1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(LUẬN VĂN THẠC SĨ) Giải pháp huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay

90 3 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Giải Pháp Huy Động Nguồn Lực Xây Dựng Nông Thôn Mới Ở Việt Nam Hiện Nay
Tác giả Nguyễn Văn Tiến
Người hướng dẫn TS. Đinh Thị Thủy
Trường học Đại Học Quốc Gia Hà Nội
Chuyên ngành Quản Lý Kinh Tế
Thể loại luận văn thạc sĩ
Năm xuất bản 2015
Thành phố Hà Nội
Định dạng
Số trang 90
Dung lượng 0,91 MB

Cấu trúc

  • Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI (14)
    • 1.1. Cơ sở khoa học (14)
      • 1.1.1. Nông thôn (14)
      • 1.1.2. Nông thôn mới (15)
      • 1.1.2. Xây dựng nông thôn mới (16)
      • 1.1.3. Huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (20)
      • 1.1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (22)
    • 1.2. Cơ sở pháp lý (23)
      • 1.2.1. Chủ trương, định hướng của Đảng (23)
      • 1.2.2. Cơ chế, chính sách của Nhà nước (26)
    • 1.3. Cơ sở thực tiễn của huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Viêt Nam (27)
      • 1.3.1. Kinh nghiêm trong nước (27)
      • 1.3.2. Kinh nghiệm huy động nguồn lực xây dựng nông thôn ở nước ngoài (29)
  • Chương 2 THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (33)
    • 2.1. Cơ chế, chính sách huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay (33)
      • 2.1.1. Cơ chế huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (33)
      • 2.1.2. Về cơ chế đầu tư (35)
      • 2.1.3. Về phân bổ nguồn vốn đầu tư (35)
      • 2.1.4. Cơ cấu vốn đầu tư thực hiện Chương trình (37)
    • 2.2. Kết quả Huy động nguồn vốn xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay (38)
      • 2.2.1. Huy động vốn Chương trình xây dựng nông thôn mới (38)
      • 2.2.2. Kết quả huy động vốn tại 11 xã thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới (41)
    • 2.3. Huy động các nguồn lực khác xây dựng nông thôn mới (46)
      • 2.3.1. Huy động nguồn lực đất đai xây dựng nông thôn mới (46)
      • 2.3.2. Huy động nhân lực xây dựng nông thôn mới (47)
    • 2.4. Đánh giá chung (49)
      • 2.4.1. Kết quả đạt được (49)
      • 2.4.2. Những khó khăn, hạn chế của huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (56)
      • 2.4.3. Nguyên nhân của những hạn chế (59)
  • Chương 3 ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (63)
    • 3.1. Chủ trương xây dựng nông thôn mới của Đảng và Nhà nước ta trong thời gian tới (63)
    • 3.2. Mục tiêu xây dựng nông thôn mới đến năm 2020 (65)
      • 3.2.1. Mục tiêu tổng quát (65)
      • 3.2.2. Mục tiêu cụ thể (65)
      • 3.3.1. Tổng nhu cầu vốn đến 2020 (66)
      • 3.3.2. Cơ cấu huy động vốn xây dựng nông thôn mới (67)
      • 3.3.3. Định hướng các nội dung huy động các nguồn lực cho xây dựng nông thôn mới (68)
    • 3.4. Giải pháp huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (69)
      • 3.4.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (69)
      • 3.4.2. Nhà nước tiếp tục tăng đầu tư, thực hiện vai trò định hướng, hỗ trợ, dẫn dắt, khuyến khích người dân, các tổ chức và cộng đồng tự giác, tích cực tham gia đóng góp xây dựng nông thôn mới (70)
      • 3.4.4. Phát triển sản xuất, nâng cao thu nhập, đời sống của người dân nông thôn là giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm tăng cường nguồn lực bền vững xây dựng nông thôn mới (75)
      • 3.4.5. Tuyên truyền, vận động tạo sự đồng thuận của người dân và xã hội (0)
    • 3.5. Các điều kiện chủ yếu để thực hiện giải pháp (77)
      • 3.5.1. Nâng cao nhận thức về huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới (77)
      • 3.5.2. Thực hiện tốt phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, (77)
      • 3.5.3. Bổ sung, hoàn thiện chính sách đất đai, tín dụng, ưu đãi đầu tư vào (78)
  • KẾT LUẬN (32)

Nội dung

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI

Cơ sở khoa học

1.1.1 Nông thôn: Theo quan điểm truyền thống, nông thôn là nơi sinh sống và làm việc của một bộ phận dân cư và thường được gắn với làng, xóm, thôn, bản, ấp…; là môi trường kinh tế sản xuất gắn với nghề lúa nước cổ truyền, không gian sinh tồn, không gian xã hội, cảnh quan văn hoá xây đắp nên nền tảng tinh thần, tạo thành lối sống, cốt cách và bản lĩnh của người Việt chúng ta [9]

Nông thôn là khu vực chủ yếu có cộng đồng dân cư là nông dân, tập trung vào hoạt động nông nghiệp như trồng trọt và chăn nuôi Đây cũng là địa bàn thuộc đơn vị hành chính cấp xã, không bao gồm các phường, quận, thị xã hay thành phố Nông thôn thực hiện nhiều chức năng quan trọng trong phát triển kinh tế và bảo tồn văn hóa địa phương.

- Chức năng sản xuất nông nghiệp

Sản xuất nông nghiệp, đặc biệt trong lĩnh vực trồng trọt như lương thực, cây công nghiệp và trồng rừng, đòi hỏi diện tích lớn và chủ yếu diễn ra ở nông thôn Nông nghiệp không chỉ là chức năng tự nhiên của nông thôn mà còn tạo ra nhiều sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao Khác với nông thôn truyền thống, nông thôn mới hiện nay áp dụng cơ cấu ngành nghề đa dạng, hiện đại hóa điều kiện sản xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến, đồng thời xây dựng các tổ chức nông nghiệp hiện đại.

- Chức năng giữ gìn văn hóa truyền thống

Làng xóm nông thôn Việt Nam được hình thành từ các cộng đồng có chung phong tục, tập quán và họ tộc, nơi mà mối quan hệ huyết thống và văn hóa quê hương đóng vai trò quan trọng trong đời sống Văn hóa quê hương không chỉ sản sinh ra những giá trị tinh thần quý báu như tình yêu thương, sự giúp đỡ lẫn nhau, mà còn cần được gìn giữ và phát triển trong bối cảnh xã hội nông thôn đặc thù Ngược lại, môi trường thành thị với tính năng động cao không còn phù hợp để duy trì các truyền thống văn hóa này Do đó, nông thôn, với đặc điểm sản xuất nông nghiệp và sự gắn bó theo dân tộc, là môi trường lý tưởng để bảo tồn và phát triển văn hóa quê hương Các cảnh quan nông thôn cũng góp phần tạo nên màu sắc văn hóa làng xã đặc trưng, phản ánh triết lý sống hòa hợp với thiên nhiên và phát triển bền vững.

Nông nghiệp không chỉ liên quan đến cây trồng và vật nuôi mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nông sản cần thiết cho con người và cải tạo môi trường Nông nghiệp và nông thôn mang chức năng sinh thái, với hệ thống sinh thái nông nghiệp phục vụ cho các hoạt động sản xuất Đất đai canh tác, hệ thống thủy lợi, rừng và thảo nguyên đều góp phần điều hòa khí hậu, giảm ô nhiễm tiếng ồn, cải thiện nguồn nước, phòng chống xói mòn đất và làm sạch đất.

1.1.2 Nông thôn mới Đã có một số nghiên cứu, diễn giải và phân tích thế nào là nông thôn mới Nông thôn mới có thể hiểu, trước tiên phải là nông thôn chứ không phải là thị trấn, thị tứ; là nông thôn mới chứ không phải nông thôn truyền thống Nếu so sánh giữa nông thôn mới và nông thôn truyền thống, thì nông thôn mới phải bao hàm cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, xã hội và chức năng mới, mô hình mới Ngày 04 tháng 6 năm 2010 Thủ Tướng Chính phủ ban hành

Quyết định số 800/QĐ-TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 – 2020 với mục tiêu chung là xây dựng nông thôn hiện đại, có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phát triển Chương trình nhấn mạnh việc kết hợp nông nghiệp với phát triển công nghiệp, dịch vụ và quy hoạch đô thị, đồng thời bảo đảm tính dân chủ, ổn định xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc Môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được duy trì, và đời sống vật chất, tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa Đơn vị nông thôn mới được quy định theo Thông tư 54/2009/TT-BNN&PTNT.

Theo Quyết định ngày 21 tháng 8 năm 2009 của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, huyện nông thôn mới được xác định là huyện có 75% số xã đạt tiêu chí nông thôn mới Tương tự, tỉnh nông thôn mới là tỉnh có 75% số huyện đạt tiêu chí này Để được công nhận là xã nông thôn mới, xã đó cần đạt đủ 19 tiêu chí của Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới.

1.1.2 Xây dựng nông thôn mới

Xây dựng nông thôn mới chưa có khái niệm chính thức, nhưng có thể hiểu là một chương trình tổng hợp liên quan đến tất cả các hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn và nông dân Đây là quá trình phát triển nông thôn theo các tiêu chí mới, phù hợp với yêu cầu và tính chất của thời đại Mục tiêu bao gồm xây dựng nông thôn theo quy hoạch với hạ tầng kinh tế - xã hội hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, và tổ chức sản xuất hiệu quả Chương trình cũng gắn kết nông nghiệp với sự phát triển nhanh chóng của công nghiệp và dịch vụ, đồng thời kết hợp phát triển nông thôn với đô thị hóa theo quy hoạch Cuối cùng, xây dựng một xã hội nông thôn ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, nâng cao dân trí và bảo vệ môi trường sinh thái là những mục tiêu quan trọng trong quá trình này.

Nội dung xây dựng NTM được thể hiện trong chương trình MTQG xây dựng NTM (Quyết định số 800/QĐ-TTg, ngày 04/6/2010), gồm 11 nội dung sau:

(1) Quy hoạch xây dựng nông thôn mới:

- Quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hoá, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ;

Quy hoạch phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường là rất quan trọng, bao gồm việc xây dựng các khu dân cư mới và cải tạo các khu dân cư hiện có trong xã.

(2) Phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội:

Đến năm 2020, 70% số xã đã đạt chuẩn về giao thông, với các trục đường thôn, xóm được cứng hóa, nâng cao chất lượng hạ tầng giao thông Trước đó, vào năm 2015, 35% số xã đã hoàn thiện hệ thống giao thông, bao gồm việc nhựa hóa hoặc bê tông hóa các trục đường xã, góp phần cải thiện kết nối đến trụ sở UBND xã và toàn bộ khu vực.

Đến năm 2015, 85% số xã đã hoàn thiện hệ thống công trình cung cấp điện phục vụ sinh hoạt và sản xuất, và đến năm 2020, tỷ lệ này đã tăng lên 95%, đạt tiêu chí xây dựng nông thôn mới (NTM).

Đến năm 2015, 30% số xã đã hoàn thiện hệ thống nhà văn hóa đạt chuẩn, phục vụ nhu cầu hoạt động văn hóa thể thao Mục tiêu đến năm 2020, tỷ lệ này sẽ tăng lên 75%, góp phần nâng cao đời sống văn hóa tinh thần cho cộng đồng.

Đến năm 2015, 50% số xã trên địa bàn đã hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hóa về y tế, và đến năm 2020, tỷ lệ này đã tăng lên 75%.

Đến năm 2015, 45% số xã trên địa bàn đã hoàn thiện hệ thống các công trình phục vụ việc chuẩn hóa giáo dục, và con số này đã tăng lên 75% vào năm 2020.

- Hoàn chỉnh trụ sở xã và các công trình phụ trợ Đến 2015 có 65% số xã đạt tiêu chí và năm 2020 có 85% số xã đạt chuẩn;

Cơ sở pháp lý

1.2.1 Chủ trương, định hướng của Đảng

Nông nghiệp, nông dân và nông thôn luôn là mối quan tâm hàng đầu của Đảng, đóng vai trò chiến lược quan trọng trong việc phát triển kinh tế - xã hội bền vững Những yếu tố này không chỉ đảm bảo ổn định chính trị, xã hội mà còn góp phần vào an ninh quốc phòng, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, cũng như bảo vệ môi trường sinh thái.

Ngay sau Cách mạng tháng 8 năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã chú trọng xây dựng “đời sống mới” ở nông thôn, coi đây là biện pháp hiệu quả để xoá bỏ tàn dư lạc hậu của chế độ cũ Mục tiêu là giáo dục nhân dân nhận thức về ưu việt của chế độ xã hội mới và trách nhiệm trong việc xây dựng xã hội mới Ngày 03/4/1946, “Uỷ Ban vận động Đời sống Trung ƣơng” được thành lập để đẩy mạnh cuộc vận động này, đánh dấu chủ trương đầu tiên cho việc xây dựng nông thôn mới Sau ngày giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước, Đảng và Nhà nước tiếp tục thể hiện quyết tâm trong việc xây dựng nông thôn mới, duy trì và phát huy quá trình này.

Cương lĩnh phát triển đất nước năm 1991 nhấn mạnh tầm quan trọng của nông nghiệp trong việc phát triển lực lượng sản xuất và công nghiệp hóa hiện đại Đảng ta đã khởi xướng công cuộc đổi mới, coi nông nghiệp và nông thôn là yếu tố then chốt trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước Hội nghị Trung ương VII (1993) khẳng định cần đẩy mạnh quá trình này, cho thấy từ những năm 90, Đảng đã xác định rõ hướng đi cho sự phát triển nông thôn theo mô hình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Ngày 10/11/1998, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn, nhấn mạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và liên kết nông - công nghiệp - dịch vụ Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu gắn phát triển nông nghiệp với xây dựng nông thôn mới, công nghiệp hóa, dân chủ hóa, nâng cao dân trí và đào tạo nhân lực Điều này nhằm tạo ra phân công lao động mới, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống, xoá đói giảm nghèo và thu hẹp khoảng cách sống giữa thành phố và nông thôn, đồng thời đạt được mục tiêu phát triển dân số.

Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khóa IX đã thông qua Nghị quyết nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn 2001 – 2010 Nghị quyết nhấn mạnh rằng quá trình này bao gồm việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng sản xuất hàng hóa lớn, kết hợp với công nghiệp chế biến và thị trường Đồng thời, cần thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, và ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ sinh học, nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường.

IX đã chỉ ra ra 5 quan điểm trong xây dựng nông thôn đó là:

+ Coi công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu;

Để thúc đẩy phát triển lực lượng sản xuất, cần đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, bảo vệ môi trường, và thực hiện các biện pháp phòng chống, hạn chế và giảm nhẹ thiên tai Đồng thời, phát triển nông nghiệp và nông thôn bền vững cũng là mục tiêu quan trọng trong quá trình này.

+ Dựa vào nội lực là chớnh, đồng thời tranh thủ tối ủa cỏc nguồn lực từ bên ngoài

Trong quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông nghiệp, cần kết hợp chặt chẽ các vấn đề kinh tế và xã hội, đồng thời giữ gìn và phát huy truyền thống văn hóa cùng thuần phong mỹ tục.

Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển công nghiệp, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn với việc xây dựng tiềm lực và thế trận quốc phòng toàn dân, đảm bảo an ninh nhân dân là rất quan trọng.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh tầm quan trọng chiến lược của nông nghiệp, nông dân và nông thôn trong hiện tại và tương lai Để phát triển bền vững, cần đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, đồng thời giải quyết đồng bộ các vấn đề liên quan đến nông nghiệp và đời sống nông dân.

Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 7, khóa X đã thông qua Nghị quyết "Về nông nghiệp, nông dân, nông thôn", với mục tiêu rõ ràng và các nhiệm vụ, giải pháp cụ thể Nghị quyết này nhấn mạnh sự cần thiết huy động toàn bộ hệ thống chính trị và xã hội để đồng bộ giải quyết các vấn đề liên quan đến nông nghiệp, nông dân và nông thôn.

Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đề ra ba nội dung chính: phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng hiện đại, hiệu quả và bền vững, tận dụng lợi thế của nền nông nghiệp nhiệt đới; nâng cao vai trò của giai cấp nông dân trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn; và xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, giàu đẹp, nhằm cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nông dân.

1.2.2 Cơ chế, chính sách của Nhà nước

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới được triển khai theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ Các quyết định bổ sung và sửa đổi liên quan đến chương trình bao gồm Quyết định số 695/QĐ-TTg ngày 08/6/2012 về cơ chế hỗ trợ vốn, Quyết định số 498/QĐ-TTg ngày 21/3/2013 về cơ chế đầu tư, và Quyết định số 342/QĐ-TTg ngày 20/2/2013 về sửa đổi tiêu chí quốc gia Ngoài ra, Quyết định số 62/2013/QĐ-TTg ngày 25/10/2013 cũng khuyến khích phát triển hợp tác, liên kết sản xuất gắn với tiêu thụ nông sản, nhằm xây dựng cánh đồng lớn.

Chính phủ Việt Nam đã ban hành hai Nghị định quan trọng nhằm khuyến khích đầu tư vào nông nghiệp và nông thôn, bao gồm Nghị định số 61/2010/NĐ-CP về chính sách khuyến khích doanh nghiệp đầu tư và Nghị định số 41/2010/NĐ-CP về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp Nội dung của các nghị định này chủ yếu tập trung vào việc thúc đẩy đầu tư và cung cấp vốn đầu tư cho lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn.

Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã phát hành Thông tư số 06/2011/TT-BKHĐT, trong khi Bộ Tài chính ban hành Thông tư số 84/2011/TT-BTC vào ngày 16 tháng 6 năm 2011, nhằm hướng dẫn thực hiện Nghị định.

Theo Nghị định 61/2010/NĐ-CP của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 59/2010/QĐ-TTg và 60/2010/QĐ-TTg nhằm quy định các nguyên tắc, tiêu chí và định mức phân bổ nguồn vốn ngân sách nhà nước trong giai đoạn 2011-2015 Các quyết định này nhằm hỗ trợ các địa phương có diện tích đất trồng lúa, góp phần phát triển nông nghiệp và đảm bảo an ninh lương thực.

Cơ sở thực tiễn của huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Viêt Nam

1.3.1.1 Đề án thí điểm phát triển nông thôn mới cấp xã,

Từ năm 2001, Ban Kinh tế Trung ương đã phối hợp với Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, cùng các bộ, ngành và địa phương triển khai mô hình điểm “Phát triển nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hợp tác hoá, dân chủ hoá” tại 18 xã do Trung ương chỉ đạo và khoảng 200 xã khác Chương trình bao gồm 5 nội dung chính: phát triển kinh tế hàng hoá với cơ chế phù hợp, phát triển cơ sở hạ tầng cho nông nghiệp hàng hoá, xây dựng khu dân cư văn minh, tăng cường văn hoá, y tế, giáo dục và xây dựng đội ngũ cán bộ, cùng với việc tăng cường lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và phát huy vai trò của cán bộ tổ chức quần chúng.

Chương trình phát triển nông thôn cấp xã đã thực hiện nhiều hoạt động quan trọng, bao gồm đào tạo cán bộ tại các xã điểm, quy hoạch và lồng ghép các chương trình, dự án liên quan đến khuyến nông, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn.

Mô hình phát triển nông thôn mới tại 18 xã điểm đã mang lại nhiều thay đổi tích cực về cơ sở hạ tầng và đời sống nông thôn, với sự hình thành và hoạt động hiệu quả của các hệ thống nước sạch và xử lý nước thải, cùng với sự gia tăng hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp Tuy nhiên, vẫn tồn tại một số vấn đề cần khắc phục: (1) Người dân tại các xã điểm còn phụ thuộc vào sự hỗ trợ của nhà nước, chưa chú trọng đến việc huy động nguồn lực cộng đồng, dẫn đến tính bền vững chưa cao; (2) Các dự án xây dựng mô hình cần vốn đầu tư lớn nhưng thiếu nguồn tài chính đảm bảo, khiến cho tính khả thi của các đề án bị hạn chế; (3) Đội ngũ cán bộ xã chưa nắm vững yêu cầu và phương pháp triển khai; (4) Sự phối hợp trong tổ chức thực hiện chương trình chưa chặt chẽ, ảnh hưởng đến hiệu quả chung.

1.3.1.2 Đề án thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới cấp thôn, bản

Năm 2007, Bộ Nông nghiệp và PTNT đã khởi động Đề án Xây dựng nông thôn mới với phương pháp "dựa vào nội lực và do cộng đồng làm chủ", triển khai thí điểm tại 17 thôn, làng thuộc 17 xã của 15 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng kinh tế khác nhau Đề án tập trung vào đào tạo nâng cao năng lực phát triển cộng đồng, cải thiện điều kiện sống cho người dân nông thôn, và hỗ trợ phát triển sản xuất hàng hóa nông nghiệp nhằm nâng cao thu nhập và phát triển nghề truyền thống cho từng làng Với mức đầu tư khoảng 600-800 triệu đồng cho mỗi thôn, chương trình chủ yếu hỗ trợ cải tạo công trình thiết yếu và thay đổi giống cây trồng, vật nuôi cho người dân.

Qua 2 năm thực hiện, chương trình đã hình thành được 15 mô hình, tổ chức của người dân (Ban phát triển thôn bản) là đại diện của cộng đồng dân cƣ thôn, bản để tự chủ trong việc bàn bạc, lựa chọn, quyết định các nội dung, việc làm cần thiết cho cộng đồng, cách huy động nội lực tại chỗ cho xây dựng nông thôn mới Mô hình mới đã khơi dậy ý thức tự chủ, sáng tạo của người dân trong phát huy nội lực xây dựng nông thôn; xác định rõ hơn nội dung, phương pháp, cách làm, mối quan hệ phối hợp giữa các cấp theo phương pháp tiếp cận từ cộng đồng thôn, bản Tuy vậy, do chƣa có tiêu chí nông thôn mới nên việc xác định mục tiêu, kế hoạch phát triển còn gặp nhiều khó khăn; thiếu nguồn lực, nên khi thực hiện cán bộ và người dân đều rất lúng túng, ảnh hưởng đến kết quả thực hiện; do chưa có cơ chế đặc thù về quản lý đầu tư xây dựng cơ bản và tài chính, nên việc triển khai huy động nguồn lực xây dựng mô hình nông thôn mới theo phương pháp tiếp cận từ cộng đồng gặp rất nhiều khó khăn, lúng túng, chƣa thể triển khai nhân rộng

Nghiên cứu việc huy động nguồn lực triển khai xây dựng mô hình nông thôn mới thời gian qua có thể rút ra một số kinh nghiệm là:

Để xây dựng nông thôn mới, cần có bộ tiêu chí chuẩn mực làm cơ sở cho kế hoạch huy động nguồn lực Nguồn lực cho phát triển nông thôn mới rất lớn, và việc huy động chủ yếu dựa vào nội lực nhằm đảm bảo tính bền vững Tuy nhiên, do mức tích lũy của người dân nông thôn còn thấp, đầu tư từ ngân sách Nhà nước đóng vai trò mở đường, dẫn dắt và thu hút các thành phần kinh tế khác tham gia đầu tư phát triển nông thôn.

Xây dựng Nông thôn mới là một quá trình vì lợi ích của người dân và do chính người dân thực hiện Do đó, việc xây dựng này cần tập trung vào việc giải quyết các vấn đề thiết thực, mang lại lợi ích trực tiếp cho cộng đồng nông thôn Hơn nữa, sự tham gia của người dân trong việc thảo luận, quyết định và tổ chức thực hiện là rất quan trọng, nhằm phát huy nội lực và tiềm năng của cộng đồng.

1.3.2 Kinh nghiệm huy động nguồn lực xây dựng nông thôn ở nước ngoài

Sau chiến tranh Triều Tiên, Hàn Quốc gặp nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế, đặc biệt là lĩnh vực nông nghiệp Để thúc đẩy sự phát triển nông thôn, chính phủ Hàn Quốc đã triển khai nhiều chính sách như phát triển doanh nghiệp nông nghiệp, chương trình kinh doanh nhỏ cho các hộ nông dân, và chương trình nhà máy Sae-maul Những chính sách này bao gồm việc cung cấp ưu đãi về diện tích đất, viễn thông và đào tạo kỹ năng quản lý thông qua các chương trình phát triển công nghiệp nhỏ và vừa.

Chính phủ Hàn Quốc đang đầu tư vào hạ tầng để nông dân có thể tự sản xuất và chế biến nông sản tại chỗ, khẳng định vai trò chủ thể của họ Chính sách miễn thuế xăng dầu, máy móc nông nghiệp và điện giá rẻ cho chế biến nông sản, cùng với việc cho nông dân thuê máy nông nghiệp, đã được áp dụng Ngân hàng Nông nghiệp hỗ trợ doanh nghiệp vay vốn đầu tư vào nông thôn với lãi suất thấp hơn 2% so với các ngành khác Mô hình "mỗi làng một doanh nghiệp" giúp kết nối đầu vào và đầu ra cho sản phẩm, trong khi các ngành khác hỗ trợ nâng cao đời sống nông dân Tổng thống Park nhấn mạnh tầm quan trọng của việc khuyến khích người dân tự giúp nhau, coi đây là chìa khóa cho sự phát triển nông thôn Ý tưởng này là nền tảng cho phong trào Saemaul, nhằm xây dựng làng mới.

Chính phủ đang triển khai 10 dự án lớn nhằm phát triển nông thôn, bao gồm mở rộng và làm thẳng đường xá, cải tạo mái nhà bếp và hàng rào, cũng như xây dựng giếng nước và khu giặt giũ công cộng Để thực hiện các dự án này, chính phủ kêu gọi sự đóng góp từ người dân và tìm kiếm nguồn viện trợ từ bên ngoài, chủ yếu về vật liệu và công nghệ.

Người dân và cộng đồng có quyền tự lựa chọn dự án, với tiêu chí ưu tiên lợi ích thiết thực cho cuộc sống của họ Các dự án cần cải thiện điều kiện sống và đảm bảo mọi người dân đều được hưởng lợi lâu dài Tất cả các dự án này sẽ được quản lý bởi chính quyền xã và phải được phê duyệt bởi chính quyền quận, huyện.

Từ năm thứ 2 trở đi, Chính phủ sẽ phân biệt trong việc cấp trợ cấp, chỉ hỗ trợ cho các xã đã hoàn thành kế hoạch năm trước Những xã thực hiện tốt hơn sẽ nhận được mức hỗ trợ cao hơn, nhằm khuyến khích sự cạnh tranh và nỗ lực của mỗi cộng đồng.

Sau 8 năm triển khai phong trào saemaul, nông thôn Hàn Quốc đã hoàn thành cơ bản về xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn (các tuyến đường liên thôn đạt hơn 42.000 km, đường nội đồng đạt gần 69.000km, cơ bản đã làm thay đổi cục diện đời sống nông thôn; nhà dân ở khu vực nông thôn đã dần hiện đại, số hộ có điện tăng từ 27% lên 100%, tất cả các giếng nước được bơm bằng mô-tơ điện); thu nhập bình quân của các hộ gia đình nông thôn tăng lên

Thu nhập của nông dân Hàn Quốc đã tăng lên 3.000 đô la Mỹ (USD)/người/năm, vượt qua thu nhập của người dân thành phố Điều này đã biến khu vực nông thôn thành một xã hội năng động, có khả năng tự tích lũy, tự đầu tư và tự phát triển.

Trung Quốc chú trọng phát triển nông thôn, đặc biệt là hạ tầng nông thôn, nhằm giảm khoảng cách giữa thành thị và nông thôn Chính phủ đã thay đổi chính sách thuế và tăng cường đầu tư vào sản xuất nông nghiệp và cơ sở hạ tầng nông thôn, đặc biệt là công nghệ cao, với gần 300 tỷ nhân dân tệ được chi cho xây dựng từ 2002-2007 Trong 6 năm qua, hơn 1,3 triệu km đường nông thôn đã được xây dựng, 100 triệu mẫu diện tích được tưới nước tiết kiệm, và gần 100 triệu người dân nông thôn đã được cải thiện điều kiện nước Đầu tư cơ sở hạ tầng đã tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất và ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải thiện đời sống cho nông dân Chính phủ cũng chú trọng cung cấp giống lúa tốt, ứng dụng công nghệ và đào tạo cán bộ nông nghiệp, với 30% giá trị gia tăng nông nghiệp đến từ tiến bộ khoa học - công nghệ trong thập kỷ 90 Để nâng cao thu nhập cho nông dân, từ năm 1994, giá thu mua ngũ cốc đã được đưa vào luật, với mức giá cao hơn thị trường nhằm khuyến khích chuyển đổi sản xuất.

THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Cơ chế, chính sách huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay

2.1.1 Cơ chế huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới

Chương trình mục tiêu quốc gia nông thôn mới, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, là một kế hoạch toàn diện nhằm khuyến khích cộng đồng hợp tác xây dựng nông thôn hiện đại.

Cơ chế huy động vốn được thực hiện thông qua việc đa dạng hoá nguồn vốn, bao gồm lồng ghép các nguồn vốn từ các chương trình mục tiêu quốc gia và dự án hỗ trợ, tối đa hóa nguồn lực địa phương Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quy định tăng tỷ lệ vốn thu được từ đấu giá quyền sử dụng đất để phục vụ xây dựng nông thôn mới, với ít nhất 70% ngân sách xã được sử dụng cho mục tiêu này Ngoài ra, cơ chế này còn khuyến khích đầu tư từ doanh nghiệp cho các công trình có khả năng thu hồi vốn, các khoản đóng góp tự nguyện từ nhân dân, và nguồn viện trợ không hoàn lại từ các tổ chức trong và ngoài nước Các nguồn vốn tín dụng và hợp pháp khác cũng được huy động, trong đó hỗ trợ từ ngân sách nhà nước được quy định cụ thể tại Quyết định 695/QĐ-TTg ngày 8/6/2012 của Thủ tướng Chính phủ.

- Nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn thực hiện Chương trình

Trong giai đoạn đầu thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, nguyên tắc hỗ trợ vốn được quy định theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ Quyết định này nhấn mạnh việc hỗ trợ tài chính nhằm thúc đẩy phát triển nông thôn và cải thiện đời sống cộng đồng.

100% ngân sách Trung ương sẽ được phân bổ cho các hoạt động như quy hoạch, xây dựng đường giao thông đến trung tâm xã, trụ sở xã, trường học đạt chuẩn, trạm y tế xã, nhà văn hóa xã và kinh phí đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, thôn bản và hợp tác xã Ngày 08/6/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 695/QĐ-TTg, sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.

Chính phủ hỗ trợ 100% ngân sách cho các hoạt động quy hoạch, xây dựng trụ sở xã, và đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới dành cho cán bộ xã, cán bộ thôn bản và cán bộ hợp tác xã.

Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ cung cấp 100% kinh phí từ ngân sách nhà nước cho các xã thuộc huyện nghèo nhằm xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, công trình thể thao, và hệ thống cấp nước sinh hoạt Đối với các xã khác, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một phần cho những dự án này.

Việc sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn cho Chương trình đã giúp các địa phương huy động hiệu quả nguồn lực triển khai, đồng thời khắc phục một số vấn đề tồn tại Chính quyền địa phương không bắt buộc người dân đóng góp mà chỉ vận động họ tự nguyện tham gia xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Đặc biệt, hộ nghèo tham gia lao động xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ được xem xét nhận thù lao phù hợp với mức lương thị trường và khả năng ngân sách địa phương.

2.1.2 Về cơ chế đầu tư

Chương trình đầu tư theo Quyết định số 800/QĐ-TTg đã phân cấp tối đa cho cấp xã, tuy nhiên, quy trình đầu tư cho các công trình nhỏ và đơn giản vẫn phải tuân theo thủ tục giống như công trình lớn, gây ảnh hưởng đến tiến độ triển khai dự án Để giải quyết vấn đề này, ngày 21/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg, cho phép các địa phương áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù cho công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản, không cần lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, chỉ cần dự toán đơn giản dựa trên thiết kế mẫu và cho phép cộng đồng tự thực hiện.

Quy định bổ sung đã tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương thực hiện dự án đầu tư theo đề án xây dựng nông thôn mới với thủ tục đơn giản hóa, phù hợp với thực tế Cơ chế đặc thù này đã khuyến khích phong trào sáng tạo tại nhiều tỉnh như Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Hà Nam, Ninh Bình, nhờ vào sự hỗ trợ của nhà nước về xi măng và vật tư, cùng với sự đóng góp công sức và hiến đất của người dân cho các công trình giao thông nông thôn và thủy lợi.

2.1.3 Về phân bổ nguồn vốn đầu tư

Từ năm 2011 đến 2013, nguồn vốn ngân sách Trung ương được phân bổ trực tiếp cho Chương trình ưu tiên, nhằm hỗ trợ các địa phương chỉ đạo điểm và các xã phấn đấu đạt chuẩn nông thôn mới vào năm 2015.

- Đối với nguồn vốn đầu tư phát triển phân bổ như sau:

Trong giai đoạn 2009 – 2011, ngân sách Trung ương đã cung cấp hỗ trợ trung bình khoảng 30 tỷ đồng cho mỗi xã Đến năm 2013, có 9 xã nhận hỗ trợ 30 tỷ đồng, ngoại trừ 2 xã thuộc Hà Nội và TP Hồ Chí Minh.

Ba xã được Chủ tịch nước bảo trợ chủ yếu nhận nguồn vốn hỗ trợ từ doanh nghiệp, trong khi ngân sách Trung ương hiện chưa được bố trí cho các xã này Dự kiến, việc phân bổ vốn hỗ trợ sẽ bắt đầu từ năm 2014.

+ 01 xã do Tổng Bí thƣ chỉ đạo: Năm 2013 ngân sách Trung ƣơng hỗ trợ cho xã 30 tỷ đồng

Vào năm 2011, chính phủ đã hỗ trợ trung bình 670 triệu đồng cho mỗi xã, với tổng cộng 270 xã, nhằm cải tạo và nâng cấp các công trình hạ tầng như đường liên thôn, khu văn hóa thể thao, hệ thống cung cấp nước sạch và hầm biogas.

Trong giai đoạn 2012 - 2013, chương trình đã hỗ trợ trung bình 1 tỷ đồng cho mỗi xã, nhằm nâng cấp, sửa chữa và cải tạo các công trình cơ sở hạ tầng hiện có tại 30% tổng số xã trên địa bàn thôn, bản, ấp.

+ Các xã còn lại: Năm 2011: Hỗ trợ bình quân 300 triệu đồng/xã cho

Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới đã hỗ trợ 420 xã (không bao gồm 13 tỉnh, thành phố tự cân đối ngân sách) để cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng như đường liên thôn, khu văn hóa thể thao, hệ thống cung cấp nước sạch và hầm biogas Trong giai đoạn 2012 – 2013, chương trình đã cung cấp trung bình 500 triệu đồng cho mỗi xã, tập trung vào 20% tổng số xã nhằm đạt được các mục tiêu phát triển bền vững.

Kết quả Huy động nguồn vốn xây dựng nông thôn mới ở nước ta hiện nay

2.2.1 Huy động vốn Chương trình xây dựng nông thôn mới

Theo báo cáo của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, ngân sách hàng năm dành cho nông nghiệp và nông thôn đã liên tục tăng từ năm 2009 Cụ thể, năm 2009, mức đầu tư tăng 34,7%, và năm 2010, con số này tiếp tục tăng 29,7%.

Năm 2011, ngân sách nhà nước dự toán tăng 26,5% so với năm trước, với tỷ trọng đầu tư cho nông nghiệp và nông thôn tăng từ 32,8% năm 2008 lên 39,8% năm 2011 Tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn từ ngân sách nhà nước và trái phiếu Chính phủ giai đoạn 2006-2008 đạt 147.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 45%, trong khi giai đoạn 2009-2011 gần 290.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 52% tổng vốn đầu tư phát triển Đầu tư cho sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp đạt gần 106.000 tỷ đồng, tương đương 37% tổng vốn đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn Hằng năm, nhà nước chi khoảng 7-8 ngàn tỷ đồng hỗ trợ khắc phục thiên tai, dịch bệnh; hơn 2 ngàn tỷ đồng hỗ trợ nông dân qua chính sách miễn giảm thuế nông nghiệp; và khoảng 8 ngàn tỷ đồng từ vốn xổ số kiến thiết cho phát triển cơ sở hạ tầng Tổng vốn huy động cho xây dựng giao thông gần 33 ngàn tỷ đồng, trong đó nhân dân đóng góp khoảng 11,2%.

Trong 3 năm 2011-2013, Ngân sách nhà nước đã bố trí 255 nghìn tỷ đồng từ ngân sách Trung ƣơng đầu tƣ cho nông nghiệp, nông thôn, tăng 1,54 lần so với 3 năm trước đó; các tỉnh, thành phố đã bố trí kinh phí từ ngân sách địa phương 44,6 nghìn tỷ đồng Huy động từ các nguồn khác 323,1 nghìn tỷ đồng, trong đó có 231,3 nghìn tỷ đồng vốn tín dụng (chiếm 47,75%), vốn doanh nghiệp 30 nghìn tỷ đồng (chiếm 5,96%), vốn góp của dân 62,8 nghìn tỷ đồng (chiếm 12,9%)

Tính đến ngày 31/12/2010, dư nợ cho vay nông nghiệp và nông thôn toàn quốc đạt 382 nghìn tỷ đồng, tăng 54,91% so với cuối năm 2008, với khoảng 10 triệu hộ nông dân còn dư nợ tại ngân hàng Tỷ trọng vốn đầu tư trung và dài hạn chiếm 42,6% Trong bối cảnh thắt chặt tín dụng chung, Chính phủ vẫn ưu tiên tăng cường tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn.

Trong giai đoạn 2011-2013, ngân sách Trung ƣơng đã hỗ trợ 59 tỉnh và các bộ ngành với tổng số tiền 4.920 tỷ đồng, đạt gần 41% so với dự kiến phân bổ của Quốc hội cho cả giai đoạn 2011-2015 là 12.000 tỷ đồng.

Ngân sách địa phương: Theo tổng hợp báo cáo của các địa phương, trong

02 năm 2011-2012 đã có 55/63 tỉnh, thành phố bố trí ngân sách địa phương cho Chương trình xây dựng nông thôn mới với tổng kinh phí là 18.091 tỷ đồng (năm

Năm 2012, tổng ngân sách cho chương trình xây dựng nông thôn mới đạt khoảng 11.449 tỷ đồng, tăng 72% so với năm 2011, trong đó các tỉnh, thành phố tự túc ngân sách chiếm 71%, với Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh dẫn đầu Dự kiến năm 2013, các địa phương sẽ bố trí khoảng 12.594 tỷ đồng cho chương trình này Để tăng cường nguồn lực từ ngân sách địa phương, nhiều tỉnh như Hưng Yên, Khánh Hòa đã chủ động ban hành cơ chế huy động nguồn lực từ chuyển đổi mục đích sử dụng đất Đồng thời, Nghệ An và Ninh Bình đã áp dụng cơ chế mua trả chậm xi măng từ các doanh nghiệp địa phương nhằm hỗ trợ phát triển giao thông nông thôn.

Trong ba năm qua, cơ cấu vốn của Chương trình theo Quyết định 800/QĐ-TTg cho thấy nguồn ngân sách Nhà nước thấp hơn dự kiến, chỉ đạt 33,9% Đặc biệt, nguồn vốn ngân sách Trung ương chỉ chiếm dưới 4% Ước tính nguồn vốn huy động trong các năm qua là tỷ đồng.

Chi tiết 2011 2012 2013 Tổng 3 năm Tỷ lệ

Ngân sách địa phương 6.642 11.449 12.594 30.685 29,2% Vốn nước ngoài (chưa có số liệu)

Vốn khác (doanh nghiệp và huy động đóng góp của người dân, cộng đồng)

Nhờ vào nguồn vốn đầu tư, nhiều công trình hạ tầng phục vụ sản xuất và sinh hoạt của người dân nông thôn đã được nâng cấp, góp phần quan trọng vào phát triển kinh tế và đời sống của cư dân vùng nông thôn Các chính sách của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông thôn đã tập trung điều chỉnh mức chi đầu tư từ ngân sách nhà nước, đồng thời khuyến khích tăng cường đầu tư từ các thành phần kinh tế khác vào khu vực này.

Mặc dù đầu tư từ ngân sách cho khu vực nông nghiệp và nông thôn vẫn chưa đáp ứng đủ nhu cầu, chỉ khoảng 50-55% yêu cầu vốn được giải quyết hàng năm, nhưng sự đầu tư từ các thành phần kinh tế khác và vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) cho lĩnh vực này cũng rất hạn chế Từ năm 2005 đến 2008, vốn FDI cho nông, lâm, thủy sản chỉ chiếm tối đa 1,2% tổng vốn đầu tư FDI vào các ngành khác.

2005 chiếm 0,6%, 2006 chiếm 1,2%, 2007 giảm còn 0,2%, 2008 là 0,6%, năm

Từ năm 2009 đến 2011, nguồn vốn từ ngân sách nhà nước đầu tư cho nông thôn đã tăng 1,95 lần, nhưng vẫn chưa đáp ứng đủ yêu cầu Tín dụng cho nông nghiệp và nông thôn còn thấp, cùng với đó là các nguồn vốn khác cũng chỉ đạt tỷ lệ rất khiêm tốn so với nhu cầu và các lĩnh vực khác Tổng nguồn vốn huy động trong giai đoạn 2011-2013 vẫn không đủ đáp ứng thực tế, trong khi vốn huy động từ doanh nghiệp chỉ đạt khoảng 20% tổng nguồn vốn cần thiết cho xây dựng nông thôn mới.

2.2.2 Kết quả huy động vốn tại 11 xã thí điểm xây dựng mô hình nông thôn mới

Tính đến tháng 7/2011, tổng vốn huy động từ 11 xã điểm đã đạt gần 1.350 tỷ đồng, cho thấy sự tích cực trong việc xây dựng mô hình nông thôn mới Trong vòng gần 3 năm thực hiện, tổng vốn huy động đã tăng gấp 4,9 lần so với năm 2009 và gấp 1,5 lần so với năm 2010 Đặc biệt, nguồn lực từ Nhà nước và nguồn lực tại chỗ đã được huy động và sử dụng một cách hiệu quả.

Bình quân mỗi xã đã huy động khoảng 120 tỷ đồng để đầu tư vào các nội dung và tiêu chí xây dựng nông thôn mới Mức huy động này có thể được chia thành ba nhóm khác nhau.

+ Nhóm huy động cao đạt từ 150 tỷ đến 200 tỷ đồng bao gồm 3 xã, chiếm 27,4%/tổng số 11 xã, gồm: Tân Hội (Lâm Đồng), Tân Thông Hội (Tp

Hồ Chí Minh) và Mỹ Long Nam (Trà Vinh) Trong đó huy động đạt cao nhất là xã Tân Hội (Lâm Đồng) đã huy động đạt tới 190 tỷ đồng

Nhóm huy động trung bình từ 100 tỷ đến 150 tỷ đồng bao gồm 4 xã, chiếm 36,3% tổng số 11 xã, với các địa phương Tân Thịnh (Bắc Giang), Tam Phước (Quảng Nam), Định Hoà (Kiên Giang) và Tân Lập (Bình Phước) Trong đó, xã Tam Phước (Quảng Nam) ghi nhận mức huy động cao nhất trong nhóm này.

+ Nhóm huy động thấp đạt dưới 100 tỷ đồng bao gồm 4 xã, chiếm 36,3%/tổng số 11 xã, gồm: Thuỵ Hương (Hà Nội), Thanh Chăn (Điện Biên),

Hải Đường (Nam Định), Gia Phố (Hà Tĩnh) Trong đó, xã huy động đạt thấp nhất là xã Thụy Hương (Hà Nội) huy động đạt 64,5 tỷ đồng [3]

- Về cơ cấu nguồn vốn huy động của 11 xã được phân loại như sau:

Vốn ngân sách Nhà nước đóng góp 39,2% tổng vốn, trong đó vốn hỗ trợ từ ngân sách Trung ương chiếm 20,5% và vốn ngân sách địa phương, chủ yếu là vốn lồng ghép, chiếm 18,7%.

+ Vốn tín dụng chiếm 37,8% so với tổng vốn đã đầu tƣ

+ Vốn doanh nghiệp, HTX… chiếm 9,1% so với tổng vốn

Vốn ngân sách nhà nước đầu tư vào phát triển nông thôn chiếm khoảng 40%, chủ yếu từ các chương trình mục tiêu quốc gia và dự án hỗ trợ có mục tiêu Trong đó, vốn ngân sách trung ương chiếm 21% tổng vốn, tập trung vào quy hoạch, xây dựng đường giao thông, hạ tầng sản xuất nông nghiệp, cơ sở trường học và nhà văn hóa Bên cạnh đó, vốn tín dụng đóng góp 37,8% vào đầu tư xây dựng nông thôn Đặc biệt, người dân cũng tham gia tích cực bằng cách góp đất, ngày công và một phần tiền để xây dựng nông thôn.

Biểu đồ 1.2: Cơ cấu vốn huy động tại 11 xã điểm

Huy động các nguồn lực khác xây dựng nông thôn mới

2.3.1 Huy động nguồn lực đất đai xây dựng nông thôn mới Đất đai là nguồn tài nguyên, tài sản, nguồn lực lớn cần đƣợc huy động, sử dụng có hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới Nông thôn nước ta chiếm trên 80% diện tích tự nhiên của cả nước, trong đó đất sản xuất nông nghiệp có 25.127 nghìn ha, chiếm 75,9% diện tích đất tự nhiên của cả nước Trong giai đoạn 2006-2010, giá trị sản xuất tăng 5,2% so với năm trước, xuất khẩu nông lâm thuỷ sản năm 2011 đạt 25 triệu USD; tích luỹ bình quân 1 hộ nông dân đạt 16,7 triệu đồng, tăng 2,5 lần so với năm

2006, trực tiếp góp phần xây dựng nông thôn trong những năm vừa qua [2,

Từ năm 2009, các xã đã thực hiện quy hoạch chung và quy hoạch sử dụng đất, phát huy lợi thế về đất đai và cơ sở hạ tầng sản xuất Họ đã xây dựng các mô hình sản xuất nông nghiệp, phát triển làng nghề, nâng cao thu nhập cho người dân và tăng nguồn thu cho ngân sách địa phương Đồng thời, các xã cũng vận động nhân dân hiến đất để xây dựng đường giao thông nông thôn, chỉnh trang đường làng, lối xóm và các công trình văn hóa, trường học, góp phần làm cho nông thôn trở nên xanh, sạch và đẹp hơn.

Trong quá trình thực hiện xây dựng nông thôn mới tại 11 xã thí điểm, nhiều xã đã tích cực vận động người dân hiến đất với diện tích và giá trị đáng kể Việc hiến đất nhằm đảm bảo các công trình nông thôn mới được xây dựng đúng theo thiết kế chuẩn, bao gồm đường giao thông, công trình thủy lợi và nhà văn hóa Chính quyền địa phương sẽ tiến hành đo đạc và cắm mốc cho các khu đất của hộ dân liền kề công trình Trong trường hợp cần lấn đất, chính quyền sẽ khuyến khích các hộ dân "hiến đất" để đảm bảo kích thước thiết kế, và nếu diện tích đất bị ảnh hưởng lớn, có thể bồi hoàn một phần để tránh thiệt thòi cho họ.

Tại xã Tân Thông Hội, huyện Củ Chi, Thành phố Hồ Chí Minh, hơn 150 hộ dân đã hiến trên 3,8 ha đất thổ cư và đất sản xuất trong hơn 2 năm thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới Tổng giá trị hiến đất đạt 49,528 tỷ đồng, chiếm gần 60% tổng vốn huy động từ người dân và doanh nghiệp Đây là một trong những xã điển hình trong việc vận động người dân tham gia hiến đất cho xây dựng nông thôn mới.

Xã Gia Phố, thuộc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, đã tích cực vận động 85 hộ dân hiến đất với tổng diện tích trên 2,13 ha, bao gồm đất thổ cư và đất sản xuất Số đất này được sử dụng để xây dựng hạ tầng giao thông nông thôn, thủy lợi và các công trình phúc lợi khác Tổng giá trị hiến đất ước tính lên tới 5,92 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng vốn huy động từ cộng đồng và doanh nghiệp cho chương trình xây dựng nông thôn mới.

Xã Tam Phước ở huyện Đồng Phú, tỉnh Quảng Nam, đã huy động được hơn 4,67 tỷ đồng từ sự đóng góp của người dân thông qua hiến đất, chiếm 32% tổng vốn góp của cả cộng đồng và doanh nghiệp trong khu vực Tương tự, xã Tân Thịnh tại huyện Lạng Giang, tỉnh Bắc Giang, cũng ghi nhận sự đóng góp từ hiến đất lên tới 4,15 tỷ đồng, tương đương 23,6% tổng vốn của người dân tham gia vào chương trình xây dựng nông thôn mới.

2.3.2 Huy động nhân lực xây dựng nông thôn mới Để thực hiện xây dựng nông thôn mới, các tỉnh đã tăng cường đào tạo cho cán bộ cấp xã và có sự hỗ trợ về lực lƣợng tham gia xây dựng quy hoạch, kế hoạch, đề án, xây dựng mô hình, đảm bảo quá trình triển khai thông suốt Song song với nâng cao trình độ cán bộ quản lý cấp xã, Đoàn thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh đã vận động đưa 600 trí thức trẻ về làm chủ tịch xã, tăng cường cho các xã vùng cao các xã có điều kiện khó khăn Tổ chức, tập huấn, dạy nghề nâng cao trình độ kỹ thuật và tổ chức sản xuất của người dân; thông qua các lớp đào tạo, tập huấn nghề, tuyên truyền, vận động nang cao vai trò làm chủ, tự giác tham gia đóng góp ngày công lao động xây dựng nông thôn mới Để thực hiện xây dựng thí điểm ở 11 xã điểm của Trung ƣơng, Ban chỉ đạo đã chỉ đạo các tỉnh rà soát đội ngũ cán bộ, thực hiện công tác đào tạo, bồi dƣỡng nâng cao trình độ Sau 3 năm, 11 xã đã cử gần 50 cán bộ đi học lớp trung cấp hành chính, trung cấp chính trị và chuyên môn nghiệp vụ, 25 đồng chí đi học đại học tại chức, tổ chức tập huấn cho 100% cán bộ cấp uỷ chi bộ và cán bộ khối chính quyền cơ sở; mở các lớp tập huấn, đào tạo nghề cho người dân nâng cao trình độ kỹ thuật, kỹ năng quản trị sản xuất, thị trường tiêu thụ sản phẩm; chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Huy động người dân đóng góp ngày công lao động xây dựng giao thông nông thôn, các công trình công cộng…

2.3.3 Áp dụng, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất Để nâng cao năng lực cạnh tranh của sản phẩm hàng hoá nông sản, kinh nghiệm và kỹ năng quản trị sản xuất xây dựng nền sản xuất hàng hoá, nâng cao giá trị gia tăng, tăng sức cạnh tranh của nông sản trên thị trường Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã cử 15 đơn vị của Bộ gồm Cục Kinh tế hợp tác và Phát triển nông thôn, các viện, trường, trung tâm nghiên cứu khoa học xuống hỗ trợ trực tiếp các ban quản lý cấp xã xây dựng đề án sản xuất nông nghiệp, chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật và xây dựng mô hình tổ chức sản xuất

Các vùng sản xuất hàng hoá tại địa phương đã phát triển mạnh mẽ, với những lợi thế như cây thuốc lá ở Tân Thịnh, hoa lan, rau sạch, bò sữa ở xã Tân Thông Hội, cà phê, rau sạch, hoa ở xã Tân Hội và lúa cao sản ở xã Định Hoà Thu nhập bình quân của các xã đều tăng, đặc biệt xã Mỹ Nam Long ghi nhận doanh thu từ nuôi tôm, nghêu đạt 2 tỷ đồng/ha, gấp 3 lần so với trước Xã Tân Thịnh cũng có thu nhập tăng 1,4 lần so với giai đoạn trước khi triển khai xây dựng nông thôn mới.

Khoa học và công nghệ đã nâng cao giá trị sản xuất nông lâm nghiệp lên khoảng 30-40%, với 396 giống cây trồng được công nhận và tỷ lệ sử dụng giống mới đạt trên 60% ở lúa, ngô và rau Gần 200 quy trình công nghệ đã được áp dụng, góp phần quan trọng vào việc tăng năng suất, chất lượng và giảm giá thành sản phẩm nông sản Việt Nam, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường quốc tế Trình độ sản xuất của nông dân đã được cải thiện, giúp tăng nhanh năng suất cây trồng và vật nuôi, ngay cả ở những vùng khó khăn Năm 2012, giá trị sản xuất trồng trọt bình quân đạt 72,8 triệu đồng/ha, tăng 1,6 lần so với trước, trong khi giá trị nuôi trồng thủy sản đạt 145,3 triệu đồng/ha, tăng 1,67 lần Một số địa phương như TP Hồ Chí Minh, Hà Nội và Lâm Đồng đã ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp đô thị, với giá trị sản xuất nông nghiệp trên một đơn vị diện tích đạt 239 triệu đồng/ha ở TP Hồ Chí Minh và 198 triệu đồng/ha ở Hà Nội.

Đánh giá chung

2.4.1 Kết quả đạt được a) Hệ thống cơ chế, chính sách huy động vốn xây dựng nông thôn mới dần được hoàn thiện

Trong giai đoạn đầu thực hiện Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới, theo Quyết định số 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 của Thủ tướng Chính phủ, cơ chế hỗ trợ vốn được quy định với 100% kinh phí từ Ngân sách Trung ương Các hạng mục được hỗ trợ bao gồm quy hoạch, xây dựng đường giao thông đến trung tâm xã, trụ sở xã, trường học đạt chuẩn, trạm y tế xã, nhà văn hóa xã, và kinh phí đào tạo kiến thức cho cán bộ xã, thôn bản và hợp tác xã.

Sau hơn một năm triển khai Chương trình, việc quy định "Hỗ trợ 100% từ Ngân sách Trung ƣơng" cho một số công trình hạ tầng kinh tế - xã hội cấp xã đã phát sinh nhiều vấn đề bất cập Để khắc phục tình trạng này, vào ngày 08/6/2012, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 695/QĐ-TTg nhằm sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn cho Chương trình MTQG xây dựng nông thôn mới.

Nhà nước hỗ trợ 100% ngân sách cho các hoạt động quy hoạch, xây dựng trụ sở xã, và đào tạo kiến thức về xây dựng nông thôn mới cho cán bộ xã, cán bộ thôn bản và cán bộ hợp tác xã.

Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP của Chính phủ cung cấp tối đa 100% ngân sách nhà nước cho các xã thuộc huyện nghèo nhằm xây dựng hạ tầng thiết yếu như đường giao thông, trường học, trạm y tế, nhà văn hóa, công trình thể thao, và hệ thống cấp nước sinh hoạt Đối với các xã khác, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một phần cho các hoạt động tương tự.

Việc điều chỉnh nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn cho Chương trình đã giúp các địa phương dễ dàng huy động nguồn lực triển khai, đồng thời giải quyết một số vấn đề tồn tại trước đó.

Để tránh tâm lý trông chờ và ỷ lại của người dân, đặc biệt là ở các vùng nông thôn, cần nhấn mạnh rằng các công trình không chỉ dựa vào nguồn ngân sách Trung ương mà còn yêu cầu sự đóng góp từ địa phương, người dân và cộng đồng.

Trong bối cảnh ngân sách Trung ương hiện nay còn hạn chế, việc đảm bảo hỗ trợ 100% kinh phí cho các công trình hạ tầng kinh tế - xã hội cấp xã trên toàn quốc là không khả thi.

Quyết định sửa đổi nguyên tắc cơ chế hỗ trợ vốn quy định rằng chính quyền địa phương không được bắt buộc người dân đóng góp, mà chỉ vận động họ tự nguyện tham gia vào việc xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Đặc biệt, hộ nghèo có thể tham gia trực tiếp lao động và sẽ được chính quyền địa phương xem xét trả thù lao phù hợp với mức lương chung của thị trường lao động và khả năng cân đối ngân sách địa phương.

Cơ chế đầu tư của Chương trình được thực hiện theo Quyết định số 800/QĐ-TTg, phân cấp tối đa cho cấp xã Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu, đã phát sinh một số vấn đề liên quan đến thủ tục đầu tư cho các công trình quy mô nhỏ, kỹ thuật đơn giản, buộc phải thực hiện theo quy trình như các công trình lớn, ảnh hưởng đến tiến độ dự án Để giải quyết vấn đề này, ngày 21/3/2013, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 498/QĐ-TTg, cho phép các địa phương áp dụng cơ chế đầu tư đặc thù cho công trình nhỏ, không cần lập Báo cáo kinh tế kỹ thuật, chỉ cần dự toán đơn giản và cho phép người dân tự thực hiện.

Quy định bổ sung đã tạo điều kiện thuận lợi cho các địa phương triển khai dự án xây dựng nông thôn mới, nhờ vào việc đơn giản hóa thủ tục phù hợp với thực tế địa phương Cơ chế đặc thù này đã khuyến khích phong trào sáng tạo tại nhiều nơi như Tuyên Quang, Hà Tĩnh, Hà Nam, Ninh Bình, với sự hỗ trợ của nhà nước về xi măng và vật tư, cùng với sự đóng góp của cộng đồng trong việc làm đường và công trình thủy lợi Tất cả các xã đều nhận được 100% hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho quy hoạch, xây dựng trụ sở xã và đào tạo cán bộ về xây dựng nông thôn mới, đặc biệt là các xã thuộc huyện nghèo theo Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững.

Theo Nghị định số 27/2008 của Chính phủ, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ tối đa 100% cho việc xây dựng các công trình hạ tầng như đường giao thông đến trung tâm xã, đường thôn, giao thông nội đồng, kênh mương, trường học đạt chuẩn, trạm y tế, nhà văn hóa, công trình thể thao, cấp nước sinh hoạt và thoát nước thải khu dân cư, cũng như phát triển sản xuất và dịch vụ tại các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp và thủy sản Đối với các xã khác, ngân sách nhà nước sẽ hỗ trợ một phần cho các dự án này.

Xây dựng hạ tầng giao thông đến trung tâm xã, bao gồm đường giao thông thôn, xóm, giao thông nội đồng và kênh mương nội đồng Cải thiện cơ sở vật chất như trường học đạt chuẩn, trạm y tế xã, nhà văn hóa thôn, bản, và công trình thể thao Đầu tư vào hệ thống cấp nước sinh hoạt và thoát nước thải cho khu dân cư Phát triển sản xuất và dịch vụ, cũng như hạ tầng cho các khu sản xuất tập trung, tiểu thủ công nghiệp và thủy sản Hội đồng nhân dân cấp tỉnh sẽ quyết định mức hỗ trợ từ ngân sách nhà nước cho từng nội dung cụ thể, đảm bảo phù hợp với thực tế và yêu cầu hỗ trợ của từng địa phương.

Quy định mới đã khắc phục những bất cập trong hỗ trợ vốn từ ngân sách trung ương theo Quyết định 800/QĐ-TTg ngày 04/6/2010 Các địa phương có thể chủ động sử dụng nguồn lực hỗ trợ từ ngân sách trung ương kết hợp với ngân sách địa phương, nhằm phân bổ nguồn lực theo các ưu tiên và nhu cầu đặc thù của từng địa phương, từ đó đảm bảo thực hiện các mục tiêu xây dựng nông thôn mới.

Mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương cho các địa phương được xác định dựa trên điều kiện kinh tế - xã hội, theo quy định tại Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn Ưu tiên hỗ trợ cho các địa phương khó khăn, chưa tự cân đối ngân sách, đặc biệt là những nơi có điều kiện khó khăn và những địa phương thực hiện tốt Mặc dù quy định này đảm bảo tính thực tế và phù hợp với khả năng ngân sách trung ương, nhưng cũng gây ra hạn chế khi địa phương không thể chủ động xác định mức hỗ trợ hàng năm cho xây dựng nông thôn mới Chính quyền địa phương không yêu cầu bắt buộc nhân dân đóng góp, mà chỉ vận động bằng các hình thức thích hợp để khuyến khích sự tự nguyện đóng góp cho cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội Người dân trong xã sẽ bàn bạc và đề xuất mức đóng góp cụ thể cho từng dự án để Hội đồng nhân dân xã xem xét và thông qua.

Hộ nghèo tham gia trực tiếp lao động để xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế

Chính quyền địa phương sẽ xem xét và quyết định mức thù lao cho xã hội địa phương dựa trên mức lương chung của thị trường lao động và khả năng cân đối ngân sách Sau khi trình Thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố sẽ hướng dẫn các cơ quan liên quan triển khai thực hiện Cơ chế hỗ trợ vốn từ ngân sách nhà nước được thiết lập rõ ràng, giúp các địa phương dễ dàng tiếp cận và thực hiện, đồng thời đảm bảo tính minh bạch trong chính sách hỗ trợ xây dựng nông thôn mới.

ĐỊNH HƯỚNG, GIẢI PHÁP HUY ĐỘNG NGUỒN LỰC XÂY DỰNG NÔNG THÔN MỚI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Ngày đăng: 26/06/2022, 09:17

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ - (LUẬN VĂN THẠC SĨ) Giải pháp huy động nguồn lực xây dựng nông thôn mới ở Việt Nam hiện nay
DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU ĐỒ (Trang 7)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN