MỤC LỤC MỤC LỤC i CHỮ VIẾT TẮT ii MỤC LỤC BẢNG, BIỀU ĐỒ iii ĐẶT VẤN ĐỀ 1 Chương 1 TỔNG QUAN TÀI LIỆU 3 1 1 Nhiễm khuẩn vết mổ 3 1 1 1 Khái niệm 3 1 1 2 Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ theo CDC 3 1 1 3 Nguồn tác nhân gây bệnh và cơ chế lây truyền 4 1 1 5 Tiêu chuẩn đánh giá phân loại vết mổ 8 1 1 6 Dự phòng nhiễm khuẩn vết mổ 9 1 1 7 Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ 13 1 1 7 1 Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ trên thế giới 13 1 1 7 2 Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ tại.
Nhiễm khuẩn vết mổ
Khái niệm
Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) xảy ra tại vị trí phẫu thuật trong khoảng thời gian từ khi mổ đến 30 ngày sau mổ đối với phẫu thuật không có cấy ghép, và kéo dài đến một năm đối với phẫu thuật có cấy ghép bộ phận giả NKVM được phân loại thành ba loại: (1) NKVM nông, liên quan đến nhiễm khuẩn ở lớp da hoặc tổ chức dưới da tại vị trí rạch da; (2) NKVM sâu, bao gồm nhiễm khuẩn tại lớp cân và/hoặc cơ, có thể phát triển từ NKVM nông; và (3) nhiễm khuẩn cơ quan/khoang cơ thể.
Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ theo CDC
Nhiễm khuẩn vết mổ có 3 mức độ: nông, sâu và cơ quan [2], [9]:
1.1.2.1 Nhiễm khuẩn vết mổ nông
Nhiễm khuẩn vết mổ nông xảy ra trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật, chỉ xuất hiện ở vùng da hoặc vùng dưới da tại đường mổ Để chẩn đoán nhiễm khuẩn, cần có ít nhất một trong các triệu chứng như chảy mủ từ vết mổ nông, phân lập vi khuẩn từ cấy dịch hoặc mô lấy vô trùng từ vết mổ, và ít nhất một trong các dấu hiệu như đau, sưng, nóng, đỏ, hoặc cần mở bung vết mổ Bác sĩ sẽ xác định tình trạng nhiễm khuẩn dựa trên những triệu chứng này.
1.1.2.2 Nhiễm khuẩn vết mổ sâu
Nhiễm khuẩn vết mổ sâu phải xảy ra trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật hoặc 1 năm đối với trường hợp đặt implant, và phải ảnh hưởng đến mô mềm sâu (cân/cơ) của đường mổ Bệnh nhân cần có ít nhất một trong các triệu chứng sau: chảy mủ từ vết mổ sâu nhưng không từ cơ quan hay khoang nơi phẫu thuật; vết thương hở da sâu tự nhiên hoặc do phẫu thuật viên mở, khi bệnh nhân có ít nhất một trong các dấu hiệu như sốt trên 38°C, đau, sưng, nóng, đỏ Ngoài ra, có thể có abces hoặc các bằng chứng nhiễm khuẩn vết mổ sâu được xác định qua thăm khám, phẫu thuật lại, X-quang hoặc giải phẫu bệnh, và bác sĩ sẽ chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ sâu.
1.1.2.3 Nhiễm khuẩn vết mổ tại cơ quan/khoang cơ thể (Hình 1.1)
Hình 1.1 Sơ đồ phân loại nhiễm khuẩn vết mổ
Nhiễm khuẩn sau phẫu thuật cần thỏa mãn các tiêu chuẩn cụ thể, xảy ra trong vòng 30 ngày hoặc 1 năm đối với trường hợp đặt implant Nhiễm khuẩn có thể xảy ra ở bất kỳ nội tạng nào, trừ da, cân và cơ đã được can thiệp trong phẫu thuật Các triệu chứng bao gồm chảy mủ từ dẫn lưu nội tạng, phân lập vi khuẩn từ mẫu dịch hay mô lấy vô trùng tại vị trí phẫu thuật, hoặc có bằng chứng nhiễm trùng qua thăm khám, phẫu thuật lại, X quang hay giải phẫu bệnh Bác sĩ sẽ chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ tại các cơ quan hoặc khoang cơ thể tương ứng.
Nguồn tác nhân gây bệnh và cơ chế lây truyền
Có 2 nguồn tác nhân gây NKVM [10]:
Vi sinh vật nội sinh trên bệnh nhân là nguồn tác nhân chính gây nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM), bao gồm các vi sinh vật thường trú trên cơ thể như ở tế bào biểu bì da, niêm mạc, hoặc trong các khoang rỗng như khoang miệng, đường tiêu hóa và đường tiết niệu-sinh dục Một số ít trường hợp, vi sinh vật có thể xâm nhập từ các ổ nhiễm khuẩn ở xa vết mổ qua đường máu hoặc bạch mạch Các tác nhân gây bệnh nội sinh thường có nguồn gốc từ môi trường bệnh viện và có khả năng kháng thuốc cao.
Vi sinh vật ngoại sinh là các vi sinh vật từ môi trường xâm nhập vào vết mổ trong quá trình phẫu thuật hoặc chăm sóc vết thương Các tác nhân gây bệnh này thường xuất phát từ môi trường khu phẫu thuật, bao gồm bề mặt thiết bị, không khí, nước và các phương tiện vệ sinh tay Ngoài ra, dụng cụ, vật liệu cầm máu và đồ vải phẫu thuật cũng có thể bị ô nhiễm Nhân viên phẫu thuật có thể mang vi sinh vật từ bàn tay, da hoặc đường hô hấp Việc chăm sóc vết mổ không tuân thủ nguyên tắc vô khuẩn cũng tạo điều kiện cho vi sinh vật xâm nhập Tuy nhiên, vi sinh vật xâm nhập theo cách này thường gây nhiễm khuẩn vết mổ nông và ít gây hậu quả nghiêm trọng.
Các vi sinh vật gây bệnh thường xâm nhập vào vết mổ chủ yếu trong quá trình phẫu thuật thông qua cơ chế trực tiếp và tại chỗ Hầu hết các tác nhân gây nhiễm khuẩn vết mổ là vi sinh vật cư trú trên da vùng rạch, trong các mô tổ chức khu vực phẫu thuật, hoặc từ môi trường bên ngoài Sự xâm nhập này xảy ra qua các tiếp xúc trực tiếp và gián tiếp, đặc biệt là qua bàn tay của kíp phẫu thuật.
1.1.4 Các yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ
Có 4 nhóm yếu tố nguy cơ gây NKVM gồm: bệnh nhân, môi trường, phẫu thuật và tác nhân gây bệnh [11], [12].
1.1.4.1 Yếu tố bệnh nhân: Những yếu tố bệnh nhân dưới đây làm tăng nguy cơ mắc NKVM:
Bệnh nhân tiểu đường: Do lượng đường cao trong máu tạo thuận lợi để vi khuẩn phát triển khi xâm nhập vào vết mổ.
Bệnh nhân phẫu thuật có nguy cơ nhiễm khuẩn tại vùng phẫu thuật hoặc các vị trí khác như phổi, tai mũi họng, đường tiết niệu, da, đặc biệt là những trường hợp đa chấn thương hoặc vết thương giập nát.
Người nghiện thuốc lá: Làm tăng nguy cơ NKVM do co mạch và thiểu dưỡng tại chỗ.
Bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch, bệnh nhân đang sử dụng các thuốc ức chế miễn dịch.
Bệnh nhân béo phì hoặc suy dinh dưỡng.
Bệnh nhân nằm lâu trong bệnh viện trước mổ làm tăng lượng vi sinh vật định cư trên bệnh nhân.
Bệnh nhân có tình trạng sức khỏe nặng trước phẫu thuật sẽ có nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) cao hơn Theo phân loại của Hội Gây mê Hoa Kỳ, những bệnh nhân có điểm ASA (American Society of Anesthesiologists) từ 4 trở lên sẽ có tỷ lệ NKVM cao nhất.
Những yếu tố môi trường dưới đây làm tăng nguy cơ mắc NKVM:
Vệ sinh tay ngoại khoa cần thực hiện đúng kỹ thuật và đủ thời gian để đảm bảo hiệu quả Việc không sử dụng hóa chất khử khuẩn, đặc biệt là chế phẩm vệ sinh tay chứa cồn, có thể dẫn đến nguy cơ lây nhiễm.
Chuẩn bị bệnh nhân trước phẫu thuật không đúng cách có thể dẫn đến nguy cơ nhiễm khuẩn, bao gồm việc bệnh nhân không được tắm bằng xà phòng khử khuẩn, vệ sinh vùng rạch da không đúng quy trình, và cạo lông không đúng chỉ định Ngoài ra, điều kiện khu phẫu thuật cũng cần đảm bảo vô khuẩn, với không khí và nước dùng cho vệ sinh tay ngoại khoa, cũng như bề mặt thiết bị và môi trường buồng phẫu thuật phải được kiểm soát chất lượng định kỳ để tránh ô nhiễm.
Không đảm bảo vô khuẩn do chất lượng tiệt khuẩn, khử khuẩn hoặc lưu giữ, sử dụng dụng cụ không đúng nguyên tắc vô khuẩn.
Nhân viên tham gia phẫu thuật cần tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc vô khuẩn để giảm thiểu vi sinh vật ô nhiễm trong buồng phẫu thuật Việc ra vào buồng phẫu thuật không đúng quy định, không sử dụng phương tiện che chắn cá nhân đúng cách, và không vệ sinh tay hoặc thay găng tay sau khi tiếp xúc với bề mặt môi trường đều có thể làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn.
Thời gian phẫu thuật kéo dài làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) do bệnh nhân phải tiếp xúc lâu hơn với môi trường và vi khuẩn Nghiên cứu của Haridas M và Malangoni M.A (2008) chỉ ra rằng bệnh nhân có thời gian mổ ≥ 3/4 thời gian mổ trung bình có nguy cơ mắc NKVM cao hơn, với tỷ số chênh (Odd ratio) là OR = 1,8; 95%CI: 1,2 - 2,8.
Loại phẫu thuật: Phẫu thuật cấp cứu, phẫu thuật nhiễm và bẩn có nguy cơ NKVM cao hơn các loại phẫu thuật khác.
Phẫu thuật có thể gây tổn thương và bầm giập nhiều mô tổ chức, dẫn đến mất máu và vi phạm nguyên tắc vô khuẩn, từ đó làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) Nghiên cứu tại Việt Nam đã chỉ ra rằng các yếu tố nguy cơ liên quan đến NKVM bao gồm phẫu thuật sạch - nhiễm, phẫu thuật nhiễm, phẫu thuật bẩn, cũng như các ca phẫu thuật kéo dài hơn 2 giờ và các phẫu thuật liên quan đến ruột non hoặc đại tràng.
1.1.4.4 Yếu tố vi sinh vật
Khi nằm viện, bệnh nhân tiếp xúc với nhiều tác nhân gây bệnh, nhưng không phải mọi tiếp xúc đều dẫn đến nhiễm khuẩn bệnh viện (NKVM) Khả năng gây bệnh của vi sinh vật phụ thuộc vào yếu tố độc lực, số lượng và khả năng bám dính vào vật chủ Đặc biệt, khả năng kháng nhiều loại kháng sinh của vi khuẩn là yếu tố quan trọng giúp chúng tồn tại và gây bệnh trong môi trường bệnh viện Sự chọn lọc và trao đổi di truyền đã thúc đẩy sự phát triển của các chủng vi khuẩn đa kháng kháng sinh, đặc biệt là ở bệnh nhân và nhân viên y tế Việc sử dụng rộng rãi kháng sinh phổ rộng ở bệnh nhân phẫu thuật cũng là yếu tố chính làm gia tăng tình trạng kháng thuốc, từ đó làm tăng nguy cơ mắc NKVM.
Tiêu chuẩn đánh giá phân loại vết mổ
Phẫu thuật sạch là phương pháp phẫu thuật đảm bảo vết mổ không có dẫn lưu, không gây chấn thương và không xảy ra lỗi trong quá trình mổ Kỹ thuật vô khuẩn được thực hiện tốt, đồng thời không can thiệp vào các đường hô hấp, sinh dục, tiêu hóa và đường mật.
Vết mổ sạch nhiễm: Có mổ vào đường tiết niệu – sinh dục, đường hô hấp, đường tiêu hoá, đường mật nhưng mật không bị nhiễm khuẩn.
Vết mổ nhiễm là tình trạng xảy ra khi có vết thương do chấn thương trong vòng 4 giờ, bao gồm các trường hợp mở vào đường mật, tiết niệu - sinh dục, thủng dạ dày, thủng ruột, hoặc vết mổ trên bệnh nhân có tổ chức viêm cấp nhưng chưa hóa mủ.
Vết mổ bẩn và nhiễm là những vết thương cần được xử lý kịp thời Nếu vết thương không được chăm sóc trong vòng 4 giờ, có thể dẫn đến tổ chức hoại tử và viêm nhiễm mủ Ngoài ra, vết thương có dị vật, vỡ tạng rỗng hoặc nhiễm phân cũng là những tình trạng nghiêm trọng cần được điều trị ngay lập tức.
Các nghiên cứu về nhiễm khuẩn vết mổ
Nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là tình trạng nhiễm khuẩn xảy ra tại vị trí phẫu thuật trong khoảng thời gian từ khi mổ đến 30 ngày sau mổ đối với phẫu thuật không có cấy ghép, và lên đến một năm sau mổ với phẫu thuật có cấy ghép bộ phận giả NKVM được chia thành ba loại: (1) NKVM nông, liên quan đến nhiễm khuẩn ở lớp da hoặc tổ chức dưới da tại vị trí rạch da; (2) NKVM sâu, bao gồm nhiễm khuẩn tại lớp cân và/hoặc cơ, có thể phát sinh từ NKVM nông; và (3) nhiễm khuẩn cơ quan hoặc khoang cơ thể.
1.1.2 Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ theo CDC
Nhiễm khuẩn vết mổ có 3 mức độ: nông, sâu và cơ quan [2], [9]:
1.1.2.1 Nhiễm khuẩn vết mổ nông
Nhiễm khuẩn vết mổ nông xảy ra trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật, chỉ tại vùng da hoặc dưới da dọc theo đường mổ Để chẩn đoán nhiễm khuẩn, cần có ít nhất một trong các triệu chứng sau: chảy mủ từ vết mổ nông, phân lập vi khuẩn từ cấy dịch hoặc mô được lấy vô trùng từ vết mổ, hoặc xuất hiện ít nhất một trong các dấu hiệu như đau, sưng, nóng, đỏ, và cần phải mở bung vết mổ Bác sĩ sẽ căn cứ vào những triệu chứng này để xác định tình trạng nhiễm khuẩn.
1.1.2.2 Nhiễm khuẩn vết mổ sâu
Để xác định nhiễm khuẩn sau phẫu thuật, cần thỏa mãn các tiêu chuẩn sau: Nhiễm khuẩn phải xảy ra trong vòng 30 ngày sau phẫu thuật hoặc 1 năm đối với trường hợp đặt implant, và phải xảy ra ở mô mềm sâu (cân/cơ) của đường mổ Bên cạnh đó, cần có ít nhất một trong các triệu chứng như chảy mủ từ vết mổ sâu, nhưng không từ cơ quan hay khoang nơi phẫu thuật, hoặc tình trạng vết thương bất thường.
ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU…
Đối tượng nghiên cứu
2.1.1 Tiêu chí lựa chọn đối tượng:
Vào năm 2021, tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh, bệnh nhân đã được thực hiện phẫu thuật trong vòng 48 giờ tại bốn khoa: Ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng.
+ Hồ sơ bệnh án đủ các tiêu chuẩn nghiên cứu.
+ Các bệnh nhân phẫu thuật nội soi.
+ Bệnh nhân đã được phẫu thuật từ nơi khác chuyển đến.
+ Bệnh nhân sau mổ không điều trị tại 4 khoa ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng
+ Bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm điều trị.
Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 4/2021 đến tháng 9/2021.
- Địa điểm: Tại bốn khoa ngoại (Ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại
Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng), Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có phân tích.
2.3.2 Mẫu và phương pháp chọn mẫu Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện: chọn toàn bộ bệnh nhân phẫu thuật đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian nghiên cứu từ01/4/2021 - 30/9/2021.
Kỹ thuật thu thập số liệu
Việc thu thập số liệu được tiến hành theo trình tự sau:
Lập danh sách bệnh nhân nghiên cứu là bước quan trọng trong quá trình giám sát, bao gồm việc ghi nhận bệnh nhân nhập viện và xuất viện hàng ngày Sau đó, cần xác định những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn để tham gia nghiên cứu, đảm bảo tính chính xác và hiệu quả của quá trình giám sát.
Dựa trên danh sách bệnh nhân nghiên cứu, chúng tôi theo dõi kết quả thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và xét nghiệm vi sinh từ hồ sơ bệnh án Mục tiêu là xác định nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) cùng với nguyên nhân gây ra nếu có sự hiện diện của nhiễm khuẩn.
- Những thông tin cần thiết được điền vào bệnh án nghiên cứu gồm (Phụ lục 1):
(1) Hành chính: Tên, tuổi, giới, chỉ số BMI, ngày nhập viện, ngày ra viện, chẩn đoán lúc vào viện của bệnh nhân, bệnh kèm theo, tiền sử mổ cũ.
Tình trạng nhiễm khuẩn khi nhập viện được xác định thông qua các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, cùng với quá trình chẩn đoán và phương pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân.
Thông tin liên quan đến phẫu thuật (PT) bao gồm thời gian PT (phút), hình thức PT và loại vết mổ Thời gian PT được tính từ khi rạch da đến khi đóng vết mổ Hình thức PT có thể là cấp cứu hoặc có kế hoạch (đã chuẩn bị trước) Vết mổ được phân loại theo tiêu chuẩn của CDC và Bộ Y tế dựa trên mức độ ô nhiễm tại vị trí phẫu thuật Tình trạng toàn thân của bệnh nhân trước phẫu thuật được đánh giá theo thang điểm ASA của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ (American Society of Anaesthesiologist) - 1992.
Kết quả xét nghiệm vi sinh bao gồm tên tác nhân gây nhiễm khuẩn viêm màng não (NKVM) và kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn được phân lập Đối với những bệnh nhân được xét nghiệm vi sinh vào ngày điều tra, nhân viên khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn sẽ theo dõi và thu thập kết quả để bổ sung vào phiếu giám sát.
Chỉ tiêu nghiên cứu
2.5.1 Đặc điểm chung của bệnh nhân
Các đặc điểm chung của bệnh nhân bao gồm: (1) tuổi, (2) giới, (3) địa dư, (4) khối cơ thể (body mass index - BMI), (5) bệnh kèm theo, (6) tiền sử phẫu thuật.
+ Đánh giá tình trạng bệnh nhân trước phẫu thuật - ASA [2].
+ Đặc điểm phẫu thuật: (1) Hình thức phẫu thuật, (2) Cách thức phẫu thuật, (3) Phân loại phẫu thuật, và (4) Cơ quan phẫu thuật.
+ Tình trạng sau phẫu thuật: (1) Toàn trạng bệnh nhân, (2) Tình trạng vết mổ; (3) Tình trạng băng vết mổ.
2.5.3 Tình trạng nhiễm khuẩn vết mổ
+ Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ.
Nhiễm khuẩn vết mổ được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau, bao gồm mức độ (nông, sâu, cơ quan/tổ chức), thời gian nghiên cứu, loại phẫu thuật (sạch, sạch - nhiễm, nhiễm, bẩn) và cơ quan phẫu thuật Việc phân loại này giúp xác định mức độ nghiêm trọng của nhiễm khuẩn và hướng điều trị phù hợp.
+ Nguyên nhân gây NKVM: (1) số lượng nguyên nhân và (2) loại nguyên nhân gây NKVM.
2.5.4 Các yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn vết mổ
+ Yếu tố bệnh nhân: (1) tuổi, (2) giới, (3) BMI, (4) Bệnh kèm theo, (5) Thời gian nằm viện trước mổ, (6) Tình trạng bệnh nhân trước phẫu thuật.
+ Yếu tố phẫu thuật: (1) Tiền sử phẫu thuật cũ, (2) Thời gian phẫu thuật,
(3), Hình thức phẫu thuật; (4) Loại phẫu thuật và (5) Cơ quan phẫu thuật.
+ Thời gian nằm viện: Chỉ tính thời gian nằm tại khoa Ngoại bệnh viện Đa khoa tỉnh
Nhập và xử lý số liệu
2.1.1 Tiêu chí lựa chọn đối tượng:
Vào năm 2021, bệnh nhân đã trải qua phẫu thuật trong vòng 48 giờ tại bốn khoa: Ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh.
+ Hồ sơ bệnh án đủ các tiêu chuẩn nghiên cứu.
+ Các bệnh nhân phẫu thuật nội soi.
+ Bệnh nhân đã được phẫu thuật từ nơi khác chuyển đến.
+ Bệnh nhân sau mổ không điều trị tại 4 khoa ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng
+ Bệnh nhân tử vong trong thời gian nằm điều trị.
2.2 Thời gian và địa điểm nghiên cứu
- Thời gian: Từ tháng 4/2021 đến tháng 9/2021.
- Địa điểm: Tại bốn khoa ngoại (Ngoại Tiêu hóa, Ngoại Tiết Niệu, Ngoại
Thần kinh lồng ngực và Ngoại Chấn thương Bỏng), Bệnh viện Đa khoa tỉnh
Nghiên cứu mô tả cắt ngang, tiến cứu có phân tích.
2.3.2 Mẫu và phương pháp chọn mẫu Áp dụng phương pháp chọn mẫu thuận tiện: chọn toàn bộ bệnh nhân phẫu thuật đáp ứng tiêu chuẩn lựa chọn trong thời gian nghiên cứu từ 01/4/2021 - 30/9/2021.
2.4 Kỹ thuật thu thập số liệu
Việc thu thập số liệu được tiến hành theo trình tự sau:
Lập danh sách bệnh nhân nghiên cứu là bước quan trọng trong quá trình giám sát Hằng ngày, cần ghi nhận danh sách bệnh nhân nhập viện và xuất viện, từ đó xác định những bệnh nhân đủ tiêu chuẩn để tham gia vào nghiên cứu.
Dựa trên danh sách bệnh nhân nghiên cứu, việc theo dõi kết quả thăm khám lâm sàng, cận lâm sàng và xét nghiệm vi sinh qua hồ sơ bệnh án là cần thiết để xác định nhiễm khuẩn vùng miệng (NKVM) cùng với nguyên nhân gây ra nếu có nhiễm khuẩn.
- Những thông tin cần thiết được điền vào bệnh án nghiên cứu gồm (Phụ lục 1):
(1) Hành chính: Tên, tuổi, giới, chỉ số BMI, ngày nhập viện, ngày ra viện, chẩn đoán lúc vào viện của bệnh nhân, bệnh kèm theo, tiền sử mổ cũ.
Tình trạng nhiễm khuẩn khi nhập viện được xác định thông qua các triệu chứng lâm sàng và cận lâm sàng, cùng với chẩn đoán và phương pháp điều trị áp dụng cho bệnh nhân.
Thông tin liên quan đến phẫu thuật bao gồm thời gian phẫu thuật, hình thức phẫu thuật và loại vết mổ Thời gian phẫu thuật được tính từ khi rạch da cho đến khi đóng vết mổ Hình thức phẫu thuật có thể là cấp cứu hoặc có kế hoạch Vết mổ được phân loại theo tiêu chuẩn của CDC và Bộ Y tế dựa trên mức độ ô nhiễm tại vị trí phẫu thuật Tình trạng toàn thân của bệnh nhân trước phẫu thuật được đánh giá theo thang điểm ASA của Hiệp hội Gây mê Hoa Kỳ.
Kết quả xét nghiệm vi sinh cung cấp thông tin về tác nhân gây nhiễm khuẩn viêm màng não (NKVM) và kháng sinh đồ của các chủng vi khuẩn được phân lập Đối với những bệnh nhân có xét nghiệm vi sinh trong ngày điều tra, nhân viên khoa Kiểm soát nhiễm khuẩn sẽ theo dõi và thu thập kết quả để bổ sung vào phiếu giám sát.
2.5.1 Đặc điểm chung của bệnh nhân
Các đặc điểm chung của bệnh nhân bao gồm: (1) tuổi, (2) giới, (3) địa dư, (4) khối cơ thể (body mass index - BMI), (5) bệnh kèm theo, (6) tiền sử phẫu thuật.
+ Đánh giá tình trạng bệnh nhân trước phẫu thuật - ASA [2].
+ Đặc điểm phẫu thuật: (1) Hình thức phẫu thuật, (2) Cách thức phẫu thuật, (3) Phân loại phẫu thuật, và (4) Cơ quan phẫu thuật.
+ Tình trạng sau phẫu thuật: (1) Toàn trạng bệnh nhân, (2) Tình trạng vết mổ; (3) Tình trạng băng vết mổ.
2.5.3 Tình trạng nhiễm khuẩn vết mổ
+ Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ.
Nhiễm khuẩn vết mổ được phân loại dựa trên nhiều tiêu chí khác nhau: (1) Mức độ nhiễm khuẩn, bao gồm nhiễm khuẩn nông, sâu và nhiễm khuẩn ở cơ quan/tổ chức; (2) Thời gian nghiên cứu, giúp xác định sự phát triển của nhiễm khuẩn theo thời gian; (3) Loại phẫu thuật, chia thành các nhóm như sạch, sạch - nhiễm, nhiễm và bẩn; và (4) Cơ quan phẫu thuật, xác định vị trí nhiễm khuẩn trong cơ thể.
+ Nguyên nhân gây NKVM: (1) số lượng nguyên nhân và (2) loại nguyên nhân gây NKVM.
2.5.4 Các yếu tố nguy cơ gây nhiễm khuẩn vết mổ
+ Yếu tố bệnh nhân: (1) tuổi, (2) giới, (3) BMI, (4) Bệnh kèm theo, (5) Thời gian nằm viện trước mổ, (6) Tình trạng bệnh nhân trước phẫu thuật.
+ Yếu tố phẫu thuật: (1) Tiền sử phẫu thuật cũ, (2) Thời gian phẫu thuật,
(3), Hình thức phẫu thuật; (4) Loại phẫu thuật và (5) Cơ quan phẫu thuật.
+ Thời gian nằm viện: Chỉ tính thời gian nằm tại khoa Ngoại bệnh viện Đa khoa tỉnh
2.6 Tiêu chuẩn đánh giá các chỉ số nghiên cứu
2.6.1 Tiêu chuẩn chẩn đoán nhiễm khuẩn vết mổ
Việc chẩn đoán NKVM được tiến hành theo hướng dẫn của Bộ Y tế Việt Nam [2] và Trung tâm kiểm soát và phòng ngừa dịch bệnh Hoa Kỳ (CDC)
[32] NKVM bao gồm NKVM nông, NKVM sâu và NKVM tại cơ quan, được chẩn đoán dựa vào các tiêu chí sau:
Nhiễm khuẩn vết mổ nông là tình trạng nhiễm khuẩn xảy ra tại vùng da hoặc dưới da tại đường mổ, thường đi kèm với các triệu chứng như đau, sưng, nóng, đỏ Để chẩn đoán, cần có ít nhất một trong các triệu chứng đi kèm.
+ Chảy mủ, dịch từ vết mổ.
+ Phân lập được vi khuẩn từ dịch, mủ được lấy vô trùng từ vết mổ.
Nhiễm khuẩn vết mổ sâu là tình trạng tổn thương ở mô mềm, cân hoặc cơ của đường mổ, thường biểu hiện qua các triệu chứng như đau, sưng, nóng, đỏ Để xác định nhiễm khuẩn, cần có ít nhất một trong các triệu chứng trên xuất hiện.
+ Chảy mủ từ vết mổ sâu nhưng không từ cơ quan hay khoang phẫu thuật. + Sốt > 38 0 C, đau tự nhiên tại vết mổ và toác vết mổ tự nhiên.
+ Cấy phân lập được vi khuẩn từ mủ, dịch hoặc mô vết mổ.
* Nhiễm khuẩn vết mổ tại cơ quan/khoang phẫu thuật: Phải có ít nhất một trong các triệu chứng sau:
+ Chảy mủ từ dẫn lưu nội tạng.
+ Phân lập vi khuẩn từ cấy dịch hay mô được lấy vô trùng ở cơ quan hay khoang nơi phẫu thuật.
+ Abces hay bằng chứng khác của nhiễm trùng qua thăm khám, phẫu thuật lại, Xquang hay giải phẫu bệnh.
2.6.2 Tiêu chuẩn đánh giá tình trạng bệnh nhân trước phẫu thuật
Bảng 2.1 Thang điểm ASA đánh giá tình trạng bệnh nhân
ASA Tình trạng bệnh nhân
I Bệnh nhân khỏe mạnh, không có bệnh toàn thân
II Bệnh nhân khỏe mạnh, có bệnh toàn thân nhẹ
III Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng, nhưng vẫn hoạt động bình thường
IV Bệnh nhân có bệnh toàn thân nặng, đe dọa tính mạng
V Bệnh nhân trong tình trạng bệnh nặng, có nguy cơ tử vong cao dù được phẫu thuật
2.6.3 Phân loại phẫu thuật và nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ
Bảng 2.2 Phân loại phẫu thuật và nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ
Loại phẫu thuật Định nghĩa
Các phẫu thuật không nhiễm khuẩn bao gồm những can thiệp không mở vào đường hô hấp, tiêu hóa, sinh dục và tiết niệu Những vết thương sạch thường được đóng kín hoặc dẫn lưu kín, đồng thời cũng bao gồm các phẫu thuật sau chấn thương kín.
Các phẫu thuật mở vào đường hô hấp, tiêu hóa, sinh dục và tiết niệu được thực hiện trong điều kiện kiểm soát và không bị ô nhiễm Đặc biệt, các phẫu thuật liên quan đến đường mật, ruột thừa, âm đạo và hầu họng sẽ được phân loại là vết mổ sạch nhiễm nếu không có bằng chứng nhiễm khuẩn và không có lỗi vô khuẩn trong quá trình mổ.
Nhiễm trùng có thể xảy ra ở các vết thương hở, chấn thương kết hợp với vết thương mới từ 10 - 15 ngày, hoặc do những sai sót trong quá trình phẫu thuật vô khuẩn Ngoài ra, phẫu thuật để thoát dịch lớn từ đường tiêu hóa cũng có thể dẫn đến nguy cơ nhiễm trùng cao.
Các phẫu thuật mở trong lĩnh vực sinh dục tiết niệu và đường mật có nguy cơ nhiễm khuẩn, đặc biệt là khi thực hiện tại những vị trí có nhiễm khuẩn cấp tính nhưng chưa hình thành mủ.
Bẩn Các chấn thương cũ kèm theo mô chết, dị vật hoặc ô nhiễm phân Các phẫu thuật có nhiễm khuẩn rõ hoặc có mủ > 25
2.6.4 Quy trình chăm sóc vết mổ sau phẫu thuật
2.6.5.1 Quy trình chăm sóc vết mổ
+ Băng vết mổ bằng gạc vô khuẩn liên tục từ 24 - 48 giờ sau mổ.
+ Chỉ thay băng khi băng thấm máu/dịch, băng bị nhiễm bẩn hoặc khi mở kiểm tra vết mổ
+ Thay băng theo đúng quy trình vô khuẩn (theo quy định của Bộ Y tế)
Hướng dẫn bệnh nhân và người nhà cách theo dõi vết mổ là rất quan trọng Họ cần chú ý đến các dấu hiệu và triệu chứng bất thường như sưng, đỏ, hoặc chảy dịch Nếu phát hiện bất kỳ dấu hiệu nào không bình thường, hãy thông báo ngay cho nhân viên y tế để được xử lý kịp thời Việc này giúp đảm bảo an toàn và sức khỏe cho bệnh nhân sau phẫu thuật.
+ Chăm sóc chân ống dẫn lưu đúng quy trình kỹ thuật và cần rút dẫn lưu sớm nhất có thể.
2.6.5.2 Một số lưu ý trong thay băng vết mổ chảy dịch/nhiễm khuẩn
KẾT QUẢ
Nhận xét một số dự phòng NKVM đang thực hiện
Bảng 3.1: Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu Đặc điểm Số lượng
Tuổi trung bình ± Độ lệch chuẩn
Trong nghiên cứu, đối tượng chủ yếu thuộc độ tuổi từ 40-59, chiếm 33,2%, tiếp theo là nhóm tuổi 19-39 với 28,7%, trong khi nhóm tuổi dưới 18 chiếm tỷ lệ thấp nhất là 18,7% Độ tuổi trung bình của các đối tượng nghiên cứu là 40 ± 21 (92;1).
Biểu đồ 3.1 Đặc điểm về giới của đối tượng nghiên cứu Nhận xét: Về giới tính: tỉ lệ bệnh nhân nam (60,8%) lớn hơn bệnh nhân nữ (39,2%).
BÀN LUẬN
Đặc điểm chung của đối tượng nghiên cứu
4.1.1 Đặc điểm về tuổi của đối tượng nghiên cứu
Nghiên cứu về thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) tại 4 khoa Ngoại của Bệnh viện Đa khoa tỉnh được thực hiện từ tháng 4 đến 9/2021, với 948 bệnh nhân đủ tiêu chuẩn tham gia Trong đó, nhóm tuổi từ 40-59 chiếm 33,2%, nhóm 19-39 chiếm 28,7%, nhóm ≥ 60 tuổi chiếm 19,4%, và nhóm ≤ 18 tuổi chiếm 18,7% Độ tuổi trung bình của bệnh nhân là 40 ± 21 Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân cao tuổi thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Văn Tân (2016), khi mà 42,4% bệnh nhân ≥ 60 tuổi Sự khác biệt này có thể do Phạm Văn Tân thực hiện nghiên cứu tại Bệnh viện Bạch Mai, nơi tiếp nhận nhiều bệnh nhân nặng từ các tỉnh phía Bắc, dẫn đến tỷ lệ bệnh nhân cao tuổi thường có bệnh lý nghiêm trọng hơn.
4.1.2 Đặc điểm về giới của đối tượng nghiên cứu
Kết quả nghiên cứu cho thấy tỷ lệ bệnh nhân nam chiếm 60,8%, cao hơn so với tỷ lệ bệnh nhân nữ chỉ là 39,2% So với nghiên cứu của tác giả Nguyễn Quốc Anh (2008), tỷ lệ này cũng cao hơn khi ông ghi nhận tỷ lệ bệnh nhân nam là 55,6% và nữ là 44,4%.
Nghiên cứu của Phạm Văn Tân (2016) cho thấy tỉ lệ bệnh nhân nam là 55,7% và bệnh nhân nữ là 44,3% Tuy nhiên, kết quả này không tương đồng với nghiên cứu của Bùi Thị Tú Quyên, nơi tỉ lệ bệnh nhân nữ cao hơn (73,3%) so với nam (26,7%) Sự khác biệt này có thể do đặc điểm mẫu và địa bàn nghiên cứu Mặc dù tỉ lệ bệnh nhân nam trong nghiên cứu này cao hơn, nhưng sự chênh lệch không quá lớn, đảm bảo tính đại diện đồng đều về giới trong mẫu nghiên cứu.
4.1.3 Đặc điểm về BMI của đối tượng nghiên cứu
Trong nghiên cứu, 51,1% bệnh nhân có cân nặng bình thường với chỉ số BMI từ 18,5 đến dưới 23, trong khi gần một nửa số bệnh nhân phẫu thuật bị thừa cân hoặc béo phì (26,2%) và có 22,8% bệnh nhân bị suy dinh dưỡng Đặc điểm cỡ mẫu này có thể ảnh hưởng tiêu cực đến việc phòng ngừa và điều trị nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) cho bệnh nhân phẫu thuật Nhiều nghiên cứu khoa học đã chỉ ra mối liên quan giữa tình trạng béo phì, suy dinh dưỡng và nguy cơ mắc NKVM.
4.1.4 Đặc điểm về tình trạng bệnh kèm theo và tiền sử phẫu thuật của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.3 cho thấy 15,7% bệnh nhân tham gia nghiên cứu có bệnh kèm theo và 16,5% đã có tiền sử phẫu thuật, thấp hơn so với nghiên cứu của Phạm Văn Tân (2016) với tỷ lệ lần lượt là 23,1% và 24,7% Bệnh nhân có bệnh kèm theo thường có sức đề kháng yếu và thể trạng kém, đồng thời có thể sử dụng kháng sinh, dẫn đến nguy cơ kháng thuốc sau phẫu thuật Những bệnh nhân đã có tiền sử phẫu thuật cũng ảnh hưởng đến quá trình phẫu thuật và hồi phục, làm tăng nguy cơ dính sau phẫu thuật Do đó, việc lưu tâm đến các yếu tố này là rất quan trọng trong quá trình can thiệp phẫu thuật nhằm phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) và điều trị sau phẫu thuật.
4.1.5 Đặc điểm về nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ theo thang điểm ASA
Tình trạng sức khỏe của bệnh nhân trước phẫu thuật ảnh hưởng lớn đến quá trình và kết quả phẫu thuật cũng như điều trị sau đó Nghiên cứu cho thấy 58,7% bệnh nhân có ASA loại I, 34,5% có ASA loại II, và chỉ 6,8% thuộc loại III trở lên Kết quả này cao hơn so với nghiên cứu của Trần Thế Duy (2017), trong đó tỉ lệ bệnh nhân ASA loại I và II là 88,6%, còn loại II trở lên chiếm 11,4% Sự khác biệt này có thể được giải thích bởi đặc điểm bệnh nhân và địa điểm nghiên cứu khác nhau.
4.1.6 Đặc điểm về phẫu thuật của đối tượng nghiên cứu
Bảng 3.5 trình bày đặc điểm phẫu thuật ở bệnh nhân nghiên cứu, cho thấy 53,1% bệnh nhân được phẫu thuật theo hình thức mổ phiên và 46,9% mổ cấp cứu Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương đồng với Trần Thế Duy, với tỉ lệ mổ phiên 58,4% và mổ cấp cứu 41,6%, nhưng không khớp với nghiên cứu của Phạm Văn Tân tại Bệnh viện Bạch Mai, nơi tỉ lệ mổ phiên là 67,9% và mổ cấp cứu 32,1% Sự khác biệt này có thể do đối tượng nghiên cứu; chúng tôi và Trần Thế Duy tập trung vào bệnh nhân phẫu thuật tại bệnh viện tuyến tỉnh, trong khi Phạm Văn Tân chỉ nghiên cứu bệnh nhân phẫu thuật tiêu hóa tại bệnh viện tuyến trung ương Thực tế cho thấy bệnh nhân mổ phiên thường được chuẩn bị kỹ lưỡng trước phẫu thuật, trong khi bệnh nhân mổ cấp cứu ít được chuẩn bị hơn, điều này ảnh hưởng đến kết quả phẫu thuật và tình trạng nhiễm khuẩn vết mổ sau phẫu thuật.
Phẫu thuật là một can thiệp xâm lấn có thể gây tổn thương cho các cơ quan trong cơ thể, làm tăng nguy cơ nhiễm khuẩn Tỉ lệ phẫu thuật sạch chiếm 48,2%, trong khi phẫu thuật sạch nhiễm, phẫu thuật nhiễm và bẩn lần lượt chiếm 24,4%, 21,2% và 6,2% Kết quả nghiên cứu của chúng tôi khác với nghiên cứu của Phạm Văn Tân (2016), khi tỉ lệ phẫu thuật sạch chỉ đạt 4,4%, chủ yếu là phẫu thuật sạch nhiễm (70,1%) và phẫu thuật nhiễm (13,7%) Sự khác biệt này có thể do chúng tôi nghiên cứu trên toàn bộ bệnh nhân của 4 khoa hệ ngoại, dẫn đến tỉ lệ phân bố khác so với nghiên cứu trên bệnh nhân phẫu thuật tiêu hóa.
4.1.7 Đặc điểm về thời gian phẫu thuật, thời gian nằm viện
Kết quả nghiên cứu cho thấy 90,5% bệnh nhân có thời gian phẫu thuật ≤ 120 phút, với thời gian phẫu thuật trung bình là 69 phút tại 4 khoa Ngoại Những phát hiện này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Quốc Anh (2008), trong đó 89,7% bệnh nhân cũng có thời gian phẫu thuật ≤ 120 phút.
Thời gian nằm viện trước mổ trung bình là 3 ngày, cho thấy yếu tố thuận lợi trong việc phòng chống nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) nhờ thời gian chờ mổ không cao Tuy nhiên, thời gian nằm viện trung bình của nghiên cứu này là 12 ngày, mặc dù vẫn thấp hơn so với kết quả nghiên cứu của Phạm Văn Tân.
Thời gian nằm viện trung bình tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh năm 2016 là 14,33 ngày Điều này có thể được giải thích bởi đặc điểm của bệnh nhân nghiên cứu, thường là những trường hợp nặng được chuyển từ các cơ sở y tế tuyến dưới Do đó, thời gian điều trị kéo dài nhằm đảm bảo quá trình hồi phục và theo dõi chặt chẽ từ các bác sĩ.
4.1.8 Tình hình sử dụng kháng sinh trước phẫu thuật
Tỉ lệ sử dụng kháng sinh trước phẫu thuật trong nghiên cứu này là 35,7%, thấp hơn so với 39,9% trong nghiên cứu của Phạm Văn Tân (2016) Bệnh nhân sử dụng kháng sinh trước phẫu thuật thường là những người được chuyển tuyến hoặc mắc bệnh kèm theo Việc sử dụng kháng sinh nhằm giảm tình trạng viêm nhiễm tại vị trí phẫu thuật và các cơ quan khác Tuy nhiên, điều này có thể làm gia tăng khả năng đề kháng kháng sinh của vi khuẩn Nếu sử dụng không đúng cách, kháng sinh có thể làm giảm triệu chứng lâm sàng của nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM), khó khăn trong việc phân lập vi khuẩn gây bệnh, và gia tăng tình trạng NKVM do vi khuẩn kháng thuốc.
4.1.9 Đặc điểm về tình trạng bệnh nhân sau phẫu thuật
Kết quả phẫu thuật và điều trị hậu phẫu tại khoa ngoại cho thấy 92,5% bệnh nhân không bị sốt, 87,2% có vết mổ bình thường, trong khi 9,5% có sưng nề và thấm dịch, chỉ 1,9% có chảy dịch hoặc mủ từ lớp da Tỷ lệ vết mổ không liền và chảy mủ từ ống dẫn lưu lần lượt là 1,2% và 0,2% Những kết quả này tương đồng với các nghiên cứu trước đây, phản ánh trình độ chuyên môn cao của đội ngũ phẫu thuật viên và khả năng phòng chống nhiễm khuẩn bệnh viện hiệu quả.
Thực trạng nhiễm khuẩn vết mổ và các yếu tố liên quan
4.2.1 Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ
Nghiên cứu trên 948 bệnh nhân phẫu thuật tại 4 khoa ngoại cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) là 3,27% Kết quả này tương đồng với các báo cáo ở các nước phát triển Tại Hoa Kỳ, NKVM là loại nhiễm trùng bệnh viện phổ biến thứ hai, chỉ sau nhiễm khuẩn tiết niệu, chiếm 24% tổng số nhiễm trùng bệnh viện Tỷ lệ NKVM ở Hoa Kỳ dao động từ 2,0% đến 5,0%, tương đương với khoảng 300.000 đến 500.000 trường hợp.
NKVM trong số 16 triệu bệnh nhân phẫu thuật hàng năm [17], [34]
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) tại khoa Ngoại tổng hợp Bệnh viện Đại học Y Dược TP.HCM là 3%, tương đương với kết quả của Phạm Thúy Trinh và cộng sự (2010) Phạm Văn Tân (2016) ghi nhận tỷ lệ NKVM là 3,6% Tuy nhiên, tỷ lệ này thấp hơn so với nhiều nghiên cứu khác trong nước, chẳng hạn như nghiên cứu của Bùi Thị Tú Quyên và Trương Văn Dũng (2012) với tỷ lệ NKVM chung là 6,3% và ở khoa Ngoại là 11,4% Nghiên cứu của Trần Đỗ Hùng và Dương Văn Hoanh (2013) cho thấy tỷ lệ NKVM là 5,7% trong số 915 bệnh nhân nội trú tại Bệnh viện Đa khoa Trung ương Cần Thơ Kết quả của chúng tôi phản ánh sự cải thiện rõ rệt về chất lượng phẫu thuật và quy trình đảm bảo vô khuẩn tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh.
4.2.2 Phân bố nhiễm khuẩn vết mổ theo mức độ
Kết quả nghiên cứu cho thấy 80,6% bệnh nhân bị nhiễm khuẩn vết mổ nông, 16,1% nhiễm khuẩn vết mổ sâu và 3,2% nhiễm khuẩn tại cơ quan, khoang phẫu thuật Sự khác biệt so với nghiên cứu của tác giả Phạm Văn Tân (2016) là do đối tượng nghiên cứu của chúng tôi bao gồm nhiều loại phẫu thuật khác nhau, trong khi tác giả chỉ tập trung vào phẫu thuật tiêu hóa Với tỷ lệ 80,6% bệnh nhân bị nhiễm khuẩn vết mổ nông, Bệnh viện Đa khoa tỉnh cần chú trọng vào giai đoạn chăm sóc vết mổ sau phẫu thuật, đảm bảo dụng cụ và vật tư vô trùng cũng như thực hiện đúng quy trình kỹ thuật trong các thủ thuật chăm sóc vết mổ.
4.2.3 Tỷ lệ nhiễm khuẩn vết mổ theo loại phẫu thuật
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) ở các loại phẫu thuật khác nhau cho thấy sự khác biệt rõ rệt: phẫu thuật sạch có tỉ lệ NKVM là 0,9%, phẫu thuật sạch - nhiễm là 1,3%, phẫu thuật nhiễm là 9,8% và phẫu thuật bẩn là 11,3% Điều này chứng tỏ rằng tỉ lệ NKVM cao hơn ở phẫu thuật bẩn và phẫu thuật nhiễm so với phẫu thuật sạch - nhiễm Kết quả này phù hợp với khuyến cáo của Bộ Y tế về phòng ngừa NKVM, cho thấy nguy cơ NKVM tăng dần theo từng loại phẫu thuật, với phẫu thuật sạch có nguy cơ từ 1 - 5%, phẫu thuật sạch - nhiễm từ 5 - 10%, và phẫu thuật nhiễm từ 10% trở lên.
- 15% và bẩn là > 25% [2]; kết quả này cũng hoàn toàn phù hợp với các y văn Thế giới.
4.2.4 Nguyên nhân gây nhiễm khuẩn vết mổ
4.2.4.1 Tỉ lệ phân lập được nguyên nhân gây nhiễm khuẩn vết mổ
Trong nghiên cứu về mẫu mủ vết mổ, tỷ lệ mẫu dương tính với vi khuẩn đạt 53,8%, theo Bảng 3.10 Kết quả này thấp hơn so với các nghiên cứu trước đây của Phạm Văn Tân (2016) và Nguyễn Quốc Anh (2008), với tỷ lệ lần lượt là 64% và 63,9%.
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy tỷ lệ dương tính cao hơn so với các nghiên cứu trước đây của Đặng Hồng Thanh (2012) và Bùi Thị Tú Quyên (2013), với các tỷ lệ lần lượt là 37,9% và 27,3% Một số trường hợp có dấu hiệu nhiễm khuẩn nhưng nuôi cấy âm tính có thể do bệnh nhân đang sử dụng kháng sinh, khiến vi khuẩn không phát triển được trong môi trường nuôi cấy, hoặc do kỹ thuật lấy mẫu và nuôi cấy chưa đạt hiệu quả cao.
4.2.4.2 Tỉ lệ các loại nguyên nhân gây nhiễm khuẩn vết mổ
Biểu đồ 3.4 cho thấy Escherichia coli là vi khuẩn gây nhiễm khuẩn viêm màng não (NKVM) chiếm tỷ lệ lớn nhất với 57,1%, tiếp theo là Enterobacter cloacae, Klebsiella pneumonia và Staphylococcus aureus, mỗi loại chiếm 14,3% So với nghiên cứu của Nguyễn Quốc Anh (2008), tỷ lệ Escherichia coli đã tăng từ 39,6% lên 57,1%, trong khi Klebsiella pneumonia giảm từ 16,7% xuống 14,3% Nghiên cứu của Trần Đỗ Hùng và cộng sự (2013) cũng khẳng định Escherichia coli là nguyên nhân chính gây NKVM.
(34,4%), tiếp theo đó là do Klebsiella pneumoniae (25,0%) và Staphylococcus aureus (12,5%) [36] Kết quả của Phạm Văn Tân (2016) với vi khuẩn gây
NKVM chiếm tỉ lệ lớn nhất là Escherichia coli (61,1%); tiếp theo là
Pseudomonas aeruginosa (6,9%); Klebsiella pneumonia (5,6%) Enterobacter cloacae; Enterococcus spp và Streptococcus group B đều chiếm tỉ lệ 4,2% [6].
Mặc dù các nghiên cứu có sự khác biệt nhỏ về kết quả, nhưng tất cả đều nhất quán với nhận định quốc tế về các loại vi khuẩn chính gây nhiễm khuẩn vết mổ, bao gồm Staphylococcus aureus và Enterococcus faecalis.
Escherichia coli, Klebsiella pneumoniae, Pseudomonas aeruginosa và Acinetobacter baumannii là những vi khuẩn chính được phân lập trong nghiên cứu này Kết quả của chúng tôi hoàn toàn phù hợp với khuyến cáo của Bộ Y tế Việt Nam (2010), cho thấy sự khác biệt rõ rệt về số lượng chủng vi khuẩn giữa các bệnh viện và khu vực Hơn 20 loại vi khuẩn gây bệnh đã được xác định, trong đó vi khuẩn đường ruột chiếm ưu thế.
Escherichia coli, Klebsiella, Pseudomonas aeruginosa và Acinetobacter là những căn nguyên phổ biến gây NKBV (bao gồm NKVM) [38].
4.2.5 Một số yếu tố liên quan đến nhiễm khuẩn vết mổ
4.2.5.1 Liên quan tuổi với NKVM
Tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) ở nhóm bệnh nhân từ 60 tuổi trở lên là 13%, cao hơn so với nhóm bệnh nhân dưới 60 tuổi với tỉ lệ 0,92%, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê (p>0.05) Nghiên cứu của Trần Đỗ Hùng và Dương Văn Hoanh (2013) cùng Phạm Văn Tân (2016) cũng không tìm thấy mối liên hệ giữa độ tuổi và NKVM ở bệnh nhân sau phẫu thuật Thực tế cho thấy cả bệnh nhân trẻ tuổi lẫn cao tuổi đều có sức đề kháng kém hơn đối với vi khuẩn, dẫn đến nguy cơ mắc NKVM cao hơn so với bệnh nhân trong độ tuổi trưởng thành hoặc trung niên.
4.2.5.2 Liên quan giới tính với NKVM
Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy không có mối liên hệ thống kê đáng kể giữa giới tính và nguy cơ mắc NKVM Kết quả này tương đồng với nghiên cứu của Nguyễn Quốc Anh và Phạm Văn Tân, cho thấy mặc dù nam giới có nguy cơ mắc NKVM cao hơn nữ giới hơn 1,3 lần, nhưng vẫn không đạt giá trị thống kê với p>0,05.
4.2.5.3 Liên quan chỉ số khối cơ thể (BMI) với NKVM
Nghiên cứu cho thấy bệnh nhân phẫu thuật bị béo phì có nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) cao hơn so với bệnh nhân không béo phì Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của chúng tôi không chứng minh được sự khác biệt này, có thể do tỷ lệ bệnh nhân béo phì trong nghiên cứu chỉ chiếm 3,6%, trong khi đó tỷ lệ bệnh nhân thừa cân lên tới 22,6%.
4.2.5.4 Liên quan giữa bệnh kèm theo với thời gian nằm viện trước mổ
Bảng 3.14 cho thấy tỉ lệ nhiễm khuẩn vết mổ (NKVM) ở nhóm bệnh nhân có bệnh kèm theo (6,04%) cao hơn so với nhóm không có bệnh kèm theo (2,75%), với sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p 0,05.
4.2.5.6 Liên quan giữa loại ASA với nhiễm khuẩn vết mổ