1. Trang chủ
  2. » Giáo Dục - Đào Tạo

(SKKN 2022) nâng cao hiệu quả giờ dạy học bài đại cáo bình ngô ( nguyễn trãi ngữ văn 10, tập 2) thông qua việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi

46 108 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Nâng Cao Hiệu Quả Giờ Dạy- Học Bài “Bình Ngô Đại Cáo” (Nguyễn Trãi- Ngữ Văn 10, Tập 2) Thông Qua Việc Áp Dụng Kĩ Thuật Đặt Câu Hỏi
Tác giả Nguyễn Thị Tính
Trường học Trường THPT Hà Trung
Chuyên ngành Ngữ Văn
Thể loại sáng kiến kinh nghiệm
Năm xuất bản 2022
Thành phố Thanh Hoá
Định dạng
Số trang 46
Dung lượng 124,33 KB

Cấu trúc

  • 1. MỞ ĐẦU (3)
    • 1.1. Lí do chọn đề tài (3)
    • 1.2. Mục đích nghiên cứu (4)
    • 1.3. Đối tượng nghiên cứu (4)
    • 1.4. Phương pháp nghiên cứu (4)
    • 1.5. Những điểm mới của sáng kiến kinh nghiệm (4)
  • 2. NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM (5)
    • 2.1. Cơ sở lý luận của việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong dạy học (5)
      • 2.1.1. Một số khái niệm (5)
      • 2.1.2. Tại sao đặt câu hỏi được xem là một kĩ thuật trong dạy học? (5)
    • 2.2. Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm (6)
      • 2.2.1. Hệ thống câu hỏi trong phần “Hướng dẫn học bài” ở bài học “Đại cáo bình Ngô” ( Nguyễn Trãi- Ngữ văn 10, tập 2) (6)
      • 2.2.2. Việc sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi của giáo viên còn nhiều hạn chế (6)
      • 2.2.3. Thái độ, ứng xử của học sinh đối với các câu hỏi giáo viên đưa ra (7)
      • 2.2.4. Nguyên nhân thực trạng (7)
    • 2.3. Các giải pháp áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong bài học “Đại cáo bình Ngô” ( Nguyễn Trãi- Ngữ văn 10, tập 2) (7)
      • 2.3.1. Tổ chức , hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về tác giả Nguyễn Trãi thông qua hệ thống câu hỏi (7)
      • 2.3.2. Hoạt động tổ chức, hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu văn bản “ Đại cáo bình Ngô” (9)
      • 2.3.3. Hoạt động hướng dẫn học sinh đánh giá, tổng kết văn bản (11)
    • 2.4. Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm (15)
      • 2.4.1. Đối với giáo viên (15)
  • 3. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ (17)
    • 3.1. Kết luận (17)
    • 3.2. Kiến nghị (18)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (19)
  • PHỤ LỤC (22)

Nội dung

NỘI DUNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

Cơ sở lý luận của việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong dạy học

Câu hỏi dạy học là dạng câu nghi vấn thiết yếu trong quá trình giáo dục, giúp tổ chức và thúc đẩy sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, cũng như giữa các học sinh với nhau Qua đó, câu hỏi hỗ trợ người học trong việc khám phá và làm rõ nội dung học tập, bằng cách cung cấp, giải thích, nhận xét và đánh giá thông tin liên quan đến đối tượng học tập thông qua các câu trả lời.

Kỹ thuật đặt câu hỏi trong dạy học là một phương pháp quan trọng, giúp giáo viên tạo ra hệ thống câu hỏi phù hợp với học sinh và mục tiêu bài học Phương pháp này khuyến khích tính tích cực, tự giác và sáng tạo trong học tập, đồng thời tạo ra niềm hứng khởi và say mê cho người học.

Cần phân biệt giữa câu hỏi trong cuộc sống và trong dạy học Trong cuộc sống, người ta thường đặt câu hỏi để tăng cường hiểu biết và bổ sung kiến thức cá nhân Ngược lại, trong dạy học, câu hỏi thường được giáo viên đưa ra với mục đích giúp học sinh nắm bắt kiến thức mà họ đã biết Những câu hỏi này mang tính gợi mở, khuyến khích học sinh khám phá và tìm ra mối liên hệ giữa các quy tắc Giáo viên sử dụng câu hỏi để định hướng, khuyến khích học sinh trở nên tự giác, chủ động, tích cực và sáng tạo trong việc tiếp thu tri thức.

2.1.2 Tại sao đặt câu hỏi được xem là một kĩ thuật trong dạy học?

Trong dạy học, hệ thống câu hỏi của giáo viên đóng vai trò quan trọng trong việc đổi mới phương pháp giảng dạy và khơi gợi sự tham gia tích cực của học sinh Khi câu hỏi được chuẩn bị chu đáo, bám sát chuẩn kiến thức và phù hợp với đối tượng học sinh, nó sẽ tạo hứng thú và sự say mê cho người học Việc thiết kế một giáo án với hệ thống câu hỏi đầy đủ đòi hỏi giáo viên phải đầu tư nhiều công sức và thời gian Hệ thống câu hỏi không chỉ giúp học sinh phát hiện kiến thức mà còn kích thích tính tích cực, tự giác và ham hiểu biết của các em Giáo viên tổ chức và hướng dẫn, trong khi học sinh chủ động tìm tòi và sáng tạo để khám phá kiến thức mới Mặc dù việc thiết kế câu hỏi theo các cấp độ tư duy tốn thời gian hơn so với thuyết trình, nhưng nó có tác dụng khắc sâu kiến thức và phát triển tư duy của học sinh, cho thấy rằng đặt câu hỏi là một kỹ thuật dạy học tích cực nhằm phát triển năng lực cho học sinh.

Thực trạng vấn đề trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm

2.2.1 Hệ thống câu hỏi trong phần “Hướng dẫn học bài” ở bài học “Đại cáo bình Ngô” ( Nguyễn Trãi- Ngữ văn 10, tập 2)

Trong thực tế dạy học, nhiều học sinh gặp khó khăn trong việc soạn bài và chuẩn bị bài học ở nhà theo hệ thống câu hỏi sách giáo khoa, dẫn đến tình trạng đối phó và thiếu hiệu quả Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa thường mang tính khái quát, do đó, giáo viên cần sáng tạo và dựa vào thực tiễn để hướng dẫn học sinh tự khám phá và tìm hiểu bài học Việc chuẩn bị và thiết kế bài học, cũng như dự kiến tình huống sư phạm, là cực kỳ quan trọng để khơi gợi hứng thú học tập cho học sinh Kinh nghiệm giảng dạy nhiều năm không thể thay thế cho sự chuẩn bị chu đáo, nếu không sẽ khó đạt được hiệu quả trong giảng dạy.

2.2.2 Việc sử dụng kĩ thuật đặt câu hỏi của giáo viên còn nhiều hạn chế

Nhiều giáo viên chưa tìm ra những biện pháp phù hợp để kích thích sự tìm tòi và sáng tạo của học sinh trong giờ học, dẫn đến việc chưa phát huy hết khả năng phát hiện và giải quyết vấn đề của các em.

- Một số câu hỏi đưa ra khá vụn vặt, câu hỏi chưa rõ, rối hoặc chưa làm rõ trọng tâm vấn đề.

Qua khảo sát thực tế, một số giáo viên đã đưa ra câu hỏi thảo luận cho học sinh, nhưng những câu hỏi này chưa phù hợp với yêu cầu, dẫn đến tính hình thức và thiếu sức hấp dẫn trong vấn đề thảo luận Mặc dù học sinh có tham gia phát biểu và trả lời, nhưng sự hứng thú của các em vẫn chưa cao.

Khi giáo viên đặt câu hỏi mà học sinh không trả lời, điều này thường xảy ra do giáo viên chưa chuẩn bị kỹ lưỡng các tình huống hỏi Thay vì đưa ra câu hỏi khác để giúp học sinh tiếp cận vấn đề, giáo viên thường tự trả lời câu hỏi của mình và phàn nàn rằng học sinh thiếu ý thức học tập.

- Sau khi đặt câu hỏi, giáo viên thường gọi một học sinh ( thường là học sinh

Trong quá trình giảng dạy, giáo viên thường yêu cầu học sinh giơ tay phát biểu, chỉ gọi tên học sinh nếu câu trả lời không đúng Tuy nhiên, giáo viên chưa thực sự nhận xét chi tiết để làm rõ vấn đề Họ giải thích và đưa ra kết luận, sau đó yêu cầu học sinh ghi chú Quá trình này tiếp diễn cho đến khi kết thúc bài học, với giáo viên vẫn giữ vai trò trung tâm trong việc truyền đạt kiến thức và giải quyết vấn đề, trung thành với phương pháp giảng dạy truyền thống.

"Câu nói 'Bình mới rượu cũ' nhấn mạnh rằng dù có nhiều câu hỏi được đặt ra, giáo viên vẫn không hướng dẫn học sinh khám phá và tự mình lĩnh hội tri thức."

2.2.3.Thái độ, ứng xử của học sinh đối với các câu hỏi giáo viên đưa ra

Một số học sinh vẫn chưa thể hiện tinh thần tự giác và tích cực trong học tập, dẫn đến tình trạng lười biếng và thụ động Khi giáo viên đặt câu hỏi mà học sinh không đáp lại, điều này không chỉ làm giảm hứng thú của giáo viên mà còn ảnh hưởng đến chất lượng giảng dạy.

- Học sinh có sách giáo khoa, nhưng ít nguồn tài liệu tham khảo

Nhiều giáo viên gặp khó khăn trong việc giảng dạy vì học sinh thường không mấy quan tâm đến môn học Khi đặt ra các câu hỏi mà học sinh không trả lời, giáo viên thường phải giải thích ngay để tiết kiệm thời gian.

Giáo viên văn học thường thiếu chủ động trong việc tìm hiểu và nắm bắt tinh thần của tác phẩm, dẫn đến việc phụ thuộc vào tài liệu tham khảo Điều này khiến họ không thể linh hoạt và sáng tạo khi đặt câu hỏi trong bài học Nếu không hiểu rõ tác phẩm, giáo viên sẽ khó đưa ra những câu hỏi kích thích tư duy cho học sinh.

- Một bộ phận học sinh thờ ơ với môn học.

Các giải pháp áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi trong bài học “Đại cáo bình Ngô” ( Nguyễn Trãi- Ngữ văn 10, tập 2)

Kĩ thuật đặt câu hỏi là yếu tố quan trọng trong dạy học môn Ngữ Văn, giúp học sinh tham gia tích cực vào hoạt động học tập Để đạt hiệu quả cao, giáo viên cần hiểu rõ đối tượng học sinh và nội dung văn bản, từ đó thiết kế câu hỏi phù hợp Việc khuyến khích mọi học sinh tham gia, không chỉ những học sinh quen thuộc, là cần thiết để tạo cơ hội học tập công bằng Khi chuẩn bị bài học, giáo viên cần chú ý đến hệ thống câu hỏi, rèn luyện khả năng cảm thụ và phân tích để nắm bắt nội dung tư tưởng của văn bản Quan trọng hơn, câu hỏi phải phù hợp với đặc điểm lớp học và địa phương, không nên chỉ dựa vào tài liệu tham khảo Bài viết sẽ đề xuất các giải pháp áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi cho việc tìm hiểu văn bản “Đại cáo bình Ngô” trong chương trình Ngữ Văn 10 THPT.

2.3.1 Tổ chức , hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung về tác giả Nguyễn Trãi thông qua hệ thống câu hỏi

Mục tiêu của bài kiểm tra là đánh giá trí nhớ của học sinh về các dữ liệu, số liệu, định nghĩa và khái niệm văn học, bao gồm tên tác giả, quê quán, cùng những sự kiện nổi bật liên quan đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của họ.

+ Tác dụng đối với học sinh : Giúp học sinh ôn lại những gì đã biết, đã trải qua.

Khi giáo viên hình thành câu hỏi, có thể sử dụng các từ như: Ai…? Cái gì…? Ở đâu…? Thế nào…? Khi nào…? và Hãy kể lại… để kích thích sự tham gia và tư duy của học sinh.

- Hãy kể tên một số tác giả văn học trung đại có những đóng góp quan trọng trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc.

- Hãy chia sẻ một vài thông tin về tác giả mà em ngưỡng mộ.

- Hãy kể tên những tác phẩm văn học, nghệ thuật mà em biết nói về cuộc đời, sự nghiệp của danh nhân Nguyễn Trãi.

Sách giáo khoa phần Tiểu dẫn cung cấp thông tin đầy đủ và ngắn gọn về tiểu sử, sự nghiệp của tác giả và các nét chính về tác phẩm như xuất xứ, hoàn cảnh sáng tác Để kiểm tra trí nhớ và khả năng tái hiện kiến thức của học sinh, giáo viên nên đưa ra các câu hỏi dạng “nhận biết” Học sinh đã chuẩn bị bài ở nhà, và từ câu trả lời của một học sinh, các em khác có thể bổ sung kiến thức hoặc điều chỉnh thông tin nếu chưa nắm rõ.

Mục tiêu của bài kiểm tra là đánh giá khả năng của học sinh trong việc liên hệ và kết nối các dữ kiện, số liệu, cũng như các đặc điểm khi tiếp nhận thông tin về tác giả Nguyễn Trãi.

Tác dụng đối với học sinh là giúp các em nắm vững những yếu tố cơ bản trong bài học, đồng thời phát triển khả năng so sánh giữa các yếu tố và sự kiện liên quan.

Khi hình thành câu hỏi, giáo viên có thể sử dụng các cụm từ như "Vì sao ?", "Hãy giải thích ?", "Hãy so sánh ?", và "Hãy liên hệ ?" để tạo ra những câu hỏi hiệu quả.

Sau khi học sinh nhận xét và kết luận câu trả lời của bạn, giáo viên sẽ bổ sung hoặc xác nhận thông tin Tiếp theo, giáo viên sẽ đặt các câu hỏi "thông hiểu" nhằm kiểm tra khả năng liên hệ và kết nối các thông tin đã được cung cấp.

- Đọc những vần thơ Nguyễn Trãi viết về nỗi niềm thế sự, em hình dung như thế nào về con người tác giả?

Mục tiêu của việc này là đánh giá khả năng của học sinh trong việc áp dụng những kiến thức đã học, bao gồm các dữ kiện, số liệu và đặc điểm, vào những tình huống mới.

Việc học tập giúp học sinh nắm vững nội dung kiến thức, các khái niệm và định luật quan trọng Hơn nữa, học sinh còn biết cách áp dụng nhiều phương pháp khác nhau để giải quyết các vấn đề trong cuộc sống hàng ngày.

Khi dạy học, giáo viên nên tạo ra các tình huống mới và bài tập đa dạng để học sinh có thể áp dụng kiến thức đã học Việc đưa ra nhiều câu trả lời cho học sinh lựa chọn giúp kích thích tư duy và so sánh các giải pháp khác nhau, từ đó tạo ra một quá trình học tập tích cực và hiệu quả.

Tùy thuộc vào tình hình lớp học và khả năng tiếp thu của học sinh, giáo viên có thể bổ sung các câu hỏi phân tích, đánh giá, tổng hợp hoặc giả định Những câu hỏi này giúp kiểm tra khả năng phân tích và khả năng đóng góp ý kiến của học sinh trong việc tìm hiểu nội dung bài học.

- Nêu những cảm nhận của em về tâm hồn Nguyễn Trãi qua những bài thơ viết về thiên nhiên.

- Văn chính luận của Nguyễn Trãi đã từng thể hiện sức tác động mạnh mẽ như thế nào? Những yếu tố nào đã làm nên sức mạnh đó?

- Sưu tầm một bài thơ của Nguyễn Trãi và viết một đoạn văn 150 chữ giới thiệu về bài thơ đó

2.3.2 Hoạt động tổ chức, hướng dẫn học sinh đọc và tìm hiểu văn bản “ Đại cáo bình Ngô”

Trong phần Hướng dẫn học bài, sách giáo khoa đưa ra các câu hỏi khái quát, từ đó giáo viên cần định hướng khai thác và tạo ra các câu hỏi phù hợp cho học sinh, thay vì chỉ sử dụng nguyên văn các câu hỏi có sẵn Để làm được điều này, giáo viên phải đọc kỹ văn bản để hiểu tinh thần chung của tác phẩm, từ đó xác định những vấn đề cần khám phá và xây dựng các câu hỏi nhằm khơi gợi sự tìm tòi của học sinh.

- Để giúp học sinh phát hiện ra những hình ảnh làm chìa khoá giải mã văn bản, giáo viên nêu câu hỏi phát hiện

- Hãy cho biết tư cách phát ngôn của Nguyễn Trãi khi viết tác phẩm này?

- Sự kiện được tái hiện và bàn luận trong tác phẩm là gì?

- Đối tượng tác động và mục đích viết của bài cáo?

- Xác định luận đề của văn bản và nêu lí do vì sao em lại xác định như vậy?

- Chủ quyền dân tộc được thể hiện ở những phương diện cơ bản nào?

- Theo em, trong đoạn 1 của văn bản, câu văn nào thể hiện rõ nhất mục đích của việc thực thi lí tưởng nhân nghĩa?

Mục tiêu của việc kiểm tra học sinh là đánh giá khả năng phân tích nội dung vấn đề, từ đó giúp học sinh tìm ra mối liên hệ giữa các yếu tố, chứng minh luận điểm một cách thuyết phục và đi đến những kết luận chính xác.

Tác dụng của việc học đối với học sinh là giúp các em nhận diện và phân tích mối quan hệ giữa các hiện tượng và sự kiện Qua đó, học sinh có khả năng tự diễn giải và đưa ra kết luận riêng, từ đó phát triển tư duy lôgic một cách hiệu quả.

Hiệu quả của sáng kiến kinh nghiệm

Những biện pháp và phương pháp đã áp dụng trong việc dạy đọc bài Đại cáo bình Ngô cùng các tác phẩm văn học trong chương trình Ngữ Văn THPT đã mang lại cho tôi những kết quả tích cực.

Việc phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn học cho học sinh đóng vai trò quan trọng trong quá trình học tập Học sinh cần nắm rõ các biện pháp và cách thức để hiểu văn bản, đồng thời tạo tâm thế tích cực khi tiếp thu kiến thức qua hệ thống câu hỏi trong từng tiết học Giáo viên cần thực hiện linh hoạt và chất lượng trong tất cả các khâu giảng dạy, từ kiểm tra bài cũ, dạy bài mới đến củng cố kiến thức Sự chuẩn bị nghiêm túc và khả năng thẩm thấu văn bản của giáo viên sẽ giúp họ đưa ra những câu hỏi phù hợp, sáng tạo và hấp dẫn.

Từ đó từng bước tự nâng cao trình độ chuyên môn.

Việc áp dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong bài học đã tạo ra một sự đổi mới trong cách tổ chức dạy học, giúp học sinh biết cách vận dụng kiến thức và kỹ năng vào việc viết bài văn nghị luận văn học, đồng thời phát triển năng lực đọc hiểu văn bản văn học.

Kết quả ban đầu cho thấy, khi học một tác phẩm văn học, học sinh thể hiện sự tự tin và chủ động trong học tập Các em nắm vững kiến thức cơ bản, từ đó phát triển và áp dụng kỹ năng vào việc viết nghị luận văn học cũng như trong cuộc sống Bài học trở nên hấp dẫn hơn đối với học sinh so với trước đây Trong phương pháp thảo luận nhóm, chỉ một số ít học sinh tích cực tham gia, trong khi kỹ thuật đặt câu hỏi khuyến khích tất cả học sinh tìm kiếm câu trả lời, tạo ra sự tương tác và chủ động hơn trong quá trình học.

Việc áp dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong giảng dạy có tác động lớn đến sự hứng thú của học sinh và bầu không khí lớp học Trong thực tế, khi giáo viên dẫn dắt, học sinh trở nên chủ động hơn trong việc suy nghĩ và tham gia các hoạt động học tập Điều này đặc biệt thể hiện qua việc các em mạnh dạn trình bày và bảo vệ ý kiến của mình về các vấn đề mà giáo viên đưa ra, cũng như khi liên hệ với thực tiễn.

Bảng A: Kết quả phiếu thăm dò thái độ của HS lớp thực nghiệm và đối chứng Đối tượng điều tra Sĩ số

Mức độ hứng thú Rất thích Thích Bình thường Không thích

Theo bảng phân tích, sự chênh lệch rõ rệt về mức độ hứng thú học tập giữa hai lớp thực nghiệm và đối chứng được thể hiện rõ Cụ thể, trong các lớp thực nghiệm, tỉ lệ học sinh thích và rất thích học bài Đại cáo bình Ngô đạt mức cao, trong khi đó, ở các lớp đối chứng, tỉ lệ học sinh bày tỏ sự yêu thích học tập lại rất thấp, chủ yếu là những em có thái độ bình thường hoặc không thích học.

Kết quả bài kiểm tra sau tiết dạy cho thấy đa số học sinh lớp thực nghiệm tiếp thu bài tốt, nhưng việc vận dụng kiến thức vẫn còn khác nhau So sánh với lớp đối chứng, học sinh vẫn lúng túng trong việc tiếp cận tác phẩm, đặc biệt là các đơn vị kiến thức nâng cao và mở rộng chưa được nắm vững.

Bảng B: Kết quả bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và đối chứng

HS Điểm 9- 10 Điểm 7- 8 Điểm 5- 6 Điểm 3-4 Điểm 1- 2

SL % SL % SL % SL % SL %

Bảng C: Biểu đồ kết quả bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và đối chứng

Nghiên cứu cho thấy rằng việc áp dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong quá trình học tập giúp học sinh tiếp cận bài học hiệu quả hơn, từ đó nâng cao chất lượng bài kiểm tra so với các phương pháp dạy học truyền thống.

- Số lượng học sinh đạt điểm 9 - 10, ở lớp 10N chỉ có 1 chiếm 2.3% em trong khi đó lớp 10H có 3 em đạt tỷ lệ 6.7%.

Lớp 10H có 18/45 học sinh đạt điểm 7-8, chiếm 40%, trong khi lớp 10N chỉ có 5/43 học sinh, tương đương 11.6% Sự chênh lệch 26.6% giữa hai lớp cho thấy phương pháp dạy học phát triển năng lực đọc hiểu đã giúp học sinh lớp 10H tiếp thu và ghi nhớ bài tốt hơn, từ đó nâng cao chất lượng bài kiểm tra.

- Cả hai lớp số lượng học sinh đạt mức điểm 5 - 6 khá cao Lớp 10H có 20/45 học sinh chiếm tỷ lệ 44.4%, trong khi đó lớp 10N là 26/43 học sinh, đạt tỷ lệ 60,4%.

Sự khác biệt rõ rệt về số lượng học sinh có điểm dưới 5 giữa hai lớp 10N và 10H đã được ghi nhận Cụ thể, lớp 10N có tỷ lệ học sinh đạt điểm từ 3 đến 4 là 20,9%, trong khi lớp 10H chỉ có 8,9%, thấp hơn 12,0% Đặc biệt, lớp 10H không có học sinh nào bị điểm 1-2, trong khi lớp 10N có 2 trong số 43 học sinh, chiếm tỷ lệ 4,65%.

Theo các số liệu và biểu đồ, lớp 10H có tỷ lệ học sinh đạt điểm giỏi cao hơn lớp 10N, trong khi tỷ lệ học sinh điểm dưới trung bình của lớp 10H lại thấp hơn Điều này chứng tỏ rằng việc áp dụng kỹ thuật đặt câu hỏi theo hướng phát triển năng lực là rất hiệu quả.

Việc áp dụng kỹ thuật đặt câu hỏi trong giảng dạy không chỉ mang lại hiệu quả cho một bài học cụ thể mà còn có thể được nghiên cứu và áp dụng cho nhiều bài học khác trong chương trình Đặc biệt trong bộ môn Ngữ Văn, kỹ thuật này cho thấy sự vượt trội so với các phương pháp khác như kỹ thuật khăn phủ bàn, sơ đồ tư duy hay kỹ thuật KWL.

Ngày đăng: 05/06/2022, 10:19

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Theo bảng trên, tôi nhận thấy mức độ hứng thú của học sin hở hai lớp thực nghiệm và đối chứng theo các mức độ khác nhau đã có sự chênh lệch đáng kể - (SKKN 2022) nâng cao hiệu quả giờ dạy  học bài đại cáo bình ngô ( nguyễn trãi  ngữ văn 10, tập 2) thông qua việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi
heo bảng trên, tôi nhận thấy mức độ hứng thú của học sin hở hai lớp thực nghiệm và đối chứng theo các mức độ khác nhau đã có sự chênh lệch đáng kể (Trang 16)
Bảng B: Kết quả bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và đối chứng - (SKKN 2022) nâng cao hiệu quả giờ dạy  học bài đại cáo bình ngô ( nguyễn trãi  ngữ văn 10, tập 2) thông qua việc áp dụng kĩ thuật đặt câu hỏi
ng B: Kết quả bài kiểm tra ở lớp thực nghiệm và đối chứng (Trang 16)

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w