DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT BVĐK Bệnh viện đa khoa CB Cán Bộ CDD Control of diarrhoeal diseases (Chương trình phòng chống bệnh tiêu chảy) CĐ Chẩn đoán ĐTV Điều tra viên IMCI Integrated Management of Childhood Illness (Chương trình xử trí lồng ghép các bệnh thường gặp ở trẻ em) ORS Oral Rehydration Salts (ORESOL) SDD Suy dinh dưỡng TCC Tiêu chảy cấp TĐHV Trình độ học vấn THCS Trung học cơ sở THPT Trung học phổ thông WHO World Health Organnisation % Tỉ lệ phần trăm MỤC LỤC 1ĐẶT VẤN ĐỀ 3CHƯƠNG 1 HYPERLIN.
TỔNG QUAN
Định nghĩa và phân loại bệnh tiêu chảy
1.1.1 Định nghĩa: Theo định nghĩa của WHO: Tiêu chảy cấp là tình trạng trẻ đi ngoài nhiều lần trong ngày (≥ 3 lần trong 24 giờ) phân lỏng, nhiều nước hoặc phân có máu [5].
1.1.2 Phân loại bệnh tiêu chảy
1.1.2.1 Tiêu chảy cấp tính: Là những trường hợp tiêu chảy dưới 14 ngày, nguy cơ quan trọng nhất là gây mất nước và điện giải, những trường hợp này cần được bù nước sớm tại nhà, trường hợp có biểu hiện mất nước cần đưa trẻ tới cơ sở y tế kịp thời[4]
1.1.2.2 Tiêu chảy kéo dài: Là những trường hợp tiêu chảy kéo dài tới 14 ngày hoặc nhiều hơn Trong các trường hợp này, điều tốt nhất là các bà mẹ cần đưa trẻ tới các cơ sở y tế khám để xác định rõ nguyên nhân [6].
1.1.2.3 Hội chứng lỵ: Là tiêu chảy thấy có máu trong phân, có thể kèm theo chất nhầy (Nhầy - Máu), thường có sốt Những trường hợp này cần đưa trẻ đến cơ sở y tế để có chỉ định thuốc đặc hiệu điều trị tác nhân gây bệnh [6]
Đợt tiêu chảy được định nghĩa là giai đoạn bắt đầu khi trẻ đi tiêu chảy trên 3 lần trong 24 giờ và kéo dài cho đến ngày cuối cùng trẻ còn đi tiêu chảy trên 3 lần Sau đó, cần ít nhất 2 ngày trẻ có phân trở lại bình thường Nếu sau 2 ngày trẻ tiếp tục đi tiêu chảy trên 3 lần/ngày, cần đánh giá lại tình trạng mất nước và ghi nhận là một đợt tiêu chảy mới.
Tiêu chảy trẻ em có thể dẫn tới 2 hậu quả nghiêm trọng là:
- Trẻ có nguy cơ mắc suy dinh dưỡng.
Trường hợp tiêu chảy nặng nếu không được xử trí kịp thời có thể dẫn đến tử vong, đặc biệt ở trẻ em Tử vong thường xảy ra trong các trường hợp cấp tính do mất nước và điện giải quá nhiều mà không được hồi phục kịp thời.
Dịch tễ học
1.2.1 Sự lây lan các mầm bệnh gây tiêu chảy
Bệnh tiêu chảy đã tồn tại từ lâu, gắn liền với nhiều vụ dịch đường tiêu hóa, đặc biệt là 7 đại dịch Tả trên toàn thế giới, và hiện nay đang xuất hiện các dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm Ban đầu, bệnh được định nghĩa là hiện tượng đi phân lỏng từ 3 đến 4 lần mỗi ngày, liên quan đến hội chứng tiêu chảy mất nước và tiêu chảy nhiễm độc Qua thời gian, cùng với sự tiến bộ trong khoa học và y học, người ta đã nghiên cứu sâu về dịch tễ học, nguyên nhân gây bệnh và cơ chế bệnh sinh, từ đó nhận thức rõ hơn rằng bệnh tiêu chảy thường là hậu quả của các bệnh nhiễm trùng đường tiêu hóa như Tả, Lỵ trực trùng, Lỵ a mip, E coli sinh độc tố, nấm gây bệnh và virus.
Tiêu chảy ở trẻ em, đặc biệt là nhóm từ 6 tháng đến 2 tuổi, thường do các bệnh nhiễm trùng ngoài đường ruột như sởi và bệnh nhiễm trùng hô hấp Các yếu tố như môi trường sống không hợp vệ sinh, thiếu ánh sáng, suy dinh dưỡng và thái độ vệ sinh kém cũng đóng vai trò quan trọng trong việc truyền bệnh Trình độ hiểu biết và phương pháp chăm sóc dinh dưỡng của các bà mẹ là những yếu tố then chốt góp phần vào tình trạng tiêu chảy Trẻ dưới 6 tháng tuổi ít bị tiêu chảy hơn, đặc biệt khi mẹ có đủ sữa và không cho trẻ ăn sữa bò hoặc thức ăn thay thế sữa mẹ quá sớm hoặc không đúng cách.
Bệnh tiêu chảy chủ yếu lây truyền qua cơ chế "Phân - Miệng", với hai con đường lây nhiễm chính: trực tiếp và gián tiếp Lây truyền trực tiếp xảy ra khi tác nhân gây bệnh xâm nhập vào cơ thể qua thức ăn hoặc nước uống, dẫn đến nguy cơ mắc bệnh Trong khi đó, lây truyền gián tiếp diễn ra thông qua các vật dụng, tay bẩn hoặc côn trùng, từ đó có thể làm ô nhiễm thực phẩm và nước uống, tạo ra nguy cơ lây nhiễm cho người tiêu dùng.
* Một số tập quán lạc hậu làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy:
- Không nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ trong 4 đến 6 tháng đầu, không cho bú trước nửa giờ ngay sau khi sinh, cai sữa trước 18 tháng tuổi [9].
-Tập quán cho trẻ ăn sam (ăn dặm) sớm trước 4 tháng tuổi.
-Tập quán cho trẻ bú chai.
-Không cho trẻ ăn ngay thức ăn sau khi chế biến.
-Để lẫn thức ăn đã chế biến với thức ăn còn sống.
-Chọn thực phẩm không được an toàn.
Mẹ cần rửa tay sạch sẽ trước khi chế biến thức ăn cho trẻ, trước khi cho trẻ ăn, và đặc biệt là sau khi đi đại tiện hoặc vệ sinh cho trẻ để đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm và ngăn ngừa bệnh tật.
-Dùng nguồn nước sinh hoạt không hợp vệ sinh.
-Không xử lý phân (Đặc biệt là trẻ nhỏ) một cách hợp lý.
-Không quan tâm đến một số bệnh khác như suy dinh dưỡng, các bệnh nhiễm khuẩn, đặc biệt 6 bệnh trong chương trình tiêm chủng mở rộng cho trẻ em
1.2.2 Tình trạng sức khoẻ, bệnh tật của trẻ em làm tăng tính cảm thụ với bệnh tiêu chảy: Có rất nhiều yếu tố của chính bản thân đứa trẻ liên quan tới tăng tỷ lệ mắc và làm tăng mức độ trầm trọng, thời gian kéo dài của bệnh tiêu chảy.
- Trẻ sinh ra dưới 2500gam.
- Trên cơ địa bị suy dinh dưỡng
- Trẻ bị các bệnh như Sởi, bệnh nhiễm trùng khác.
- Liên quan đến tuổi của trẻ [10].
1.2.3 Tính chất theo mùa và vùng địa dư: Theo WHO có nhiều sự khác biệt theo mùa ở nhiều địa dư khác nhau Vùng ôn đới tiêu chảy do vi khuẩn thường xảy ra vào mùa nóng, ngược lại do Virus, đặc biệt do Rotavirus lại xảy ra ở các thời điểm vào mùa đông Vùng nhiệt đới, tiêu chảy do Rotavirus lại xảy ra quanh năm nhưng tăng cao vào các tháng khô và lạnh, do vi khuẩn lại tăng vào mùa mưa và mùa nóng [11].
1.2.4 Các vụ dịch tiêu chảy cấp: Dịch tiêu chảy cấp chiếm phần lớn nguyên nhân gây bệnh tiêu chảy, đặc biệt ở trẻ em dưới 05 tuổi ở lứa tuổi này do sức đề kháng còn yếu, có nhiều yếu tố thuận lợi để vật chủ cảm nhiễm với tác nhân gây bệnh, làm tăng tỷ lệ mắc và tỷ lệ tử vong [12]
*Ví dụ như một số vụ dịch: Dịch tả (Vibrio cholerare)
Dịch Lỵ trực trùng (Shigella), Lỵ Amip
Ngộ độc thức ăn do Tụ cầu vàng (Staphylococcus Aureus)
Nguyên nhân và sinh bệnh học tiêu chảy
Tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi có nhiều nguyên nhân, trong đó có nhóm vi sinh vật gây bệnh, sự giảm sức đề kháng của trẻ và một số nguyên nhân chưa xác định rõ.
1.3.1 Virus: Rotavirus là tác nhân chính gây tiêu chảy nặng và đe doạ đến tính mạng trẻ em, nhất là trẻ dưới 02 tuổi, một phần ba trẻ em dưới 02 tuổi ít nhất bị một đợt tiêu chảy do Rotavirus Ngoài ra còn nhiều virus khác như Adenovirus, Norwalkvirus cũng gây bệnh tiêu chảy [11].
1.3.2 Vi khuẩn: Có rất nhiều chủng khác nhau là tác nhân gây ra bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ em, sau đây là một số vi khuẩn chính đóng góp phần lớn gây ra bệnh tiêu chảy [13].
E coli (Escherichia coli) là loại vi khuẩn quan trọng, đặc biệt là chủng sinh độc tố ruột (ETEC), gây ra tình trạng tiêu chảy ở trẻ em dưới 3 tuổi, nhất là tại các nước đang phát triển Tình trạng này ít gặp hơn ở trẻ lớn và người lớn.
-Shigella: Shigella là tác nhân quan trọng nhất gây bệnh Lỵ, được tìm thấy 60% các trường hợp mắc lỵ, có 4 nhóm huyết thanh đó là S.dysenteria, S.flexnery, S.boydi, S.sonnei [7],[14].
Campylobacter Jejuni là tác nhân gây bệnh chủ yếu ở trẻ nhỏ, lây lan qua tiếp xúc với phân người, uống nước ô nhiễm, tiêu thụ sữa và thực phẩm không an toàn Khoảng hai phần ba bệnh nhân mắc phải triệu chứng tiêu chảy tóe nước, trong khi một phần ba trường hợp gặp hội chứng lỵ kèm theo sốt.
Salmonella không gây thương hàn và lây lan từ động vật nhiễm bệnh hoặc thực phẩm bị ô nhiễm Triệu chứng tiêu chảy do Salmonella thường là phân lỏng, đôi khi kèm theo triệu chứng của hội chứng lỵ và sốt.
- Vi khuẩn tả (Vibrio cholerea 01) có 2 tuýp sinh vật (tuýp cổ điển và tuýp Eltor), 2 tuýp huyết thanh (Ogawa và Inaba) có thể gây thành dịch lớn [10].
Entamoeba histolytica là một trong những tác nhân chính gây tiêu chảy ở trẻ em và những bệnh nhân có hệ miễn dịch yếu.
1.3.4 Nấm gây bệnh tiêu chảy
Nấm Candida albicans, một loại nấm ký sinh tự nhiên trong ống tiêu hóa, thường không gây bệnh Tuy nhiên, khi gặp điều kiện thuận lợi như sử dụng thuốc kháng sinh kéo dài, nấm này có thể phát triển và gây ra tiêu chảy.
1.3.5 Một số yếu tố thuận lợi:
Trẻ em sinh ra với cân nặng thấp hơn 2500 gam có nguy cơ cao gặp phải các vấn đề về dinh dưỡng Chế độ ăn không phù hợp, thiếu men tiêu hóa, suy dinh dưỡng, và các bệnh như sởi đều có thể ảnh hưởng đến sức khỏe của trẻ Ngoài ra, việc sử dụng kháng sinh không hợp lý cũng góp phần làm trầm trọng thêm tình trạng này.
1.3.6 Không rõ nguyên nhân: Chiếm khoảng 20% trong tổng số các nguyên nhân gây tiêu chảy [7].
Triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng
Tiêu chảy: Xảy ra đột ngột, phân lỏng nhiều lần trong ngày, toé nước, có khi phân nhầy lẫn máu nếu do lỵ
Nôn là triệu chứng thường xuất hiện sớm trong trường hợp tiêu chảy do Rotavirus hoặc do tụ cầu, có thể xảy ra liên tục hoặc chỉ vài lần Tình trạng này khiến trẻ mệt mỏi và làm trầm trọng thêm tình trạng mất nước.
Biếng ăn: Có thể xuất hiện sớm hoặc khi trẻ tiêu chảy vài ngày, trẻ thường từ chối các thức ăn thông thường, chỉ thích uống nước [4].
Trẻ em thường tỉnh táo, nhưng khi mất nước, chúng có thể trở nên quấy khóc, thậm chí li bì hoặc hôn mê trong trường hợp mất nước nặng, dẫn đến sốc giảm khối lượng tuần hoàn.
Khi quan sát trẻ uống nước, nếu trẻ có dấu hiệu mất nước, chúng sẽ uống một cách háo hức và có thể khóc nếu không được cho uống Trong trường hợp mất nước nặng, trẻ sẽ có xu hướng uống kém hoặc không thể uống được.
Mắt: Nhìn xem có trũng không? Hỏi người mẹ có khác khi bình thường?
Nước mắt: khi trẻ khóc xem có nước mắt không?
Miệng và lưỡi khô hay ướt: Phải nhìn bên trong niêm mạc miệng, má để đánh giá.
Để đánh giá độ chun giãn của da, bạn có thể dùng ngón tay cái và trỏ véo nhẹ vùng da bụng hoặc mặt trước đùi Nếu nếp da mất chậm hoặc kéo dài hơn 2 giây, đây có thể là dấu hiệu của tình trạng mất nước Cần lưu ý rằng đối với trẻ em bụ bẫm, trẻ bị phù hoặc suy dinh dưỡng thể teo đét, việc đánh giá này cần được kết hợp với các triệu chứng khác để có cái nhìn toàn diện về tình trạng mất nước.
Khi cơ thể bị mất nước nặng, da ở chân và tay thường trở nên lạnh và ẩm, với dấu hiệu nổi vân tím Trong trạng thái bình thường, da ở những vùng này ấm và khô, trong khi móng tay có màu hồng.
Mạch: Khi mất nước, mạch quay và mạch đùi nhanh hơn, nếu nặng mạch nhỏ và yếu.
Thở: Tần số tăng khi trẻ bị mất nước nặng do toan chuyển hoá.
+ Giảm dưới 5%: Chưa có dấu hiệu mất nước trên lâm sàng.
+ Mất 5 -10 %: Có biểu hiện mất nước vừa và nhẹ.
+ Mất nước trên 10%: Có biểu hiện mất nước nặng.
Thóp trước: Khi có mất nước nhẹ và trung bình thóp trước lõm hơn bình thường và rất lõm khi có mất nước nặng.
Sốt và nhiễm khuẩn: Trẻ ỉa chảy có thể bị nhiễm khuẩn phối hợp, phải khám toàn diện tìm các dấu hiệu nhiễm khuẩn kèm theo.
Co giật: Một số nguyên nhân gây co giật trong tiêu chảy như sốt cao, hạ đường huyết, tăng hoặc hạ natri máu.
Chướng bụng: Thường do hạ kali máu hoặc do dùng các thuốc cầm ỉa bừa bãi [4].
1.4.4 Các xét nghiệm cận lâm sàng
Điện giải đồ: Xác định tình trạng rối loạn điện giải.
Công thức bạch cầu: Bạch cầu đa nhân trung tính tăng cao trong các tình trạng nhiễm khuẩn.
Soi tươi phân: Tìm hồng cầu, bạch cầu và ký sinh trùng.
Cấy phân: Thường ít giá trị trong điều trị vì thường muộn [7].
Đánh giá mức độ mất nước
- Đánh giá mức độ mất nước hoàn toàn dựa trên thăm khám lâm sàng.
1.5.1 Đánh giá các mức độ mất nước theo chương trình CDD
Bảng 1.1 Phân loại mức độ mất nước
Dấu hiệu Chưa mất nước Có mất nước Mất nước nặng
Toàn trạng * Tốt, tỉnh táo Vật vã, kích thích * Li bì, hôn mê, mệt lả *
Mắt Bình thường Trũng Rất trũng và khô
Nước mắt Có Không có nước mắt Không
Miệng lưỡi Ướt Khô Rất khô
* Uống kém hoặc bình thường * không uống được *
Nếp véo da * Mất nhanh * Mất chậm < 2 giây * Mất rất chậm> 2giây *
Dấu hiệu Chưa mất nước Có mất nước Mất nước nặng
CĐ mức độ Không có dấu hiệu Có ≥ 2 dấu hiệu trong Có ≥ 2 dấu hiệu trong mất nước mất nước đó có ≥ 1 dấu hiệu * đó có ≥ 1 dấu hiệu *
Phác đồ ĐT Phác đồ A Phác đồ B Phác đồ C
Khi đánh giá tình trạng mất nước, không phải tất cả bệnh nhân đều thể hiện đầy đủ các dấu hiệu Tuy nhiên, có ba dấu hiệu quan trọng cần chú ý: toàn trạng, khát và nếp véo da Để xác định bệnh nhân bị mất nước, cần có ít nhất hai dấu hiệu, trong đó phải có một dấu hiệu trong ba dấu hiệu quan trọng này.
1.5.2 Đánh giá mức độ mất nước theo chương trình chiến lược xử trí lồng ghép bệnh trẻ em (IMCI)
Bảng 1.2 Đánh giá và phân loại lâm sàng tiêu chảy mất nước cho trẻ từ 2 tháng đến 5 tuổi (*)
Dấu hiệu mất nước Đánh giá tình Điều trị trạng mất nước
Hai trong các dấu hiệu sau
Li bì hay khó đánh thức
Không uống được hoặc uống kém Mất nước nặng Phác đồ C Nếp véo da mất rất chậm
Hai trong các dấu hiệu sau:
Mắt trũng Có mất nước Phác đồ B
Khát, uống nước háo hức
Nếp véo da mất chậm
Không đủ các dấu hiệu để phân loại Không mất nước Phác đồ A có mất nước hoặc mất nước nặng
Bảng 1.3 Đánh giá và phân loại lâm sàng tiêu chảy mất nước cho trẻ từ 1 tuần đến 2 tháng tuổi.*
Dấu hiệu mất nước Đánh giá tình Điều trị trạng mất nước
Hai trong các dấu hiệu sau:
Ngủ li bì hay khó đánh thức
Mất nước nặng Phác đồ C Nếp véo da mất rất chậm
Hai trong các dấu hiệu sau:
Mắt trũng Có mất nước Phác đồ B
Nếp véo da mất chậm
Không đủ các dấu hiệu để phân loại có mất nước hoặc mất nước nặng Không mất nước Phác đồ A
( WHO, UNICEF, Bộ y tế Việt Nam (2003)[2]. ĐIỀU TRỊ TIÊU CHẢY CẤP
Liệu pháp bù dịch
WHO và UNICEF đã khuyến cáo về một liệu trình điều trị tiêu chảy mới cho trẻ em, dựa trên nền tảng của liệu trình cũ nhưng đã được cải tiến, mang lại hiệu quả cao hơn Việt Nam có đủ điều kiện để triển khai liệu trình này.
Có ba vấn đề trong liệu trình điều trị tiêu chảy mới ở trẻ em theo WHO và UNICEF Đó là:
- Dùng ORS (mới) có tỷ trọng thấp.
- Kết hợp việc bổ sung kẽm.
- Dùng các thuốc chữa tiêu chảy.
1.6.1 Sử dụng dung dịch ORS
ORS là thành phần lý tưởng cho bệnh nhân bị tiêu chảy, đặc biệt là do tả và các loại tiêu chảy khác Công thức của ORS giúp bù dịch an toàn cho trẻ nhỏ mà không ảnh hưởng đến chức năng thận chưa hoàn chỉnh Ngoài ra, ORS cũng hiệu quả trong việc điều trị tình trạng mất nước ưu trương và nhược trương Chính vì những đặc điểm này, ORS đã được sử dụng để điều trị thành công hàng triệu ca tiêu chảy ở nhiều độ tuổi và nguyên nhân khác nhau.
Lợi ích của việc bù dịch bằng đường uống so với truyền dịch là rất rõ ràng ORS đơn thuần qua đường uống có khả năng phục hồi đến 95% trường hợp tiêu chảy mất nước trung bình Phương pháp này có thể được sử dụng rộng rãi, với chi phí thấp và không yêu cầu thiết bị vô trùng Hơn nữa, bà mẹ có thể tham gia tích cực vào quá trình điều trị, góp phần nâng cao hiệu quả phục hồi sức khỏe cho trẻ.
Tuy nhiên ORS không làm giảm số lần đi tiêu chảy, khối lượng phân và thời gian tiêu chảy Bù dịch bằng đường uống có những hạn chế sau:
- Nôn nhiều trên 3 lần/1 giờ.
- Mất nước nặng trong khi chờ đợi dịch truyền phải cho uống bằng ống thông mũi dạ dày.
- Không uống được hay từ chối uống.
- Chướng bụng hay liệt ruột: do sử dụng thuốc cầm tiêu chảy, thiếu kali.
- Pha và cho uống không đúng cách: pha đậm đặc hay cho uống nhanh có thể gây nôn.
Dung dịch ORS mới có tỷ trọng thấp với nồng độ natri chloride 2,6g/l và glucose 13,5g/l, tổng độ thẩm thấu đạt 245mOsm/l Ngược lại, dung dịch ORS cũ có nồng độ natri chloride 3,5g/l, glucose 20g/l và tổng độ thẩm thấu là 311mOsm/l Do đó, dung dịch ORS mới có tỷ trọng và độ thẩm thấu thấp hơn so với dung dịch ORS cũ.
Nghiên cứu cho thấy trẻ em sử dụng dung dịch ORS có tỷ trọng thấp giảm 33% số lượng trẻ cần truyền dịch, giảm 20% số lượng phân bài tiết và giảm 30% số trẻ bị nôn so với nhóm trẻ sử dụng dung dịch ORS có tỷ trọng cao.
Kẽm đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chức năng miễn dịch và phục hồi biểu mô ruột Tại các nước đang phát triển, tỷ lệ trẻ em thiếu kẽm lên tới 30% - 40% Do đó, việc bổ sung kẽm cho trẻ em trong trường hợp tiêu chảy là rất cần thiết Các nghiên cứu cho thấy trẻ em được bổ sung kẽm hồi phục nhanh hơn, giảm 20% thời gian tiêu chảy, giảm 20% nguy cơ kéo dài trên 7 ngày và giảm số lượng phân từ 18% đến 59%.
Nghiên cứu của Trần Thị Thanh Tâm tại Bệnh viện Nhi đồng 2 cho thấy việc bổ sung kẽm cho trẻ em bị tiêu chảy kéo dài có hiệu quả rõ rệt Cụ thể, ở những trẻ có mức kẽm huyết thanh thấp, việc bổ sung kẽm giúp rút ngắn thời gian tiêu chảy và tăng trọng lượng cơ thể một cách đáng kể.
Việc bổ sung kẽm cho trẻ không chỉ hỗ trợ trong điều trị và phòng ngừa mà còn giúp giảm tỷ lệ tiêu chảy lên đến 18% so với trẻ không được bổ sung kẽm.
1.6.3 Dùng các thuốc chữa tiêu chảy
Thuốc chế từ vi khuẩn lành tính được sử dụng để chống loạn khuẩn, kích thích sản xuất IgA và phục hồi khả năng hấp thu của niêm mạc ruột Các loại thuốc thường dùng bao gồm antibio, bolactyl, bacillus claussi và saccharomyces boulardii Việc sử dụng Biolac trong điều trị tiêu chảy và rối loạn tiêu hóa do kháng sinh ở trẻ em đã rút ngắn thời gian ngừng tiêu chảy trung bình 0,8 ngày và thời gian điều trị trung bình 0,4 ngày cho bệnh nhân tiêu chảy cấp, đồng thời giúp cải thiện triệu chứng tiêu chảy sau 3 ngày điều trị.
Nghiên cứu của Hoàng Tích Huyền chỉ ra rằng Racecadoril (biệt dược Hidrasec) là một loại thuốc mới hiệu quả trong điều trị tiêu chảy ở trẻ em Thuốc này giúp ức chế sự tăng tiết, phục hồi cân bằng nước và điện giải, đồng thời giảm thể tích phân và rút ngắn thời gian tiêu chảy.
1.7 Xử trí và chăm sóc trẻ em dưới 5 tuổi bị bệnh tiêu chảy tại nhà.
1.7.1 Nguyên tắc chung: Khi mắc tiêu chảy dẫn đến tình trạng ức chế sự hấp thu nước và muối (chất điện giải Na + , CL - và Kali), tăng bài tiết nước và muối trong lòng ruột, từ đó hiện diện một khối lượng dịch bất thường, kích thích gây tiêu chảy Do vậy vấn đề cơ bản của xử trí tiêu chảy là phải bù ngay một lượng nước, điện giải tương ứng và lượng dự phòng có thể mất tiếp theo.
- Dự phòng mất nước và điện giải nếu có theo đường uống
- Xử trí, bù lượng nước, điện giải nhanh chóng và đúng đắn khi có mất nước [16].
- Chăm sóc, cung cấp dinh dưỡng cho cơ thể.
1.7.2 Xử trí bệnh tiêu chảy tại nhà: Thực hành theo 4 nguyên tắc sau:
Nguyên tắc đầu tiên trong việc chăm sóc trẻ bị tiêu chảy là tăng cường lượng dịch cho trẻ Ngay khi trẻ có dấu hiệu tiêu chảy, hãy cho trẻ uống nhiều hơn bình thường, và nếu trẻ còn bú mẹ, hãy tăng cường cho trẻ bú Trong trường hợp mẹ thiếu sữa, có thể cho trẻ uống sữa bò pha loãng với tỉ lệ gấp đôi Sử dụng các loại dịch có sẵn tại nhà hoặc pha dung dịch ORS theo hướng dẫn trên bao bì, cho trẻ uống trong vòng 24 giờ; nếu dịch không hết, hãy bỏ đi và pha gói mới.
Để bù nước cho trẻ, nếu trẻ dưới 2 tuổi, hãy cho trẻ uống 50-100ml (1/4-1/2 cốc) sau mỗi lần đi ngoài Đối với trẻ trên 2 tuổi, lượng nước cần uống gấp đôi, từ 100-200ml, và trẻ lớn có thể uống theo nhu cầu Cần lưu ý rằng dung dịch ORS không phải là thuốc điều trị nguyên nhân gây bệnh.
Nếu không có ORS, nước cháo muối có thể được sử dụng như một giải pháp thay thế Tuy nhiên, cần lưu ý rằng nước cháo muối không phải là thực phẩm chính cho trẻ em và không thể thay thế cho bữa ăn bình thường Hãy đảm bảo rằng nước cháo muối không được sử dụng hết trong ngày.
Cháo cần được đổ đi sau 4 giờ trong mùa hè hoặc 6 giờ trong mùa đông để tránh nguy cơ nhiễm khuẩn Thay vào đó, có thể sử dụng một số dung dịch thay thế như dung dịch muối đường hoặc nước trái cây.
-Nguyên tắc thứ hai: Bổ xung thêm kẽm trong 10-14 ngày
• 10mg/ngày ( trẻ dưới 6 tháng tuổi)
• 20mg/ngày ( trẻ trên 6 tháng tuổi)
Một số giải pháp phòng bệnh tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi
Để phòng ngừa bệnh tiêu chảy hiệu quả, cộng đồng cần chú trọng đến những biện pháp gắn liền với sinh hoạt và lối sống tự nhiên Những phương pháp này không chỉ đơn giản mà còn mang lại hiệu quả cao trong việc bảo vệ sức khỏe.
1.8.1 Nuôi con bằng sữa mẹ: Nuôi con hoàn toàn bằng sữa mẹ từ khi sinh đến 4 tháng hoặc 6 tháng tuổi Sữa mẹ đảm bảo vệ sinh, chứa kháng thể bảo vệ là dịch tự nhiên không tốn kém và sữa mẹ dung nạp rất tốt.
1.8.2 Cho trẻ ăn sam (ăn dặm) sau 4 đến 6 tháng nếu mẹ đủ sữa
-Thức ăn bổ sung thêm phải đủ chất dinh dưỡng, đủ năng lượng.
-Chế biến, bảo quản và dùng nguồn nước hợp vệ sinh để chế biến.
- Thức ăn khi chế biến phải từ loãng, sền sệt đến đặc (theo độ tuổi của trẻ) [58].
1.8.3 Sử dụng nguồn nước sạch cho vệ sinh và dùng trong ăn uống: Thống kê cho thấy rằng những gia đình, cộng đồng sử dụng nguồn nước sạch ít có nguy cơ bị bệnh đường ruột, đặt biệt là bệnh tiêu chảy.
1.8.4 Rửa tay sạch bằng xà phòng
- Trước khi chế biến thức ăn.
- Trước khi cho trẻ ăn
- Sau mỗi lần đi đại tiện, tiểu tiện, sau khi dọn phân và vệ sinh cho trẻ.
1.8.5 Sử dụng nhà tiêu hợp vệ sinh
Bệnh tiêu chảy lây truyền chủ yếu qua đường ăn uống khi thực phẩm và nước uống bị nhiễm phân chứa mầm bệnh, đặc biệt là khi không được xử lý nhiệt hoặc đã xử lý nhưng dễ tái nhiễm Để ngăn ngừa lây nhiễm, cần quản lý chặt chẽ phân người bằng cách xây dựng nhà tiêu xa nguồn nước sạch.
1.8.6 Xử lý an toàn phân trẻ em, đặc biệt khi trẻ bị tiêu chảy : Đa số người dân có quan niệm phân trẻ em không có tác hại như phân người lớn, quan niệm sai lầm này đã dẫn cơ hội dễ lây lan mầm bệnh và hậu quả của sự tái nhiễm Do vậy sau khi trẻ đi ngoài cần nhanh chóng dọn sạch, đổ vào nơi an toàn (nhà tiêu) làm vệ sinh cho trẻ và cả người mẹ hoặc người tiếp xúc với phân trẻ.
1.8.7 Tiêm phòng gây miễn dịch cho trẻ: Tiêm đủ, đúng các loại Vắc xin phòng 6 bệnh truyền nhiễm trẻ em là biện pháp phòng bệnh hữu hiệu nhất trong đó có bệnh tiêu chảy Hiện nay đã có vaccin phòng tiêu chảy doRotavirus [20]
Một số yếu tố liên quan đến bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
Sữa mẹ là nguồn dinh dưỡng tốt nhất cho trẻ sơ sinh, đặc biệt trong 6 tháng đầu đời Việc cho trẻ ăn thức ăn khác có thể dẫn đến rối loạn tiêu hóa và tiêu chảy.
Nuôi con bằng sữa mẹ là phương pháp tự nhiên, kinh tế và hiệu quả để bảo vệ sức khỏe của mẹ và trẻ Tuy nhiên, nhiều bà mẹ hiện nay lại chọn sữa công thức do lý do công việc, đi công tác, hoặc thiếu sữa Một yếu tố quan trọng khác cũng góp phần là sự thiếu hiểu biết của các bà mẹ về lợi ích của việc nuôi con bằng sữa mẹ.
1.9.2 Chế độ ăn dặm và nuôi dưỡng trẻ Ăn dặm là quá trình ăn uống của trẻ chuyển tiếp dần từ sữa mẹ đến thức ăn của gia đình Sữa mẹ tuy giàu năng lượng, nhưng từ tháng thứ 6, không cung cấp đủ các chất cần thiết cho sự phát triển bình thường của trẻ nên không thể nuôi trẻ bằng sữa mẹ đơn thuần từ lúc đẻ đến khi cai sữa Vì vậy cần cho trẻ ăn bổ sung để trẻ phát triển tốt, phòng ngừa bệnh tật.
Nghiên cứu của Popkin BM chỉ ra rằng trẻ em bắt đầu ăn dặm trước 5 tháng tuổi có nguy cơ mắc bệnh tiêu chảy cao gấp 2-3 lần so với những trẻ cùng độ tuổi vẫn đang được bú mẹ hoàn toàn.
1.9.3 Yếu tố vệ sinh môi trường
Môi trường nước ta đang đối mặt với ô nhiễm nghiêm trọng từ phân, rác thải, nước thải và khói bụi từ các nhà máy công nghiệp Đặc biệt, phân người chứa nhiều mầm bệnh nguy hiểm, nếu không được quản lý đúng cách, sẽ trở thành nguồn lây bệnh Để kiểm soát nguồn phân, các gia đình cần xây dựng các công trình vệ sinh hợp lý.
1.9.4 Các yếu tố thuộc về bà mẹ
Bệnh tiêu chảy ở trẻ em là một vấn đề sức khỏe nghiêm trọng, được Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) khuyến cáo cần được phòng ngừa và điều trị tại nhà Kiến thức và thực hành của các bà mẹ đóng vai trò quan trọng trong việc phòng ngừa bệnh và tự điều trị ngay từ khi có triệu chứng đầu tiên Việc này không chỉ giúp giảm tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy mà còn góp phần giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em do căn bệnh này gây ra.
1.9.4.1 Kiến thức, thực hành của bà mẹ về bệnh tiêu chảy
Bà mẹ cần hiểu rõ nguyên nhân gây ra bệnh tiêu chảy để có biện pháp phòng ngừa hiệu quả Nhiều bà mẹ cho rằng tiêu chảy chủ yếu do ăn uống không hợp vệ sinh (78%), điều này dẫn đến việc thực hành phòng bệnh không đầy đủ Để bảo vệ sức khỏe trẻ, các bà mẹ cần nắm vững các biện pháp phòng bệnh như nuôi con bằng sữa mẹ, cho trẻ ăn đúng thời gian, sử dụng nước sạch, rửa tay thường xuyên, và tiêm phòng đầy đủ Việc cung cấp kiến thức cụ thể, chi tiết về chăm sóc trẻ khi bị tiêu chảy là rất cần thiết, giúp bà mẹ biết cách cho trẻ bú, ăn uống hợp lý và khi nào cần đưa trẻ đến cơ sở y tế Nghiên cứu cho thấy, chỉ có 68% bà mẹ có kiến thức đúng về chăm sóc trẻ khi bị tiêu chảy, và tỷ lệ thực hành đúng là 62,5% Điều này cho thấy cần nâng cao nhận thức và kiến thức cho các bà mẹ để cải thiện sức khỏe trẻ em.
1.9.4.2 Một số yếu tố ảnh hưởng đến kiến thức, thực hành của bà mẹ về bệnh tiêu chảy.
Kiến thức và thực hành của mẹ chịu ảnh hưởng lớn từ văn hóa, nghề nghiệp, điều kiện kinh tế và độ tuổi Ở nhiều vùng sâu, vùng xa, vẫn tồn tại phong tục lạc hậu như cai sữa trước một tuổi, cho trẻ ăn sam sớm, không rửa tay và không xử lý phân trẻ em hợp vệ sinh Những thói quen này khó thay đổi, dẫn đến thực hành sai lầm của các bà mẹ, làm tăng nguy cơ trẻ bị tiêu chảy.
Nhận thức của các bà mẹ về phong tục, tập quán và kiến thức chăm sóc dinh dưỡng có ảnh hưởng lớn đến sức khỏe trẻ em, đặc biệt là trong việc phòng ngừa bệnh tiêu chảy Nhiều bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy không tuân theo phác đồ điều trị mà tự ý xử lý dựa trên kinh nghiệm hoặc truyền miệng, dẫn đến việc không cho trẻ ăn hoặc uống các thực phẩm dinh dưỡng, hoặc cho trẻ ăn những thực phẩm không có lợi cho sự hồi phục.
Việc đưa trẻ đến các cơ sở y tế khi bị bệnh tiêu chảy là rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến kết quả điều trị và khả năng hồi phục Điều này không chỉ tác động đến sức khỏe hiện tại của trẻ mà còn có ảnh hưởng lâu dài đến sự phát triển của trẻ.
1.9.5 Các yếu tố bản thân của trẻ
Tiêu chảy cấp thường xảy ra ở trẻ từ 6 đến 24 tháng tuổi, đặc biệt là trong giai đoạn ăn dặm khi trẻ tiếp xúc nhiều hơn với môi trường xung quanh Trong thời gian này, các yếu tố bảo vệ chống tiêu chảy từ sữa mẹ giảm dần, khiến trẻ dưới 12 tháng tuổi có nguy cơ mắc bệnh cao hơn.
Trẻ em bị suy dinh dưỡng có nguy cơ mắc tiêu chảy cao hơn so với trẻ em có cân nặng bình thường, theo nghiên cứu của Phan Thị Bích Ngọc Cụ thể, tỷ lệ trẻ cân nặng bình thường mắc tiêu chảy là 25,98%, trong khi tỷ lệ trẻ suy dinh dưỡng mắc tiêu chảy lên đến 65,22% Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,001.
Trẻ bị suy giảm miễn dịch cũng như trẻ nhiểm HIV thì dể mắc tiêu chảy hơn những trẻ khác.
1.9.6 Một số yếu tố liên quan khác
Đảng và Nhà nước chú trọng đến sức khỏe bà mẹ và trẻ em, đặc biệt là trẻ em dưới 5 tuổi, thông qua nhiều chương trình Y tế quốc gia Tuy nhiên, việc sử dụng dịch vụ y tế cơ sở của các bà mẹ có con nhỏ vẫn còn hạn chế.
Nghiên cứu của Phan Việt Hằng và Hoàng Anh Tuấn chỉ ra rằng chỉ có 48,9% bà mẹ có con dưới 5 tuổi mắc tiêu chảy đã tiếp cận và sử dụng dịch vụ y tế.
Truyền thông giáo dục sức khỏe là một trong những phương pháp hiệu quả nhất để bảo vệ và nâng cao vệ sinh môi trường Cải thiện vệ sinh môi trường và cung cấp nước sạch luôn là mối quan tâm hàng đầu của Tổ chức Y tế Thế giới và các quốc gia, đặc biệt là những nước đang phát triển.
TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đối tượng, thời gian và địa điểm nghiên cứu
2.1.1 Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu gồm tất cả các cặp mẹ con bị tiêu chảy cấp điều trị tại Khoa nhi Bệnh viện Đa khoa tỉnh trong thời gian từ tháng 3 đến tháng 9 năm 2021
* Tiêu chuẩn lựa chọn: Các bà mẹ (hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp) có con dưới 5 tuổi bị tiêu chảy cấp đồng ý tham gia nghiên cứu.
Các bà mẹ (hoặc người nuôi dưỡng trực tiếp) không đồng ý tham gia nghiên cứu.
2.1.2 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
*Địa điểm: Khoa Nhi bệnh viện đa khoa tỉnh
*Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 3 năm 2021 đến tháng 9 năm 2021
Phương pháp nghiên cứu
- Thiết kế nghiên cứu: mô tả cắt ngang
2.2.2 Cỡ mẫu và phương pháp chọn mẫu
Chọn mẫu thuận tiện những cặp bà mẹ có con điều trị nội trú đạt tiêu chuẩn nghiên cứu
Các biến số nghiên cứu
2.3.1 Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 5 tuổi
-Tuổi của trẻ : Được tính từ khi sinh đến khi vào viện và được làm tròn theo tháng.
- Giới tính: Nam hay Nữ.
- Nơi ở: Thành thị hoặc nông thôn
- Thời gian mắc: Là thời điểm bệnh nhân mắc tiêu chảy tới khi bệnh nhân khỏi tiêu chảy hoặc bệnh nhân ra viện.
- Phân bố tỷ lệ TCC của trẻ dưới 5 tuổi theo nhóm tuổi:
.Từ 0 đến dưới 6 tháng tuổi
.Từ 6 đến dưới 12 tháng tuổi
Từ 12 đến dưới 24 tháng tuổi
.Từ 24 đến dưới 60 tháng tuổi
- Phân bố các nguyên nhân gây TCC: Rotavirus, Shigella, E.coli,
V.Cholerae, Salmonella, Campylobacter, thể phối hợp, không xác định được nguyên nhân.
2.3.2 Các yếu tố thuộc về gia đình trẻ
- Kinh tế hộ gia đình: Theo quy định của bộ Lao động – Thương binh và xã hội về chuẩn hộ nghèo giai đoạn 2011- 2015.
+ Hộ nghèo: Thu nhập bình quân trên đầu người dưới 400.000 đồng/người/ tháng đối với nông thôn và dưới 500.000 đồng/người/ tháng đối với thành thị.
Hộ không nghèo được xác định khi có thu nhập bình quân trên đầu người đạt từ 400.000 đồng/tháng trở lên ở khu vực nông thôn và từ 500.000 đồng/tháng trở lên ở khu vực thành thị.
- Nghề nghiệp của bà mẹ : Nông dân, buôn bán, nội trợ, viên chức, nghề khác.
- Trình độ học vấn của các bà mẹ có con dưới 5 tuổi
+ Tiểu học là những người đã học hết lớp lớp 5/12.
+ Trung học cơ sở là những người đã học hết lớp lớp 9/12.
+ Trung học phổ thông là những người đã học hết lớp lớp 12/12.
+ Trình độ trên Trung học phổ thông là những bà mẹ học hết hoặc đang học trung cấp, cao đẳng, đại học và sau đại học
+ Đối với giếng đào dựa vào:
Phải nằm cách nhà tiêu (kể cả nhà tiêu của nhà hàng xóm), chuồng gia súc hoặc nguồn gây ô nhiễm khác ít nhất 10m.
Thành giếng phải được xây bằng gạch, đá hoặc thẻ ống bi sâu ít nhất 3m kể từ mặt đất.
Sàn giếng phải được xây bằng gạch, đá hoặc đổ bê tông, không bị nứt. Hợp vệ sinh: đầy đủ 3 tiêu chí trên.
Không hợp vệ sinh: không đủ 3 tiêu chí trên.
+ Đối với giếng khoang dựa vào:
Phải nằm cách nhà tiêu (kể cả nhà tiêu của nhà hàng xóm), chuồng gia súc hoặc nguồn gây ô nhiễm khác ít nhất 10m.
Sàn giếng phải được xây bằng gạch, đá hoặc đổ bê tông, không bị nứt Hợp vệ sinh: đầy đủ 2 tiêu chí trên.
Không hợp vệ sinh: không đủ 2 tiêu chí trên.
+ Hố xí hợp vệ sinh: khi đạt tất cả các tiêu chí chính và từ 3 tiêu chí phụ trở lên.
+ Hố xí không hợp vệ sinh: khi không đầy đủ các tiêu chí của hố xí hợp vệ sinh.
(Bảng kiểm dùng để đánh giá vệ sinh hố xí đính kèm ở phụ lục 2)
2.3.3 Kiến thức, thực hành của các bà mẹ về bệnh tiêu chảy
Bộ câu hỏi được xây dựng theo nội dung nghiên cứu bao gồm 2 phần: Đánh giá kiến thức và đánh giá thực hành.
*Đánh giá kiến thức của bà mẹ về bệnh tiêu chảy
+ Kiến thức về chăm sóc trẻ, nhận biết bệnh tiêu chảy
+ Kiến thức bà mẹ về cách cho bú, uống nước và ăn khi bị tiêu chảy
+Kiến thức của bà mẹ về gói ORS, nước pha gói ORS và thời gian bảo quản ORS
+ Kiến thức của bà mẹ về hậu quả bệnh tiêu chảy
Kiến thức của bà mẹ về các biện pháp phòng bệnh là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc ngăn ngừa tiêu chảy ở trẻ em Nếu bà mẹ thực hiện ít nhất 5 trong số 7 biện pháp phòng bệnh tiêu chảy, thì sẽ đạt tiêu chuẩn cần thiết để bảo vệ sức khỏe cho trẻ Những biện pháp này không chỉ giúp giảm nguy cơ mắc bệnh mà còn nâng cao sự an toàn và sức đề kháng cho trẻ.
- Thời gian cai sữa cho trẻ:
Cai sữa sớm : trước 18 tháng
Cai sữa đúng : từ 18- 24 tháng
- Cai sữa muộn: trên 24 tháng tuổi
- Tình trạng SDD theo phân loại của WHO :
+ SDD độ I: Cân nặng dưới - 2SD đến - 3SD tương đương với cân nặng còn 70 – 80% so với cân nặng của trẻ bình thường.
+ SDD độ II: Cân nặng dưới - 3SD đến - 4SD tương đương với cân nặng còn 60 – 70% so với cân nặng của trẻ bình thường.
+ SDD độ III: Cân nặng dưới - 4SD tương đương với cân nặng còn dưới 60% so với cân nặng của trẻ bình thường.
Đánh giá kỹ năng thực hành của bà mẹ trong việc chăm sóc trẻ bị tiêu chảy là rất quan trọng, đặc biệt là trong việc bù dịch cho trẻ Việc lựa chọn loại dịch bù phù hợp và thực hiện đúng cách sẽ giúp trẻ nhanh chóng hồi phục sức khỏe Bà mẹ cần nắm vững kiến thức về các loại dung dịch bù nước, cũng như cách pha chế và cho trẻ uống đúng liều lượng để đảm bảo hiệu quả điều trị.
Khi trẻ bị bệnh tiêu chảy, việc chăm sóc đúng cách từ các bà mẹ là rất quan trọng Các bà mẹ cần thực hành các biện pháp chăm sóc như cung cấp đủ nước và điện giải để bù đắp lượng mất mát, đồng thời theo dõi tình trạng sức khỏe của trẻ Ngoài ra, các bà mẹ cũng nên biết cách xử trí kịp thời khi trẻ có dấu hiệu nghiêm trọng, như sốt cao hoặc mất nước, để đảm bảo an toàn cho trẻ Việc hiểu rõ các phương pháp chăm sóc và xử trí sẽ giúp trẻ nhanh chóng hồi phục và tránh được những biến chứng không mong muốn.
2.4 Phương pháp thu thập thông tin
2.4.1 Công cụ và phương pháp thu thập thông tin
Chúng tôi đã tiến hành phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ có con dưới 5 tuổi đang điều trị TCC tại khoa Nhi của Bệnh viện tỉnh Sử dụng bộ câu hỏi được thiết kế sẵn, chúng tôi nhằm thu thập thông tin phù hợp với mục tiêu nghiên cứu.
Phỏng vấn trực tiếp các bà mẹ được thực hiện bởi các bác sĩ làm việc tại khoa Nhi Bệnh viện đa khoa tỉnh
Bệnh nhi đủ điều kiện nghiên cứu được các bác sĩ khám và ghi các thông tin thu thập được của từng bệnh nhân vào mẫu phiếu nghiên cứu.
2.4.2 Phương pháp phân tích và xử lý số liệu
Các số liệu được làm sạch và mã hóa trước khi tiến hành nhập liệu và phân tích Phân tích và xử lý dữ liệu được thực hiện trên phần mềm SPSS 16.0, áp dụng các thuật toán thống kê chuyên dụng trong lĩnh vực y học.
KẾT QUẢ
Tỷ lệ bệnh nhân tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
Biểu đồ 3.1 Tỷ lệ trẻ dưới 5 tuổi mắc tiêu chảy cấp tại thời điểm nghiên cứu
Nhận xét: Trong số 833 bệnh Nhi đến điều trị tại Khoa Nhi từ tháng 3 đến tháng 9 có 45 bệnh nhân được chẩn đoán tiêu chảy cấp chiếm 5,4%.
Bảng 3.1 Phân bố tỷ lệ trẻ mắc tiêu chảy cấp theo giới tính, nơi ở Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Nhận xét : Tiêu chảy cấp ở trẻ nam ( 55,6%) nhiều hơn trẻ nữ ( 44,4%).
Tỷ lệ trẻ sống ở nông thôn ( 66,7%) nhiều hơn thành thị ( 33,3%)
Bảng 3.2 Phân bố tỷ lệ trẻ mắc tiêu chảy cấp theo nhóm tuổi
Nhóm tuổi trẻ Tần số Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Đa số trẻ bị tiêu chảy tập trung ở nhóm tuổi dưới 24 tháng chiếm tỷ 93,4 %, trong đó 12 tháng đến dưới 24 tháng tuối chiếm tỷ lệ 46,7%.
Bảng 3.3 Phân bố tỷ lệ trẻ mắc tiêu chảy cấp theo nguyên nhân gây bệnh
Nguyên nhân Tần số Tỷ lệ (%)
Có 51,1 % trẻ bị tiêu chảy cấp nguyên nhân do Rotavirus, 48,9 % trẻ bị tiêu chảy không rõ nguyên nhân.
Bảng 3.4 Phân bố tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp theo mức độ mất nước, mắc bệnh kèm theo Đặc điểm Tần số Tỷ lệ (%)
Mức độ mất nước Có mất nước 37 82,2
Mắc bệnh kèm theo Có 12 26,7
Nhận xét: Có 93,3 % trẻ nhập viện trong tình trạng mất nước và mất nước nặng, có 26,7 % trẻ nhập viện trong tình trạng có bệnh kèm theo.
Một số yếu tố liên quan đến tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
3.2.1 Các yếu tố thuộc về gia đình trẻ
Biểu đồ 3.2 Tiêu chảy theo kinh tế gia đình
Nhận xét: Kinh tế của gia đình người mẹ đa số không nghèo ( 93,3 %)
Bảng 3.5 Tỷ lệ tiêu chảy theo nghề nghiệp mẹ
Nghề nghiệp của mẹ Tần số Tỷ lệ
Nghề nghiệp của mẹ chủ yếu là nông dân chiếm 33,3%, nội trợ cũng khá cao chiếm 26,7%, buôn bán 15,6%, cán bộ viên chức chỉ chiếm tỷ lệ 4,4%.
3.2.1.3 Trình độ học vấn của mẹ
Biểu đồ 3.3 Tỷ lệ tiêu chảy với học vấn của mẹ Nhận xét:
Tỷ lệ các bà mẹ có trình độ học vấn THCS và THPT lần lượt là 28,9% và 31,1% Đáng chú ý, 35,6% các bà mẹ có trình độ học vấn trên THPT, trong khi tỷ lệ các bà mẹ có trình độ tiểu học chỉ chiếm 4,4%.
Bảng 3.6 Tỷ lệ tiêu chảy theo tuổi mẹ
Tuổi mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Tuổi trung bình của các bà mẹ chủ yếu tập trung trong nhóm từ 21- 30 tuổi chiếm 71,1%, nhóm từ 31 đến 40 chiếm 26,7%
Biểu đồ 3.4 Tỷ lệ tiêu chảy với vệ sinh nguồn nước Nhận xét :
Có 45,2% nguồn nước không hợp vệ sinh, 54,8% nguồn nước hợp vệ sinh.
Biểu đồ 3.5 Tỷ lệ tiêu chảy với tình trạng hố xí Nhận xét:
Có 24,4 % hố xí không hợp vệ sinh, 75,6% hố xí hợp vệ sinh
3.2.2 Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành và thái độ của bà mẹ 3.2.2.1 Kiến thức của bà mẹ về bệnh tiêu chảy
Bảng 3.7 Kiến thức của bà mẹ về chăm sóc trẻ
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ
Thời gian bắt đầu bú sau đẻ tốt nhất 30 phút 33 73,3
Thời gian cai sữa tốt nhất < 18 tháng 5 11,1
Thời gian bắt đầu ăn sam tốt nhất 4 - 6 tháng 15 33,3
Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sớm trong vòng 30 phút sau đẻ là 73,3%, số bà mẹ cho rằng nên cho trẻ bú muộn sau sinh chiếm 26,7%
Có 11,1% trẻ cai sữa sớm trước 18 tháng tuổi, 88,9% trẻ cai sữa sau 18 tháng tuổi
Tỷ lệ bà mẹ cho trẻ ăn sam sau 4 tháng tuổi chiếm 95,6%
Bảng 3.8 Kiến thức của bà mẹ về nhận biết bệnh tiêu chảy
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Đa số các bà mẹ ( 68,9%) nhận biết đầy đủ về các dấu hiệu của bệnh tiêu chảy ở trẻ em.
Bảng 3.9 Kiến thức của bà mẹ về cách cho bú khi trẻ bị tiêu chảy
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Theo khảo sát, chỉ có 6,7% bà mẹ cho rằng khi trẻ bị tiêu chảy, họ nên giảm lượng sữa cho trẻ, trong khi 93,3% bà mẹ vẫn duy trì hoặc tăng cường cho trẻ bú sữa như bình thường.
Bảng 3.10 Kiến thức của bà mẹ về cách cho trẻ uống nước khi trẻ bị tiêu chảy
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Khi trẻ bị tiêu chảy thì đa số các bà mẹ cho trẻ uống bình thường hoặc cho trẻ uống nhiều hơn bình thường chiếm 97,8%.
Bảng 3.11 Kiến thức của bà mẹ về cách cho trẻ ăn khi trẻ tiêu chảy
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Nhận xét: Khi trẻ bị tiêu chảy phần lớn các bà mẹ cho ăn bình thường hoặc cho ăn nhiều lên chiếm 86,7%
Bảng 3.12 Kiến thức của bà mẹ cho trẻ ăn thêm khi trẻ khỏi bệnh
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%) Ăn tăng mỗi ngày một bữa 31 68,9
Không cho trẻ ăn thêm 14 31,1
Có 68,9% bà mẹ cho ăn thêm mỗi ngày 1 bữa, 31,1% bà mẹ không cho ăn thêm.
Bảng 3.13 Kiến thức của bà mẹ về gói ORS Đúng Sai
Kiến thức của bà mẹ n Tỷ lệ (%) n Tỷ lệ (%)
Biết tác dụng của dung dịch ORS 42 93,3 3 6,7
Nghe về pha gói ORS 33 73,3 12 26,7
Theo khảo sát, 93,3% bà mẹ nhận thức được tác dụng của ORS, trong khi 73,3% đã từng nghe về cách pha chế ORS Tuy nhiên, có 26,7% bà mẹ chưa bao giờ nghe về cách pha ORS, và 77,8% biết cách thực hiện Đáng chú ý, vẫn còn 22,2% bà mẹ không nắm rõ cách pha ORS.
Bảng 3.14 Kiến thức của bà mẹ về loại nước pha ORS
Loại ướcc pha ORS Tần số Tỷ lệ (%)
Nước đun sôi để nguội 40 88,9
Có 88,9% bà mẹ pha dung dịch ORS bằng nước đun sôi để nguội, 11,1% pha bằng nước đóng chai, không có bà mẹ nào pha ORS bằng nước nóng
Bảng 3.15 Kiến thức của bà mẹ về thời gian bảo quản dung dịch ORS
Kiến thức của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Có 77,8% có kiến thức đúng về thời gian bảo quản ORS trong 24 giờ,
11,1 % bà mẹ cho rằng dùng trên 24 giờ, 11,1 % bà mẹ không biết thời gian bảo quản ORS.
Biểu đồ 3.6 Kiến thức của bà mẹ về hậu quả của bệnh tiêu chảy đối với trẻ em Nhận xét:
Theo khảo sát, 37,8% bà mẹ nhận định rằng tiêu chảy dẫn đến suy dinh dưỡng ở trẻ em, trong khi 48,9% cho rằng tiêu chảy có thể gây tử vong Đáng chú ý, có tới 13,3% bà mẹ không nắm rõ những hậu quả nghiêm trọng của bệnh tiêu chảy.
Biểu đồ 3.7 Kiến thức của bà mẹ về phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ Nhận xét:
Theo khảo sát, 57,7% bà mẹ có kiến thức đầy đủ về phòng bệnh tiêu chảy cho trẻ, trong khi 42,3% bà mẹ vẫn chưa đạt yêu cầu trong việc này.
3.2.2.2 Thực hành của bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy
Bảng 3.16 Thời gian bù dịch và loại dịch bù cho trẻ bị tiêu chảy
Thực hành của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Có 86,7% bà mẹ đã bù dịch sớm cho trẻ bị tiêu chảy, 88,9% các bà mẹ đã bù dịch cho trẻ bằng dung dịch ORS khi trẻ bị tiêu chảy.
Bảng 3.17 Thực hành chăm sóc của bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy
Thực hành của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%) Đúng 31 68,9
Có 68,9% bà mẹ thực hành chăm sóc đúng khi trẻ bị tiêu chảy, 31,1% bà mẹ thực hành chăm sóc không đúng khi bị tiêu chảy.
Bảng 3.18 Thực hành chăm sóc của bà mẹ khi trẻ bị tiêu chảy theo từng tiêu chí
Thực hành của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Cho trẻ uống nước Đúng 36 80
( Tính trên tổng số trẻ còn bú sữa mẹ
Nhận xét: Khi bị tiêu chảy có 75% bà mẹ cho bú đúng, 80% bà mẹ cho uống đúng và 77,8% bà mẹ cho ăn đúng.
Biểu đồ 3.8 Loại thuốc mà các bà mẹ đã dùng khi trẻ bị tiêu chảy
Bảng 3.19 Thực hành xử trí tại nhà khi trẻ bị tiêu chảy
Thực hành của bà mẹ Tần số Tỷ lệ (%)
Khám tại cơ sở y tế 21 46,7 Đến bác sĩ tư khám 13 28,8
Theo một khảo sát, 17,8% các bà mẹ tự mua thuốc điều trị tại nhà cho trẻ bị tiêu chảy Trong khi đó, 46,7% lựa chọn điều trị tại cơ sở y tế và 28,8% đưa trẻ đi khám bác sĩ tư Đáng chú ý, có 6,7% các bà mẹ không thực hiện bất kỳ biện pháp điều trị nào.
BÀN LUẬN
Tỷ lệ bệnh nhân tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
4.1.1 Tỷ lệ bệnh nhân tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
Trong nghiên cứu từ tháng 3 đến tháng 9, có 45 bệnh nhi mắc tiêu chảy cấp, chiếm 5,4% Kết quả này thấp hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Đức Hùng năm 2014, ghi nhận tỷ lệ 8,9% ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Hải Dương Tương tự, nghiên cứu của Phan Thị Bích Ngọc năm 2011 tại xã Nghĩa An, huyện Tư Nghĩa, tỉnh Quảng Ngãi cho thấy tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp là 9,4%.
Tỷ lệ bệnh nhân tiêu chảy cấp nhập viện đã giảm do ảnh hưởng của dịch Covid-19, khi các bà mẹ ngày càng chú trọng đến sức khỏe của bản thân và con cái Họ thực hiện các biện pháp phòng dịch hiệu quả như hạn chế tiếp xúc nơi đông người, vệ sinh môi trường, vệ sinh bề mặt và vật dụng quanh trẻ, cũng như đeo khẩu trang khi ra ngoài Những nỗ lực này đã góp phần làm giảm khả năng lây nhiễm bệnh tiêu chảy cấp.
4.1.2 Tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp theo giới tính, nơi ở
Bảng 3.1 cho thấy có 25 trẻ nam bị tiêu chảy chiếm 55,6% cao hơn trẻ nữ, kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự kết quả Ngô Thị Thanh Hương
( 2004) tại huyện M Đrak tỉnh Đak Lak 62,8% [28], Nguyễn Đức Hùng là
Bệnh tiêu chảy là một vấn đề phổ biến ở trẻ nhỏ, đặc biệt là ở những trẻ sống ở nông thôn, nơi tỷ lệ mắc bệnh cao hơn so với trẻ em thành phố Nguyên nhân có thể do điều kiện vệ sinh môi trường kém, nguồn nước sinh hoạt không đảm bảo và kiến thức chăm sóc trẻ em của các bà mẹ ở vùng nông thôn hạn chế hơn Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy 33,3% trẻ đang điều trị sống ở thành phố, trong khi 66,7% còn lại sống ở nông thôn Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Tuấn Tú (2010) tại Khoa tiêu hóa, Bệnh viện trẻ em Hải Phòng, cho thấy 71,6% trẻ mắc bệnh sống ở nông thôn.
4.1.3 Tỷ lệ tiêu chảy cấp theo nhóm tuổi
Kết quả nghiên cứu cho thấy trẻ dưới 2 tuổi chiếm tỷ lệ cao mắc tiêu chảy cấp, cụ thể là 15,6% dưới 6 tháng tuổi, 31,1% từ 6 đến 12 tháng tuổi và 46,7% từ 12 đến 24 tháng tuổi Tỷ lệ này tương đồng với kết quả nghiên cứu của Vũ Mạnh Tiến (2011) và Nguyễn Đức Hùng Nguyên nhân là do nguồn dự trữ kháng thể từ mẹ giảm dần, trẻ bắt đầu ăn bổ sung, tiếp xúc với môi trường và đối mặt với nguy cơ nhiễm trùng cao hơn, đồng thời hệ miễn dịch vẫn đang hoàn thiện.
4.1.4.Tỷ lệ mắc tiêu chảy cấp theo nguyên nhân gây bệnh
Tại Việt Nam, tác nhân gây tiêu chảy cấp nhập viện thường gặp nhất là
Rotavirus là một trong những nguyên nhân chính gây tiêu chảy cấp ở trẻ em, đặc biệt là ở trẻ từ 10 đến 15 tháng tuổi, với nguy cơ nhập viện cao hơn ở trẻ nhỏ Nếu không được điều trị kịp thời, trẻ có thể bị mất nước và rối loạn điện giải nghiêm trọng, đe dọa tính mạng Virus này lây lan dễ dàng qua tay bẩn và nguồn nước, dẫn đến tỷ lệ cao trẻ nhập viện do tiêu chảy cấp Theo khảo sát tại BV Nhi đồng 1, có đến 67,4% trẻ nhập viện vì tiêu chảy do Rotavirus, và 95% trẻ em bị nhiễm virus này ít nhất một lần trước 5 tuổi Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy Rotavirus chiếm 51,1% nguyên nhân gây tiêu chảy cấp ở trẻ em dưới 5 tuổi, phù hợp với các nghiên cứu trước đó.
Nguyễn Tuấn Tú khi nghiên cứu đặc điểm dịch tễ, lâm sàng của tiêu chảy do
Rotavirus ở trẻ dưới 5 tuổi tại khoa Tiêu hóa Bệnh viện trẻ em Hải phòng, trong nghiên cứu của tác giả tỷ lệ trẻ tiêu chảy do Rotavirus chiếm 48,2% [20].
4.1.5.Tỷ lệ mắc bệnh tiêu chảy cấp theo mức độ mất nước, bệnh kèm theo
Theo bảng 3.4, có tới 93,3% trẻ nhập viện trong tình trạng mất nước, cho thấy các bà mẹ thường chỉ đưa con đi viện khi đã có dấu hiệu rõ ràng Tuy nhiên, chỉ 11,1% trẻ bị mất nước nặng, cho thấy kiến thức của các bà mẹ về tình trạng này tương đối tốt Trong số trẻ điều trị tại khoa nhi BVĐK, 26,7% có bệnh kèm theo, chủ yếu là bệnh lý hô hấp, điều này phù hợp với việc hệ miễn dịch của trẻ còn yếu và dễ mắc nhiều bệnh, đặc biệt là các bệnh nhiễm khuẩn.
4.2 Một số yếu tố liên quan đến tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi
4.2.1 Các yếu tố thuộc về gia đình trẻ
Mặc dù không thuộc diện hộ nghèo, nhiều gia đình có thu nhập thấp, đặc biệt là những bà mẹ làm nông dân hoặc nội trợ, vẫn gặp khó khăn về kinh tế Do đó, kiến thức về phòng bệnh cho trẻ em trong các gia đình này còn hạn chế.
Kết quả nghiên cứu từ biểu đồ 3.2 cho thấy tỷ lệ nghèo là 6,7%, trong khi tỷ lệ không nghèo đạt 93,3% Tỷ lệ này tương đồng với nghiên cứu của Trương Thanh Phương năm 2018 tại Sóc Trăng, khi tỷ lệ nghèo là 4,8% và không nghèo là 95,2%.
Kết quả bảng 3.5 khi nghiên cứu nghề nghiệp của các bà mẹ chúng tôi thấy chủ yếu nông dân, nội trợ chiếm 60%
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi thương tự kết quả nghiên cứu của Nguyễn Đức Hùng là 59,3%[27]
Theo nghiên cứu của Nguyễn Huỳnh Bảo Nhi các bà mẹ làm nông dân,nội trợ chiếm 65%, cán bộ nhân viên là 7,9%[31]
Trong nghiên cứu về trình độ học vấn của các bà mẹ, chúng tôi ghi nhận rằng 28,9% bà mẹ có trình độ dưới trung học phổ thông, 31,1% có trình độ trung học phổ thông và 35,6% có trình độ trên trung học phổ thông Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Đức Hùng năm 2014 về bệnh tiêu chảy cấp ở trẻ dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Nhi Hải Dương Đặc biệt, tỷ lệ bà mẹ có trình độ trên trung học phổ thông trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn so với nghiên cứu của Nguyễn Viết Sơn năm 2016 về dinh dưỡng trẻ em và kiến thức thực hành về bệnh tiêu chảy ở bà mẹ có con dưới 5 tuổi tại Bệnh viện Sản Nhi Vĩnh Phúc.
4.2.1.4 Nhóm tuổi của bà mẹ
Trong nghiên cứu của chúng tôi về 45 bà mẹ có con điều trị tại Khoa Nhi BVĐK , kết quả cho thấy 71,1% bà mẹ nằm trong độ tuổi từ 21 đến 30, trong khi 26,7% thuộc nhóm tuổi từ 31 đến 40 Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Hùng Kiệt, trong đó tỷ lệ bà mẹ trong độ tuổi 21 đến 30 chiếm 72,6% khi khảo sát kiến thức và thực hành về phòng, chăm sóc trẻ bị tiêu chảy tại xã Mỹ Quý, Tháp Mười, tỉnh Đồng Tháp.
4.2.1.5 Tình trạng nguồn nước và hố xí
Nguồn nước sử dụng trong gia đình cho vệ sinh và ăn uống cần đạt tiêu chuẩn vệ sinh, với nước sạch giúp phòng ngừa hiệu quả bệnh tiêu chảy Theo biểu đồ 3.4, 45,2% nguồn nước không hợp vệ sinh, cho thấy mối liên hệ giữa chất lượng nước và tỷ lệ mắc tiêu chảy ở trẻ em dưới 5 tuổi.
Sử dụng hố xí không hợp vệ sinh là yếu tố nguy có mắc bệnh tiêu chảy. Qua biểu đồ 3.5 Tình trạng hố xí không hợp vệ sinh chiếm 24,4%
Nghiên cứu của Dương Đình Thiện, sử dụng hố xí không hợp vệ sinh là yếu tố nguy cơ kết hợp chặt chẽ với bệnh tiêu chảy.[34]
4.2.2 Các yếu tố liên quan đến kiến thức, thực hành và thái độ của bà mẹ
4.2.2.1 Kiến thức của bà mẹ về bệnh tiêu chảy
- Kiến thức về chăm sóc trẻ
Theo Bảng 3.7, có 73,3% bà mẹ cho trẻ bú ngay sau sinh, trong khi 26,7% không thực hiện điều này Tỷ lệ cho trẻ bú ngay sau sinh trong nghiên cứu của chúng tôi cao hơn đáng kể so với tỷ lệ 50,7% mà Nguyễn Đức Hùng đã ghi nhận.
Theo tổ chức Y tế Thế giới, 88,9% trẻ em nên được cai sữa sau 18 tháng tuổi, trong khi chỉ có 11,1% trẻ cai sữa trước mốc thời gian này Các bà mẹ cần nắm rõ kiến thức về thời gian cai sữa tốt nhất để đảm bảo sức khỏe cho trẻ.
Một tỷ lệ lớn trẻ em có chế độ ăn uống không phù hợp với độ tuổi, mặc dù 95,6% các bà mẹ cho rằng thời điểm ăn dặm tốt nhất cho trẻ là trên 6 tháng tuổi.
4 tháng, kết quả này tương đương với nghiên cứu của Trương Thanh Phương
Năm 2009, tại huyện Kế Sách, tỉnh Sóc Trăng, tỷ lệ bà mẹ cho trẻ bú sữa mẹ hoàn toàn trong 4 đến 6 tháng đầu chỉ đạt 85,5%, trong khi vẫn còn 4,4% bà mẹ cho trẻ ăn bổ sung trước 4 tháng tuổi Nguyên nhân chủ yếu là do tỷ lệ bà mẹ làm nông nghiệp cao, dẫn đến hạn chế về nhận thức và công việc bận rộn Thêm vào đó, sự đa dạng của thị trường sữa cũng ảnh hưởng đến quyết định nuôi con bằng sữa mẹ Một số bà mẹ còn bị ảnh hưởng bởi tư tưởng lạc hậu từ các thế hệ trước, cho rằng trẻ cần ăn bổ sung sớm để tăng cân và phát triển tốt.
Kiến thức của các bà mẹ về bệnh tiêu chảy