TỔNG QUAN
Một số khái niệm cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu
Hoạt động xuất khẩu là quá trình bán hàng hóa và dịch vụ sang một quốc gia khác, sử dụng tiền tệ làm phương tiện thanh toán Tiền tệ này có thể là ngoại tệ của một quốc gia hoặc của cả hai quốc gia tham gia giao dịch.
Nhập khẩu của doanh nghiệp là quá trình mua hàng hóa và dịch vụ từ nước ngoài nhằm đáp ứng nhu cầu trong nước hoặc tái xuất khẩu để thu lợi nhuận Hoạt động này bao gồm việc mua sản phẩm từ các tổ chức kinh tế và công ty nước ngoài, sau đó tiêu thụ hoặc tái xuất tại thị trường nội địa, kết nối sản xuất với tiêu dùng để tối đa hóa lợi ích kinh tế.
1.1.3 Cán cân thương mại quốc tế
Cán cân thương mại là một phần quan trọng trong tài khoản vãng lai của cán cân thanh toán quốc tế, ghi lại sự biến động của xuất khẩu và nhập khẩu trong một khoảng thời gian nhất định Cán cân thương mại được tính bằng cách lấy xuất khẩu trừ đi nhập khẩu, với ba trạng thái chính: thặng dư khi chênh lệch lớn hơn 0, thâm hụt khi chênh lệch nhỏ hơn 0, và trạng thái cân bằng khi chênh lệch bằng 0.
Cán cân thương mại, còn gọi là xuất khẩu ròng hoặc thặng dư thương mại, phản ánh tình hình kinh tế của một quốc gia Khi cán cân thương mại có thặng dư, xuất khẩu ròng đạt giá trị dương, trong khi thâm hụt thương mại xảy ra khi xuất khẩu ròng mang giá trị âm Cần lưu ý rằng các khái niệm như xuất khẩu, nhập khẩu, xuất khẩu ròng, thặng dư và thâm hụt thương mại trong lý thuyết thương mại quốc tế bao gồm cả hàng hóa và dịch vụ, không chỉ giới hạn trong bảng biểu cán cân thanh toán quốc tế.
Tổng quan tình hình kinh tế Việt Nam giai đoạn 2001-2014
Trong giai đoạn này, Việt Nam đã hoàn thành các cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ AFTA và tham gia tích cực vào APEC Nước ta duy trì mối quan hệ chặt chẽ với nhiều tổ chức kinh tế và tài chính quốc tế như UNDP, WB, IMF, và ADB, đồng thời chủ động đàm phán gia nhập WTO Vào ngày 04/01/1995, WTO đã chấp nhận đơn xin gia nhập của Việt Nam, và sau nhiều năm đàm phán, vào ngày 01/11/2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của tổ chức này.
Việc gia nhập WTO vào năm 2007 đã giúp Việt Nam hội nhập sâu rộng với nền kinh tế khu vực và thế giới, nâng cao vị thế quốc gia trên trường quốc tế Giai đoạn 2001-2010, những kết quả đạt được trong hoạt động kinh tế đối ngoại đã tạo ra môi trường thuận lợi cho hợp tác kinh tế, đồng thời thu hút nguồn lực bên ngoài, góp phần phát triển kinh tế-xã hội của đất nước.
Trong giai đoạn 2001-2010, hoạt động kinh tế đối ngoại đã có những kết quả đáng kể, đặc biệt là trong lĩnh vực xuất nhập khẩu Tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương năm 2010 đạt gần 157 tỷ USD, gấp hơn 5,2 lần so với năm 2000 Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu đạt 72,2 tỷ USD, tăng hơn 5 lần, trong khi nhập khẩu đạt 84,8 tỷ USD, gấp gần 5,4 lần Trung bình mỗi năm, tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương tăng 18%, với xuất khẩu tăng 17,4% và nhập khẩu tăng 18,4% Kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân hàng năm 17,4%, gấp gần 2,4 lần tốc độ tăng trưởng GDP, cho thấy mục tiêu tăng xuất khẩu nhanh chóng đã được thực hiện hiệu quả.
Từ năm 2001 đến 2010, tổng mức lưu chuyển hàng hóa ngoại thương của Việt Nam đạt 864,2 tỷ USD, tăng gần 5,7 lần so với giai đoạn 1991-2000, trong đó xuất khẩu đạt 391,1 tỷ USD và nhập khẩu 473,1 tỷ USD Tỷ lệ tổng kim ngạch hàng hóa ngoại thương so với GDP cũng tăng liên tục, từ 96,6% năm 2000 lên 130,8% năm 2005 và 154,5% năm 2010, cho thấy nền kinh tế Việt Nam ngày càng mở rộng và hội nhập quốc tế.
1.2.2 Giai đoạn 2011-2014 Ở giai đoạn này, thị trường trong nước tiếp tục phát triển Tổng kim ngạch xuất khẩu 8 tháng năm 2014 đạt 96,98 tỷ USD, tăng 14,1% so với cùng kỳ năm 2013, tương đương với 11,99 tỷ USD Tổng kim ngạch nhập khẩu 95,29 tỷ USD tăng 12% tương đương với 10,19 tỷ USD Xuất siêu cả nước 1,698 tỷ USD góp phần bảo đảm dự trữ ngoại hối, ổn định tỷ giá và ổn định kinh tế vĩ mô.
Xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt mức tăng trưởng 19,4%/năm, vượt chỉ tiêu đề ra trong Chiến lược xuất nhập khẩu giai đoạn 2011-2020, với kim ngạch tăng từ 96,9 tỷ USD năm 2011 lên khoảng 147 tỷ USD năm 2014 Đặc biệt, trong giai đoạn 2011-2013, mặc dù gặp khó khăn do khủng hoảng tài chính toàn cầu, kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 22,3%/năm, gấp 4 lần tốc độ tăng trưởng GDP.
Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu đang có sự chuyển dịch tích cực, với việc giảm hàm lượng xuất khẩu thô và tăng cường xuất khẩu sản phẩm chế biến cùng sản phẩm công nghiệp Cụ thể, tỷ trọng nông sản và thủy sản đã giảm từ 20,4% năm 2011 xuống còn khoảng 14% năm 2014, trong khi tỷ trọng hàng nhiên liệu và khoáng sản giảm từ 11,6% xuống còn khoảng 6,2% trong cùng thời gian Ngược lại, tỷ trọng hàng công nghiệp chế biến đã tăng mạnh từ 61,2% năm 2011 lên 74,1% năm 2014.
Thị trường xuất khẩu của Việt Nam đã mở rộng đáng kể, với hàng hóa xuất khẩu hiện có mặt tại hầu hết các thị trường toàn cầu Nhiều sản phẩm Việt Nam đã khẳng định được vị thế và khả năng cạnh tranh tại các thị trường yêu cầu cao về chất lượng như EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ Trong giai đoạn 2011-2014, nhập khẩu hàng hóa tăng trưởng bình quân 14,6% mỗi năm, với kim ngạch tăng từ 106,75 tỷ USD năm 2011 lên khoảng 146,5 tỷ USD vào năm 2014.
Nhờ vào sự tăng trưởng mạnh mẽ của xuất khẩu so với nhập khẩu, cán cân thương mại của Việt Nam đã có sự cải thiện đáng kể, chuyển từ tình trạng thâm hụt lớn giai đoạn 2006-2011, với mức thâm hụt cao nhất đạt 18 tỷ USD vào năm 2008 và duy trì ở mức 12 tỷ USD trong giai đoạn 2007-2010, sang trạng thái thặng dư Cụ thể, vào năm 2012, Việt Nam ghi nhận xuất siêu 750 triệu USD.
2013 xuất siêu khoảng 300.000 USD và năm 2014 ước đạt xuất siêu khoảng 500 triệuUSD.
NỘI DUNG
Kim ngạch xuất nhập khẩu, tốc độ tăng giảm kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt
Việc gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) đã thúc đẩy Việt Nam hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, dẫn đến sự gia tăng mạnh mẽ và tức thời của tác động từ tình hình kinh tế quốc tế Đặc biệt, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển mình đáng kể khi từ trạng thái nhập siêu kéo dài, đã chuyển sang xuất siêu trong các năm 2012 và 2013.
Bảng 2.1 Xuất nhập khẩu hàng hóa và cán cân thương mại của Việt Nam
Cán cân Thương mại (Tỷ USD)
Tỉ lệ nhập siêu so với
Nguồn: Tổng cục Hải Quan Việt Nam-2013.
Kể từ năm 2009, 2014 là năm đầu tiên, hoạt động xuất nhập khẩu của
Việt Nam có tốc độ tăng xuất khẩu cao hơn tốc độ tăng nhập khẩu trong 9 tháng đầu năm Kim ngạch xuất khẩu trong 9 tháng đã đạt 109,6 tỷ
Đến cuối năm 2014, xuất khẩu đạt 75,4% mục tiêu kế hoạch và đang có xu hướng tăng trưởng mạnh mẽ Nếu tiếp tục đà này, xuất khẩu có khả năng sẽ vượt qua mục tiêu mà Quốc hội đã đề ra, tạo ra những bước tiến ấn tượng trong nền kinh tế.
Trong giai đoạn 2001-2014, xuất khẩu của Việt Nam tăng trưởng mạnh mẽ cả về quy mô lẫn tốc độ Đặc biệt, trong 9 tháng năm 2013, một số mặt hàng ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng như hóa chất tăng 71,1%, túi sách và va li tăng 37%, đồ chơi và dụng cụ thể thao tăng 39,7%, thủy tinh và sản phẩm thủy tinh tăng 34,4%, cũng như kim loại thường và sản phẩm tăng 31,2% Sự gia tăng này chủ yếu do nhu cầu từ thị trường nước ngoài tăng cao, thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước và đầu tư nước ngoài đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu.
Các nhóm hàng hoá khác (chưa phân tổ) ước đạt 6,5 tỷ USD, chiếm
Trong tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK), nhóm hàng này đạt 5,9% và tăng 23,4% so với cùng kỳ, cho thấy tốc độ tăng trưởng cao nhất Tuy nhiên, hiện chưa có số liệu cụ thể để đánh giá đóng góp của từng mặt hàng trong nhóm này vào sự tăng trưởng xuất khẩu.
9 tháng năm 2014 ước khoảng 2,47 tỷ USD, bằng 2,3% kim ngạch xuất khẩu.
Trong đó, khối doanh nghiệp đầu tư nước ngoài (không kể dầu thô) xuất siêu
6,9 tỷ USD, nếu kể cả dầu thô khu vực doanh nghiệp đầu tư nước ngoài xuất siêu khoảng 12,7 tỷ USD.
Tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK) 9 tháng đầu năm 2014 ước đạt
109,63 tỉ USD, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm 2013 (tương đương với 13,59 tỷ USD); trong đó, xuất khẩu của doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
Xuất khẩu không kể dầu thô ước đạt hơn 67,2 tỷ USD, tăng 14,6%, trong khi xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả dầu thô) ước đạt 73 tỷ USD, tăng 14,1% Đồng thời, xuất khẩu của các doanh nghiệp trong nước đạt 36,64 tỷ USD, thể hiện sự tăng trưởng tích cực trong hoạt động xuất khẩu.
Trong 9 tháng đầu năm 2014, kim ngạch xuất khẩu (KNXK) ước đạt 12,2 tỷ USD/tháng, tăng 14,2% so với cùng kỳ năm trước Đặc biệt, có 21 mặt hàng có KNXK trên 1 tỷ USD, trong đó có sự gia tăng 2 mặt hàng so với năm trước, bao gồm rau quả và hạt tiêu.
Trong các nhóm hàng xuất khẩu, nhóm hàng nông lâm thủy sản đạt giá trị cao nhất, trong 9 tháng đầu năm 2014 kim ngạch xuất khẩu ước đạt 16,82 tỷ
Trong 9 tháng đầu năm 2014, xuất khẩu hàng nông lâm thủy sản đạt 15,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK), tăng 15% so với cùng kỳ năm trước Một số mặt hàng như hạt tiêu, rau quả, nhân điều và cà phê ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng lần lượt là 43%, 42,7%, 23,6% và 29,2% Mặc dù giá của một số mặt hàng chủ yếu giảm so với cùng kỳ, gây thiệt hại 280 triệu USD cho KNXK, nhưng lượng xuất khẩu tăng đã giúp giá trị xuất khẩu toàn bộ nhóm hàng này tăng đáng kể, đạt 1,069 tỷ USD.
KNXK) Bù trừ qua lại, sự biến động cả giá và lượng của nhóm nông sản đã góp phần tăng 789 triệu USD KNXK trong 9 tháng đầu năm 2014.
Trong 9 tháng năm 2014, nhóm hàng công nghiệp chế biến đạt kim ngạch xuất khẩu ước đạt 79,3 tỷ USD, chiếm hơn 72,3% tổng kim ngạch xuất khẩu (KNXK), tăng 14,6% so với cùng kỳ năm trước Đây là nhóm hàng có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu cao nhất và đóng góp tỷ trọng lớn nhất vào tổng KNXK.
Trong 9 tháng đầu năm, các mặt hàng chủ lực như dệt may, giày dép, sản phẩm gỗ, và máy móc thiết bị phụ tùng đã ghi nhận mức tăng trưởng cao, từ 14,4% đến 25%, vượt xa mức tăng trưởng chung của toàn ngành Những sản phẩm này đóng góp đáng kể vào bức tranh tăng trưởng kinh tế.
Mặc dù nhóm nhiên liệu và khoáng sản chỉ ghi nhận mức tăng nhẹ khoảng 0,8%, nhưng kim ngạch xuất khẩu ước đạt 7,1 tỷ USD đã góp phần giúp kim ngạch xuất khẩu toàn quốc đạt gần 6,5% Tỷ lệ này không cao do trong bốn mặt hàng xuất khẩu chủ yếu, chỉ có dầu thô tăng về lượng Các mặt hàng khác như than đá, xăng dầu và quặng đều giảm xuất khẩu, trong đó xăng dầu giảm 20,2% và than đá giảm 32,7% Ngoại trừ dầu thô, giá xuất khẩu của ba mặt hàng còn lại đều giảm, dẫn đến sự biến động về giá và lượng đã làm tăng thêm 54 triệu USD cho nhóm hàng này.
Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 1991-2000 đạt 17,5%, tăng lên 20,7% trong giai đoạn 2001-2011 Tuy nhiên, sự tăng trưởng này không ổn định qua các thời kỳ, với nhập siêu gia tăng nhanh chóng Cụ thể, năm 2000, nhập siêu đạt 1,16 tỷ USD, và đến năm 2005 và 2006, con số này tăng lên lần lượt là 4,54 và 5,06 tỷ USD.
Tuy nhiên, năm 2012, tốc độ tăng nhập khẩu hàng hóa là 6,6 %, chỉ bằng
Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam đạt 36,3%, tương ứng với mức tăng 18,2% Sự thay đổi này đã dẫn đến việc đảo chiều cán cân thương mại, đưa Việt Nam lần đầu tiên sau 20 năm trở lại vị thế xuất siêu Năm 2013, kim ngạch nhập khẩu đạt 132,03 tỷ USD, tăng 16% so với năm 2012, đánh dấu năm thứ hai liên tiếp xuất siêu kể từ khi gia nhập WTO.
Cán cân thương mại Việt Nam đang có xu hướng được cải thiện tốt hơn.
Tuy nhiên có sự mất cân đối lớn giữa xuất và nhập khẩu hàng hóa, diễn ra trên hầu hết các thị trường chủ yếu của Việt Nam
Trong khi Việt Nam xuất siêu lớn đối với các thị trường phát triển Hoa
Kỳ và EU, Nhật Bản thì nhập siêu lại gia tăng ở một số thị trường Trung
Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan và ASEAN (Xin-ga-po, Thái Lan )
2.1.2.2 Nhập khẩu nhìn từ các thành phần kinh tế
Từ năm 2001 đến 2011, nền kinh tế trong nước liên tục ghi nhận tình trạng nhập siêu lớn Tuy nhiên, khu vực kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đã đóng vai trò quan trọng trong việc cân bằng cán cân thương mại.
(FDI) luôn xuất siêu để bù đắp thì nhập siêu trong cán cân thương mại của Việt
Nam còn trầm trọng hơn nhiều Trong khi đó, khu vực kinh tế FDI luôn duy trì mức xuất siêu, năm 2012 lên tới 12 tỷ USD
Trong giai đoạn 2000-2012, tỷ trọng nhập khẩu cho tiêu dùng cuối cùng của Việt Nam chưa tới 10%, trong khi nhập khẩu nguyên liệu đầu vào chiếm khoảng 60% và máy móc, thiết bị, phụ tùng trên 30% Điều này cho thấy vấn đề chính của nền kinh tế Việt Nam là phát triển công nghiệp hỗ trợ để sản xuất sản phẩm, chứ không phải là hạn chế tiêu dùng hàng nhập khẩu Thực tế, một sản phẩm mang nhãn mác Việt Nam có thể hoàn toàn phụ thuộc vào nguyên vật liệu và máy móc nhập khẩu, do đó, việc khuyến khích tiêu dùng hàng Việt Nam thực chất là khuyến khích tiêu dùng hàng nhập khẩu.
Cơ cấu hàng hóa và cơ cấu thị trường xuất nhập khẩu Việt Nam giai đoạn 2001– 2014
Cơ cấu xuất khẩu đang có sự chuyển dịch tích cực, kết hợp giữa việc thay đổi cơ cấu mặt hàng và cơ cấu thị trường xuất khẩu Điều này đã giúp xây dựng nhóm hàng xuất khẩu chủ lực và đạt được thành công đáng kể trong một số lĩnh vực tăng trưởng xuất khẩu đột phá.
Hình 2.1 Hàng dệt may vẫn đứng đầu danh sách các mặt hàng xuất khẩu vào Mỹ
Trong 10 năm qua, tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo đã tăng 8,3 điểm phần trăm, từ 46,7% năm 2001 lên 55% năm 2010, trong khi tỷ trọng hàng thô và sơ chế giảm từ 58,3% xuống 45% Đặc biệt, tỷ trọng hàng nông, lâm, thủy sản cũng giảm từ 29,5% xuống 22,5% Năm 2001, chỉ có 4 mặt hàng xuất khẩu chủ lực đạt kim ngạch trên 1 tỷ USD, với tổng giá trị 8,4 tỷ USD, chiếm 56% kim ngạch xuất khẩu Đến năm 2010, số lượng mặt hàng xuất khẩu chủ lực đã tăng lên 17, với tổng giá trị khoảng 45 tỷ USD, chiếm 63% kim ngạch xuất khẩu.
Việt Nam đã đạt được những thành công đáng kể trong việc thực hiện các khâu đột phá chiến lược nhằm thúc đẩy tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu hàng xuất khẩu trong 5 năm đầu.
Từ năm 2001 đến 2005, các ngành sản phẩm kết hợp giữa lao động giản đơn và công nghệ trung bình như thủ công mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm nhựa, hóa phẩm tiêu dùng, sản phẩm gỗ và sản phẩm cơ khí, điện đã được chú trọng phát triển Trong đó, xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ, bao gồm mây, tre, cói, thảm, gốm sứ, đá và kim loại quý, đã đạt mức tăng trưởng bình quân 23% mỗi năm, với kim ngạch xuất khẩu tăng từ 377 triệu USD năm 2000 lên 3.177 triệu USD năm 2009 và gần 4 tỷ USD vào năm 2010.
26%/năm; xuất khẩu sản phẩm nhựa tăng bình quân 25%/ năm, kim ngạch tăng từ 122 triệu USD trong năm 2000 lên xấp xỉ 1 tỷ USD trong năm 2009 và vượt
Giữa năm 2007 và 2010, cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam đã có sự thay đổi mặc dù chưa rõ rệt Tỷ trọng nhóm hàng nhiên liệu và khoáng sản giảm từ 34,2% xuống 27,8%, trong khi nhóm hàng công nghiệp và TCMN tăng nhẹ từ 42,5% lên 45,1% Nhóm hàng nông, lâm, thủy sản cũng tăng từ 23,0% lên 23,3% Những thay đổi này cho thấy tín hiệu tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu của Việt Nam, giảm tỷ trọng hàng khai thác tài nguyên khoáng sản và hàng sơ chế có giá trị gia tăng thấp.
Tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo tiêu dùng và máy móc thiết bị có công nghệ cao và giá trị gia tăng cao đang tăng lên đáng kể, mặc dù sự chuyển dịch cơ cấu diễn ra chậm Hiện tại, sản phẩm công nghiệp chế biến và chế tạo của Việt Nam chủ yếu vẫn là các sản phẩm chế biến hoặc gia công, sử dụng nhiều lao động giá rẻ và có hàm lượng công nghệ thấp.
Tỷ trọng hàng chế biến tinh tại Việt Nam đang gia tăng, nhưng với tốc độ chậm Theo tiêu chuẩn ngoại thương, cơ cấu xuất khẩu đã chuyển dịch từ nhóm hàng thô sơ chế, giảm từ 53% vào năm 2007 xuống còn 39%, trong khi hàng chế biến và đã tinh chế tăng từ 47% lên 61% trong cùng thời kỳ Tuy nhiên, sự chuyển dịch này vẫn diễn ra chậm và tỷ trọng hàng thô sơ chế vẫn còn lớn, trong khi hàng chế biến và tinh chế chưa đạt được hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao.
Nếu xem xét chỉ tiêu RCA cho từng nhóm mặt hàng theo SITC thì đã có
Trong số 9 nhóm mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam, có 5 nhóm có lợi thế cạnh tranh, đặc biệt là lương thực thực phẩm (SITC 0) và hàng chế biến theo nguyên liệu (SITC 6) Mặc dù lợi thế so sánh của lương thực thực phẩm đang giảm dần, nhưng RCA của hàng chế biến như giấy, da giày, quần áo, mũ, ô dù lại đang tăng lên Những mặt hàng này không yêu cầu kỹ thuật cao nhưng tạo ra nhiều việc làm với mức lương thấp.
Nhóm hàng đồ uống và thuốc lá (SITC 1), dầu mỡ, chất béo và sáp động thực vật (SITC 4) cùng hóa chất và các sản phẩm liên quan (SITC 5) đang có lợi thế so sánh ngày càng gia tăng Tuy nhiên, hai nhóm hàng chế biến hoặc đã tinh chế, bao gồm máy móc, phương tiện vận tải và phụ tùng (SITC 7) với chỉ số RCA là 0,4 và hàng chế biến khác (SITC), lại có lợi thế so sánh tương đối thấp.
Bảng 2.2 Hệ số RCA cho các nhóm hàng xuất khẩu của Việt Nam theo
Nguồn: Người viết tự tính toán từ số liệu của ITC Trước khi gia nhập WTO, nhóm hàng nhiên liệu (SITC 3) có chỉ số RCA cao, nhưng hiện tại chỉ số này đã giảm xuống còn 0,3 Điều này cho thấy hàng xuất khẩu của Việt Nam đã giảm sự phụ thuộc vào nguyên liệu tài nguyên thiên nhiên.
Chỉ số IIT cho các mặt hàng thô và sơ chế cao hơn so với các mặt hàng chế biến, cho thấy tiềm năng kinh tế trong sản xuất chưa được khai thác triệt để Đặc biệt, 89% thương mại của đồ uống và thuốc lá là nội ngành, phản ánh sự cân bằng giữa xuất khẩu và nhập khẩu Ngược lại, chỉ số IIT cho hóa chất và sản phẩm liên quan, cũng như hàng chế biến phân loại theo nguyên liệu, lần lượt chỉ đạt 47% và 24%, cho thấy nguồn lực trong các nhóm hàng này chưa được sử dụng hiệu quả.
Cơ cấu thị trường đã có sự chuyển dịch rõ rệt, phản ánh sự điều chỉnh chiến lược thị trường nhằm hình thành cơ cấu hợp lý Tỷ trọng xuất khẩu sang châu Á đã giảm từ 60,6% năm 2001 xuống 50% năm 2005, duy trì ở mức 45,5%-48% trong giai đoạn 2006-2010, phù hợp với mục tiêu 45% Tỷ trọng xuất khẩu sang Nhật Bản giảm từ 16,7% năm 2001 xuống 13,3% năm 2005 và khoảng 10% năm 2010, trong khi mục tiêu là 17-18% Tương tự, tỷ trọng xuất khẩu sang Trung Quốc, Đài Loan và Hồng Kông giảm từ 15,8% xuống 13,9% và còn khoảng 12%, so với mục tiêu 14-16% Tỷ trọng thị trường ASEAN duy trì ổn định ở mức 17-18%, với mục tiêu là 15%.
Từ năm 2001 đến 2005, tỷ trọng thị trường châu Mỹ trong tổng kim ngạch xuất khẩu đã tăng mạnh từ 9,3% lên 22% Trong giai đoạn 2006-2010, tỷ lệ này đã duy trì ổn định ở mức 22,5%-23%.
Về thị trường xuất khẩu giai đoạn 2006-2010, châu Á đứng đầu với
Châu Mỹ tiếp tục dẫn đầu với 45,6% tổng kim ngạch xuất khẩu, theo sau là châu Âu với 20,8% và châu Đại Dương chiếm 6,2% Mặc dù châu Phi chỉ chiếm 2,7%, nhưng con số này đã tăng gấp 3,8 lần so với 5 năm trước.
Thực hiện thành công khâu đột phá về thị trường xuất khẩu là tăng nhanh tỷ trọng của thị trường Hoa Kỳ từ 7,1% trong năm 2001 lên 18,2% trong năm
2005 và duy trì ở mức 19 -20% trong gian đoạn 2006-2010 (chiến lược là 15-
Nhập khẩu hàng hóa hiện nay chủ yếu tập trung vào nguyên liệu, máy móc thiết bị và công nghệ phục vụ sản xuất trong nước Điều này nhằm đáp ứng nhu cầu tăng trưởng dựa vào đầu tư và xuất khẩu, đồng thời thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa và hiện đại hóa.
Một số mặt hàng và thị trường lớn
Qua thống kê cho thấy, suốt giai đoạn 2001-2008 sản lượng và giá trị
Giá trị xuất khẩu thủy sản của Việt Nam đã tăng trưởng ổn định qua các năm, với mức đạt 4,51 tỷ USD vào năm 2008, tăng 153,7% so với năm 2001 Trong giai đoạn 2001-2008, sản lượng thủy sản tăng trung bình 19,3% mỗi năm.
KGXK thủy sản đã tăng bình quân 14,2% mỗi năm, cho thấy rằng tốc độ tăng sản lượng nhanh hơn so với tốc độ tăng giá trị Điều này chứng tỏ rằng để nâng cao KGXK thủy sản, cần chú trọng vào việc gia tăng sản lượng.
Việt Nam cần tăng cường sản lượng xuất khẩu để cải thiện nền kinh tế Điều này đồng nghĩa với việc chúng ta sẽ không tập trung vào việc sản xuất các mặt hàng giá trị gia tăng, mà thay vào đó, chú trọng vào việc xuất khẩu số lượng lớn hơn, dù giá trị thu về có thể không cao.
Bảng 2.3 Các thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam
Giá bình quân USD/kg 5,0 4,1 4,1 3,6 -4,3%
Giá bình quân USD/kg 6,9 6,7 7,2 7,7 1,5%
Giá bình quân USD/kg 6,8 6,4 6,9 6,3 -1,1%
Giá bình quân USD/kg 3,8 3,3 3,3 3,2 -2,3%
Giá bình quân USD/kg 3,7 3,2 3,1 2,8 -3,9%
Về giá xuất khẩu bình quân ở hầu hết các thị trường thuỷ sản của Việt
Từ năm 2001 đến 2008, giá trị xuất khẩu ngành thủy sản Việt Nam có xu hướng giảm, với mức giảm trung bình 4,3% mỗi năm Cụ thể, thị trường Nhật giảm 1,1%/năm, thị trường EU giảm 2,3%/năm, và các thị trường khác giảm 3,9%/năm Đáng chú ý, chỉ có thị trường Mỹ ghi nhận mức tăng giá trung bình trong giai đoạn này.
Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu thủy sản không có sự biến động lớn giữa các nhóm sản phẩm Tôm vẫn là sản phẩm chủ lực, chiếm 40,1% tổng xuất khẩu, theo sau là cá với 39% Mực và bạch tuộc đông lạnh chiếm 7,5%, hàng khô chiếm 3,9%, và các loại hải sản khác chiếm phần còn lại.
Về cơ cấu thị trường xuất khẩu giai đoạn 2001-2008 cũng cho thấy Mỹ,
Nhật, EU vẫn là thị trường tiêu thụ thuỷ sản lớn của Việt Nam, Năm 2008 Mỹ chiếm 17,1% thị phần thuỷ sản xuất khẩu của Việt Nam, Nhật chiếm 16,5%,
EU chiếm 20,1%, các nước còn lại chiếm 46,2% (Trung Quốc và Hồng Kông, các nước ASEAN, Đài Loan, Hàn Quốc, Nga, Ôxtrâylia…).
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản bình quân đến năm 2009 đạt 4.251,3 triệu
Năm 2011, xuất khẩu thủy sản Việt Nam đạt gần 6.118 triệu USD, với sản phẩm có mặt tại 162 quốc gia và vùng lãnh thổ Từ 2001 đến 2011, ngành thủy sản đóng góp khoảng 3,1% - 3,72% vào GDP toàn quốc (giá thực tế) và từ 2,55% - 2,6% (giá so sánh) Trong năm 2011, thủy sản tiếp tục là một nguồn thu quan trọng cho nền kinh tế.
Ngạch xuất khẩu chung toàn ngành nông nghiệp 24,44%, và 6,34% tổng kim ngạch xuất khẩu toàn quốc.
Trong giai đoạn 2012-2013, kinh tế Việt Nam vẫn chưa phục hồi hoàn toàn sau khủng hoảng toàn cầu, nhưng một số ngành vẫn có sự phát triển tích cực Thủy sản nổi bật là một trong những ngành mũi nhọn, với mục tiêu xuất khẩu đạt 6,5 tỷ USD Tuy nhiên, ngành thủy sản chỉ đạt 6,093 tỷ USD trong năm 2012.
Sự phát triển bền vững của ngành thủy sản Việt Nam trong năm 2013 đã tạo ra nhiều tác động tích cực cho nền kinh tế, khẳng định vai trò mũi nhọn trong bối cảnh khủng hoảng toàn cầu Ngành này không chỉ duy trì việc làm cho hơn 4 triệu lao động mà còn phát triển mạnh mẽ các hình thức nuôi trồng như nuôi trồng trên biển và trên cát, góp phần bảo tồn các sinh vật gần tuyệt chủng Thủy sản không chỉ là nguồn tài nguyên quý giá cung cấp dinh dưỡng và sức khỏe cho con người mà còn mang lại nguồn ngoại tệ lớn cho đất nước Hơn nữa, ngành này cũng thúc đẩy việc hiện đại hóa thiết bị và máy móc, tạo cầu nối trong quan hệ ngoại thương toàn cầu, đồng thời khẳng định chủ quyền quốc gia trong lĩnh vực đánh bắt và nuôi trồng thủy sản.
Ngành dệt may tại Việt Nam đã có sự tăng trưởng nhanh chóng và ổn định trong nhiều năm, đóng góp quan trọng vào sự phát triển kinh tế-xã hội của đất nước Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế, dệt may là một trong những lĩnh vực mà Việt Nam sở hữu nhiều lợi thế.
10 quốc gia có kim ngạch xuất khẩu hàng dêt may lớn nhất thế giới.
Từ năm 2001 đến năm 2013, kim ngạch xuất khẩu ngành dệt may của Việt Nam đã tăng trưởng mạnh mẽ, từ gần 2 tỷ USD lên 17,95 tỷ USD, chiếm 13,6% tổng kim ngạch xuất khẩu và 10,5% GDP cả nước Với tốc độ tăng trưởng bình quân 14,5% mỗi năm trong giai đoạn 2008-2013, Việt Nam đã trở thành nước xuất khẩu dệt may lớn thứ 5 thế giới và là một trong những quốc gia có tốc độ tăng trưởng xuất khẩu dệt may nhanh nhất toàn cầu.
Biểu đồ 2.1 Giá trị xuất khẩu Việt Nam (tỷ USD)
Giá trị xuất khẩu % Tăng trưởng
Riêng năm 2014, là một trong hai ngành có kim ngạch xuất khẩu trên 20 tỷ USD, ngành dệt may đã đạt xấp xỉ 24,5 tỷ USD, tăng gần 16% so với năm
Năm 2013, ngành may mặc đạt doanh thu trên 21 tỷ USD, tăng 17% so với năm trước, trong khi giá trị xuất khẩu xơ sợi dệt cũng vượt 3 tỷ USD Những con số này khẳng định rằng ngành dệt may sẽ tiếp tục phát triển mạnh mẽ trong năm 2015.
Biểu đồ 2.2 Cơ cấu xuất khẩu dệt may vào các thị trường chính
Hoa Kỳ Châu Âu Nhật Bản Hàn Quốc Khác
Hoa Kỳ, Châu Âu, Nhật Bản và Hàn Quốc là bốn thị trường nhập khẩu hàng dệt may hàng đầu của Việt Nam Năm 2013, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang các thị trường này đạt 15,3 tỷ USD, chiếm 85,5% tổng kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành.
Hoa Kỳ liên tục tăng mạnh qua các năm và đạt 8,6 tỷ USD năm 2013, chiếm
Hàng dệt may Việt Nam chiếm 48% tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành này, đồng thời đứng đầu trong số các mặt hàng xuất khẩu sang Hoa Kỳ với tỷ trọng cao.
Xuất khẩu dệt may Việt Nam đạt 38% tổng kim ngạch xuất khẩu, cho thấy sự tăng trưởng mạnh mẽ bất chấp thị trường nhập khẩu toàn cầu không phát triển Đặc biệt, các thị trường truyền thống như Mỹ, châu Âu và Nhật Bản đều ghi nhận mức tăng trưởng ấn tượng, với Mỹ tăng 12,5%, châu Âu tăng 17% và Nhật Bản duy trì mức tăng 9%.
Việc gia nhập Hiệp định đối tác chiến lược xuyên Thái Bình Dương
Hiệp định TPP mang lại cơ hội lớn cho ngành thương mại Việt Nam, đặc biệt là cho các doanh nghiệp dệt may Việc gia nhập TPP sẽ giúp thúc đẩy xuất khẩu và giảm bớt các rào cản thuế hiện tại, mà theo Hiệp hội Dệt may Việt Nam, đang ở mức cao Cụ thể, thuế suất đối với thị trường Hoa Kỳ hiện là 17,5% và châu Âu là 9,6% Tuy nhiên, nếu Việt Nam gia nhập TPP, mức thuế này có khả năng giảm xuống 0%, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của ngành dệt may.
Thuận lợi, khó khăn
2.4.1.1 Về vị trí địa lý
Việt Nam nằm trong vùng Đông Nam Châu Á thuộc khu vực Châu Á
Thái Bình Dương là một trong những khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, với tốc độ tăng trưởng kinh tế ấn tượng, đạt bình quân 6-7% mỗi năm cho mỗi quốc gia trong khu vực.
Việt Nam có vị trí chiến lược trên tuyến đường giao thương hàng hải quốc tế, với nhiều cảng nước sâu cho phép tàu bè cập bến an toàn suốt cả năm Sân bay Tân Sơn Nhất cũng đóng vai trò quan trọng trong việc kết nối giao thông hàng không.
Sơn Nhất có vị trí lý tưởng, nằm gần các thủ đô của những thành phố quan trọng trong khu vực Đông Nam Á Với vị trí trung tâm trong khối ASEAN, Sơn Nhất tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng quan hệ kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài và thực hiện các hoạt động xuất nhập khẩu dễ dàng.
2.4.1.2 Về tài nguyên thiên nhiên
Việt Nam sở hữu nguồn tài nguyên phong phú, bao gồm đất, nước, rừng và khoáng sản, cùng với sự đa dạng sinh học của quần thể động thực vật.
Việt Nam có diện tích đất đai khoảng 330.363 km², trong đó 50% dành cho nông nghiệp và ngư nghiệp Khí hậu nhiệt đới ẩm ướt tạo điều kiện thuận lợi cho việc phát triển các sản phẩm nông lâm nghiệp xuất khẩu hiệu quả như gạo, cao su và các nông sản nhiệt đới khác Với chiều dài bờ biển lên tới 3.260 km và diện tích sông ngòi, ao hồ hơn 1 triệu ha, Việt Nam có tiềm năng lớn trong việc phát triển ngành thủy sản xuất khẩu, thủy lợi, vận tải biển và du lịch.
Dầu mỏ hiện đang là nguồn tài nguyên quan trọng, đóng góp lớn vào thu ngoại tệ và thu hút đầu tư nước ngoài với sản lượng khai thác ngày càng tăng Ngoài ra, than đá cũng có trữ lượng cao khoảng 3.6 tỷ tấn, cùng với các mỏ sắt có trữ lượng lên tới vài trăm triệu tấn.
Theo thông bảo của Tổng cục Thống kê, tính đến năm 2003 dân số nước ta khoảng 80.8 triệu người, trong đó có hơn 40 triệu đang trong độ tuổi lao động.
Lao động dồi dào, giá nhân công rẻ, khoảng 0,16 USD/ 1 giờ lao động, trong khi đó ở Nhật là 23 USD/1 giờ lao động; tỷ lệ thất nghiệp lớn (khoảng
Khoảng 20-30% dân số trong độ tuổi lao động tạo ra lợi thế quan trọng cho sự phát triển các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động, bao gồm dệt may, chế biến nông lâm thủy sản và lắp ráp sản phẩm điện, điện tử.
Sau một thời gian tập trung phát triển con người, nguồn nhân lực của
Việt Nam đã có những cải tiến đáng kể, đặc biệt trong các ngành xuất khẩu Sự thiếu hụt lao động phổ thông có thể là cơ hội để tái cấu trúc nền kinh tế, chuyển hướng sang sản xuất các sản phẩm yêu cầu kỹ năng cao hơn, từ đó tạo ra nhiều mặt hàng có giá trị gia tăng.
Việt Nam được công nhận là quốc gia có môi trường chính trị và xã hội ổn định, vượt trội hơn so với nhiều nước trong khu vực Tổ chức Tư vấn Rủi ro Kinh tế đã chỉ ra rằng sự ổn định này tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển kinh tế và thu hút đầu tư nước ngoài.
Chính trị (PERC) 2007 tại Hồng Kông xếp Việt nam ờ vị trí thứ nhất về khía cạnh ổn định chính trị và xã hội sau sự kiện 11/9.
Những thành công trong chính sách xóa đói giảm nghèo và các biện pháp kinh tế ứng phó khủng hoảng đã góp phần nâng cao uy tín và vai trò của chính phủ.
Việt Nam trên thế giới Điều đó cộng với sự đóng góp tích cực hơn của Việt
Nam trên thế giới cũng tạo nên những thuận lợi cho việc xuất khẩu hàng Việt
Nam qua các thị trường mới.
2.4.1.5 Tham gia các tổ chức thương mại quốc tế
Hiện nay, Việt Nam đang có rất nhiều thuận lợi trong hội nhập quốc tế.
Việt Nam đã ký kết 8 hiệp định thương mại tự do và đang trong quá trình đàm phán để ký thêm 6 hiệp định nữa Những hiệp định này với các đối tác kinh tế quan trọng sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa Việt Nam thâm nhập vào các thị trường quốc tế.
Ngày 25/7/1995 đã chính thức gia nhập Hiệp hội các nước Đông Nam Á, tham gia vào AFTA, chương trình thuế quan ưu đãi có hiệu lực chung
Tháng 3/1996 tham gia Diễn đàn Á-Âu với tư cách là thành viên sáng lập
Ngày 15/6/1996 gửi đơn xin gia nhập APEC Tháng 11/1998 được công nhận là thành viên của APEC.
Năm 2000 ký Hiệp định thương mại song phưong Việt-Mỹ.
Ngày 11/01/2007 Việt Nam sẽ chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức thương mại quốc tế WTO.
Việt Nam tích cực tham gia vào các tổ chức thương mại toàn cầu, góp phần mở rộng quan hệ buôn bán với các quốc gia khác Sự tham gia này không chỉ giúp tăng cường thị trường xuất khẩu và nhập khẩu mà còn gia tăng số lượng đối tác thương mại Hơn nữa, Việt Nam đã tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi cho hoạt động ngoại thương, bao gồm việc giảm thiểu hàng rào thương mại và thúc đẩy tự do thương mại.
2.4.1.6 Lợi thế nổi bật từ các nhà đầu tư FDI
Từ khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) năm
Kể từ năm 2007, sự tham gia của Việt Nam vào các Hiệp định thương mại tự do (FTA) đã dẫn đến sự gia tăng nhanh chóng của các dự án đầu tư nước ngoài (FDI) Theo thống kê, vốn FDI tại Việt Nam luôn chiếm tỷ trọng đáng kể trong tổng vốn đầu tư xã hội, với 30% trong giai đoạn 1991-2000, 16% trong giai đoạn 2001-2005 và tiếp tục ảnh hưởng mạnh mẽ trong giai đoạn 2006-2011.
Doanh nghiệp FDI đã có những đóng góp quan trọng trong việc đẩy mạnh xuất khẩu và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt
Năm 2013, doanh nghiệp FDI tiếp tục đóng góp lớn vào việc tạo ra giá trị và thúc đẩy tăng trưởng xuất khẩu, khẳng định vai trò ngày càng quan trọng của họ trong lĩnh vực xuất khẩu.
Từ những lợi thế trên đã cho thấy được tiềm năng của ngoại thương Việt
Việt Nam sở hữu lợi thế nổi bật với nguồn lao động dồi dào, giá rẻ và tài nguyên phong phú, tạo điều kiện thuận lợi cho nền kinh tế phát triển Theo học thuyết lợi thế so sánh trong thương mại quốc tế, quốc gia nên xuất khẩu các mặt hàng mà mình có lợi thế và nhập khẩu những mặt hàng mà mình không có, nhằm tối ưu hóa hiệu quả kinh tế và mang lại lợi ích xã hội Dựa trên mô hình Heckscher-Olin, Việt Nam cần tập trung vào sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm thâm dụng lao động và tài nguyên sẵn có, đồng thời nhập khẩu các mặt hàng có nguồn lực khan hiếm.