đời sống cho người tham gia, đồng thời góp phần thúc đẩy phát triển sản xuất và phân phối lại thu nhập trong xã hội.
Kinh nghiệm về quản lý thu của một số địa phương trong tỉnh Thanh Hoá, những bài học rút ra
1.3.1 Kinh nghiệm về quản lý thu của một số địa phương trong tỉnh Thanh Hoá 1.3.1.1 Kinh nghiệm từ huyện Ngọc Lặc tỉnh Thanh Hóa
Ngọc Lặc là một huyện Miền núi nằm ở phía tây tỉnh Thanh Hóa, có diện tích tự nhên: 490,92 Km 2 ; dân số 132.951 người (Nguồn: Niên giám thống kê năm
2014 – Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá)
Năm 2011, huyện Ngọc Lặc ghi nhận 4.831 người tham gia BHXH bắt buộc, trong đó có 976 người từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh Bên cạnh đó, có 103 người tham gia BHXH tự nguyện, 111.185 người tham gia BHYT và 3.815 người tham gia BHTN Tổng số thu trong năm 2011 đạt 71,1 tỷ đồng, với 30,2 tỷ đồng từ BHXH bắt buộc, 0,17 tỷ đồng từ BHXH tự nguyện, 38,6 tỷ đồng từ BHYT và 2,0 tỷ đồng từ BHTN.
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp thu, BHXH huyện Ngọc Lặc, 2011, Ngọc Lặc)
BHXH huyện Ngọc Lặc đã quyết tâm phát triển đối tượng tham gia BHYT toàn dân và BHXH cho NLĐ thông qua nhiều giải pháp quản lý thu hiệu quả Bộ phận quản lý thu gồm 05 cán bộ, chủ yếu là người địa phương, đảm bảo tính ổn định trong công tác Việc quản lý đối tượng tham gia được phân chia theo loại hình cụ thể, hỗ trợ lẫn nhau và luôn theo sát tình hình lao động cũng như quỹ lương của các đơn vị Hàng tháng, cán bộ quản lý thu thông báo tình hình đóng nộp và đôn đốc các đơn vị thực hiện nghĩa vụ BHXH Đối với các đơn vị chậm đóng, BHXH huyện lập danh sách gửi Liên đoàn lao động huyện và phối hợp với Kho bạc Nhà nước để trích trừ các khoản đóng BHXH Để thu hút người tham gia từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, BHXH huyện đã tham mưu thành lập đoàn kiểm tra liên ngành và xử lý nghiêm các vi phạm Đồng thời, BHXH huyện cũng chú trọng phát triển đối tượng tham gia BHXH tự nguyện và BHYT theo hộ gia đình bằng cách mở rộng mạng lưới đại lý thu, với hơn 60 đại lý trên 22 xã, thị trấn tính đến tháng 6/2016.
Tính đến 31/12/2015, huyện Ngọc Lặc ghi nhận 5.618 người tham gia BHXH bắt buộc, trong đó có 1.557 người từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh, 169 người tham gia BHXH tự nguyện, 4.838 người tham gia BHTN và 133.196 người tham gia BHYT Tổng số thu năm 2015 đạt 157,4 tỷ đồng, tăng 121,3% so với năm 2011 Thành công này nhờ vào việc BHXH huyện Ngọc Lặc phát huy nguồn lực sẵn có, duy trì ổn định nhân sự quản lý thu, phối hợp hiệu quả với các ngành chức năng và nhận được sự quan tâm kịp thời từ các cấp uỷ Đảng và chính quyền địa phương.
1.3.1.2 Kinh nghiệm từ huyện Thiệu Hóa tỉnh Thanh Hóa
Thiệu Hoá là một huyện nằm trong vùng đồng bằng của tỉnh Thanh Hoá, cách trung tâm thành phố Thanh Hoá khoảng 15 km Huyện có diện tích tự nhiên là 160,35 km² và dân số đạt 156.269 người theo Niên giám thống kê năm 2014 của Cục Thống kê tỉnh Thanh Hoá.
Năm 2011, huyện Thiệu Hoá ghi nhận 4.398 người tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH) bắt buộc, trong đó có 547 người từ doanh nghiệp ngoài quốc doanh Số người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện là 132, trong khi đó, 63.830 người tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) và 3.270 người tham gia bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Tổng số thu từ bảo hiểm trong năm 2011 đạt 54,6 tỷ đồng.
Báo cáo tổng hợp thu, BHXH huyện Thiệu Hoá, 2011, Thiệu Hoá)
Huyện Thiệu Hóa, không được hưởng các chính sách ưu tiên như các huyện miền núi, gặp khó khăn trong việc tham gia bảo hiểm y tế (BHYT) do phần lớn người dân không thuộc đối tượng được ngân sách nhà nước hỗ trợ Tuy nhiên, với lợi thế phát triển kinh tế - xã hội nhờ giáp ranh với Thành phố Thanh Hóa, huyện đã tận dụng cơ hội để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH), BHYT và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) Huyện xác định trọng tâm là thu hút doanh nghiệp ngoài quốc doanh và người dân tham gia BHXH tự nguyện, đồng thời mở rộng đối tượng tham gia BHYT, đặc biệt là học sinh – sinh viên, hộ cận nghèo và hộ gia đình tự đóng.
Huyện Thiệu Hoá đã chú trọng phát triển chính sách bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT) và bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) từ năm 2011 đến 2015, với nhiều văn bản chỉ đạo từ Huyện uỷ và UBND huyện Sự quan tâm này đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng số người tham gia ở tất cả các nhóm đối tượng, nhờ vào thế mạnh phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Đến cuối năm 2015, huyện Thiệu Hoá có 5.894 người tham gia BHXH bắt buộc, tăng 34,0% so với năm 2011, trong đó doanh nghiệp ngoài quốc doanh chiếm 2.307 người, tăng 320,7% Số người tham gia BHXH tự nguyện đạt 399 người, tăng 202,3% so với năm 2011 Đồng thời, số người tham gia BHYT đạt 97.848 người, tăng 53,3% so với năm 2014, bao gồm 12.921 học sinh và sinh viên.
Số người tham gia BHTN đạt: 5.021 người, tăng 55,5% so với năm 2011 Tổng số thu năm 2015 đạt đƣợc: 134,5 tỷ đồng, tăng 59,4% so với năm 2011
(Nguồn: Báo cáo tổng hợp thu, BHXH huyện Thiệu Hoá, 2015, Thiệu Hoá)
Các địa phương thành công trong quản lý thu ngân sách thường có những đặc điểm chung như sự chủ động và sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, phát huy thế mạnh địa phương và tận dụng sự quan tâm, chỉ đạo từ chính quyền Một số kinh nghiệm rút ra từ những địa phương này có thể giúp nâng cao hiệu quả quản lý thu.
Chủ động và sáng tạo trong việc tổ chức thực hiện là rất quan trọng Dựa trên kế hoạch đã được giao và tình hình thực tế của địa phương, BHXH huyện cần xác định rõ những điểm mạnh và điểm yếu trong quá trình thực hiện, từ đó đưa ra các giải pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả công việc.
Để nâng cao hiệu quả hoạt động, ngành BHXH cần tăng cường phối hợp với các ngành chức năng Mặc dù đã ký kết nhiều văn bản hợp tác, nhưng việc thực hiện vẫn còn mang tính hình thức Sự phối hợp chặt chẽ không chỉ giúp mở rộng đối tượng tham gia và quản lý nguồn thu hiệu quả mà còn bảo vệ quyền lợi của người lao động.
Để mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp, sự quan tâm và chỉ đạo của cấp ủy Đảng và chính quyền địa phương là rất quan trọng Những chỉ đạo này không chỉ giúp khắc phục tình trạng nợ đọng mà còn bảo vệ quyền lợi của người lao động Trong bối cảnh đó, bảo hiểm xã hội cần đóng vai trò là cơ quan tham mưu chính, góp phần nâng cao hiệu quả công tác bảo hiểm.
Phương pháp tiếp cận
Dựa trên phương pháp luận của phép duy vật biện chứng và nghiên cứu định tính theo lý luận của chủ nghĩa Mác – Lê Nin cùng tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã trình bày cơ sở lý luận về bảo hiểm xã hội (BHXH) và quản lý thu trong Chương 1, phản ánh đường lối đổi mới của Đảng qua các kỳ Đại hội.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể
2.2.1 Phương pháp thu thập dữ liệu
Trước khi thực hiện luận văn, tác giả đã thu thập thông tin từ tài liệu, giáo trình và bài viết liên quan đến bảo hiểm xã hội (BHXH) và quản lý thu BHXH, bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) từ các phương tiện thông tin đại chúng, đặc biệt là từ tạp chí bảo hiểm xã hội của BHXH Việt Nam Để làm rõ cơ sở lý luận về BHXH và quản lý thu BHXH, BHYT, BHTN, tác giả đã tiến hành thu thập thông tin liên quan đến các vấn đề nghiên cứu trong Chương 1 thông qua các nội dung thể hiện ở Công ước số.
Bài viết này phân tích lịch sử ra đời của bảo hiểm xã hội (BHXH) dựa trên các luận điểm và phát biểu của các học giả quốc tế, cùng với kết quả nghiên cứu từ luận án Tiến sĩ và luận văn thạc sĩ trong nước về quản lý thu BHXH Tác giả làm rõ đối tượng thu, mức thu và quy trình thu, đồng thời mô tả hoạt động quản lý thu tại BHXH huyện Bá Thước Để thực hiện điều này, tác giả đã thu thập các căn cứ pháp lý từ các văn bản Luật, Nghị định, Thông tư và hướng dẫn của BHXH Việt Nam.
Tác giả đã thu thập dữ liệu từ Báo cáo tổng hợp thu của BHXH huyện Bá Thước qua các năm, cùng với số liệu Quyết toán Thuế từ năm 2011 đến nay.
Từ năm 2015, Chi cục Thuế huyện Bá Thước đã xây dựng các bảng số liệu nhằm phân tích và đánh giá thực trạng tham gia BHXH Bài viết sẽ trình bày quá trình phát triển đối tượng tham gia cũng như số thu BHXH, BHYT và BHTN từ năm 2011 đến nay.
2015 của BHXH huyện Bá Thước
Dựa trên các quan điểm và nghiên cứu của các học giả trong và ngoài nước về bảo hiểm xã hội, tác giả phân tích sâu về bản chất và vai trò của bảo hiểm xã hội (BHXH), bảo hiểm y tế (BHYT), bảo hiểm thất nghiệp (BHTN) cũng như hoạt động quản lý thu tại BHXH cấp huyện, được trình bày chi tiết trong Chương 1.
Phương pháp phân tích cũng được sử dụng tại Chương 3 để lý giải cho những bất cập về mặt nhân sự phục vụ cho hoạt động quản lý thu
Dựa trên số liệu thu thập qua các năm, tác giả phân tích kết quả đạt được và nguyên nhân gây ra tình trạng nợ bảo hiểm y tế (BHYT) ở các nhóm đối tượng do ngân sách nhà nước đóng Đồng thời, tác giả cũng chỉ ra những hạn chế trong công tác quản lý thu tại huyện Bá Thước.
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích để chỉ ra những hạn chế trong các văn bản hướng dẫn thực hiện chính sách bảo hiểm y tế (BHYT), điều này ảnh hưởng đến kết quả phát triển đối tượng tham gia và doanh thu của đơn vị, được trình bày chi tiết trong Chương 4.
Trong Chương 1, tác giả tổng hợp kết quả nghiên cứu của các tác giả trong và ngoài nước về bảo hiểm xã hội (BHXH) và quản lý thu, nhằm làm rõ cơ sở lý luận cho vấn đề nghiên cứu.
Trong Chương 1, tác giả tổng hợp các Nghị định của Chính phủ liên quan đến mức lương cơ sở và mức lương tối thiểu vùng, nhằm phục vụ cho việc phân tích nguyên nhân dẫn đến sự gia tăng số thu qua các năm, được trình bày chi tiết ở Chương 3.
Tác giả áp dụng phương pháp tổng hợp để thu thập và biên soạn số liệu báo cáo qua các năm, nhằm tạo ra bảng dữ liệu phục vụ cho việc so sánh và phân tích trong Chương 3.
Tác giả đã sử dụng số liệu quyết toán thuế từ năm 2011 đến 2015 của Chi cục Thuế Bá Thước để so sánh với số lượng đơn vị tham gia Bảo hiểm xã hội (BHXH), nhằm chỉ ra tình trạng trốn đóng BHXH tại các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn huyện.
Tác giả áp dụng phương pháp so sánh để đánh giá kết quả thực hiện qua các năm, nhằm phân tích và xác định nguyên nhân của những kết quả đạt được cũng như các hạn chế tồn tại, điều này được thể hiện rõ trong Chương 3.
2.2.5 Phương pháp điều tra, khảo sát
Phương pháp điều tra đã giúp tác giả thu thập số liệu cụ thể về thực trạng quản lý đối tượng tham gia và nguồn thu của BHXH huyện Bá Thước Để đánh giá tình hình này, tác giả đã tiến hành khảo sát sự biến động lao động và điều chỉnh căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN tại 90 trong tổng số 140 đơn vị HCSN tham gia BHXH trên địa bàn huyện vào tháng 6/2016.
Tác giả thực hiện điều tra bằng cách sử dụng “Phiếu điều tra tình hình điều chỉnh tăng, giảm lao động, thay đổi căn cứ đóng BHXH, BHYT, BHTN” được trình bày qua Mẫu số 01 trong Phụ lục.
Dựa trên số liệu do cơ quan BHXH quản lý, tác giả đã tiến hành đối chiếu với bảng lương của đơn vị để tính toán số chênh lệch Đồng thời, tác giả đề nghị đơn vị cung cấp các Quyết định về việc tăng, giảm lao động và tăng lương nhằm xác định thời điểm thay đổi, làm căn cứ cho việc truy thu và truy giảm.