Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.Các giải pháp phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
NHỮNG VẪN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ TÀITRỢ CHUỖI CUNG ỨNG CỦA NGÂN HÀNGTHƯƠNG MẠI
Chuỗi cung ứng và tài trợ chuỗicungứng
Theo Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), chuỗi cung ứng vật chất (Physical Supply Chain - PSC) là một hệ thống bao gồm các tổ chức, con người, hoạt động, thông tin và nguồn lực liên quan đến việc chuyển sản phẩm hoặc dịch vụ từ người bán sang người mua, cả trong nước và xuyên biên giới Các hoạt động trong chuỗi cung ứng vật chất biến đổi tài nguyên thiên nhiên, nguyên liệu thô thành bán thành phẩm và thành phẩm, từ đó giao đến tay khách hàng cuối cùng Đây là cơ sở phát sinh các yêu cầu tài chính và được hỗ trợ bởi các hoạt động trong chuỗi cung ứng tài chính.
Theo (Lee & Bilington, 2018), chuỗi cung ứng là hệ thống các công cụ để chuyểnhóanguyênliệuthôtừbánthànhphẩmtớithànhphẩm,chuyểntớingườitiêu dùng thông qua hệ thống phânphối.
Theo Ganeshan & Harrison (2005), chuỗi cung ứng là tiến trình từ nguyên liệu thô đến sản phẩm hoặc dịch vụ cuối cùng cho người tiêu dùng Nó bao gồm mạng lưới phân phối và các phương tiện thu mua nguyên vật liệu, cũng như quá trình biến đổi nguyên liệu thành sản phẩm và phân phối đến tay khách hàng Chuỗi cung ứng bao gồm tất cả các doanh nghiệp tham gia, trực tiếp hoặc gián tiếp, trong việc đáp ứng nhu cầu của khách hàng, không chỉ giới hạn ở nhà sản xuất và nhà cung cấp.
Hình 1.1 Ví dụ về chuỗi cung ứng và các chi phí liên quan
Nguồn: Phòng Thương mại Quốc tế (ICC), 2015
Chuỗi cung ứng thực tế không chỉ giới hạn ở nhà sản xuất và nhà cung cấp, mà còn mở rộng đến các bên liên quan quan trọng như công ty vận tải, kho bãi, nhà bán lẻ và khách hàng.
Chuỗi cung ứng bắt đầu từ các doanh nghiệp sản xuất thép, cung cấp nguyên liệu cho các nhà sản xuất linh kiện Những doanh nghiệp này chế biến vật liệu theo yêu cầu kỹ thuật từ các nhà sản xuất cuối cùng, nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng Các linh kiện và chi tiết trung gian như ống thép được sản xuất và lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh bởi các công ty xây dựng, sản xuất nội thất và đồ gia dụng Sau đó, sản phẩm được bán cho các nhà phân phối và nhà bán lẻ, giúp đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng cuối cùng Khách hàng lựa chọn sản phẩm dựa trên giá cả, chất lượng, tính sẵn sàng và độ tin cậy Trong trường hợp cần trả lại sản phẩm hoặc sửa chữa, một quy trình ngược cũng rất quan trọng và được bao gồm trong chuỗi cung ứng.
Sự phát triển của sản xuất và công nghệ thông tin đã làm cho dây chuyền cung ứng trở nên phức tạp hơn, với vai trò ngày càng quan trọng của công nghệ thông tin trong quản trị Tất cả sản phẩm đến tay người tiêu dùng đều thông qua chuỗi cung ứng, với sự đa dạng về quy mô và độ phức tạp Nguồn lợi nhuận duy nhất cho toàn chuỗi là từ khách hàng cuối cùng Khi các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng ra quyết định mà không xem xét đến các thành viên khác, điều này dẫn đến giá bán cao cho khách hàng và mức phục vụ thấp, làm giảm nhu cầu tiêu dùng.
Mỗi chuỗi cung ứng đều đối mặt với nhu cầu thị trường và thách thức kinh doanh riêng, tuy nhiên, mọi doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng cần đưa ra các quyết định riêng lẻ và chung trong những lĩnh vực quan trọng.
Sản xuất bắt đầu bằng việc xác định nhu cầu thị trường đối với loại sản phẩm nào và số lượng cần sản xuất cũng như thời gian thực hiện Quá trình này bao gồm lập kế hoạch sản xuất chính dựa trên công suất của nhà máy, phân bổ công việc hợp lý, quản lý chất lượng sản phẩm và bảo trì thiết bị hiệu quả.
Hàng tồn kho: Ở mỗi giai đoạn trong một chuỗi cung ứng cần dự trữ bao nhiêu nguyênliệu,bánthànhphẩmhaythànhphẩm?Mụcđíchtrướctiêncủahàngtồnkho làhoạtđộngnhưmộtbộphậngiảmsốcchotìnhtrạngbấtđịnhtrongchuỗicungứng Tuy nhiên, việc trữ hàng tồn rất tốnkém.
Vận chuyển hàng tồn kho giữa các vị trí trong chuỗi cung ứng có thể được thực hiện qua nhiều phương thức khác nhau Phân phối hàng hóa bằng đường hàng không và xe tải thường mang lại tốc độ nhanh chóng và độ tin cậy cao, nhưng chi phí thường khá cao Ngược lại, vận chuyển bằng đường biển và xe lửa tiết kiệm hơn về mặt chi phí, nhưng lại mất thời gian trung chuyển và không đảm bảo Do đó, để bù đắp cho sự không chắc chắn này, cần duy trì mức độ trữ hàng tồn kho cao hơn.
Thông tin chính xác và kịp thời là yếu tố quan trọng giúp cải thiện cam kết hợp tác và đưa ra quyết định đúng đắn Việc thu thập và chia sẻ dữ liệu hiệu quả cho phép doanh nghiệp xác định sản phẩm cần sản xuất, số lượng cần thiết, cũng như lựa chọn địa điểm lưu trữ và phương thức vận chuyển tối ưu.
1.1.1.2 Chuỗi cung ứng ngành Dệtmay
Hình 1 2 Chuỗi cung ứng Dệt may tại Việt Nam
Nguồn: hiệp hội bông sợi việt nam
Chuỗi cung ứng dệt may gồm 5 mắc xích chính:
Ngành sản xuất bông ở Việt Nam gặp nhiều khó khăn do thiếu nguyên liệu thô và điều kiện thổ nhưỡng không phù hợp Theo đại diện Tổng công ty Bông Việt Nam, diện tích đất trống để trồng bông rất khan hiếm, và việc canh tác đòi hỏi đầu tư lớn vào cải tạo đất, xây dựng hệ thống thủy lợi và trang bị máy móc Tuy nhiên, chi phí đầu tư cao sẽ dẫn đến giá thành bông Việt Nam không thể cạnh tranh với bông thế giới.
Sản xuất nguyên phụ liệu đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển của ngành may mặc, đồng thời là khâu sử dụng nhiều đất đai và vốn Giá trị của nguyên phụ liệu chiếm tỷ trọng lớn và quyết định chất lượng sản phẩm may mặc.
Nguyên phụ liệu trong ngành dệt may được chia thành hai phần chính: nguyên liệu chính và phụ liệu Nguyên liệu chính là các loại vải tạo nên sản phẩm may mặc Trong khi đó, phụ liệu là những vật liệu hỗ trợ, giúp liên kết nguyên liệu và tạo thẩm mỹ cho sản phẩm, bao gồm chỉ may và vật liệu dựng Vật liệu dựng bao gồm các thành phần như khóa kéo, cúc, và dây thun, góp phần tạo dáng cho sản phẩm may mặc.
Mạng lưới sản xuất trong ngành dệt may là mắt xích thâm dụng lao động nhất nhưng chỉ mang lại tỉ suất lợi nhuận thấp, khoảng 10-15% (Jocelyn Trần, 2011) Các nước mới gia nhập ngành thường chọn may làm bước đầu tiên do yêu cầu đầu tư công nghệ thấp và tính chất lao động dồi dào Những quốc gia này thường thực hiện gia công cho các nước đã tham gia trước đó, như Bangladesh, Pakistan và Việt Nam, nơi có nguồn lao động giá rẻ Các doanh nghiệp tham gia gia công sẽ có tỉ lệ giá trị thu về khác nhau tùy thuộc vào phương thức xuất khẩu như CMT, FOB hay ODM.
Mạng lưới xuất khẩu trong ngành dệt may bao gồm các công ty may mặc có thương hiệu, văn phòng mua hàng và các công ty thương mại quốc tế Một đặc điểm nổi bật là sự xuất hiện của các nhà buôn với nhãn hiệu nổi tiếng nhưng không tham gia sản xuất, được gọi là "nhà sản xuất không có nhà máy", như Mast Industries, Nike và Reebok Những công ty này đóng vai trò trung gian, kết nối chuỗi cung ứng giữa các nhà máy may mặc và các nhà bán lẻ toàn cầu Trong chuỗi dệt may toàn cầu, các nhà buôn và nhà cung cấp giữ vai trò then chốt, nắm giữ phần lớn giá trị dù không sở hữu nhà máy nào Hiện nay, các nhà buôn và người mua từ Hồng Kông, Đài Loan và Hàn Quốc đang chiếm ưu thế trong mạng lưới này.
“ba ông lớn” trong chuỗi cung ứng hàng dệt may thế giới.
Mạng lưới tiếp thị bao gồm marketing và phân phối sản phẩm, đóng vai trò quan trọng trong ngành dệt may Các nhà bán lẻ nổi tiếng toàn cầu chiếm lĩnh khâu này và thu lợi nhuận khổng lồ hàng năm Tại châu Âu, nhà phân phối thường là nhà thiết kế, hiểu rõ nhu cầu và điều kiện thị hiếu của khách hàng Chuyên gia ngành dệt may ước tính rằng 70% lợi nhuận từ sản phẩm may mặc thuộc về các nhà phân phối này, tạo ra suất sinh lợi cao nhất trong chuỗi giá trị Các công ty lớn tạo ra rào cản gia nhập ngành, khiến cho các quốc gia mới khó khăn trong việc tham gia Mặc dù không trực tiếp sản xuất, nhưng họ đóng vai trò quan trọng trong việc định hướng và tác động đến chuỗi dệt may toàn cầu, cung cấp xu hướng thời trang cho các nhà thiết kế và quản lý hệ thống bán hàng, kênh phân phối.
Các phương thức tài trợ chuỗi cung ứng của Ngân hàngthươngmại
Tài trợ chuỗi cung ứng là sự kết hợp của nhiều phương thức tài trợ thương mại quốc tế mà ngân hàng thương mại có thể áp dụng Mỗi khâu trong chuỗi cung ứng đều có thể sử dụng đa dạng các hình thức tài trợ, hoặc chỉ áp dụng một nghiệp vụ cụ thể nếu phù hợp với nhu cầu.
1.2.1 Tàitrợ cho các khoản phảithu
Tài trợ cho các khoản phải thu là một phương pháp hiệu quả, cho phép người bán hàng hóa và dịch vụ nhận được tài chính bằng cách bán toàn bộ hoặc một phần các khoản phải thu cho nhà cung cấp tài chính Qua việc chuyển giao quyền sở hữu, nhà cung cấp sẽ trở thành chủ sở hữu các khoản phải thu, giúp người bán nhận được thanh toán trước Số tiền này có thể bao gồm lãi suất hoặc khoản khấu trừ dựa trên chất lượng của các khoản phải thu, cùng với phí tài chính được thỏa thuận giữa hai bên.
Việc mua các khoản phải thu có thể được thực hiện qua bốn phương pháp đặc biệt, mỗi phương pháp đều có những biến thể riêng Tất cả bốn phương pháp này đều chia sẻ những đặc điểm chung do nguồn gốc phát triển từ thị trường dịch vụ tài chính Để áp dụng hiệu quả, cần xác định các yếu tố quan trọng trong từng phương pháp.
- Khoản phải thu tồn tại, tức là nó có thể được xác định và xác thực rõràng
- Có thể chuyển nhượng Khoản phảithu
1.2.1.1 Chiết khấu các khoản phảithu
Chiết khấu Khoản phải thu là hình thức linh hoạt cho phép người bán hàng hóa và dịch vụ bán các khoản phải thu riêng lẻ hoặc tổng hợp cho nhà cung cấp tài chính với giá chiết khấu.
Các khoản phải thu được chiết khấu bao gồm từ khoản phải thu đến phần lớn các khoản phải thu trong sổ cái bán hàng của người bán Số tiền tài trợ cho người bán dựa trên số tiền chưa thanh toán giá trị của các hóa đơn liên quan đến người mua Các khoản chiết khấu khoản phải thu thường được các nhà cung cấp tài chính cung cấp cho các khách hàng doanh nghiệp lớn đang bán cho nhiều người mua Nhà cung cấp tài chính thường giới hạn việc cung cấp này cho những khách hàng có khoản phải thu đáp ứng một số tiêu chí nhất định, chẳng hạn như xếp hạng tín dụng tối thiểu, và sẽ cung cấp các tính năng tiêu biểu khác nhau.
Nguồn tài chính có thể được cung cấp cho người bán theo hình thức "không truy đòi", tuy nhiên, trong một số trường hợp, việc truy đòi hoặc truy đòi có giới hạn vẫn có thể xảy ra.
Giao dịch tài trợ có thể được tiết lộ hoặc không được tiết lộ cho người mua (tức là bímật)
Nhà cung cấp tài chính có thể chiết khấu trước 100% khoản phải thu hoặc áp dụngtỷlệkýquỹbảođảmhoặctỷlệứngtrướcđểtínhchocáckhoảnphaloãngtiềm ẩn
Nhà cung cấp tài chính có thể tính phí chiết khấu trước khi thanh toán khoản chiếtkhấusốtiềnhoặccònnợtrongkhoảngthờigianvàcácđiềukhoảnđãthỏathuận trước với ngườibán
Chiết khấu các khoản phải thu có thể được cung cấp một lần, theo mùa hoặc liêntục.
Khi giao dịch được công khai cho người mua, họ có thể cần xác nhận việc bán các khoản phải thu Hình thức xác nhận này sẽ phụ thuộc vào quy định địa phương, quy mô hoặc cấu trúc của giao dịch, cũng như sở thích thương mại của người mua và nhà cung cấp tài chính.
Nhà cung cấp tài chính có khả năng tự chịu rủi ro hoặc lựa chọn bảo hiểm, hay chia sẻ rủi ro tín dụng với bên thứ ba, như bảo hiểm tín dụng thương mại hoặc sự tham gia rủi ro từ các tổ chức tài chính khác Điều này giúp họ hạn chế rủi ro cá nhân một cách hiệu quả.
-Rủi ro và giảm thiểu rủi ro
Trong trường hợp người mua gặp khó khăn tài chính hoặc không thể thanh toán, người bán có thể giảm thiểu rủi ro bằng cách nhận khoản thanh toán trước với mức chiết khấu cụ thể.
Rủi ro quốc gia và chính trị có thể được giảm thiểu thông qua việc thẩm định kỹ lưỡng và sử dụng bảo hiểm rủi ro chính trị Đặc biệt, các khoản phải thu từ chính phủ hoặc các cơ quan chính phủ thường xuyên đối mặt với rủi ro chủ quyền, vì vậy việc áp dụng các biện pháp bảo vệ này là rất quan trọng.
+ Rủi ro phát sinh từ việc chuyển quyền truy đòi cho người bán trong trường hợpkhôngtruyđòihoặchạnchếcácgiaodịchtruyđòi,đượcgiảmnhẹbởikhảnăng thanh toán của ngườimua
Giảm nhẹ các khoản pha loãng từ các khoản phải thu, như giấy báo có và bù trừ so với hóa đơn đến hạn thanh toán, theo tỷ lệ bảo mật và tỷ lệ tạm ứng.
+Cácthỏathuậnanninhđãcótừtrướchoặccáclệnhcấmđốivớicácgiaodịch, được giảm nhẹ bởi các miễn trừ do các bên được bảo đảm khác hoặc việc loại bỏnó
Để giảm thiểu rủi ro từ giao dịch ngược chiều, việc xác minh thường xuyên là rất quan trọng Điều này giúp phát hiện các giao dịch có số dư chưa thanh toán, đảm bảo rằng thông tin giữa nhà cung cấp tài chính và hồ sơ của người mua được khớp nhau.
Để giảm thiểu gian lận của người bán, chẳng hạn như việc thổi phồng giá trị hóa đơn hoặc cung cấp hóa đơn không kèm theo giao dịch thương mại thực tế, cần thực hiện việc xác minh giao dịch và áp dụng các biện pháp kiểm soát tín dụng toàn diện.
Hình 1.3 Chiết khấu các khoản phải thu
Nhà cung cấp tài chính sẽ đồng ý cung cấp tài chính cho người bán sau khi đánh giá tất cả các khía cạnh của giao dịch cơ bản Một khoản tín dụng sẽ được thiết lập cho người bán, có thể phân bổ cho các thành phần phụ theo vị trí địa lý và các thông số đã thỏa thuận trong Thỏa thuận mua khoản phải thu (RPA) Nếu giao dịch không có truy đòi, các giới hạn tín dụng sẽ được đánh giá dựa trên người mua Người bán giữ quyền kiểm soát việc quản lý sổ cái bán hàng và phải thiết lập quy trình kiểm soát tín dụng phù hợp với yêu cầu của nhà cung cấp tài chính Đối với các giao dịch riêng lẻ, người bán sẽ lập hóa đơn khi giao hàng hóa hoặc dịch vụ và gửi bản sao hóa đơn cho nhà cung cấp tài chính Sau khi xác minh, nhà cung cấp tài chính sẽ thanh toán cho khoản chiết khấu giá trị khoản phải thu cho người bán, với số tiền thanh toán có thể giảm theo các chi tiết hợp đồng của RPA.
Khi đáo hạn, người mua thanh toán số tiền từ hóa đơn vào tài khoản ngân hàng của người bán, nhưng chỉ nhà cung cấp tài chính mới có quyền rút tiền để đáp ứng nghĩa vụ đáo hạn, do khách hàng có quyền truy cập hạn chế Tài khoản chuyên thu cũng có thể được cầm cố để giảm thiểu rủi ro chuyển khoản cho ngân hàng Thông thường, các khoản thanh toán của người mua được thực hiện trực tiếp vào tài khoản ngân hàng của nhà cung cấp tài chính, theo thỏa thuận mà nhà cung cấp tài chính đóng vai trò là đại lý thu tiền cho người bán.
1.2.1.2 Bao thanh toán và các biến thể củanó
Lợi ích của tài trợ chuỗi cung ứng cho các bênthamgia
- SCF cho phép người mua sử dụng xếp hạng tín dụng thường cao hơn của họ để có được các điều khoản thanh toán tốt hơn
SCF giúp nhà nhập khẩu đảm bảo tài chính cho các nhà cung cấp và dịch vụ của họ, duy trì chuỗi cung ứng ổn định, từ đó đảm bảo hoạt động liên tục, sản xuất kịp thời và hoạt động bán hàng không gián đoạn.
- SCF cho phép các nhà nhập khẩu yêu cầu các ngân hàng và nhà cung cấp tài chính chịu rủi ro thay chohọ
Các nhà cung cấp có thể cải thiện vốn lưu động của họ một cách hiệu quả bằng cách giảm số ngày bán hàng chưa thanh toán (DSO) và cải thiện chu kỳ chuyển đổi tiền mặt Điều này có thể đạt được thông qua việc nhận thanh toán sớm hơn từ người mua, thường thông qua các tổ chức tài chính.
Một số sản phẩm SCF có thể cung cấp nguồn tài chính với chi phí thấp hơn cho các nhà cung cấp, nhờ vào sức mạnh tài chính và thương mại của các doanh nghiệp lớn.
- SCF cải thiện mối quan hệ của nhà cung cấp với người mua thông qua cộng tác gia tăng do tích hợp cao hơn trong chuỗi cungứng.
Cung cấp lợi ích cho các bên liên quan trong bộ phận ngân quỹ và bán hàng, giúp cải thiện tính thanh khoản tổng thể của công ty thông qua việc tối ưu hóa chu kỳ tiền mặt Điều này không chỉ hỗ trợ ngân khố mà còn cho phép nhóm bán hàng mở rộng doanh số bằng cách tăng cường số lượng khách hàng, giúp công ty dễ dàng nhận được tài chính từ các doanh số tín dụng.
Sản phẩm tài chính phải trả, trái ngược với bao thanh toán, mang lại cho người bán một khoản khấu trừ trên bảng cân đối tài chính Điều này xác nhận tổ chức tài chính có quyền sở hữu đối với khoản phải thu cơ bản, do đó khoản này không xuất hiện trong bảng cân đối.
Nhà phân phối có thể giảm rủi ro tài chính trong bảng cân đối kế toán bằng cách duy trì doanh số bán hàng ổn định và quản lý lượng hàng tồn kho hợp lý.
SCF mang đến cho các nhà cung cấp nhỏ nhiều lựa chọn tài chính hợp lý, giúp rút ngắn thời gian thu hồi thanh toán và cải thiện đáng kể dòng tiền của doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện cho việc sử dụng nguồn lực vào các hoạt động khác.
- Loại bỏ các khoản nợ tồn đọng (Các khoản phải thu) mà một công ty đang nợ khỏi bảng cân đối kế toán củahọ
- Cho phép một bên khác thay mặt họ chịu rủi ro thanhtoán.
Người mua có thể tối ưu hóa hiệu quả sử dụng vốn lưu động bằng cách kéo dài Số ngày phải trả (DPO), nhờ vào việc được gia hạn thanh toán từ các tổ chức tài chính.
-SCFthúcđẩycácmốiquanhệlâudàivớicácngườimuathôngquatươngtác nhiều với khóa các bên liên quan, bao gồm CFO, thủ quỹ và người đứng đầu mua sắm trong các tổ chức của ngườimua.
SCF mở rộng cơ sở khách hàng của tổ chức tài chính bằng cách cung cấp quyền tiếp cận cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ Điều này được thực hiện thông qua các chương trình như bao thanh toán ngược và tài chính của nhà phân phối, giúp tăng cường mối quan hệ với khách hàng mới.
SCF thể hiện sự ổn định và rủi ro thấp hơn so với các sản phẩm cho vay thông thường Tài trợ cho các sản phẩm SCF được cấu trúc xung quanh một lượng lớn neo, cho phép tự thanh lý hoặc giao dịch linh hoạt Hơn nữa, các chương trình SCF có thu nhập dựa trên phí cộng với tiền lãi, và thường có thời hạn ngắn hạn, phù hợp với dòng vốn lưu động vĩnh viễn.
SCF thường có chi phí mua lại thấp và quản lý rủi ro hiệu quả nhờ vào việc tăng cường truy cập dữ liệu và thông tin Điều này giúp tạo ra giá trị bổ sung cho các giao dịch kinh doanh, nâng cao khả năng chia sẻ ví và tăng lợi nhuận cho khách hàng trong các mối quan hệ.
Cácnhântốảnhhưởngđếnhoạtđộngtàitrợchuỗicungứngngànhdệtmaycủa Ngân hàngthươngmại
1.4.1.1 Môi trường kinhtế ĐểNgânhàngcóthểthamgiavàpháttriểndịchvụtàitrợchuỗicungứng,phục vụ cho việc phát triển kinh tế thì phải có một nền kinh tế phát triển ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động tín dụng của Ngân hàng Một nền kinh tế có mức tăng trưởngổnđịnhsẽlàmgiácảluôngiữởmứcổnđịnh,tìnhtrạnglạm phátởmứcthấp tạo điều kiện cho Ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động của mình và tránh được những thiệt hại cho Ngân hàng do sự mất giá của đồng tiền, từ đó mà chất lượng các khoản đầu tư cho chuỗi cung ứng được nânglên.
Việc mở rộng và nâng cao chất lượng tài trợ chuỗi cung ứng chịu ảnh hưởng lớn từ chu kỳ phát triển kinh tế Trong giai đoạn kinh tế phát triển mạnh mẽ, doanh nghiệp dễ dàng tìm kiếm đơn hàng lớn, từ đó mở rộng sản xuất và tăng lợi nhuận, tạo điều kiện cho ngân hàng nâng cao chất lượng tín dụng Ngược lại, trong thời kỳ suy thoái, sản xuất trong chuỗi cung ứng bị đình trệ, các nhà cung ứng không kịp cung cấp nguyên vật liệu, dẫn đến thua lỗ kéo dài, khiến doanh nghiệp khó khăn trong việc trả nợ, làm giảm chất lượng tài trợ chuỗi.
Quan hệ tín dụng dựa trên tín nhiệm đóng vai trò quan trọng trong quá trình tài trợ chuỗi cung ứng Uy tín của ngân hàng trên thị trường tiền tệ cao sẽ thu hút nhiều doanh nghiệp, trong khi doanh nghiệp có uy tín và minh bạch về tài chính sẽ được ngân hàng tín nhiệm, tạo điều kiện thuận lợi trong việc xin tài trợ, đặc biệt là cho vay hoặc ứng trước các khoản phải thu.
Việc duy trì mối quan hệ tốt giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng không chỉ quan trọng mà còn góp phần thúc đẩy hoạt động tài trợ tài chính cho chuỗi Điều này đặc biệt thể hiện qua dịch vụ bao thanh toán ngược, khi doanh nghiệp đề xuất ngân hàng cung cấp tài trợ cho các nhà cung cấp của mình.
Chuỗi cung ứng, đặc biệt trong ngành Dệt may, phụ thuộc nhiều vào tình hình xuất nhập khẩu Một quốc gia có sự ổn định chính trị và không có xung đột nội bộ sẽ tạo ra môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp sản xuất và tiêu thụ hàng hóa Ngược lại, bất kỳ biến động nào về chính trị đều có thể gây ra xáo trộn lớn cho toàn bộ nền kinh tế Đối với ngành Ngân hàng, điều này ảnh hưởng trực tiếp đến việc huy động vốn và cho vay, từ đó tác động đến chất lượng tín dụng trong quá trình tài trợ cho chuỗi cung ứng.
Pháp luật đóng vai trò quan trọng trong hoạt động ngân hàng và doanh nghiệp, là yếu tố thiết yếu của bất kỳ nền kinh tế nào Các chính sách luật không phù hợp và không đồng bộ có thể gây khó khăn cho nền kinh tế và doanh nghiệp Ngược lại, một hệ thống pháp luật đồng bộ tạo ra môi trường pháp lý lành mạnh và bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế, giúp sản xuất phát triển thuận lợi và đạt hiệu quả cao Hơn nữa, pháp luật còn là cơ sở để giải quyết các mối quan hệ giữa các chủ thể trong xã hội.
Việc mở rộng và nâng cao chất lượng các khoản tài trợ cho chuỗi cung ứng của Ngân hàng đang chịu ảnh hưởng từ nhiều nguyên nhân khách quan như thiên tai, hoả hoạn và dịch bệnh Chẳng hạn, đợt dịch Covid-19 vào năm 2020 và 2021 đã làm gián đoạn hoạt động sản xuất của nhiều doanh nghiệp dệt may do thiếu hụt nguyên phụ liệu và đơn hàng Hệ quả là nhu cầu tài trợ vốn giảm sút, nhiều khoản tài trợ từ Ngân hàng bị thu hồi chậm, gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng dịch vụ tài trợ cho chuỗi cung ứng của ngành dệt may.
1.4.2.1 Chính sách tài trợ của Ngânhàng
Hoạch định chính sách tài trợ phù hợp là yếu tố quan trọng để thu hút doanh nghiệp tham gia, đảm bảo khả năng sinh lợi từ hoạt động tài trợ và phân tán rủi ro Chính sách này cần tuân thủ nghiêm ngặt luật pháp và đường lối của Nhà nước, đồng thời đặt mục tiêu đảm bảo an toàn vốn lên hàng đầu Chất lượng tài trợ của ngân hàng vì thế phụ thuộc vào việc xây dựng một chính sách hợp lý và hiệu quả.
1.4.2.2 Công tác tổ chức của Ngânhàng Để tạo điều kiện cho việc quản lý có hiệu quả các khoản vốn dành cho hoạt động tài trợ, Ngân hàng cần có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các phòng ban, có sự đoàn kết thống nhất từ trên xuống dưới, từ ban lãnh đạo đến toàn bộ nhân viên.Điều đó có nghĩa công tác tổ chức Ngân hàng được thực hiện tốt chính là cơ sở để tiến hành các nghiệp vụ tín dụng lành mạnh Hơn nữa, thực hiện tốt công tác này Ngân hàngđãlàmchoguồngmáyhoạtđộngcủamìnhđượcuyểnchuyển,nhịpnhàng,linh hoạt Chính vì vậy, trong quá trình hoạt động Ngân hàng nên chú trọng mặt này để ngày càng hoàn thiện,phát triển và tạo điều kiện cho chất lượng các khoảng tài trợ được nânglên.
1.4.2.3 Cơ sở dữ liệu khách hàng và công nghệ thông tin hỗtrợ
Một trong những rủi ro mà ngân hàng phải đối mặt là doanh nghiệp có thể thực hiện hành vi gian lận như thổi phồng hóa đơn hoặc tạo ra giao dịch giả, gây tổn thất cho ngân hàng Để hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng đạt hiệu quả và tăng trưởng, ngân hàng cần đảm bảo an toàn vốn thông qua việc thiết lập hệ thống thông tin hiệu quả Việc nắm bắt kịp thời và chính xác các luồng thông tin về doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng là điều kiện cần thiết để phân tích và tìm ra cơ hội kinh doanh, đồng thời phòng ngừa các rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động của ngân hàng.
Tài trợ chuỗi cung ứng yêu cầu ngành ngân hàng trang bị công nghệ hiện đại để đáp ứng nhu cầu xã hội và hỗ trợ doanh nghiệp với chi phí hợp lý Các thiết bị này giúp nhà quản trị ngân hàng nắm bắt diễn biến thị trường, dự báo phát triển kinh tế và hoạt động tín dụng, từ đó đưa ra chiến lược phù hợp với thực tế Việc cải tiến công nghệ liên tục là yếu tố quan trọng trong việc nâng cao chất lượng tài trợ.
1.4.2.4 Chất lượng đội ngũ cán bộ ngânhàng
Chất lượng tín dụng là yếu tố quan trọng quyết định đến hiệu quả hoạt động của ngân hàng, và con người là nhân tố không thể thiếu trong quá trình này Việc hoạch định các chủ trương, chính sách, xét duyệt hồ sơ đặt hàng, thu hồi nợ từ người mua/người bán đều phụ thuộc vào yếu tố con người, do đó chất lượng của đội ngũ nhân sự đóng vai trò then chốt trong việc đảm bảo chất lượng tín dụng của ngân hàng.
Một ngân hàng có đội ngũ nhân viên được đào tạo chất lượng cao và có trình độ chuyên môn vững vàng sẽ quản lý và thực hiện các nghiệp vụ ngân hàng một cách hiệu quả Điều này không chỉ giúp nâng cao hệ thống quản lý mà còn đạt được kết quả cao trong các nghiệp vụ tài trợ chuỗi cung ứng Hơn nữa, việc này còn giúp ngân hàng giảm thiểu rủi ro có thể xảy ra từ quy trình độc lập của cán bộ, từ đó bảo đảm chất lượng tín dụng luôn được duy trì.
Tiêu chí đánh giá sự phát triển của hoạt động tài trợ chuỗicungứng
1.5.1 Dư nợ tài trợ chuỗi cungứng
Chỉ tiêu này phản ánh quy mô hoạt động tài trợ của Ngân hàng, với dư nợ dành cho hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng càng cao cho thấy sự phát triển mạnh mẽ về lượng Để đo lường và đánh giá dư nợ, có thể sử dụng tỷ lệ tăng trưởng dư nợ.
Tỷ lệ tăng trưởng dư nợ = (Dư nợ năm (t + 1) / Dư nợ năm t) * 100%.
1.5.2 Sự phát triển về thịphần
Thị phần là chỉ tiêu quan trọng đánh giá hiệu quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng Số lượng doanh nghiệp xin tài trợ từ ngân hàng càng nhiều, chứng tỏ ngân hàng hoạt động thành công và sản phẩm dịch vụ đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng Thị phần tín dụng cá nhân của ngân hàng được xác định dựa trên các yếu tố này.
Thị phần tài trợ chuỗi cung ứng = Dư nợ tài trợ chuỗi cung ứng của một ngân hàng/ Tổng dư nợ tín dụng của toàn hệ thống ngân hàng
Phát triển tài trợ chuỗi cung ứng cần gắn liền với việc nâng cao chất lượng các khoản tài trợ Tương tự như chất lượng tín dụng, chất lượng khoản tài trợ được phản ánh qua tỷ lệ nợ xấu, chỉ số đánh giá khả năng thu hồi nợ, đặc biệt trong các hình thức cho vay, tài trợ cho các khoản phải thu hoặc tài chính trước khi giao hàng.
Tỷ lệ nợ xấu = (Nợ xấu của tài trợ chuỗi cung ứng / Dư nợ tài trợ chuỗi cung ứng) * 100%.
1.5.4 Thunhập từ tài trợ chuỗi cungứng
Để phát triển hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng, Ngân hàng cần chú trọng đến hiệu quả tài trợ, được thể hiện qua thu nhập từ tài trợ và tỷ trọng thu lãi từ tài trợ so với tổng thu lãi tín dụng Thu nhập này được tính bằng chênh lệch giữa chi phí đầu vào và các chi phí khác liên quan đến hoạt động tài trợ với thu lãi đầu ra.
Thu nhập từ tài trợ chuỗi cung ứng = Thu từ tài trợ chuỗi cung ứng – Chi phí cho tài trợ chuỗi cung ứng
Chỉ tiêu này giúp ngân hàng đánh giá hiệu quả hoạt động từ tài trợ chuỗi cung ứng trong tổng quan hoạt động kinh doanh Qua đó, ngân hàng có thể xác định định hướng rõ ràng trong phát triển tài trợ chuỗi cung ứng, đặt ra các mục tiêu ngắn hạn và kế hoạch dài hạn để xây dựng một lộ trình phát triển bền vững trong tương lai.
1.5.5 Tínhđa dạng của việc sử dụng các phương thức tàitrợ
Mức độ đa dạng hóa sản phẩm tài trợ chuỗi cung ứng cần phù hợp với nhu cầu thị trường, thể hiện sự tập trung phát triển trong lĩnh vực này và phản ánh năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Tuy nhiên, sự đa dạng hóa sản phẩm phải được thực hiện dựa trên các nguồn lực hiện có của Ngân hàng, vì nếu không, việc triển khai quá nhiều sản phẩm có thể dẫn đến hiệu quả kinh doanh kém do dàn trải nguồn lực.
Cơ cấu sản phẩm tài trợ chuỗi cung ứng không đồng đều cho thấy ngân hàng tập trung vào phát triển các sản phẩm có dư nợ cao, trong khi cơ cấu sản phẩm đồng đều lại phản ánh sự đa dạng Tùy thuộc vào mục tiêu phát triển trong từng giai đoạn, ngân hàng cần điều chỉnh chiến lược sản phẩm cho phù hợp Sự đa dạng trong sản phẩm giúp ngân hàng khai thác tốt hơn nhu cầu tiềm năng của khách hàng, từ đó mở rộng thị phần hiệu quả hơn.
KinhnghiệmthếgiớitrongtàitrợchuỗicungứngđốivớingànhDệtmay38 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ CHUỖI CUNG ỨNG VÀ TÀI TRỢ CHUỖICUNGỨNGTẠICÁCNGÂNHÀNGTHƯƠNGMẠIĐỐIVỚINGÀNHDỆTMA YVIỆTNAM
Khốilượngthươngmạithếgiớiđãchứngkiếnsựgiatăngđángkinhngạctrong giao dịch tài khoản mở trong những năm gần đây Tính tới thời điểm hiện tại hơn 80%tổngkimngạchthươngmạithếgiới(xuấtkhẩu)đượcgiảiquyếtbằngthanhtoán tàitrợ.Tỷlệấntượngnàyđượckỳvọngsẽtangthậmchíxahơnnữatrongtươnglai.
Dođó,cácngânhàngbuộcphảicungcấpchokháchhàngdoanhnghiệpcácsảnphẩm hỗ trợ đầy đủ, xử lý tự động cũng như tiết kiệm chi phí kết hợp với các tùy chọn tài chính và đảm bảo thanhtoán.
Biểu đồ 1 1 Giao dịch quốc tế từ năm 1978 đến 2013
Source: Unicredit Group– 2015Hìnhtrênphảnánhsựtăngtrưởngtươngđốichậmcủatàitrợthươngmạitruyềnthốngsovớităngtrư ởngtheocấpsốnhântronghoạtđộngghisổ,đặcbiệtlàtrongthậpkỷqua.Sựthamgiacủacácn gânhàngvàoSCFvàcácluồnggiaodịchghisổđãtănglênnhưmộtphầntronggiaodịchcủa họ.Tácđộngtíchcựctiềmtàngcủa SCF đối với các nền kinh tế trên toàn cầu đang bắt đầu được đánh giá cao.
Trên thế giới, nhiều công ty đang áp dụng giải pháp tài trợ chuỗi cung ứng (SCF) để tận dụng xếp hạng tín dụng của người mua, từ đó mở rộng tài chính cho nhà cung cấp với lãi suất ưu đãi Mặc dù SCF mang lại nhiều lợi ích, nhưng mức độ áp dụng vẫn chưa đồng đều giữa các quốc gia và quy mô doanh nghiệp Trong khi SCF phát triển mạnh mẽ tại châu Âu và Hoa Kỳ, đặc biệt ở các công ty lớn, thì các doanh nghiệp nhỏ và vừa lại chưa thực sự tiếp cận được Theo báo cáo của Demica, tiềm năng chưa được khai thác của SCF trong thị trường doanh nghiệp tầm trung có thể đạt đến hơn 3 nghìn tỷ USD.
Sản xuất Xây dựng Khoáng sản
Tiêu thụ hàng hóa Vận chuyển Năng lượng
Bắc ÂuĐông Nam ÁNAm ÂuĐông Bắc ÁMỹ
Biểu đồ 1 2 Lĩnh vực sử dụng tài trợ chuỗi cung ứng 2018/2019
Ngành dệt may đóng góp đáng kể vào GDP toàn cầu, nhưng tỷ lệ tham gia và tài trợ cho chuỗi cung ứng chỉ ở mức 5%, thấp hơn nhiều so với các lĩnh vực như vận chuyển và công nghệ Dệt may có chuỗi cung ứng đa dạng với nhiều khâu và bên tham gia, cho thấy tiềm năng lớn để tạo ra nguồn lực và dòng tiền nếu các ngân hàng tích cực tài trợ cho chuỗi này.
Biểu đồ 1 3 Tài trợ chuỗi cung ứng ngành Dệt may theo vùng lãnh thổ
Quốc tế Địa Phương Vùng
Theo báo cáo của PwC về tài trợ chuỗi cung ứng toàn cầu năm 2018/2019, khu vực Bắc Âu nổi bật với số lượng công ty bán lẻ thời trang lớn nhất và sức tiêu thụ hàng hóa dệt may cao nhất thế giới Đông Nam Á cũng là một điểm đến quan trọng, nơi có nhiều nhà máy chuyên sản xuất và thiết kế hàng hóa, với nhu cầu tài chính lớn cho sản xuất và thời gian quay vòng vốn nhanh Do đó, tài trợ chuỗi cung ứng đang trở thành một giải pháp phát triển mạnh mẽ trong lĩnh vực này.
Biểu đồ 1 4 Số lượng ngân hàng sử dụng tài trợ chuỗi cung ứng tính riêng cho ngành Dệt may
Theo khảo sát toàn cầu về tài trợ thương mại năm 2020 của ICC, chỉ 65% ngân hàng đã phát triển nền tảng tài trợ chuỗi cung ứng độc quyền Hơn một phần ba số ngân hàng còn lại đang sử dụng nền tảng kết hợp từ các nhà cung cấp khác.
Theo báo cáo chiến lược từ các ngân hàng toàn cầu, trong 5 năm tới, các ngân hàng sẽ gia tăng sử dụng tài trợ chuỗi cung ứng Tuy nhiên, thực tế cho thấy phần lớn ngân hàng chỉ ghi nhận mức tăng trưởng từ 0-15% trong cùng khoảng thời gian này Điều này đặt ra thách thức mới cho các ngân hàng, đặc biệt là các ngân hàng nhỏ Nếu sự tăng trưởng không đến từ tài trợ chuỗi cung ứng và các giao dịch thương mại quốc tế, họ có thể rơi vào tình trạng khó khăn trong bối cảnh thị trường thương mại truyền thống đang có xu hướng suy giảm.
Dưới đây là những ví dụ về các ngân hàng và tổ chức tài chính đã thành công trong việc tham gia vào chuỗi cung ứng dệt may, đóng vai trò là nhà cung cấp vốn Những tổ chức này không chỉ cung cấp tài chính mà còn hỗ trợ các doanh nghiệp dệt may phát triển bền vững và nâng cao hiệu quả sản xuất.
Tài trợ chuỗi cung ứng ngành Dệt may của Tradewind
Tradewind cung cấp dịch vụ tài chính thương mại quốc tế cho thị trường vừa và nhỏ toàn cầu Thành lập vào năm 2000, với hơn 20 văn phòng trên khắp thế giới, chúng tôi hoạt động trên mọi châu lục Với kiến thức chuyên sâu về ngành Dệt may, Tradewind mang đến giải pháp tài chính phù hợp cho từng khách hàng dựa trên vị trí, sản phẩm và thời hạn thanh toán Chúng tôi đã tài trợ bán hàng cho nhiều thương hiệu nổi tiếng như Gap, Ralph Lauren và H&M.
Dockers, Target, Levi’s, Inditex, C&A, New
Khách hàng của Tradewind trong lĩnh vực dệt may chủ yếu là các thương hiệu nổi tiếng như Yorker, Pepe Jeans, Debenhams, Arcadia Group, Urban Outfitters và Express Họ chuyên xuất khẩu hàng may sẵn và hàng dệt từ các quốc gia như Ấn Độ, Bangladesh, Pakistan, Trung Quốc, Việt Nam và Thổ Nhĩ Kỳ Các sản phẩm thường được cung cấp cho các nhà bán lẻ và nhà bán buôn lớn tại thị trường Hoa Kỳ, Châu Âu và Trung Đông.
Tradewind cung cấp tài trợ trước khi xuất khẩu cho các giao dịch bánh hàng thông qua các hình thức như tài trợ đặt hàng, cho vay hàng tồn kho, thư tín dụng và bảo lãnh có cấu trúc Dịch vụ nổi bật nhất là bao thanh toán xuất khẩu, cho phép ứng trước lên đến 95% giá trị đơn hàng và cung cấp tài trợ trong vòng 24-48 giờ kể từ khi có yêu cầu cấp vốn, với mức tối đa lên đến 5.000.000 USD cho các nhà sản xuất và xuất khẩu hàng may sẵn sang Mỹ và Châu Âu, 3.500.000 USD cho các doanh nghiệp có trụ sở tại Ấn Độ, và 3.000.000 EUR cho các nhà sản xuất hàng may mặc xuất khẩu sang Tây Ban Nha và Hà Lan.
Tập đoàn tài chính Tradewind đã cung cấp cơ sở bảo thanh toán xuất khẩu trị giá 4 triệu đô la cho một công ty dệt may gia dụng và vải có trụ sở tại Pakistan Tradewind công bố cơ sở tài trợ này nhằm hỗ trợ một nhà sản xuất và xuất khẩu vải, hàng dệt gia dụng và hàng may mặc, chuyên cung cấp cho thị trường Mỹ và Châu Âu Công ty này đang sử dụng nguồn vốn từ Tradewind để đáp ứng nhu cầu doanh số ngày càng tăng trong bối cảnh mở rộng tài khoản.
Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC) đầu tư vào may mặc
IFC đã đầu tư 22 triệu USD vào Esquire Knit Composite Ltd để thành lập nhà máy sản xuất hàng may sẵn tại Bhaluka, Mymensingh Sự tài trợ này sẽ giúp Esquire mở rộng hoạt động cắt và may quần áo của mình Dự án bao gồm việc xây dựng một nhà máy mới với 102 dây chuyền may, công nghệ cắt và may tự động, nhằm sản xuất quần áo và nội y Nhà máy dự kiến sẽ tăng công suất lên 31,8 triệu chiếc mỗi năm, phục vụ cho các nhà bán lẻ lớn trên toàn cầu.
Chương trình tài chính chuỗi cung ứng của PUMA kết hợp với BNP Paribas vàIFC
PUMA, BNP Paribas và IFC đã ra mắt chương trình SCF vào năm 2016, cung cấp mức giá tài trợ ngắn hạn theo từng cấp dựa trên vị thế tín dụng của PUMA.
PUMA cung cấp chi phí tài chính thấp hơn cho các nhà cung cấp có điểm bền vững cao theo xếp hạng nội bộ Trong năm đầu tiên, công ty đã hỗ trợ hơn 100 triệu đô la Mỹ, trong đó bao gồm 15% cho các cơ sở nhà cung cấp của mình.
Ngân hàng tham gia cung cấp tài chính cho các nhóm đối tượng khác nhau Ngân hàng BNP Paribas hỗ trợ các nhà cung cấp tại các thị trường phát triển, chủ yếu ở Châu Âu, trong khi IFC cung cấp tài chính cho các đối tác kinh doanh của PUMA tại các quốc gia đang phát triển, bao gồm các trung tâm cung ứng hàng may mặc như Bangladesh, Việt Nam và Pakistan.
Chương trình SCF sử dụng nền tảng quản lý chuỗi cung ứng GT Nexus, giúp sắp xếp giao dịch và tạo điều kiện cho các nhà cung cấp tiếp cận tài chính dễ dàng từ BNP Paribas và IFC Việc cả hai ngân hàng sử dụng cùng một nền tảng giúp các nhà cung cấp dễ dàng nhận được tài chính chỉ với một cú nhấp chuột, bất kể ngân hàng nào họ nhận tiền từ Sự hợp tác ba bên giữa US Apparel, LS & Co và IFC là điểm nổi bật trong chương trình này.
Thực trạng về chuỗi cung ứng ngành Dệt may ởViệtNam
Ngành dệt may là lĩnh vực xuất khẩu lớn nhất tại Việt Nam, đứng thứ 5 thế giới về xuất khẩu hàng dệt may Ngành này có tiềm năng lớn trong quản lý chuỗi cung ứng, với tốc độ tăng trưởng nhanh và ổn định Mặc dù đóng góp lớn vào GDP của Việt Nam, ngành dệt may - da giày vẫn gặp phải nhiều lỗ hổng, đặc biệt là những thiếu sót trong quản lý chuỗi cung ứng và sự thiếu liên kết giữa các mắt xích trong ngành.
Ngành Dệt may Việt Nam đang đối mặt với thách thức lớn trong việc phát triển ngành công nghiệp phụ trợ, đặc biệt là trong việc cung cấp nguyên liệu như bông và thuốc nhuộm, mà chủ yếu vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu, dẫn đến giá trị gia tăng thấp Khác với Trung Quốc, Việt Nam chỉ mạnh ở khâu may thành phẩm, trong khi yếu ở khâu dệt và nhuộm hoàn tất Các doanh nghiệp Dệt may chưa xây dựng được quy trình cung ứng chuyên nghiệp, làm giảm khả năng tối đa hóa doanh thu và lợi nhuận Vấn đề lớn nhất trong chuỗi cung ứng của ngành Dệt may Việt Nam chính là khâu cung cấp nguyên, phụ liệu đầu vào.
Nguồn cung cấp bông, xơ và sợi
Ngành trồng bông và kéo sợi là khâu quan trọng trong chuỗi dệt may, đóng vai trò cung cấp nguyên liệu cho các giai đoạn dệt, nhuộm và may Tuy nhiên, sự phát triển của ngành này vẫn chưa đồng bộ Từ năm 2015 đến 2020, ngành dệt may Việt Nam đã trở thành ngành xuất khẩu lớn nhất cả nước, trong khi sản lượng bông năm 2010 chỉ đạt 12.000 tấn, đáp ứng khoảng 20% nhu cầu kéo sợi, và đến năm 2015, sản lượng này đã giảm đáng kể.
Sản lượng bông trong nước chỉ còn 3.500 tấn, tương đương 30% so với năm 2020, đáp ứng khoảng 1,3% nhu cầu bông cho ngành sợi (Hiệp Hội Bông Sợi Việt Nam, 2020) Sự giảm sút này đã tác động tiêu cực đến các khâu sau của chuỗi giá trị dệt may tại Việt Nam.
Giá bông thế giới đã tăng cao bất thường, với mức tăng 2,2 lần trong vòng 2 năm 2019-2020, đe dọa sự tăng trưởng ổn định của ngành sợi và toàn ngành dệt may Việt Nam Việt Nam đã phải nhập khẩu hầu hết các sản phẩm bông và xơ để đáp ứng nhu cầu nguyên liệu cho ngành sợi Từ năm 2015 đến nay, khối lượng và giá trị nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho ngành dệt may liên tục gia tăng ở tất cả các sản phẩm bông, xơ và sợi.
Bảng 2 1 Số liệu nhập khẩu bông xơ sợi của Việt Nam trong những năm qua
Nguồn: Hiệp hội bông sợi Việt Nam Hoạt động dệt, nhuộm và hoàn tất
Ngành dệt vải, in nhuộm và hoàn tất của Việt Nam vẫn chưa phát triển như mong đợi, mặc dù ngành may đã có những bước tiến Hiện tại, Việt Nam đang chậm hơn các nước trong khu vực khoảng 20%, đặc biệt là trong công đoạn nhuộm, với 30% máy móc thiết bị cần được khôi phục và hiện đại hóa do đã sử dụng trên 20 năm Những hạn chế này dẫn đến năng suất dệt vải của Việt Nam chỉ đạt khoảng 30% so với Trung Quốc.
Ngành dệt đóng vai trò quan trọng trong ngành may mặc, ảnh hưởng lớn đến chi phí và chất lượng sản phẩm Tuy nhiên, ngành dệt Việt Nam vẫn chưa thực hiện tốt vai trò cung cấp nguyên liệu cho ngành may Các doanh nghiệp xuất khẩu hàng may mặc Việt Nam không hài lòng với chất lượng vải nội địa vì không đáp ứng được yêu cầu sản xuất Ngoài ra, sản lượng ngành dệt cũng chưa đủ để đáp ứng nhu cầu của ngành may, với chỉ 1,1 tỷ m² sản phẩm dệt được sản xuất trong năm 2015.
Ngành dệt kim Việt Nam hiện chỉ đáp ứng khoảng 20-30% nhu cầu nội địa, với sản lượng 150-200.000 tấn sản phẩm dệt kim và 800 triệu m2 in nhuộm hoàn tất Năm 2015, Việt Nam nhập khẩu vải các loại trị giá 9,7 tỷ USD, tăng 26,86% so với năm 2014 Trong năm 2020, giá trị xuất khẩu vải chỉ chiếm gần 430 triệu USD, tương đương dưới 5% tổng giá trị xuất khẩu hàng dệt may Sự phát triển chậm của ngành dệt đã dẫn đến nghịch lý: 2/3 sản lượng sợi phải xuất khẩu, trong khi ngành may lại phải nhập khẩu 70-80% lượng vải mỗi năm.
Bảng 2 2 Nhập khẩu vải và nguyên phụ dệt may 2015-2020
Phụ liệu dệt may (tỷ USD)
Nguồn: Bộ Công Thương Hoạt động may
Số liệu kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may từ năm 2015 đến 2020 cho thấy ngành may mặc tại Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, với khoảng 4 tỷ sản phẩm được sản xuất trong năm 2015, trong đó 70% dành cho xuất khẩu Việt Nam đang dần trở thành nhà cung cấp hàng may mặc cạnh tranh trên thị trường toàn cầu Tuy nhiên, xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu tập trung vào những mặt hàng có giá trị thấp, như sản phẩm từ bông và sợi tổng hợp, chiếm hơn 60% giá trị xuất khẩu, bao gồm áo sơ mi, áo khoác, quần dài và quần thể thao Các sản phẩm từ dệt kim như quần lót và áo thun có giá trị xuất khẩu còn khiêm tốn, trong khi những mặt hàng cao cấp như váy và đồ vest lại có số lượng xuất khẩu rất hạn chế.
Ngoàira,cácdoanhnghiệpđanglàmtốtnhấtởkhâumaygiacôngdokhâunày khôngyêucầucaovềcôngnghệmàchỉcầntậndụngđượcnguồnnhânlựcgiárẻ.Tỷ suất sinh lời của khâu này cũng ở mức thấp, khoảng 4% (tỷ suất sinh lời năm 2019 củacácCTCPSX&TMmaySàiGònlà3,7%,ĐT&TMTNGlà3,9%,mayPhúThịnh
NhàBèlà5,5%).Ởkhâudệt,cácsảnphẩmchủyếuvẫnlàsợi,chăn,ga,gối,đệm,tỷ
Suất sinh lời của khâu sản xuất sợi cao hơn khâu may, với tỷ suất sinh lời năm 2019 của CTCP Sợi Thế Kỷ đạt 6,9% và Everpia Việt Nam đạt 13% Tại thị trường nội địa, các nhà sản xuất đã phát triển thương hiệu Made in Vietnam và chuỗi cửa hàng Vinatex Trong khi đó, hàng dệt may Việt Nam cũng ngày càng được biết đến trên thị trường xuất khẩu, khẳng định vị thế trong ngành dệt may toàn cầu.
Bảng 2 3 Kim ngạch xuất khẩu ngành Dệt may từ năm 2015 đến 2020 Đơn vị: TỷUSD
Nguồn: Bộ CôngThương Hoạt động marketing và phân phối
Hoạt động phân phối của doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay chưa phát triển, phụ thuộc vào các nhà buôn nước ngoài, bao gồm các doanh nghiệp bán lẻ, nhà sản xuất và nhà buôn Các doanh nghiệp bán lẻ chủ yếu thuộc thị trường EU, Nhật và Mỹ, sở hữu thương hiệu quốc tế và hệ thống phân phối lớn Nhà sản xuất nhập khẩu sản phẩm từ Việt Nam chủ yếu là các nhà may mặc quốc tế và khu vực, trong khi nhà buôn, đặc biệt từ Hồng Kông, đóng vai trò trung gian quan trọng trong chuỗi cung ứng dệt may toàn cầu Doanh nghiệp bán lẻ lớn thường tin cậy vào nhà buôn để tối ưu hóa mạng lưới cung ứng và giảm chi phí giao dịch Các doanh nghiệp may mặc nước ngoài hiếm khi liên hệ trực tiếp với khách hàng quốc tế tại Việt Nam, vì nhà cung cấp thường có văn phòng đại diện ở Hồng Kông, Đài Loan hoặc Hàn Quốc Do đó, doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ, phụ thuộc lớn vào các nhà buôn nhỏ trong khu vực Ngành dệt may Việt Nam đã kết nối vào chuỗi giá trị toàn cầu từ khi thu hút FDI, nhưng mối liên kết này vẫn còn lỏng lẻo, dễ bị tổn thương và hiệu quả thấp.
DệtmayViệtNamphụthuộchoàntoànvàobôngnhậpkhẩuvớiphươngthức mua bán thuần túy là thương mại, không gắn gì với chuỗi giátrị;
Trong ngành tồn tại 2 thành phần là FDI và doanh nghiệp thuần Việt Hiện FDI chiến trên 70% quy mô ngành, tỷ trọng xuấtkhẩu.
HầuhếtcôngtymẹcủacácFDIđềugắnchặtvớicácchuỗigiátrịtoàncầuvà đang hoạt động theo phương thức ODM (Original Design Manufacturing - sản xuất
“thiếtkế”gốc)hoặcOBM(OriginalEquipmentManufacturing-sảnxuấtthiếtbịgốc) nhưng nhà máy của họ tại Việt Nam thì chủ yếu hoạt động theo phương thức CMT (Cắt may truyềnthống)
Các doanh nghiệp thuần Việt hiện chỉ tham gia vào giao dịch thương mại với đối tác quốc tế thông qua việc mua bông và bán sợi trong lĩnh vực kéo sợi, hoặc thực hiện gia công (CMT) trong ngành may mặc.
Phân khúc sản xuất vải trong nước đang gặp khó khăn do sự thiếu hụt sự tham gia từ các nhà đầu tư nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp Việt Nam Nguyên nhân chính là thời cơ chưa thuận lợi cho FDI, trong khi các doanh nghiệp thuần Việt lại thiếu kiến thức và kinh nghiệm cần thiết để phát triển.
Với thị trường 94 triệu dân và mức tiêu thụ hàng may mặc đạt 5,5 tỷ USD vào năm 2018, doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa xây dựng được chuỗi giá trị bền vững trong ngành này.
Bảng 2 4 Các vấn đề của Dệt may Việt Nam và hệ quả
Các vấn đề Hệ quả
Nút thắtcổchait ạikhâuđoạn sản xuấtvải
Ngành kéo sợi đang đối mặt với nhiều thách thức khi phải tìm kiếm thị trường xuất khẩu cho 2/3 sản lượng trong bối cảnh thị trường toàn cầu thu hẹp, nhu cầu giảm liên tục và cạnh tranh ngày càng gay gắt.
Ngành Dệt may lệ thuộc nặng nề vào vải nhập khẩu, mất đi tính chủ động, dễ bị tổn thương;
Ngành may lệ thuộc nặng vào phương thức gia công (trên 70%), giá trị thấp, không bền vững.
Nguy cơ bỏ lỡ các cơ hội to lớn do CPTPP và các FTA mang lại.
Thiếuhọach định vùng miền chopháttriển
Sản xuất bị phân tán, thiếu liên kết theo chuỗi, gia tăng chi phí và thời gian làm giảm tính cạnh tranh của hàng hóa;
Thựctrạnghoạtđộngtàitrợchuỗicungứngcủacácngânhàngthươngmạiđối với ngành Dệt may ởViệtNam
2.2.1 Thị trường tài trợ chuỗi cung ứng ngành Dệt may ở ViệtNam
TiềmnăngcủathịtrườngtàitrợchuỗicungứngtạiViệtNamđượcướctínhđạt 33 tỷ USD vào năm 2018, tuy nhiên chỉ một phần rất nhỏ được ghi nhận thực tế.Giá trị tiềm năng của thị trường tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam được tính dựa trên việc ước tính giá trị của các tài sản có thể được áp dụng vào các sản phẩm tài trợ chuỗi cung ứng (bao thanh toán ngược và và các sản phẩm cho vay dựa trên khoản phải thu và hàng tồn kho khác) Trong năm 2018, khoảng 60% GDP được đóng góp bởicácdoanhnghiệplớn,trongkhiphầncònlạiđượcđónggópbởicácdoanhnghiệp vừa vànhỏ.Qua lựa chọn các ngành có lợi nhất cho tài trợ chuỗi cung ứng, ví dụ như Dệt may,Thực phẩm, Đồ uống và Thuốc lá, Tư liệu sản xuất, Năng lượng, v.v tổng giá vốn(chocảnhómdoanhnghiệpcôngvàtư)đượcướctínhđạt~260tỷUSD.Saukhi xem xét cơ cấu giá vốn bán hàng theo quy mô công ty (đối chiếu theo tỷ lệ đónggóp vàoGDP),chitiêukhôngthểchiếtkhấu,tiềmnăngtỷlệphầntrămCOGScóthể năm 2020 được tài trợ thông qua tài trợ chuỗi cung ứng, và DPO tối ưu, ước tính ~18 tỷ USD cóthểđượccungcấpchodoanhnghiệpthôngquachươngtrìnhbaothanhtoánngược, và ~15 tỷ USD có thể được cung cấp thông qua các sản phẩm SCFkhác.
Biểu đồ 2 1 Tiền năng thị trường tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam tính đến
Mặc dù Việt Nam có khung pháp lý chi tiết cho giao dịch bảo đảm, khả năng thâm nhập tài trợ chuỗi cung ứng vẫn còn hạn chế Thị trường này có tiềm năng phát triển và tăng trưởng quy mô SCF lên gấp 5-6 lần trong 5 năm tới Khung pháp lý giao dịch bảo đảm của Việt Nam cụ thể hơn so với một số quốc gia khác như Trung Quốc, Pháp, Đức, đặc biệt trong lĩnh vực sản phẩm SCF như bảo thanh toán Trong số 33 tỷ USD dự kiến có thể được tài trợ qua sản phẩm SCF vào năm 2018, khoảng 18 tỷ USD sẽ được tài trợ thông qua chương trình bảo thanh toán Nếu 50% số lượng đăng ký khoản phải thu và/hoặc hàng tồn kho liên quan đến sản phẩm SCF, quy mô thị trường SCF tại Việt Nam có thể đạt 5,7 tỷ USD vào năm 2020 và lên đến 35 tỷ USD vào năm 2024.
Tài trợ chuỗi cung ứng là giải pháp hiệu quả cho vấn đề thiếu hụt vốn tại Việt Nam, đặc biệt là trong ngành Dệt may, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu cải thiện tình hình vốn lưu động bằng cách chuyển đổi nhanh chóng các khoản phải thu và hàng tồn kho thành tiền mặt Mặc dù mô hình này có tiềm năng lớn, nhưng số lượng bên tham gia vẫn hạn chế, chủ yếu là các ngân hàng, với sự tham gia ít ỏi từ các tổ chức tín dụng và quỹ đầu tư lớn Các doanh nghiệp tham gia chủ yếu là các tập đoàn lớn, chưa hình thành được mạng lưới doanh nghiệp đa dạng Hơn nữa, nền tảng công nghệ trong lĩnh vực này vẫn chưa được các ngân hàng chú trọng phát triển, mặc dù có một số ngân hàng như HSBC và Vietinbank đã xây dựng nền tảng HSCF và Core banking.
Bảng 2 5 Thành viên tham gia Tài trợ chuỗi đối với thị trường Dệt may Việt Nam
Danh mục Thành viên Ví dụ ở Việt Nam
Cơ quan chính phủ Cơ quan lập pháp Quốc hội
Cơ quan hoạch định chính sách và ủng hộ
Bộ Tài Chính/ Bộ Công Thương
Cơ quan quản lý Ngân hàng nhà nước Nhà cung cấp tài chính Đơn vị cung cấp SCF Chỉ có ngân hàng
Nhà đầu tư Không có
Doanh nghiệp chủ đạo Tập Đoàn Dệt may, Tổng Công ty May Nhà Bè,
May Việt Tiền, Tập đoàn Hồ GƯơm Đơn vị cung cấp các dịch vụ hỗ trợ
Công ty quản lý tài sản đảm bảo SGS Việt Nam cung cấp dịch vụ quản lý tài sản chuyên nghiệp, kết hợp với nền tảng SCF điện tử của HSBC và City Bank để tối ưu hóa quy trình tài chính Bên cạnh đó, công ty còn hoạt động trong lĩnh vực quản lý chuỗi cung ứng và vận tải, đảm bảo hiệu quả và tính linh hoạt trong việc giao nhận hàng hóa.
Li&Fung, DHL supply chain
Các nhà cung cấp dịch vụ khác Các công công ty bảo hiểm Cộng đồng Mạng lưới doanh nghiệp Không có
Theo báo cáo của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) vào tháng 9 năm 2019, khoảng cách trong tài trợ thương mại toàn cầu đã lên đến 1.500 tỷ USD, với 45% hồ sơ vay vốn của các doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa bị từ chối Tình trạng này tạo ra thách thức toàn cầu, cản trở sự tăng trưởng kinh tế và ảnh hưởng trực tiếp đến nỗ lực giảm nghèo tại các quốc gia.
Tại Việt Nam, các doanh nghiệp cũng đang gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cậncácsảnphẩmtàitrợchuỗicungứng.Cácdoanhnghiệpmuốntiếpcậnvớinguồn
Giao hàng cho khách Nhật Bản Giao hàng cho khách hàng Mỹ
Giao hàng cho khách EU
Ngân hàng thường yêu cầu tài sản thế chấp, chủ yếu là bất động sản, để cấp vốn, trong khi hình thức vay tín chấp trong chuỗi cung ứng vẫn chưa phát triển Các doanh nghiệp nước ngoài được hưởng lãi suất vay rất thấp, cho phép họ có thể trả chậm trong khoảng thời gian 3 – 6 tháng Ngược lại, các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải chịu lãi suất vay lên tới 10% mỗi năm, điều này tạo ra áp lực tài chính lớn cho họ.
3 – 6 tháng sau khi bán hàng mới được thanh toán thì không thể cầm cự nổi, đặc biệt đối với chu kì sản xuất ngắn như ngành Dệt may.
Trong ngành sản xuất và xuất khẩu may mặc, thời gian sản xuất ngày càng trở nên quan trọng đối với quyết định của khách hàng quốc tế Nhu cầu thời trang ở các nước phát triển và đang phát triển thay đổi nhanh chóng theo mùa, vì vậy việc rút ngắn thời gian sản xuất không chỉ giúp giảm chi phí cho các doanh nghiệp may xuất khẩu Việt Nam mà còn đáp ứng kịp thời nhu cầu thị trường Theo VITAS, thời gian sản xuất của ngành may mặc Việt Nam hiện dài hơn so với Trung Quốc, Ấn Độ, nhưng ngắn hơn so với Bangladesh và Campuchia.
Biểu đồ 2 2 Thời gian điển hình của chuỗi giá trị xuất khẩu Dệt may Việt
Nguồn: Hiệp hội Dệt may Việt Nam, 2010 Lãi suất cao làm tăng chi phí và giá thành sản phẩm, khiến doanh nghiệp gặp khó khăn trong cạnh tranh Vấn đề tiếp cận nguồn tài chính trở thành bài toán khó cho các doanh nghiệp dệt may Việt Nam hiện nay Việc thiếu vốn lưu động và dịch vụ ngân hàng hỗ trợ giao dịch, như tài trợ chuỗi cung ứng, đã ảnh hưởng đến khả năng nhận đơn đặt hàng lớn và phát triển mối quan hệ mới trong chuỗi giá trị Khi không có giải pháp tài trợ chuỗi cung ứng, các nhà cung cấp và phân phối có thể tối ưu hóa quản lý vốn lưu động bằng cách chuyển đổi các khoản phải thu và hàng tồn kho thành tiền mặt, đồng thời tiếp cận tín dụng với chi phí thấp hơn Thống kê của Cục Đăng ký quốc gia giao dịch bảo đảm.
(BộTưpháp)chothấy,sốlượngcácđăngkýgiaodịchbảođảmbằngcáckhoảnphải thuvàhàngtồnkhotínhriêngchongànhDệtmaychỉchiếmkhoảng10%tổngsốcác đăngkýgiaodịchbảođảmtạiViệtNam,thấphơnđángkểsovớicácthịtrườngphát triểnhơn.
Ngành dệt may Việt Nam, mặc dù chịu ảnh hưởng của dịch COVID-19, vẫn ghi nhận sự tăng trưởng tích cực trong kim ngạch xuất khẩu Nhiều hiệp định thương mại tự do đang mở ra cơ hội mới cho doanh nghiệp trong nước, đồng thời tạo điều kiện cho các ngành sản xuất chuyển dịch sang Việt Nam Thị trường chuỗi cung ứng tại Việt Nam được đánh giá có động lực mạnh mẽ nhất trong khu vực Đông Nam Á, nhưng vẫn đối mặt với nhiều thách thức, bao gồm sự thiếu hụt người lãnh đạo trong lĩnh vực này Hoạt động bao thanh toán trong ngành dệt may vẫn còn hạn chế và thiếu định chế tài chính hỗ trợ Để thúc đẩy sự phát triển của thị trường tài trợ chuỗi cung ứng, cần đưa các dịch vụ tài trợ và bao thanh toán vào khung pháp lý hiện hành, nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ và vừa.
2.2.2 Thực trạng tài trợ chuỗi cung ứng tại một số ngân hàng Việt Nam đối vớingành Dệtmay
VietinBank đã ra mắt sản phẩm Bao thanh toán bên bán trong tài trợ chuỗi cung ứng trên hệ thống CoreBanking hiện đại, phù hợp cho các doanh nghiệp dệt may quy mô nhỏ Các doanh nghiệp tham gia hình thức này chủ yếu là những doanh nghiệp có vốn chủ sở hữu dưới 100 tỷ đồng, chiếm gần 50% tổng số doanh nghiệp trong ngành.
VietinBank vừa ra mắt sản phẩm mới, cung cấp giải pháp tài chính toàn diện với chi phí tài chính thấp, giúp doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn lưu động nhanh chóng và thiết lập nguồn cung ổn định Sản phẩm này đáp ứng nhu cầu mua hàng trả chậm, thường từ 30 đến 90 ngày trong ngành dệt may, đồng thời đảm bảo nhu cầu vốn lưu động cho người bán Bao thanh toán bên bán đã được triển khai rộng rãi trên toàn cầu, đặc biệt phát triển nhanh ở châu Âu, châu Á và châu Mỹ Sau hai năm triển khai, hệ thống Corebanking mới đã thúc đẩy doanh số thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại tăng 69,12% so với năm 2016 Việc tích hợp Bao thanh toán và Tài trợ chuỗi cung ứng vào Core SunShine cho thấy VietinBank luôn đi đầu trong việc cung cấp các sản phẩm tài trợ thương mại hiện đại cho khách hàng.
Biểu Đồ 2 3 Quy mô doanh nghiệp sử dụng tài trợ chuỗi cung ứng của
Các bên tham gia giao dịch ngày càng nhận thức rõ lợi ích của dịch vụ tài trợ, bao gồm cả thanh toán nội địa và quốc tế VietinBank đã được vinh danh là ngân hàng tài trợ tốt nhất Việt Nam trong ba năm liên tiếp (2017-2019) và cung cấp nhiều dịch vụ tài trợ cho doanh nghiệp xuất khẩu, nhập khẩu và thương mại nội địa Một số phương thức tài trợ nổi bật bao gồm bao thanh toán nội địa đơn phương, tài trợ chuỗi cung cấp và Tradecard Là thành viên chính thức của FCI từ năm 2012, VietinBank tham gia vào hiệp hội bao thanh toán quốc tế hàng đầu, thực hiện trên 80% giao dịch toàn cầu Ngân hàng cũng cung cấp dịch vụ bao thanh toán cho doanh nghiệp trong nước, bao gồm ứng trước, quản lý, thu hộ và bảo lãnh thanh toán cho các khoản phải thu dưới 180 ngày VietinBank thực hiện hai hình thức bao thanh toán, giúp bên mua dễ dàng hơn trong việc mua hàng theo phương thức trả chậm, trong khi bên bán được hưởng lợi từ việc nhận tiền ngay sau giao hàng, tăng khả năng cạnh tranh và giảm nguy cơ không thanh toán từ người mua.
VietinBank đã ghi nhận sự tăng trưởng 69,12% trong doanh số hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại năm 2018 so với năm 2016, nhờ vào việc triển khai hệ thống Core Banking mới trong hai năm Là ngân hàng thương mại đầu tiên tại Việt Nam, VietinBank đã cung cấp kênh tự phục vụ cho khách hàng tài trợ thương mại, cho phép gửi và nhận yêu cầu giao dịch qua Internet Hệ thống Bao thanh toán và Tài trợ chuỗi cung ứng tích hợp vào Core SunShine sắp tới cũng cho thấy VietinBank luôn tiên phong trong việc áp dụng các sản phẩm tài trợ thương mại hiện đại.
Tỷ lệ nợ xấu của ngành Dệt may Tỷ lệ nợ xấu khác
Biểu Đồ 2 4 Tỷ lệ nợ xấu theo ngành Dệt may tại Vietinbank
Tỷ lệ nợ xấu của ngành Dệt may tại Vietinbank rất thấp, chỉ chiếm 0.062% trong tổng nợ xấu của ngân hàng vào năm 2019 và giảm xuống 0.04% vào năm 2020 Hầu hết các giao dịch tài trợ chuỗi cung ứng của Vietinbank đều được xét duyệt kỹ lưỡng, giúp ngân hàng thu hồi vốn nhanh chóng nhờ quy mô tài trợ cho các món vay nhỏ.
Sacombank đã triển khai dịch vụ bảo lãnh thanh toán cho các nhà cung cấp nguyên phụ liệu và thành phẩm trong ngành Dệt may, hỗ trợ thẩm định uy tín bên mua và ứng trước đến 80% khoản phải thu mà không cần tài sản đảm bảo Dịch vụ này rất quan trọng cho doanh nghiệp Dệt may, vì tài sản cố định chủ yếu là máy móc giá trị thấp Ngoài việc đáp ứng nhu cầu bán hàng trả chậm, Sacombank còn hỗ trợ xuất khẩu hàng hóa theo hình thức trả chậm ra nước ngoài Ngân hàng cũng cung cấp giải pháp tài trợ chuỗi cung ứng từ nhà phân phối đến nhà cung cấp của các thương hiệu thời trang nổi tiếng, với ưu đãi về phí giao dịch, phí bảo lãnh và lãi suất cho vay Các nhà phân phối và đại lý có thể tiếp cận nguồn vốn vay nhanh chóng với lãi suất thấp hơn từ 1% - 2%/năm so với khách hàng thông thường, giúp họ chủ động trong kinh doanh, tiết kiệm chi phí và thời gian giao dịch, đồng thời tăng doanh số bán hàng và chia sẻ rủi ro thanh toán với ngân hàng.
Bảng 2 6 Tỷ trọng dư nợ theo ngành của ngân hàng Vietcombank năm 2020
Ngành Tỷ lệ dự nợ
Hoạt động hành chính và dịch vụ hỗ trợ 41.34
Nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản 10.99
Công nghiệp chế biến, chế tạo 4.99
Kinh doanh tài sản và dịch vụ tư vấn 4.53
Hoạt động tài chính, ngân hàng, bảo hiểm 1.29 Sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước nóng, hơi nước và điều hòa không khí 1.1
Y tế và hoạt động cứu trợ xã hội 0.89
Dịch vụ lưu trú và ăn uống 0.81
Hoạt động chuyên môn khoa học và công nghệ 0.08
Thông tin và truyền thông 0.05
Nghệ thuật vui chơi, giải trí 0.04
Hoạt động dịch vụ khác 4.69
Đánhgiávềhoạtđộngtàitrợchuỗicungứngcủacácngânhàngthươngmạiđối với ngành Dệt may tạiViệtNam
Các ngân hàng đang tích cực áp dụng công nghệ trong tài trợ chuỗi cung ứng, giúp tiết kiệm thời gian, tăng cường tính minh bạch và giảm lỗi thủ công Một ví dụ điển hình là HSBC đã triển khai chương trình tài trợ nhà cung cấp trên nền tảng điện tử HSCF tại Việt Nam, cho phép khách hàng tải lên các hóa đơn được phê duyệt Đây là chương trình đầu tiên của HSBC tại Việt Nam, sau những thành công ở các thị trường như Pháp, Canada và Úc Bên cạnh đó, VietinBank cũng đang thực hiện Dự án chiến lược Thay thế CoreBanking sau hai năm triển khai.
Core mới đã giúp doanh số hoạt động thanh toán quốc tế và tài trợ thương mại năm 2018 tăng 69,12% so năm 2016.
Dư nợ của tài trợ chuỗi cung ứng tại các ngân hàng hiện ở mức thấp, với tỷ lệ nợ xấu gần như không có, đặc biệt trong ngành Dệt may chỉ chiếm từ 0.04% đến 0.4% tổng dư nợ Điều này cho thấy các ngân hàng đã chú trọng vào khâu kiểm tra thông tin doanh nghiệp trước khi tài trợ Tuy nhiên, do ảnh hưởng của dịch Covid, nhiều doanh nghiệp, đặc biệt trong ngành Dệt may, đang gặp khó khăn và bị cắt giảm sản xuất do thiếu đơn hàng từ đối tác nước ngoài Vì vậy, các ngân hàng cần tăng cường kiểm soát dư nợ và xem xét kỹ lưỡng việc tài trợ cho doanh nghiệp.
Nhiều ngân hàng hiện nay đã triển khai các phương thức tài trợ đa dạng như L/C, chiết khấu và các hình thức khác Vietinbank đã đầu tư vào hệ thống Core banking mới, trong khi HSBC áp dụng nền tảng HSCF đã được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu HDbank cung cấp chương trình tài trợ trước/sau giao hàng, phát hành bảo lãnh và cho vay cầm cố hàng hóa Techcombank cũng đã hỗ trợ nhà phân phối của Masan và cam kết đồng hành cùng các doanh nghiệp con của Tập đoàn Dệt may.
Trong bối cảnh kinh tế hiện nay, việc số hoá các dịch vụ hỗ trợ và các nhà cung cấp tài chính tại Việt Nam vẫn còn hạn chế, không đáp ứng đủ nhu cầu của thị trường tài trợ chuỗi cung ứng Dưới đây là bảng thể hiện rõ vai trò của các thành viên tham gia vào thị trường Việt Nam hiện tại.
Danh mục Thành viên Tình hình thị trường Việt Nam hiện tại
Tình hình điển hình ở các thị trường phát triển hơn
Quy trình “Xác minh khách hàng” vẫn được tiến hành thủ công
Quá trình thực hiện “Xác minh khách hàng” bằng cách áp dụng công nghệ.
Thị trường SCF chưa được chú trọng Đặc biệt đối với ngành Dệt may
Thúc đẩy các chương trình SCF như một phần của các quyết định chính sách.
Một số định nghĩa về SCF không rõ ràng, khiến các thành viên nhầm lẫn.
Ngôn ngữ và nội dung các điều khoản quy định trongcáclĩnhvựckinhdoanhSCFđượcthểhiện rõ ràng
Nhà cung cấp tài chính Đơn vị cung cấpSCF
Ngân hàng là nhà cung cấp duy nhất ở thời hiện tại; 1 sốn g â n h à n g l ớ n n h ư VCB,Vietinbank,HSBC,Techcombank
Số công ty tài chính thương mại nhiều gấp 10 lần so với số ngân hàng.
Nhà đầu tư Số lượng ngân hàng và doanh nghiệp cốt lõi ít ỏi dẫn đến số lượng nhà đầu tư hạn chế.
Sự tham gia của các quỹ/nhà đầu tư tổ chức trong việc trở thành đối tác tài trợ của SCF.
Doanh nghiệp Đối với Dệt may chủ yếu là Tập đoàn Dệt may và các công ty con
73% tổ chức đang triển các chương trình SCF hoặc đang cân nhắc thực hiện
Công ty quản lý tài sản bảođảm
Hầu hết CMC ở Việt Nam chỉ thực hiện giám sát hàng hoá;
Chức năng quản lý tài sản bảo đảm là động sản thường được thuê ngoài cho bên thứ ba;
Có một số e-platform đang hoạt động tại Việt Nam, hầu hết được vận hành bởi ngân hàng Rất nhiều doanh nghiệp chưa biết đến nền tảng này
• Thúc đẩy số hoà để giảm thời gian và tăng độ chính xác của dữliệu
• Thúc đẩy sử dụng e-platform để trích lụcthông tin (bên mua, bên bán, hoặc thông tinSME).
Công ty Quản lý Chuỗi cung ứng (SCM)/Công ty vận tải
Thúcđẩy,thôngquahiệphộingành,việcsửdụng các doanh nghiệp SCM lớn, mang lại hiệu quả và khả năng hiển thị dữ liệu xuyên suốt chuỗi. Cung cấp dịch vụ
Thiếu các tổ chức chuyên nghiệp có kiến thức toàn diện tại Việt Nam. ố vấn, dịch vụ chuyên nghiệp, bảo hiểm, tăng cường tín dụng, v.v.
Thiếu sự hiện diện của hiệp hội/diễn đàn.
Thúc đẩy việc thành lập hiệp hội SCF sẽ tạo điều kiện cho việc tương tác thường xuyên giữa các thành viên trong hệ sinh thái, đồng thời củng cố nhu cầu và hỗ trợ từ các cơ quan quản lý.
Số lượng ngân hàng tham gia vào tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam còn hạn chế, chủ yếu tập trung vào các ngân hàng lớn có khách hàng là doanh nghiệp niêm yết hoặc có doanh thu cao Lý do chính là các doanh nghiệp này đã khẳng định được mức độ minh bạch tài chính và uy tín trong ngành, giúp ngân hàng đánh giá khả năng xin tài trợ một cách nhanh chóng Tuy nhiên, thị trường tài trợ chuỗi cung ứng tại Việt Nam vẫn còn thiếu sự hiện diện của các tổ chức chuyên nghiệp và hiệp hội, diễn đàn để kết nối các doanh nghiệp trong ngành.
Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng dệt may tại Việt Nam đang gặp nhiều thách thức, với chỉ 21% doanh nghiệp liên kết với chuỗi cung ứng nước ngoài, thấp hơn so với Thái Lan (30%) và Malaysia (46%) Số lượng công ty hỗ trợ có năng lực tham gia chuỗi cung ứng còn hạn chế, chủ yếu các doanh nghiệp chỉ thực hiện giao dịch mua bán hàng hóa hoặc phụ thuộc vào nhà cung cấp từ Trung Quốc Do thiếu vốn đầu tư, các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú trọng đổi mới công nghệ và xây dựng thương hiệu, dẫn đến việc vẫn chỉ là gia công Việt Nam đang đứng ở vị trí thấp trong chuỗi cung ứng toàn cầu suốt gần 25 năm, với rất ít doanh nghiệp dệt may có hợp đồng trực tiếp từ các nhà bán lẻ Hầu hết các doanh nghiệp này không biết điểm đến cuối cùng của sản phẩm, với hơn một nửa doanh nghiệp xuất khẩu không nắm rõ thị trường tiêu thụ Một số doanh nghiệp lớn tại TP.HCM cũng thừa nhận mối liên kết với nhà buôn ở Hàn Quốc và Đài Loan nhưng không biết các cửa hàng tiêu thụ sản phẩm của họ ở đâu trên thế giới.
T.Thoburn,2004).ChínhkhoảngcáchrấtxagiữacácnhàsảnxuấtViệtNamvớicác doanh nghiệp bán lẻ cuối cùng có thể tác động mạnh lên các nhà sản xuất ở địa phương,làmchúngtakhókhănhơntrongviệcnắmbắtyêucầucủathịtrườngđểđáp ứng một cách nhanh chóng sự thay đổi nhu cầu của người mua cũng như xu hướng thời trang mới trên thế giới.
Hiện nay, Việt Nam chưa có luật hoặc dự thảo nào quy định rõ ràng về tài trợ chuỗi cung ứng, điều này tạo ra nhiều khó khăn cho doanh nghiệp và ngân hàng trong việc đầu tư vào chuỗi cung ứng.
Nghiệp vụ của ngân hàng hiện chưa được chuẩn hóa theo các tiêu chuẩn quốc tế và vẫn phụ thuộc nhiều vào nhà nước Hoạt động tài trợ chuỗi cung ứng còn mới mẻ, tiềm ẩn nhiều rủi ro, trong khi các ngân hàng chưa có đủ kinh nghiệm để triển khai, đặc biệt là trong các yếu tố liên quan đến công nghệ.
Khả năng huy động vốn của ngân hàng phụ thuộc vào nguồn vốn tự có và nhu cầu vốn của doanh nghiệp Đối với ngành Dệt may, nếu doanh nghiệp tham gia vào chuỗi cung ứng cần vốn lớn nhưng ngân hàng có nguồn vốn hạn chế, sẽ không đáp ứng được yêu cầu Hơn nữa, việc tài trợ chuỗi cung ứng của ngân hàng thương mại thường liên quan đến nguồn vốn ngoại tệ, như USD, để mua nguyên phụ liệu từ Trung Quốc và thu USD từ các đối tác nước ngoài Do đó, việc huy động đủ ngoại tệ để đáp ứng nhu cầu vay của doanh nghiệp trong chuỗi cung ứng trở thành thách thức lớn cho nhiều ngân hàng thương mại.
Chi phí vận hành cao, chưa ứng dụng đượccôngnghệ cao để kết nối doanh nghiệpcungcấpnướcngoàivàdoanhnghiệpsảnxuấttrongnước.Cácngânhàngmới chỉứngdụngđượccáccôngnghệđơngiản,chỉphụcvụđượccácvấnđềbềmặt.Nhữngcôngnghệcaonhưblockch ain,phụcvụtrựctiếpvàoSCFthìchưađượctriểnkhai.
Mức độ rủi ro trong chuỗi cung ứng khác nhau tùy thuộc vào sự hiển thị giao dịch và kiểm soát dòng tiền, đặc biệt trong ngành Dệt may Ngân hàng phụ thuộc vào thông tin và khả năng hiển thị giữa các bên giao dịch để đảm bảo tài chính cho chu trình chuỗi cung ứng Bảo lãnh phát hành của SCF thường dựa trên chuỗi cung ứng tài chính và các dòng tiền ngược với bảo đảm các khoản thế chấp Do đó, việc hiểu biết quy trình và chu kỳ thời gian trong chuỗi cung ứng vật chất là rất quan trọng để thiết lập hồ sơ rủi ro liên quan đến SCF, với các đặc điểm rủi ro thường gặp.
Bảng 2 7 Rủi ro đối với ngân hàng khi tham gia vào chuỗi cung ứng Dệt may
Giai đoạn Đơn đặt hàng Hóa đơn không được phê duyệt Hóa đơn được phê duyệt
Rủi ro Hai loại rủi rochính:
- Rủi ro hiệu suất ro gian lận Truy đòi chỉ dành cho nhà cung cấp
Rủi ro thấp hơngiaođoạn đơn đặt hàng Truy đòi chỉdànhc h o n h à c u n g c ấ p
Rủirolàrấtthấpởgiaiđoạnnày vì người mua cóxếphạng tín dụng tốt vàtìnhtrạng tài chính vững mạnh Truy đòi có thể dànhcho nhà cung cấp và ngườimua
50-60% số tiền trên hóa đơn
100% số tiền trên hóa đơn
Đơn đặt hàng mang đến rủi ro cao nhất cho ngân hàng trong việc tài trợ, vì ngân hàng có quyền sử dụng nhà cung cấp trong khi hàng hóa vẫn chưa được giao Hai loại rủi ro chính mà ngân hàng phải đối mặt là rủi ro hiệu suất, khi nhà cung cấp có thể không cung cấp đúng số lượng và chất lượng hàng hóa, và rủi ro gian lận, khi nhà cung cấp có thể không thực hiện thanh toán do giao dịch không chính hãng Tất cả những rủi ro này đều ở mức cao trong giai đoạn này.
Do điều này đã tăng lên rủi ro, ngân hàng thường cho vay 30-40% tổng số tiền.
Hóa đơn chưa được phê duyệt có thể gặp rủi ro khi tài trợ từ ngân hàng, vì giao dịch chỉ được coi là hợp lệ khi hàng hóa đã được giao Mặc dù ngân hàng đảm bảo tính chính xác của giao dịch, nhưng người mua chưa chấp thuận hóa đơn, dẫn đến khả năng không thanh toán cho nhà cung cấp Tài trợ cho các hóa đơn chưa được phê duyệt thường có khả năng truy đòi từ các nhà cung cấp, nhưng rủi ro gian lận có thể xảy ra Do đó, rủi ro tổng thể giảm khi hợp đồng đã được ký kết, và khả năng người mua thanh toán cao hơn so với giai đoạn đơn hàng Ngân hàng thường cho vay khoảng 50-60% số tiền trên hóa đơn trong giai đoạn này.
Hóa đơn được chấp thuận là giai đoạn ít rủi ro nhất cho các ngân hàng, vì họ dựa vào hóa đơn và hàng hóa đã được giao Điều này giúp ngân hàng dễ dàng mua khoản phải thu từ nhà cung cấp Ở giai đoạn này, rủi ro hoạt động và gian lận đều rất thấp, nhờ vào việc người mua có xếp hạng tín dụng tốt và tình trạng tài chính ổn định.
2.3.2.2.1.Nguyên nhân chủ quan từ phía các ngân hàng thươngmại