Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.Quản lý kinh tế trong chương trình xây dựng nông thôn mới của Chính quyền xã Thượng Yên Công, thành phố Uông Bí.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ KINH TẾ TRONG XÂY DỰNG NÔNGTHÔNMỚI
Cơ sở lý luận của quản lý kinh tế trong xây dựngnôngmới
Theo Thông tư số 54/2009/TT-BNNPTNT của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nông thôn được định nghĩa là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị của các thành phố, thị xã, thị trấn, và được quản lý bởi ủy ban nhân dân xã Định nghĩa này được tham khảo từ tài liệu đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn mới của Trường chính trị Trần Phú Hà Tĩnh năm 2013.
Tài liệu đào tạo cán bộ xây dựng nông thôn mới của Trường chính trị Trần Phú Hà Tĩnh (2013) định nghĩa nông thôn mới là nơi mà đời sống vật chất, văn hóa và tinh thần của người dân không ngừng được nâng cao, giảm dần khoảng cách giữa nông thôn và thành thị Nông dân được đào tạo, tiếp thu các kỹ thuật tiên tiến và có bản lĩnh chính trị vững vàng, giữ vai trò chủ đạo trong sự phát triển nông thôn mới Nông thôn mới có nền kinh tế phát triển bền vững, cơ sở hạ tầng hiện đại, được quy hoạch hợp lý, gắn kết chặt chẽ giữa nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ và đô thị Đồng thời, nông thôn cũng cần ổn định, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc và bảo vệ môi trường sinh thái, nâng cao sức mạnh của hệ thống chính trị để đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội.
Trường Chính trị Trần Phú Hà Tĩnh đã phát hành tài liệu đào tạo và bồi dưỡng cán bộ về xây dựng nông thôn mới vào năm 2013 Khái niệm xây dựng nông thôn mới được định nghĩa là một cuộc cách mạng và vận động lớn nhằm khuyến khích cộng đồng dân cư nông thôn cùng nhau xây dựng thôn, xã và gia đình khang trang, sạch đẹp, đồng thời phát triển sản xuất một cách toàn diện.
(nôngnghiệp,côngnghiệp,dịchvụ);cónếpsốngvănhoá,môitrườngvàanninhnôngthônđược đảm bảo; thu nhập, đời sống vật chất, tinh thần của người dân được nângcao.
XâydựngnôngthônmớilàsựnghiệpcáchmạngcủatoànĐảng,toàndân,củacảhệthốngchín htrị.Nôngthônmớikhôngchỉlàvấnđềkinhtế-xãhội,màlàvấnđềkinh tế - chính trị tổnghợp.
Xâydựngnông thôn mới giúp cho nông dân có niềmtin,trở nên tích cực, chămchỉ,đoànkếtgiúpđỡnhauxâydựngnôngthônpháttriểngiàuđẹp,dânchủ,vănminh.”1.1.2.C hương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thônmới
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, được Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam khóa X thông qua vào năm 2008, là một chương trình tổng thể nhằm phát triển kinh tế - xã hội, chính trị và an ninh quốc phòng tại các vùng nông thôn trên toàn quốc Chương trình này được Chính phủ Việt Nam xây dựng và triển khai dựa trên tinh thần của Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7.
Chươngtrìnhmụctiêuquốcgiavềxâydựngnôngthônmớigiaiđoạn2010-2020 đượcThủ tướng Chính phủ Việt Namphê duyệt ngày 4 tháng 6 năm 2010, có thamvọngđến năm 2015 có 20% số xã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới và đến năm 2020 có 50%sốxãđạttiêuchuẩnnôngthônmớitheoBộtiêuchíquốcgiavềnôngthônmới.
CăncứvàoBộtiêuchíQuốcgia,cácBộngànhliênquanđềuxâydựngquychuẩn củangành,chủyếulàcáctiêuchuẩnkỹthuậtchocáccôngtrìnhhạtầng,đểápdụngkhi xây dựng Nông thônmới”.
1.1.3 Quản lý Nhà nước về kinhtế
1.1.3.1 Khái niệm Quản lý Nhà nước về kinhtế
Luận văn thạc sỹ của Nguyệt Việt Linh (2017) về "Quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới ở huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình" đã định nghĩa Quản lý Nhà nước kinh tế là sự tác động có tổ chức và hợp pháp của Nhà nước lên nền kinh tế quốc dân Mục tiêu là sử dụng hiệu quả các nguồn lực kinh tế trong và ngoài nước, đồng thời tận dụng các cơ hội để đạt được các mục tiêu phát triển kinh tế trong bối cảnh hội nhập và giao lưu quốc tế.
Quản lý nhà nước về kinh tế được thực hiện rộng rãi thông qua ba loại cơ quan chính: lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Quản lý Nhà nước về kinh tế, theo nghĩa hẹp, được hiểu là hoạt động quản lý do cơ quan hành pháp (Chính phủ) thực hiện nhằm điều hành nền kinh tế.
1.1.3.2 Quản lý nhà nước về kinh tế vừa là một khoa học vừa là nghệ thuật, nghề nghiệp
Quản lý nhà nước về kinh tế được coi là một lĩnh vực vừa mang tính khoa học vừa là nghệ thuật và nghề nghiệp, như tác giả Nguyệt Việt Linh (2017) đã chỉ ra trong luận văn thạc sỹ của mình.
Quản lý Nhà nước về kinh tế là một lĩnh vực khoa học độc lập, với đối tượng nghiên cứu và nhiệm vụ phục vụ riêng biệt Nó nghiên cứu các quy luật cũng như các vấn đề quy luật liên quan đến mối quan hệ trực tiếp và gián tiếp giữa các chủ thể tham gia hoạt động kinh tế trong xã hội.
Tính khoa học trong quản lý Nhà nước về kinh tế yêu cầu rằng hoạt động quản lý không thể phụ thuộc vào ý chí hay sở thích cá nhân của bất kỳ cơ quan nào, mà phải dựa trên các nguyên tắc và phương pháp khoa học Quản lý cần xuất phát từ thực tiễn và được kiểm nghiệm, dựa trên các quy luật khách quan và điều kiện cụ thể của từng quốc gia trong từng giai đoạn phát triển Để đảm bảo tính khoa học trong quản lý Nhà nước, cần có sự kết hợp giữa lý thuyết và thực tiễn, cũng như sự linh hoạt để thích ứng với những thay đổi trong môi trường kinh tế.
Nhận thức đúng đắn các quy luật khách quan và tổng kết thực tiễn là rất quan trọng để xây dựng nguyên lý cho hoạt động quản lý kinh tế của Nhà nước Việc này không chỉ giúp nâng cao hiệu quả quản lý mà còn đảm bảo sự phát triển bền vững trong lĩnh vực kinh tế.
- Ápd ụ n g c á c p h ư ơ n g p h á p đ o l ư ờ n g đ ị n h l ư ợ n g h i ệ n đ ạ i , s ự đ á n h g i á k h á c h quan các quá trình kinh tế.
Nghiên cứu toàn diện và đồng bộ các hoạt động của nền kinh tế là cần thiết, không chỉ tập trung vào khía cạnh kinh tế - kỹ thuật mà còn phải xem xét các yếu tố xã hội và tâm lý Điều này đòi hỏi việc giải quyết hiệu quả các vấn đề thực chất và bản chất trong quản lý.
Quản lý Nhà nước về kinh tế không chỉ là một nghệ thuật mà còn là một nghề, phụ thuộc vào trình độ, nhân cách và bản lĩnh của đội ngũ cán bộ quản lý Phong cách làm việc, phương pháp và hình thức tổ chức quản lý cũng đóng vai trò quan trọng, cùng với khả năng thích nghi của bộ máy quản lý kinh tế Nhà nước.
Tính nghệ thuật trong quản lý Nhà nước về kinh tế thể hiện qua khả năng ứng phó linh hoạt với các tình huống đa dạng trong thực tiễn kinh tế, dựa trên các nguyên lý khoa học Khoa học, mặc dù cung cấp những kiến thức và nguyên tắc cơ bản, nhưng không thể đưa ra giải pháp cho mọi tình huống cụ thể trong hoạt động thực tiễn.
Quản lý Nhà nước về kinh tế dựa trên các nguyên lý khoa học, nhưng việc áp dụng chúng vào thực tiễn phụ thuộc vào kiến thức, ý chí và tài năng của các nhà quản lý Nghệ thuật quản lý yêu cầu đưa ra quyết định hợp lý nhất cho từng tình huống Công việc này được thực hiện bởi một hệ thống tổ chức phức tạp, bao gồm nhiều người và cơ quan với chức năng và quyền hạn khác nhau, nhằm đảm bảo quản lý hiệu quả các lĩnh vực kinh tế của Nhà nước Để thành công, những người làm việc trong các cơ quan này cần phải được đào tạo chuyên nghiệp để sở hữu tri thức, kỹ năng và năng lực cần thiết cho công tác quản lý.
1.1.4 Quản lý kinh tế, phân cấp quản lý trong xây dựng nông thônmới
Nội dung quản lý kinh tế trong xây dựng nôngthônmới
1.2.1 Xây dựng quy hoạch và kế hoạch phát triển kinhtế
2.2.1.1 Xây dựng quy hoạch phát triển kinh tế trong xây dựng nông thôn mới
Theo Phạm Hà trong tạp chí Nông nghiệp (2011), Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn cần tích cực triển khai, đôn đốc và kiểm tra các xã trong việc công bố đồ án quy hoạch Điều này nhằm chỉnh sửa đề án xây dựng nông thôn mới và nắm bắt tình hình, từ đó tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc trong quá trình thực hiện.
Việc lập đồ án quy hoạch nông thôn mới cần toàn diện trên các lĩnh vực như quy hoạch đất đai, sản xuất và xây dựng, nhằm phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn Đồ án tập trung vào quy hoạch sử dụng đất và hạ tầng thiết yếu cho sản xuất nông nghiệp hàng hóa, công nghiệp, thủ công nghiệp và dịch vụ Cần xác định nhu cầu sử dụng đất cho vùng sản xuất và hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất, đồng thời bố trí hệ thống thủy lợi kết hợp với giao thông Quy hoạch cũng bao gồm phát triển các khu dân cư mới và chỉnh trang khu dân cư hiện có theo hướng văn minh, bảo tồn bản sắc văn hóa Hiện tại, Đề án xây dựng nông thôn mới được công khai qua văn bản và bản đồ quy hoạch tại trụ sở xã, thông báo tới các xóm trong xã.
Trong quy hoạch sản xuất, cần có tầm nhìn chiến lược và khả thi, dựa trên thế mạnh của từng xã để kết nối các vùng trong huyện, thành phố Mục tiêu là tạo tiềm năng thu hút doanh nghiệp đầu tư phát triển nông thôn, chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ, đồng thời quy hoạch các loại cây trồng, vật nuôi có giá trị kinh tế cao Quy hoạch cần xác định tiềm năng, động lực phát triển xã trong 10 năm tới, phân kỳ 5 năm, dự báo động lực kinh tế chủ đạo, quy mô sản xuất, sản phẩm chính và tiềm năng thị trường Bên cạnh đó, cần xác định tiềm năng đất đai để chuyển đổi cơ cấu sử dụng đất phục vụ dân cư, hạ tầng và sản xuất.
1.2.1.2 Kế hoạch phát triển kinh tế:
Kế hoạch phát triển du lịch nông thôn tại tỉnh Hòa Bình nhằm thúc đẩy chương trình "Mỗi xã một sản phẩm" và xây dựng nông thôn mới, đồng thời tái cơ cấu nông nghiệp để nâng cao kinh tế - xã hội Mục tiêu là khai thác tiềm năng và phát triển ngành nghề nông thôn, phục hồi các làng nghề truyền thống gắn với du lịch sinh thái, phát triển mỗi làng một nghề và xây dựng thương hiệu sản phẩm địa phương Kế hoạch cũng hướng tới việc huy động nguồn lực xã hội để phát triển sản phẩm du lịch có tính cạnh tranh, từ đó nâng cao thu nhập và đời sống người dân nông thôn thông qua du lịch cộng đồng và du lịch sinh thái.
- lâm - ngư nghiệp có tiềm năng, lợi thế nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân trong chương trình xây dựng nông thôn mới.
Xây dựng nông thôn mới gắn liền với phát triển du lịch nông thôn nhằm thu hút du khách và khai thác tiềm năng địa phương Kế hoạch tập trung vào năm nội dung chính: lựa chọn các điểm du lịch cộng đồng và sản phẩm dịch vụ chất lượng; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong du lịch nông nghiệp thông qua đào tạo nghề; hỗ trợ xây dựng nhóm sản phẩm dịch vụ du lịch nông thôn và bán hàng OCOP; phát triển nhóm sản phẩm lưu niệm, nội thất và trang trí; và định kỳ đánh giá xếp hạng sản phẩm, dịch vụ du lịch theo tiêu chuẩn OCOP.
1.2.2 Công tác tổ chức thực hiện quy hoạch và kế hoạch phát triển kinhtế
Tổ chức thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế từ nguồn ngân sách nhà nước (NSNN) cho xây dựng nông thôn mới cần tuân thủ các chỉ tiêu ban đầu và phân tích các biến đổi khách quan để đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn Giai đoạn này là trọng tâm trong quản lý vốn xây dựng nông thôn mới từ NSNN, trong đó UBND cấp tỉnh và huyện chịu trách nhiệm tổ chức quản lý, đôn đốc và kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đầu tư Ban quản lý dự án Chương trình vốn xây dựng nông thôn mới ở các cấp có nhiệm vụ giám sát việc sử dụng NSNN để thực hiện chương trình hiệu quả.
Các sở, ban ngành có trách nhiệm báo cáo UNBD cùng cấp về việc triển khai kế hoạch nguồn vốn Chương trình xây dựng nông thôn mới (XD NTM) từ ngân sách nhà nước (NSNN) Kế hoạch này bao gồm việc phân bổ và tổ chức thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, cùng với nhiệm vụ chi cho cơ sở hạ tầng trong dự toán ngân sách Việc cấp phát và thanh quyết toán vốn XD NTM từ NSNN được thực hiện thông qua hệ thống Kho bạc nhà nước Dựa trên tổng mức vốn được phê duyệt, UBND tỉnh và cấp huyện sẽ phân bổ các hạng mục và nội dung cụ thể theo kế hoạch đã đề ra.
Phân bổ vốn xây dựng nông thôn mới từ ngân sách nhà nước (NSNN) phải tuân thủ các quy định của Luật NSNN, chỉ đầu tư cho các nội dung xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội Các dự án được cấp vốn phải nằm trong quy hoạch đã được phê duyệt và thực hiện đầy đủ các thủ tục đầu tư theo quy định Việc phân bổ vốn đảm bảo đủ nguồn để thanh toán nợ và ứng trước cho năm kế hoạch Cấp phát vốn chỉ thực hiện cho các dự án đáp ứng đủ trình tự quy định, nhằm đảm bảo đầu tư phát triển kinh tế có kế hoạch, cân đối giữa các vùng và ngành Vốn được cấp phát trực tiếp dưới hình thức không hoàn lại và cho vay có hoàn trả, với quá trình chi tiêu được kiểm soát chặt chẽ bởi cơ quan quản lý.
1.2.3 Các vấn đề cơ bản trong quản lý kinh tế về xây dựng nông thônmới
12.3.1 Ban hành chính sách xây dựng nông thôn mới
Việc xây dựng và thực hiện văn bản quy phạm pháp luật trong hoạt động xây dựng nông thôn mới là cần thiết để quản lý và điều hành một cách thống nhất Điều này được thực hiện dựa trên Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX, nhằm đẩy nhanh công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn trong giai đoạn 2001.
Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 5 tháng 8 năm 2008 của Ban chấp hành Trung ương Đảng và Quyết định số 491/QĐ-TTg ngày 16 tháng 9 năm 2009 của Thủ tướng Chính phủ đã đặt nền tảng cho việc xây dựng nông thôn mới tại Việt Nam Các nghị quyết, nghị định của Chính phủ cùng với quyết định và chỉ thị của Thủ tướng, cũng như thông tư từ các bộ ngành như Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Bộ Tài chính, và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, đã xác định rõ quyền và nghĩa vụ của các tổ chức, cá nhân trong quá trình này Việc xây dựng một hệ thống thể chế đồng bộ và tạo ra môi trường pháp lý là cần thiết để hỗ trợ các hoạt động phát triển sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông thôn, đồng thời huy động và quản lý hiệu quả các nguồn vốn cho việc xây dựng nông thôn mới.
1.2.3.2 Tổ chức bộ máy, xây dựng đội ngũ công chức thực hiện quản lý kinh tế về xâydựng nông thônmới
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước về xây dựng nông thôn mới là yếu tố quyết định trong hoạt động quản lý kinh tế, bao gồm các bộ phận với chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn khác nhau, được sắp xếp theo từng cấp để thực hiện quản lý hiệu quả Bộ máy này hoạt động thống nhất trên toàn quốc, giúp định hướng, tổ chức hỗ trợ, kiểm tra và giám sát các hoạt động xây dựng nông thôn mới Ngày 01 tháng 7 năm 2010, Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1013/QĐ-TTg thành lập Ban Chỉ đạo Trung ương Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010-2020, từ đó Ban Chỉ đạo tiếp tục xây dựng và triển khai kế hoạch thực hiện chương trình.
Năm 2020, việc thành lập Ban Chỉ đạo (BCĐ) đã được nhấn mạnh nhằm hỗ trợ quản lý kinh tế trong xây dựng nông thôn mới ở các cấp Để đảm bảo bộ máy quản lý kinh tế này hoạt động hiệu quả và linh hoạt, việc tập huấn nâng cao năng lực cho cán bộ thực thi nhiệm vụ là vô cùng quan trọng Đồng thời, công tác kiện toàn bộ máy ở mỗi giai đoạn cũng cần thiết để xây dựng một hệ thống quản lý có khả năng thích ứng cao với những biến động của điều kiện kinh tế xã hội trong nước.
Tổ chức bộ máy quản lý nhà nước trong xây dựng nông thôn mới bao gồm các bộ phận tham mưu và hỗ trợ, giúp cơ quan nhà nước thực hiện chức năng quản lý kinh tế một cách thống nhất và khoa học.
1.2.3.3 Quy hoạch và thực hiện quy hoạch xây dựng nông thônmới
Trong Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới, công tác quy hoạch và thực hiện quy hoạch (tiêu chí số 1) đóng vai trò then chốt, tạo nền tảng cho việc thực hiện các tiêu chí còn lại Quy hoạch nông thôn mới bao gồm việc bố trí các khu chức năng, sản xuất, dịch vụ và hạ tầng kinh tế - xã hội phù hợp với đặc thù và tiềm năng của từng địa phương Để phát triển mô hình nông thôn mới bền vững, công tác quy hoạch cần được ưu tiên hàng đầu Nếu quy hoạch thiếu chất lượng và tầm nhìn, quá trình xây dựng nông thôn mới sẽ gặp nhiều khó khăn Theo Nghị quyết số 26-NQ/TW, công tác quy hoạch không chỉ là tiền đề quan trọng mà còn là cơ sở để phát triển không gian nông thôn toàn diện, đáp ứng yêu cầu của Đảng và Chính phủ về xây dựng nông nghiệp, nông dân và nông thôn Quy hoạch xây dựng nông thôn mới liên quan đến quy hoạch xây dựng, sản xuất và sử dụng đất, là cơ sở cho các Đề án xây dựng nông thôn mới theo 19 tiêu chí quốc gia Về lâu dài, công tác quy hoạch sẽ định hình đường lối phát triển nông thôn theo tinh thần Nghị quyết 26.
1.2.3.4 Quản lý thực hiện các tiêu chí xây dựng nông thônmới
Để quản lý hiệu quả các tiêu chí xây dựng nông thôn mới, cần nắm rõ các tiêu chí quy định và thực hiện các hoạt động đánh giá nhằm xác định giá trị thực trạng về mức độ hoàn thành nhiệm vụ Quá trình này bao gồm việc thu thập và xử lý thông tin để đánh giá tình hình và kết quả công việc, từ đó hỗ trợ lập kế hoạch và quyết định Theo Quyết định số 1980/QĐ-TTg ngày 17 tháng 10 năm 2016, có 19 tiêu chí đánh giá xây dựng nông thôn mới, bao gồm quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, và nhiều tiêu chí khác liên quan đến đời sống và phát triển kinh tế Quản lý kinh tế trong việc thực hiện các tiêu chí này cần phải đảm bảo hoàn thành đúng chức năng, nhiệm vụ, và đạt hiệu quả tối ưu giữa kết quả đạt được và chi phí thực hiện Qua việc so sánh các tiêu chí giữa các thời điểm khác nhau, có thể đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ và hiệu quả trong xây dựng nông thôn mới mà nhà nước đã đạt được.
1.2.2.5 Huy động nguồn lực xây dựng nông thônmới
Các nhân tố tác động đến quản lý kinh tế trong lĩnh vực xây dựng nông thônmới 16 1 Nhận thức của của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân đối với quản lý kinh tế
1.3.1 Nhận thức của của cấp ủy Đảng, chính quyền và nhân dân đối với quản lýkinh tế trong lĩnh vực xây dựng nông thônmới
Các cấp uỷ, Đảng và chính quyền cần nhận thức rõ vai trò quản lý kinh tế trong xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ chung của toàn bộ hệ thống chính trị Việc này không chỉ đảm bảo sự phát triển bền vững mà còn nâng cao chất lượng đời sống của người dân nông thôn.
Chương trình Mục tiêu Quốc gia xây dựng nông thôn mới thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với nông nghiệp, nông thôn và nông dân Để xây dựng nông thôn mới thành công, cần phải lấy người dân làm trung tâm và đẩy mạnh công tác tuyên truyền Việc đầu tư vào nông thôn mới là cần thiết để hiện đại hóa kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, hợp lý hóa cơ cấu kinh tế, gắn nông nghiệp với phát triển công nghiệp và dịch vụ, bảo vệ môi trường, và nâng cao đời sống người dân Thành công trong xây dựng nông thôn mới sẽ rút ngắn khoảng cách giữa nông thôn và thành thị, với người dân đóng vai trò chủ thể quan trọng Cần huy động sức mạnh nội lực trong dân để đạt được các mục tiêu của chương trình, duy trì đoàn kết và phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị Thời gian qua, phong trào xây dựng nông thôn mới đã thu hút sự tham gia tích cực của các cấp ủy, Đảng và chính quyền, xác định rõ trách nhiệm của họ trong quản lý và triển khai các giải pháp thực tiễn, hiệu quả Công tác phân công, phân cấp trong quản lý kinh tế cần được chú trọng để gắn trách nhiệm quản lý sát với thực tế.
1.3.2 Năng lực của bộ máy chính quyền cáccấp
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới, theo tác giả Phạm Hà (2011), là một chương trình tổng hợp liên quan đến nhiều mặt công tác của Đảng và Nhà nước về nông nghiệp, nông dân và nông thôn Nhà nước cần đóng vai trò chỉ đạo và điều hành trong việc hoạch định và thực thi chính sách, đồng thời tạo hành lang pháp lý và hỗ trợ về vốn, kỹ thuật cho người dân Việc xây dựng nông thôn mới là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều ngành và chính sách có tác động đến đời sống nông thôn Trách nhiệm triển khai chương trình này thuộc về toàn bộ hệ thống chính trị, trong đó chính quyền các cấp đóng vai trò quyết định Do đó, việc nâng cao năng lực chỉ đạo và trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ là rất cần thiết.
1.3.3 Sự tham gia chủ động, tích cực của người dân nôngthôn
Người dân, đặc biệt là cư dân nông thôn, đóng vai trò chủ chốt trong việc xây dựng nông thôn mới Họ tham gia trực tiếp vào phát triển kinh tế, tổ chức sản xuất và thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn Sự chủ động của người dân trong việc xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế là yếu tố quan trọng cho sự phát triển bền vững của khu vực nông thôn.
XH tham gia vào quy hoạch và thực hiện xây dựng nông thôn mới, đồng thời xây dựng và gìn giữ đời sống văn hóa, đảm bảo vệ sinh môi trường, duy trì trật tự xã hội ổn định và củng cố hệ thống chính trị vững mạnh Sự tham gia của người dân và cộng đồng trong quá trình này là yếu tố then chốt để nâng cao tính dân chủ ở nông thôn, từ đó khuyến khích cộng đồng tích cực tham gia vào xây dựng nông thôn mới, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng và văn minh.
1.3.4 Hệ thống chính sách và huy động nguồnlực
Chương trình xây dựng nông thôn mới tại Việt Nam là một chương trình phát triển nông thôn tổng hợp, diễn ra trên gần 10.000 xã trong giai đoạn 2010-2020, với nguồn lực xã hội lớn từ nhà nước, doanh nghiệp và cộng đồng Chương trình này có nhiều chính sách hỗ trợ trực tiếp và gián tiếp, cùng với sự lồng ghép nguồn lực từ các chương trình và dự án khác Tuy nhiên, nhiều cơ chế và chính sách còn thiếu đồng bộ, đòi hỏi việc ban hành và hoàn thiện các giải pháp liên quan để nâng cao hiệu quả thực hiện Thời gian qua, các chính sách đã được điều chỉnh liên tục để phù hợp với thực tế, nhưng vẫn cần tiếp tục bổ sung và hoàn thiện.
Kinh nghiệm quản lý kinh tế về xây dựng nông thôn mới ở một số địa phương 18 1 TỉnhHưngYên
Giai đoạn 2021 - 2025, 100% cán bộ xã sẽ đạt trình độ chuyên môn từ trung cấp trở lên, trong đó 50% có trình độ cao đẳng, đại học trở lên; đồng thời, 100% cán bộ xã cũng sẽ có trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên Đối với công chức xã, 100% sẽ có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên, với 50% có trình độ đại học trở lên; 60% công chức xã sẽ đạt trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên, và 100% sẽ đáp ứng tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch công chức hành chính Mục tiêu phấn đấu là 100% công chức xã có trình độ chuyên môn cao đẳng, đại học trở lên, trong đó 80% có trình độ đại học trở lên, cùng với 100% đạt trình độ lý luận chính trị từ trung cấp trở lên và đủ tiêu chuẩn nghiệp vụ.
Để đảm bảo sự phát triển bền vững, cần xây dựng đầy đủ hệ thống chính trị ở cơ sở theo quy định, phấn đấu đạt 100% số xã và thôn có hệ thống chính trị hoạt động hiệu lực, hiệu quả và trong sạch, vững mạnh.
Nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu để thực hiện xây dựng nông thôn mới trong thời gian tới:
Để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đạt chuẩn, cần sự chung tay của toàn hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở Việc nâng cao chất lượng đội ngũ này đòi hỏi thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ và giải pháp quan trọng.
Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, đặc biệt là cấp xã, về sự cần thiết phải cải thiện chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở hiện nay là rất quan trọng Dựa trên nhận thức này, cần xác định rõ phương hướng, nhiệm vụ và giải pháp để xây dựng, chuẩn hóa và nâng cao dần chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã.
Để nâng cao hiệu quả công tác cán bộ, cần thực hiện quy hoạch và kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đánh giá, bố trí, sử dụng cán bộ một cách bài bản Việc tuyển dụng sinh viên tốt nghiệp từ các trường đại học có chuyên môn phù hợp sẽ tạo ra đội ngũ cán bộ có kiến thức vững vàng, từ đó đảm bảo công tác lãnh đạo và thực hiện đúng các quy định, chính sách pháp luật Đồng thời, cần đẩy mạnh luân chuyển cán bộ cấp huyện về xã để khắc phục tình trạng cục bộ trong bố trí chức danh chủ chốt, cũng như thực hiện luân chuyển giữa cán bộ đảng và chính quyền để nâng cao kinh nghiệm và năng lực làm việc.
Tinh giản bộ máy và giảm số lượng cán bộ, công chức cấp xã là cần thiết Những cán bộ chuyên trách không tái cử hoặc không được bầu vào chức danh mới sẽ được cho nghỉ, có thể lựa chọn đóng bảo hiểm tự nguyện hoặc nhận trợ cấp một lần để giảm chi ngân sách Vai trò lãnh đạo và trách nhiệm của cấp trên, đặc biệt là cấp huyện, cần được đề cao trong việc hướng dẫn, kiểm tra và hỗ trợ Cấp ủy cấp huyện cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và giám sát công tác cán bộ, kịp thời phát hiện và điều chỉnh những hạn chế, thiếu sót nhằm đảm bảo đội ngũ cán bộ cấp xã phát triển đúng định hướng của Đảng.
Hai là, tăng cường công tác xây dựng hệ thống chính trị trong sạch vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
Để nâng cao hiệu quả thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, cần tăng cường công tác đào tạo và tập huấn nhằm nâng cao năng lực, nghiệp vụ cho công chức phụ trách theo dõi chương trình này.
Phát động phong trào thi đua “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” nhằm khuyến khích sự tham gia của cộng đồng Đồng thời, cần kịp thời biểu dương và khen thưởng các tập thể, cá nhân tiêu biểu trong phong trào này để tạo động lực thúc đẩy sự phát triển bền vững của nông thôn.
Sau 10 năm thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020, Thái Bình đã đạt được nhiều kết quả tích cực và từ đó rút ra một số bài học kinhnghiệm.
Các huyện ủy, thành ủy đã thành lập và kiện toàn Ban Chỉ đạo xây dựng nông thôn mới, ban hành văn bản chỉ đạo, hướng dẫn các xã triển khai công tác tuyên truyền, quy hoạch và huy động nguồn lực của nhân dân Quá trình thực hiện được kiểm tra, đánh giá thường xuyên, kịp thời chấn chỉnh thiếu sót và đề nghị tỉnh điều chỉnh cơ chế hỗ trợ đầu tư Đảng bộ các xã đã ra nghị quyết thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2011-2015, hướng đến năm 2020, với 100% xã thành lập Ban chỉ đạo và phân công cán bộ phụ trách.
Hưởng ứng phong trào “Cả nước chung sức xây dựng nông thôn mới” do Thủ tướng Chính phủ phát động, Ủy ban nhân dân tỉnh đã triển khai quyết định và kế hoạch thực hiện, tập trung vào việc khơi dậy tinh thần thi đua yêu nước và huy động nguồn lực từ các thành phần kinh tế Các cơ quan truyền thông và địa phương đã chủ động tuyên truyền, tổ chức hội nghị và các hoạt động văn hóa liên quan đến nông nghiệp, nông thôn Nhiều sáng kiến được thực hiện, như xây dựng mô hình tự quản về vệ sinh môi trường và áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong sản xuất nông nghiệp Nhìn chung, nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân đã có chuyển biến tích cực về tầm quan trọng của Nghị quyết 02-NQ/TU, tạo sự thống nhất trong Đảng và đồng thuận trong nhân dân về việc thực hiện chương trình xây dựng nông thôn mới.
Những kết quả đạt được:
Dưới sự lãnh đạo quyết liệt của Tỉnh ủy, HĐND và UBND tỉnh, cùng với sự tham gia của toàn hệ thống chính trị và sự ủng hộ của nhân dân, chương trình xây dựng nông thôn mới tại Thái Bình trong 10 năm qua đã đạt nhiều thành tựu nổi bật Hiện tại, 100% xã trong tỉnh đã đạt chuẩn nông thôn mới, 7/7 huyện được công nhận huyện nông thôn mới, và thành phố đã đủ điều kiện để xét công nhận hoàn thành xây dựng nông thôn mới Thái Bình đang nỗ lực hoàn thiện các tiêu chí để được công nhận tỉnh hoàn thành nhiệm vụ xây dựng nông thôn mới vào tháng 3/2020.
Sản xuất nông nghiệp tại tỉnh Thái Bình đã phát triển mạnh mẽ với 234 cánh đồng hàng hóa tập trung trên diện tích 6.804 ha Nhiều giống cây trồng mới với năng suất cao được đưa vào sản xuất, cùng với việc đẩy mạnh cơ giới hóa và ứng dụng công nghệ tiên tiến Lĩnh vực chăn nuôi cũng có sự phát triển với các trang trại quy mô lớn, công nghệ cao Ngành nuôi trồng thủy sản chú trọng vào các đối tượng chủ lực như ngao, cá vược, tôm sú và đang triển khai nuôi tôm công nghệ cao 100% hợp tác xã nông nghiệp đã chuyển đổi theo Luật Hợp tác xã năm 2012, nâng cao chất lượng dịch vụ và tạo liên kết với doanh nghiệp để tiêu thụ sản phẩm Nghề và làng nghề được duy trì và phát triển bền vững, góp phần nâng cao thu nhập và bảo vệ môi trường Thương mại, dịch vụ phát triển đáp ứng nhu cầu sản xuất và tiêu dùng, trong khi chính sách giảm nghèo đã giúp giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 8,12% năm 2011 xuống còn 2,9% năm 2015.
Cơ sở vật chất trường lớp được đầu tư chuẩn hoá, giữ vững kết quả phổ cập tiểu học đúng độ tuổi và phổ cập trung học cơ sở, hoàn thành phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ 5 tuổi Đào tạo nghề cho lao động nông thôn được chú trọng, với hơn 30.000 người được tuyển sinh hàng năm, trong đó khoảng 6.000 lao động nông thôn được hỗ trợ học nghề, tạo việc làm mới cho khoảng 33.000 người Tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng qua các năm, với 75% học sinh, sinh viên có việc làm sau tốt nghiệp, góp phần nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo chung của tỉnh lên 64% vào năm 2018, trong đó qua đào tạo nghề đạt 50% Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế cao, với việc triển khai khám, chữa bệnh bảo hiểm y tế tại trạm y tế xã Chương trình nước sạch nông thôn đã hoàn thành, đảm bảo 100% người dân được sử dụng nước sạch.
Các thiết chế văn hóa cơ sở được đầu tư mạnh mẽ nhằm bảo tồn bản sắc văn hóa truyền thống Phong trào xây dựng các xã, thôn, làng và gia đình văn hóa, cùng với các hoạt động văn hóa, văn nghệ, thể dục thể thao quần chúng, đang phát triển sôi nổi và rộng khắp tại các địa phương.
Hạ tầng thông tin truyền thông tại tỉnh đã đáp ứng hiệu quả các hoạt động chỉ đạo, điều hành và cung cấp dịch vụ công trực tuyến cho người dân và doanh nghiệp, góp phần thúc đẩy triển khai chính quyền điện tử trong tỉnh.