PHẦN MỞ ĐẦU
Phạm vi và đối tượng nghiên cứu
Bài viết tập trung vào quá trình phát triển của cuộc kháng chiến chống Pháp (1945-1954), nhằm nâng cao lòng tự hào và ý thức trách nhiệm của dân tộc Đồng thời, cần ghi nhớ và trân trọng những đóng góp của nhân dân thế giới đã hỗ trợ chúng ta trong cuộc chiến giành độc lập, giúp xây dựng cuộc sống hòa bình, hạnh phúc ngày hôm nay Đặc biệt, sức mạnh đoàn kết dân tộc và sự ủng hộ từ bạn bè quốc tế là yếu tố quan trọng để thoát khỏi ách thống trị của thực dân Pháp.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp (1945-1954) mang ý nghĩa lịch sử sâu sắc, với bối cảnh diễn ra trong thời kỳ đất nước đang chịu áp lực ngoại xâm Nội dung của cuộc kháng chiến bao gồm những chiến lược, phương pháp đấu tranh của nhân dân Việt Nam nhằm giành độc lập Kết quả cuối cùng là sự thắng lợi của dân tộc, đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong lịch sử Việt Nam Cuộc kháng chiến không chỉ khẳng định tinh thần yêu nước mà còn để lại nhiều bài học quý báu cho các thế hệ sau.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp đã làm sáng tỏ nội dung và diễn biến quan trọng trong bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ Những biện pháp và chiến lược trong cuộc kháng chiến không chỉ mang lại thắng lợi mà còn để lại bài học kinh nghiệm quý giá Những kinh nghiệm này có thể áp dụng trong việc xây dựng và triển khai các chính sách trong thời bình, góp phần phát triển đất nước bền vững.
Bộ máy Nhà nước trong thời kỳ mới phải chứng minh vai trò lãnh đạo nhạy bén và linh hoạt trước những biến động và vấn đề phát sinh bất ngờ Sự chủ động của Đảng và Nhà nước không chỉ thể hiện trong việc xây dựng và phát triển các lĩnh vực đời sống mà còn trong đời sống chính trị, nâng cao năng lực quản lý của công nhân, viên chức trong nội bộ Đảng và Nhà nước.
Khuyến khích giới trẻ chủ động tìm hiểu sâu rộng về các giá trị lịch sử dân tộc là vô cùng quan trọng Điều này không chỉ nâng cao nhận thức của họ về vai trò của lịch sử trong công cuộc hiện đại hóa và công nghiệp hóa đất nước, mà còn góp phần vào quá trình hội nhập quốc tế.
HOÀN CẢNH LỊCH SỬ VÀ NGUYÊN NHÂN PHÁT ĐỘNG TOÀN QUỐC KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP (1945-1954)
Những thuận lợi và khó khăn của nền kinh tế - xã hội và quá trình củng cố xây dựng chính quyền mới sau Cách Mạng Tháng Tám
cố xây dựng chính quyền mới sau Cách Mạng Tháng Tám
Sau Cách Mạng Tháng Tám, Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa phải đối mặt với nhiều khó khăn phức tạp, với nền kinh tế kiệt quệ sau gần một thế kỷ bị thực dân kìm hãm Nông nghiệp gặp thiên tai liên miên, công nghiệp đình trệ, hàng hóa khan hiếm và tỷ lệ thất nghiệp gia tăng, đặc biệt là nạn đói ở Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ Hơn 90% dân số mù chữ và đời sống người dân rất thấp kém, trong khi chính quyền cách mạng còn non trẻ cần điều kiện hòa bình để xây dựng Thêm vào đó, lực lượng Đồng minh và quân đội nước ngoài, như quân Tưởng và quân Anh, đang âm thầm tìm cách tiêu diệt Đảng Cộng sản Đông Dương và lật đổ chính phủ Hồ Chí Minh Các thế lực phản động trong nước cũng lợi dụng tình hình để gây rối, với mục tiêu chung là phá hoại chính quyền cách mạng và tiêu diệt cuộc Cách mạng giải phóng.
Trong bối cảnh những khó khăn phức tạp về kinh tế xã hội và nạn thù trong giặc ngoài, nền dân chủ cộng hòa non trẻ phải đối mặt với áp lực lớn Vận mệnh dân tộc đứng trước thử thách nghiêm trọng, như "ngàn cân treo sợi tóc" Sự lựa chọn duy nhất là tiếp tục con đường cách mạng hoặc đầu hàng Mặc dù không ai chọn đầu hàng, nhưng câu hỏi đặt ra là làm thế nào để tiếp tục con đường cách mạng, đưa Cách mạng Việt Nam vượt qua những thử thách khó khăn.
Vừa chống thù trong giặc ngoài, vừa chuẩn bị cho cuộc chiến tranh không tránh khỏi
Trong lịch sử dân tộc, chưa bao giờ đất nước phải đối mặt với nhiều loại kẻ thù như hiện nay Đồng thời, chúng ta cũng chưa từng phải vận dụng nhiều “ngón nghề trí tuệ” để chống lại những mối đe dọa từ cả bên trong lẫn bên ngoài như lúc này.
Từ tháng 8/1945 đến cuối năm 1946, Việt Nam đã áp dụng nhiều đối sách linh hoạt nhưng cương quyết nhằm đối phó với các lực lượng quân sự khác nhau Đối với quân Nhật, Việt Nam nhanh chóng giành quyền lực và tùy thuộc vào thái độ của họ để quyết định tạo điều kiện cho họ về nước hoặc sử dụng biện pháp cưỡng chế Đối với quân Đồng minh Anh, ban đầu Việt Nam đón tiếp thân thiện, nhưng đã phản đối mạnh mẽ khi họ hỗ trợ Pháp chiếm Nam Bộ Đối với quân Tưởng, Việt Nam thực hiện nhân nhượng có nguyên tắc nhưng cũng kiên quyết với tay sai của họ, đặc biệt khi Tưởng và Pháp thỏa thuận đưa quân ra Bắc Đối với quân Pháp, Việt Nam đã tấn công trước tại Nam Bộ và sau đó hòa hoãn để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh không thể tránh khỏi Đến cuối tháng 12/1946, các âm mưu thâm độc của kẻ thù đã bị thất bại, chỉ còn lại thực dân Pháp đối đầu với Việt Nam, mặc dù họ đã chiếm hầu hết Nam Bộ và nhiều khu vực khác.
Vào đầu tháng 3/1946, cuộc chiến tranh Pháp - Việt đứng trước nguy cơ bùng nổ trên toàn quốc Sự lựa chọn giữa đánh hay hòa phụ thuộc vào sự ủng hộ của nhân dân đối với chính phủ, cùng với nhạy bén chính trị và tài mưu lược của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Chủ Cộng Hòa đã chọn việc tạm hòa hoãn với Pháp nhằm tranh thủ hòa bình để chuẩn bị thêm cho một cuộc chiến tranh khó tránh khỏi.
Sau 16 tháng kể từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, tình hình đất nước gặp nhiều khó khăn phức tạp và chiến tranh vẫn không thể tránh khỏi Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh rằng mặc dù nhân dân ta đã cố gắng nhượng bộ để đạt được hòa bình, nhưng thực dân Pháp vẫn tiếp tục lấn tới với quyết tâm cướp nước ta lần nữa Điều này chính là lý do chính đáng để nhân dân ta bắt đầu cuộc kháng chiến trường kỳ.
ĐẢNG LÃNH ĐẠO XÂY DỰNG, BẢO VỆ CHÍNH QUYỀN CÁCH MẠNG VÀ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP XÂM LƯỢC (1945-1954)
Bước phát triển mới của cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp từ năm 1951 đến 1953
Thực dân Pháp gia tăng cuộc chiến xâm lược Đông Dương, trong khi Đại hội Đại biểu lần thứ 2 của Đảng được tổ chức vào tháng 2 năm 1951 Hậu phương kháng chiến không ngừng phát triển trên mọi lĩnh vực, cùng với các chiến dịch tấn công nhằm duy trì quyền chủ động trên chiến trường.
Bao gồm các chiến dịch: Các chiến dịch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ từ
1950 đến 1951; Chiến dịch Hòa Bình Đông – Xuân từ 1951 đến 1952 Chiến dịch Tây Bắc Thu – Đông năm 1952; Chiến dịch Thượng Lào Xuân – Hè năm 1953.
2.1 Tình hình mới Đến đầu năm 1951, tình hình thế giới và cách mạng Đông Dương có nhiều biến chuyển mới Sự ra đời của các nước xã hội chủ nghĩa, chiếm 1/3 dân số đã tạo ra một thế rất vững chắc, một lực lượng hùng hậu, ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của cách mạng nước ta Đặc biệt sự ra đời của Cộng hòa nhân dân Trung Hoa đã làm thay đổi căn bản tương quan lực lượng trên trường quốc tế có lợi cho hòa bình và cách mạng Nước ta đã được các nước XHCN công nhận và đặt quan hệ ngoại giao, trong đó có Trung Quốc và Liên Xô Cuộc kháng chiến của nhân dân ba nước Đông Dương đã giành được những thắng lợi quan trọng Song lợi dụng tình thế khó khăn của Thực dân Pháp, đế quốc Myc can thiệp trực tiếp vào cuộc đấu tranh Đông Dương, vừa giúp đỡ Pháp vừa tìm cách hất cẳng Pháp Điều kiện lịch sử đó đặt ra yêu cầu bổ sung và hoàn chỉnh đường lối cách mạng cho phù hợp với tình hình, từ đó đưa ra cuộc chiến tranh dẫ đến thắng lợi.
Đại hội đại biểu Toàn quốc lần II của ĐCS Đông Dương được tổ chức tại Tuyên Quang nhằm đáp ứng nhu cầu kháng chiến Dưới sự đồng thuận của các đảng cộng sản Việt Nam, Lào và Campuchia, Đại hội quyết định mỗi nước cần có một đảng riêng để đại diện cho giai cấp công nhân và nhân dân Tại Việt Nam, Đảng hoạt động công khai dưới tên gọi Đảng Lao động Việt Nam.
Chính cương của Đảng Lao động Việt Nam được Đại hội thông qua, gồm các nội dung quan trọng sau đây:
Xã hội Việt Nam hiện nay có ba tính chất chính: “dân chủ nhân dân, một phần thuộc địa và nửa phong kiến” Cuộc kháng chiến diễn ra nhằm giải quyết mâu thuẫn giữa chế độ dân chủ nhân dân và các thế lực phản động, chủ yếu là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Đối tượng đấu tranh quan trọng nhất của Việt Nam hiện tại là chủ nghĩa đế quốc xâm lược Pháp, sự can thiệp của Mỹ và các lực lượng phong kiến phản động.
Nhiệm vụ của cách mạng Việt Nam bao gồm việc đánh đuổi đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất cho dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến, đảm bảo quyền lợi cho người cày, phát triển chế độ dân chủ nhân dân và xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội Mặc dù các nhiệm vụ này có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nhưng nhiệm vụ chính hiện tại là tập trung vào đấu tranh chống xâm lược nhằm hoàn thành công cuộc giải phóng dân tộc.
Động lực của cách mạng Việt Nam được xác định bởi bốn giai cấp chính: giai cấp công nhân, giai cấp nông dân, giai cấp tiểu tư sản và tư sản dân tộc Ngoài ra, còn có sự ủng hộ từ những thân sĩ, bao gồm thân hào và địa chủ yêu nước, cùng với những người tiến bộ Trong đó, giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và lao động trí óc là nền tảng, với giai cấp công nhân đóng vai trò lãnh đạo chủ chốt trong cuộc cách mạng này.
Chính cương khẳng định rằng cách mạng Việt Nam, do Đảng công nhân lãnh đạo, sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội thông qua một quá trình lâu dài với nhiều giai đoạn phát triển Các nhiệm vụ trung tâm bao gồm hoàn thành giải phóng dân tộc, xóa bỏ tàn tích phong kiến, thực hiện quyền lợi cho người cày có ruộng, và hoàn thiện chế độ dân chủ nhân dân Cuối cùng, mục tiêu là xây dựng cơ sở vật chất cho chủ nghĩa xã hội và tiến tới thực hiện chủ nghĩa xã hội.
2.2 Đẩy mạnh phát triển cuộc kháng chiến về mọi mặt
Từ đầu năm 1951, Đảng đã chủ trương mở các chiến dịch quân sự quy mô lớn nhằm đánh bại kế hoạch Đờ Lát Đờ Tátxinhi, tiêu diệt sinh lực địch tại Trung du và đồng bằng Bắc bộ, tạo điều kiện cho chiến tranh du kích phát triển Các chiến dịch Hòa Bình (12-1951) và Tây Bắc Thu Đông 1952 đã tiêu diệt một phần sinh lực địch, giải phóng vùng Tây Bắc, ngăn chặn âm mưu lập “Xứ Thái tự trị” của thực dân Pháp Tại Liên khu V, phong trào chiến tranh du kích phát triển mạnh mẽ ở Tây Nguyên và các tỉnh lân cận Ở Nam bộ, lực lượng vũ trang được tổ chức lại để phù hợp với nhiệm vụ chiến tranh du kích, với các chiến công nổi bật như trận đánh vào khu hậu cần Pháp ở Phú Thọ ngày 8-5-1952, gây thiệt hại lớn cho địch Đảng cũng quyết định phối hợp với cách mạng Lào mở chiến dịch Thượng Lào, giúp chính phủ kháng chiến Lào giải phóng thêm đất đai và phá thế bố trí chiến lược của thực dân Pháp ở Bắc Đông Dương.
Trong bối cảnh chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội, Đảng và Chính phủ đã chỉ đạo đẩy mạnh phát triển thực lực và củng cố sức mạnh hậu phương kháng chiến Tháng 4-1952, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ ba của Đảng đã đưa ra các quyết sách quan trọng về công tác “chỉnh Đảng, chỉnh quân”, xác định đây là nhiệm vụ trọng tâm trong xây dựng Đảng và quân đội Cuộc vận động tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm đã góp phần tự túc một phần lương thực, thực phẩm, đồng thời bảo đảm đủ đạn dược, thuốc men cho bộ đội Các chính sách về thuế khóa, tài chính, thương nghiệp và ngân hàng cũng được điều chỉnh, cùng với việc thực hiện chính sách ruộng đất và thuế nông nghiệp Các lĩnh vực văn hóa, y tế, giáo dục và xây dựng nếp sống mới đã có những bước phát triển đáng kể, củng cố mặt trận dân tộc thống nhất.
Ngày 4-12-1953, tại kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa I đã thông qua Luật cải cách ruộng đất và ngày 19-12-1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành sắc lệnh Luật cải cách ruộng đất Thực hiện chủ trương của Đảng và Chính phủ hàng ngàn hécta ruộng đất và các loại nông cụ, trâu bò, tư liệu sản xuất nông nghiệp đã được chia cho nông dân nghèo, nhất là bần, cố nông Thắng lợi này đã làm nức lòng bộ đội nơi tiền tuyến, tăng thêm quyết tâm giết giặc, lập công, góp phần tích cực động viên sức người, sức của cho Chiến dịch Điện Biên Phủ Song, do còn hạn chế trong nhận thức, việc tiếp thu kinh nghiệm đấu tranh giai cấp của nước ngoài đã mắc vào giáo điều chủ nghĩa, vi phạm khuyết điểm nghiêm trọng là độc đoán, chuyên quyền, định kiến chủ quan, quan liêu, mệnh lệnh, nhất là ở phương pháp, cách làm, ở việc chỉ đạo xử lý không đúng một số trường hợp oan sai trong cải cách ruộng đất, càng về sau càng nặng hơn ”
Cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp kết thúc từ năm 1953 đến
Năm 1953, quân đội Pháp tại Đông Dương rơi vào tình thế khó khăn giữa việc tập trung lực lượng để chiếm giữ lãnh thổ và bảo vệ các khu vực chiến lược như đồng bằng Bắc bộ và Tây Bắc, Thượng Lào Trong bối cảnh này, Pháp ngày càng phụ thuộc vào viện trợ quân sự từ Mỹ, nỗ lực tìm kiếm một lối thoát danh dự khỏi cuộc xung đột.
Tháng 5-1953, Pháp cử Đại tướng Hăngri Nava (H Navarre) đang đảm nhiệm chức vụ Tổng Tham mưu trưởng lục quân khối NATO sang làm Tổng chỉ huy quân đội viễn chinh Pháp ở Đông Dương Tháng 7-1953, Nava đã vạch ra kế hoạch chính trị-quân sự mới lấy tên là “Kế hoạch Nava” Kế hoạch Nava dự kiến thực hiện trong vòng 18 tháng nhằm “chuyển bại thành thắng” Nava chủ trương tăng cường tập trung binh lực, hình thành những “quả đấm thép” để quyết chiến với chủ lực của Việt Minh Trong quá trình triền khai kế hoạch, Nava đã từng bước biến Điện Biên Phủ - một địa danh vùng Tây Bắc Việt Nam trở thành một căn cứ quân sự khổng lồ và là trung tâm điểm của kế hoạch Đến đầu năm 1954, Điện Biên Phủ là một tập đoàn cứ điểm mạnh nhất Đông Dương, một “pháo đài khổng lồ không thể công phá”, được giới quân sự, chính trị Pháp-Mỹ đánh giá là
Để đối phó với âm mưu và kế hoạch Nava, Đảng đã quyết định mở cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ Từ tháng 9-1953, Bộ Chính trị và Tổng Quân ủy đã chỉ đạo Bộ Tổng Tham mưu Quân đội Nhân dân Việt Nam nghiên cứu tình hình quân sự và xây dựng kế hoạch tác chiến mới Cuối tháng 9-1953, Nghị quyết của Bộ Chính trị đã thông qua kế hoạch tác chiến nhằm tiêu diệt sinh lực địch, củng cố lực lượng ta và buộc địch phải phân tán lực lượng Nghị quyết quan trọng này đã mở ra con đường dẫn đến những thắng lợi lịch sử trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954, với đỉnh cao là Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Tháng 12-1953, Bộ Tổng Tham mưu đã xây dựng xong các kế hoạch tác chiến cụ thể cho các chiến trường và được Bộ Chính trị phê chuẩn Trên cơ sở báo cáo quyết tâm của Tổng Quân ủy, cuộc họp của Bộ Chính trị ngày 6-12-1953 đã quyết định mở Chiến dịch Điện Biên Phủ và giao Đại tướng Võ Nguyên Giáp
- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Tổng Tư lệnh quân đội trực tiếp làm Tư lệnh kiêm
Bí thư Đảng ủy chiến dịch đã phối hợp với mặt trận Điện Biên Phủ, tạo điều kiện cho trận quyết chiến chiến lược tại đây Lực lượng quân sự tổ chức nghi binh, kéo dãn lực lượng địch trên toàn chiến trường Đông Dương, đồng thời mở nhiều cuộc tấn công đồng loạt vào các hướng chiến lược quan trọng như Lai Châu, Trung Lào, Hạ Lào, Đông Bắc Campuchia, Tây Nguyên và Thượng Lào Tại mặt trận Bình Trị Thiên, Nam Trung bộ và Nam bộ, ta thực hiện các cuộc tấn công đồng loạt, kết hợp với các hoạt động phá tề, trừ gian, mở các chiến dịch địch vận, ngụy vận, phá hủy giao thông và đẩy mạnh hoạt động chiến tranh du kích.
Nhằm phát huy sức mạnh của hậu phương để chi viện cho tiền tuyến trong cuộc tiến công chiến lược Đông Xuân 1953-1954 và Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung ương Đảng, Quốc hội và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động phong trào quần chúng nhằm giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất Bộ Chính trị quyết định thành lập Ủy ban chi viện tiền tuyến cùng với Hội đồng cung cấp mặt trận Trung ương và các địa phương Tất cả nguồn nhân lực và vật lực, bao gồm hàng vạn ngày công và tấn lương thực, đạn dược, vũ khí, đã được huy động để hỗ trợ mặt trận Điện Biên Phủ Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh tầm quan trọng của chiến dịch này không chỉ về quân sự mà còn về chính trị, yêu cầu toàn quân, toàn dân, toàn Đảng phải tập trung hoàn thành nhiệm vụ.
Để thực hiện quyết tâm chiến lược, chúng ta đã huy động khoảng 50.000 quân với nỗ lực cao nhất để bao vây quân địch tại Điện Biên Phủ Với phương châm “đánh chắc, tiến chắc”, vào ngày 13-3-1954, quân ta đã tấn công địch ở phân khu phía Bắc Mường Thanh, khai màn Chiến dịch Điện Biên Phủ Sau 56 ngày đêm với ba đợt tiến công lớn, vào lúc 17 giờ 30 phút ngày 7-5-1954, Quân đội Nhân dân Việt Nam đã chiếm lĩnh hầm chỉ huy, bắt sống tướng Đờ Cátơri và toàn bộ lực lượng địch tại Điện Biên Phủ Chiến dịch Điện Biên Phủ kết thúc đã mang lại thắng lợi vĩ đại cho cuộc kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp xâm lược.
Chiến thắng Điện Biên Phủ là biểu tượng cho ý chí và khát vọng độc lập của nhân dân Việt Nam, với Quân đội Nhân dân đóng vai trò then chốt Sự thất bại của Pháp tại đây đã gây ra nỗi kinh hoàng và được coi là một trong những thất bại lớn nhất của phương Tây Thắng lợi này được xem là "thiên sử vàng của dân tộc Việt Nam", ghi dấu một chiến công vĩ đại trong thế kỷ XX, đồng thời trở thành một sự kiện lịch sử quan trọng, báo hiệu sự thắng lợi của các dân tộc bị áp bức và sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân.
Sau thắng lợi quân sự vang dội ở Điện Biên Phủ, quân và dân ta đã đạt được nhiều thành công lớn trên các mặt trận kinh tế, chính trị và quân sự tại các khu vực như đồng bằng, trung du Bắc Bộ, Bình Trị Thiên, Nam Trung Bộ và Nam Bộ Những thắng lợi này không chỉ khẳng định sức mạnh của ta mà còn tạo động lực tích cực cho chiến trường Điện Biên Phủ.
Vào cuối năm 1953, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định lập trường của Việt Nam rằng "Chính phủ Pháp phải thật thà tôn trọng nền độc lập thật sự của nước Việt Nam", yêu cầu ngừng cuộc chiến tranh xâm lược và thương lượng trực tiếp với Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa Tuyên bố này đã mở ra cơ hội cho cuộc đấu tranh ngoại giao tại Hội nghị Giơnevơ ở Thụy Sỹ.
Ngày 7-5-1954, Điện Biên Phủ thất thủ, Chính phủ Pháp không còn sự lựa chọn nào khác, buộc phải đàm phán tại Hội nghị Giơnevơ bàn về chấm dứt chiến tranh lập lại hòa bình ở Đông Dương với sự tham gia của các bên hữu quan gồm: Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, ba đoàn đại biểu của chính quyền thân Pháp là Vương quốc Campuchia, Vương quốc Lào và chính quyền Bảo Đại Việt Nam. Ngày 8-5-1954, phái đoàn Chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa do đồng chí Phạm Văn Đồng dẫn đầu đến Hội nghị với tư thế một dân tộc chiến thắng Trong
Sau 75 ngày đàm phán căng thẳng với 8 phiên họp toàn thể và 23 phiên họp hẹp, Việt Nam đã kiên trì đấu tranh để bảo vệ quyền lợi của lực lượng kháng chiến Lào và Campuchia, mặc dù phải đối mặt với áp lực từ tình hình quốc tế phức tạp và sức ép của các nước lớn Dù lực lượng không thuận lợi cho cách mạng ba nước Đông Dương, Việt Nam đã quyết định ký kết Hiệp định đình chỉ chiến sự với Pháp vào ngày 21-7-1954.
Hội nghị đã thông qua Bản Tuyên bố cuối cùng về lập lại hòa bình ở Đông Dương, với sự cam kết của các bên tham gia, ngoại trừ đại biểu Mỹ Tuyên bố khẳng định cam kết tôn trọng các quyền dân tộc cơ bản của Việt Nam, Lào, Campuchia, bao gồm độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời cam kết chấm dứt chiến tranh và thiết lập hòa bình trên bán đảo Đông Dương Kết quả của Hội nghị phản ánh xu thế chung và cục diện quốc tế lúc bấy giờ, đánh dấu văn bản pháp lý quốc tế đầu tiên công nhận quyền dân tộc của ba nước Đông Dương, kết thúc cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và mở ra một trang sử mới cho dân tộc Việt Nam, đồng thời tạo điều kiện cho cuộc đấu tranh giành độc lập và thống nhất hoàn toàn sau này.
Nguyên nhân thắng lợi, ý nghĩa lịch sử và kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp được ghi nhận nhờ sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đặc biệt là Chủ tịch Hồ Chí Minh, với đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo Đường lối này nhấn mạnh kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ, tự lực cánh sinh, kết hợp giữa nhiệm vụ dân tộc và dân chủ, phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước Nhờ đó, sức mạnh của nhân dân được phát huy, khắc phục nhược điểm và chuyển đổi thế và lực từ yếu thành mạnh.
Toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một long, dung cảm trong chiến đấu, cần cù trong lao động sản xuất, góp phần vào chiến thắng của dân tộc.
Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của nhân dân ta đạt được thắng lợi nhờ vào hệ thống chính quyền dân chủ nhân dân vững mạnh trên toàn quốc, sự củng cố và mở rộng của mặt trận dân tộc thống nhất, cùng với lực lượng vũ trang được xây dựng và phát triển liên tục Hơn nữa, hậu phương rộng lớn và vững chắc đã góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến.
Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân Việt Nam diễn ra song song với cuộc kháng chiến của nhân dân Lào và Campuchia, tạo thành một liên minh chiến đấu chống kẻ thù chung Sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ từ Liên Xô, Trung Quốc, các nước dân chủ khác, cùng với sự ủng hộ của nhân dân Pháp và nhân loại tiến bộ trên toàn thế giới đã góp phần quan trọng vào thành công của cuộc kháng chiến này.
4.2 Ý nghĩa lịch sử của cuộc kháng chiến
Trong cuộc kháng chiến trường kỳ, dưới sự lãnh đạo của Đảng, toàn quân và toàn dân đã bảo vệ và phát triển các thành quả của Cách mạng Tháng Tám, củng cố chế độ dân chủ nhân dân trên mọi lĩnh vực Thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ giải phóng hoàn toàn miền Bắc mà còn tạo tiền đề quan trọng cho việc xây dựng chủ nghĩa xã hội, trở thành hậu phương vững chắc cho miền Nam Cuộc kháng chiến đã giành được thắng lợi lịch sử, đánh bại cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, khẳng định độc lập và chủ quyền của Việt Nam, đồng thời cổ vũ phong trào đấu tranh vì hòa bình và dân chủ trên toàn cầu Thắng lợi này cũng góp phần nâng cao uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế, mở rộng lực lượng cho chủ nghĩa xã hội và cách mạng thế giới, cùng với nhân dân Lào và Campuchia đánh bại thực dân cũ Hồ Chí Minh đã khẳng định đây là một thắng lợi vẻ vang của nhân dân Việt Nam và các lực lượng hòa bình, dân chủ trên thế giới.
4.3.Kinh nghiệm của Đảng về lãnh đạo kháng chiến
Thắng lợi của cuộc kháng chiến không chỉ ghi nhận sự phát triển và thành công trong lãnh đạo, chỉ đạo chiến tranh giải phóng dân tộc của Đảng Lao động Việt Nam mà còn để lại nhiều bài học và kinh nghiệm quý báu cho các thế hệ sau.
Đường lối kháng chiến đúng đắn và sáng tạo ngay từ những ngày đầu đã xác định rõ mục tiêu "kháng chiến và kiến quốc", với tinh thần toàn dân tham gia, tự lực cánh sinh Tinh thần này đã khơi dậy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tập trung vào nhiệm vụ chống lại kẻ thù, thực hiện mục tiêu độc lập, dân chủ và tiến bộ Đồng thời, việc kết hợp sức mạnh nội lực của nhân dân Việt Nam với việc tận dụng các điều kiện quốc tế thuận lợi đã tối đa hóa sự ủng hộ từ các lực lượng dân chủ, tiến bộ trong cuộc kháng chiến.
Kết hợp chặt chẽ giữa kháng chiến và kiến quốc là nhiệm vụ then chốt trong cuộc đấu tranh chống đế quốc và phong kiến Kháng chiến toàn diện trên các mặt trận kinh tế, văn hóa, xã hội nhằm cải thiện đời sống nhân dân, trong khi ưu tiên hoạt động quân sự để đạt được thắng lợi quyết định Hình thức đấu tranh phải linh hoạt, với quân sự làm nòng cốt và xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân là nền tảng để củng cố phát triển cơ sở hạ tầng chính trị-xã hội Việc xây dựng hậu phương vững chắc luôn đồng hành cùng kháng chiến, thể hiện sự lãnh đạo và tổ chức của Đảng và Chính phủ trong quá trình đấu tranh của Đảng Lao động Việt Nam.
Ba là, trong quá trình lãnh đạo và tổ chức kháng chiến, việc phát triển các phương thức chiến tranh phù hợp với từng giai đoạn là rất quan trọng Chiến tranh nhân dân, toàn dân, toàn diện được áp dụng để đối phó với đặc điểm của cuộc kháng chiến và so sánh lực lượng với địch Kết hợp giữa chiến tranh chính quy và chiến tranh du kích, cả ở mặt trận chính diện và vùng sau lưng địch, là chiến lược hiệu quả Đặc biệt, phát huy sở trường và áp dụng cách đánh linh hoạt, kết hợp với chỉ đạo tác chiến cơ động, nhằm "đánh chắc, tiến chắc, chắc thắng", từng bước giành thắng lợi quyết định.
Xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang ba thứ quân, bao gồm bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và dân quân du kích, là cần thiết để đáp ứng kịp thời yêu cầu nhiệm vụ chính trị-quân sự trong cuộc kháng chiến Mô hình tổ chức và con người trong lực lượng vũ trang, đặc biệt là Quân đội nhân dân và Công an nhân dân, cần được xây dựng một cách đúng đắn và phù hợp Tư tưởng-chính trị là yếu tố quan trọng hàng đầu trong việc xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, nhằm tạo ra công cụ chuyên chính sắc bén, tin cậy, trở thành mũi nhọn cho kháng chiến và chỗ dựa cho toàn dân trong cuộc chiến chống giặc Đảng và quân đội đã thành công trong việc xây dựng hình ảnh “Anh Bộ đội Cụ Hồ” trong kháng chiến, đồng thời phát triển Công an nhân dân với bản chất giai cấp và tính nhân dân sâu sắc.
“bạn dân” theo tư tưởng thân dân của Hồ Chí Minh
Năm qua, công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng được coi trọng, nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng trong cuộc kháng chiến trên mọi lĩnh vực Hình ảnh và uy tín của Đảng và Chính phủ cần được củng cố thông qua hành động thực tế và vai trò gương mẫu của các tổ chức đảng và cán bộ Công tác tuyên truyền, giáo dục và động viên nguồn lực từ nhân dân cũng cần được chú trọng, nhằm củng cố lòng tin vào thắng lợi cuối cùng của cuộc kháng chiến Trong quá trình xây dựng Đảng, cần nâng cao nhận thức chính trị, khắc phục các khuynh hướng tư tưởng tiêu cực, đồng thời chú ý đến nhiệm vụ xây dựng và kiến quốc bên cạnh nhiệm vụ quân sự Việc giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa huy động sức dân và nâng cao sức dân là cần thiết, cũng như học hỏi kinh nghiệm từ nước ngoài một cách sáng tạo Tuy nhiên, cần tránh các khuyết điểm như chủ nghĩa phần, đố kỵ trong công tác cán bộ, vì chúng có thể làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Chính phủ.
Với đường lối sáng tạo và đúng đắn của Đảng, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp từ 1945 đến 1954 đã đạt được thắng lợi hoàn toàn Thành công này không chỉ đẩy lùi bọn thực dân đã thống trị đất nước mà còn khích lệ tinh thần đấu tranh của nhân dân Điều này đặc biệt nhấn mạnh sức mạnh của sự đoàn kết và quyết tâm bảo vệ độc lập dân tộc.