MỘ T S Ố V ẤN ĐỀ LÝ LU Ậ N V Ề PHÒNG V Ệ CHÍNH ĐÁNG 3
Khái quát chung về phòng vệ chính đáng
Phòng vệ chính đáng là hành vi bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bản thân, người khác, hoặc lợi ích của Nhà nước và tổ chức trước những hành vi xâm phạm Hành động này được thực hiện một cách cần thiết và hợp lý, và không được coi là tội phạm.
Việc thiết lập hệ thống phòng vệ pháp luật nhằm khuyến khích mọi người tham gia chống lại các hành vi vi phạm của những đối tượng được pháp luật hình sự bảo vệ, đồng thời có tác dụng ngăn chặn hoặc giảm thiểu thiệt hại do những hành vi này gây ra.
Luật Hình sự Việt Nam xác định rằng hành vi phòng vệ chính đáng không được coi là tội phạm, vì nó phục vụ lợi ích xã hội và hỗ trợ nhà nước trong việc duy trì trật tự xã hội, đồng thời ngăn chặn các hành vi hung hãn và bảo vệ các quan hệ xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ.
Biện hộ chính đáng là quyền của cá nhân, không phải là nghĩa vụ pháp lý Mặc dù cá nhân có thể không sử dụng quyền này vì nhiều lý do khác nhau, nhưng về mặt đạo đức, mọi người cần có trách nhiệm vì lợi ích chung của xã hội và ngăn chặn những vi phạm đối với lợi ích này Đối với những người giữ chức vụ có trách nhiệm bảo vệ lợi ích của đất nước và nhân dân, điều này trở thành nghĩa vụ pháp lý.
Theo hệ thống phòng vệ chính đáng, mọi người được phép bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, của người khác cũng như của nhà nước Tuy nhiên, biện hộ chính đáng không có nghĩa là xử lý tùy tiện, vì quyền giải quyết các hành vi vi phạm pháp luật thuộc về nhà nước Do đó, phòng vệ chính đáng phải tuân theo các giới hạn do pháp luật quy định Chỉ khi đáp ứng các điều kiện cho thấy sự phòng vệ phù hợp với “lợi ích hợp pháp” của xã hội, thì mới được coi là hợp pháp.
Khi một hành vi có đủ yếu tố cấu thành tội phạm, nó sẽ bị coi là tội phạm và có nguy cơ bị trừng phạt Tuy nhiên, luật hình sự cũng quy định những hành vi nhất định, mặc dù phù hợp với điều kiện hình thức của tội phạm, nhưng không được xem là tội phạm, ví dụ như hành vi phòng vệ chính đáng Phòng vệ chính đáng, mặc dù có thể gây thiệt hại cho các thiết chế xã hội được bảo vệ bởi luật hình sự, vẫn được nhà nước khuyến khích Điều này dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau trong việc giải thích quy định này, trong đó có lý thuyết về cưỡng bức tinh thần.
Trong tình huống phòng vệ chính đáng, hành vi phòng vệ có thể được coi là một tội phạm, nhưng người thực hiện hành vi đó sẽ được miễn trách nhiệm hình sự do hành động trong trạng thái bị cưỡng bách tinh thần Khi bị tấn công một cách bất ngờ và trái phép, việc phản kháng là điều cần thiết.
Quan điểm thứ hai cho rằng người phòng vệ, dù gây thiệt hại cho kẻ tấn công, thực hiện quyền và bổn phận đối với xã hội Khi đối diện với hành động tấn công đe dọa lợi ích xã hội, người phòng vệ không thể chờ sự can thiệp của chính quyền mà cần phản ứng kịp thời để bảo vệ trật tự xã hội và tính mạng của bản thân hoặc người khác Do đó, người phòng vệ hành động nhân danh xã hội và thực thi quyền phòng vệ, dẫn đến việc học thuyết này được gọi là học thuyết phòng vệ.
Các nhà luật học xã hội chủ nghĩa đồng ý với học thuyết về quyền tự vệ và mở rộng nội dung của nó, cho rằng trong những điều kiện và hạn chế nhất định, chủ nghĩa xã hội khuyến khích mọi người tích cực bảo vệ lợi ích của đất nước và xã hội Hành động tự vệ được thực hiện phù hợp với quy luật tự nhiên và xã hội, trong đó, mọi vật thể hay hiện tượng đều có xu hướng phản kháng lại sự tấn công bằng một lực tương đương với lực mà chúng phải chịu.
Khi một người chạm vào tấm ván, lực tác động có thể gây thương tích cho tay họ Từ góc độ xã hội, sự bền vững của các quan hệ xã hội phản ánh ý chí của giai cấp thống trị, tức là nhà nước Mọi vi phạm đối với sự ổn định này sẽ dẫn đến phản ứng từ nhà nước, và trong một số điều kiện nhất định, những phản ứng này có thể đạt hiệu quả cao, đặc biệt trong các tình huống cụ thể.
Trong bối cảnh nhà nước liên tục thực hiện các hành vi xâm phạm, quyền lực đã được chuyển giao cho cá nhân để họ có thể phản ứng Sự phản ứng này xuất phát từ ý chí chung của các cá nhân khi nhà nước không còn khả năng bảo vệ quyền lợi của họ Do đó, phòng vệ chính đáng trở thành một biện pháp cần thiết trong tình huống này.
Dựa trên quan niệm về quyền bào chữa chính đáng và theo quy định của Bộ luật Hình sự Việt Nam, ý nghĩa của quy định này được tóm tắt như sau: Quyền bào chữa chính đáng đảm bảo cho người bị buộc tội có cơ hội bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình trong quá trình xét xử, góp phần vào việc thực hiện công bằng và minh bạch trong hệ thống tư pháp.
Các quy định về phòng vệ chính đáng khuyến khích công dân tham gia đấu tranh chống tội phạm, ngăn chặn các hành vi xâm phạm lợi ích cá nhân, nhóm và đất nước, từ đó góp phần hiệu quả vào công tác phòng chống tội phạm và bảo vệ quyền lợi của tổ chức xã hội cũng như cá nhân.
Việc quy định phòng vệ chính đáng không chỉ giúp xử lý những hành vi gây hại cho người khác mà còn ngăn chặn và hạn chế vi phạm pháp luật Điều này được thực hiện thông qua các biện pháp trừng phạt, bảo vệ chính trị và loại bỏ tác hại cho xã hội, đồng thời xác định tính trái pháp luật của hành vi khi xảy ra Những quy định này đều được pháp luật thiết lập để đảm bảo công lý và công bằng xã hội.
Các quy định pháp luật về phòng vệ đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện hiệu quả chính sách hình sự quốc gia và các nguyên tắc xử lý hình sự, cũng như trách nhiệm công dân Việc làm rõ ranh giới giữa hành vi phạm tội và không phải tội phạm, cùng với việc xác định các trường hợp phải chịu trách nhiệm hình sự, giúp thúc đẩy sự hăng hái và chủ động của người dân trong cuộc chiến chống tội phạm, đồng thời thích ứng với những yêu cầu mới của đất nước.
1.1.4 Các đặc điểm cơ bản
Kinh nghiệm lịch sử lập pháp hình sự Việt Nam về phòng vệ chính đáng
Sau khi cách mạng tháng 8 năm 1945 thành công, chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc bảo vệ các quyền cơ bản của con người ngay tại phiên họp đầu tiên Ngày 3 tháng 9 năm 1945, chính quyền mới đã bắt đầu thực hiện các biện pháp để đảm bảo quyền lợi cho công dân.
Năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã yêu cầu chính phủ thành lập và xây dựng bản hiến pháp đầu tiên của nhà nước, nhấn mạnh rằng trước đây, đất nước đã trải qua chế độ quân chủ chuyên chế và thực dân cũng không kém phần chuyên chế, dẫn đến việc nước ta không có hiến pháp.
7 nhân dân ta không được hưởng quyền tự do, dân chủ, chúng ta phải có Hiến pháp dân chủ”
Ngày 20-9-1945, bản thảo hiến pháp đầu tiên do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu ra đời Ngày 9-11-1946, Quốc hội đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã thông qua bản Hiến pháp thứ 20 của nước ta, đánh dấu một mốc son trong lịch sử của chính phủ lập hiến Việt Nam Trong những năm qua, nước ta đã có 4 bản hiến pháp - Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 Có thể khẳng định tóm tắt nội dung của 4 bản hiến pháp: dù tình hình chính trị của đất nước và bối cảnh quốc tế khác nhau, giá trị cao quý của quyền con người luôn được Hiến pháp ghi nhận, tôn trọng, bảo vệ và thể hiện nó trong văn bản pháp luật cao nhất của Nhà nước
Sau khi thắng lợi trong Kháng chiến chống Pháp, Việt Nam đã bước vào giai đoạn mới với sự cần thiết phải thay thế các văn bản pháp luật thực dân và phong kiến không còn phù hợp Ngày 30-6-1955, Bộ Tư pháp ban hành Thông tư 19/VHH-HS yêu cầu tòa án ngừng áp dụng các luật này, thay thế các lệnh trước đó Các văn bản pháp luật mới đã được ban hành, đưa luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là liên quan đến sức khoẻ con người, vào một giai đoạn phát triển mới Trong thời kỳ này, Luật số 103/SL ngày 20-5-1957 và Bản tóm tắt số 452/SL ngày 10-6-1970 đã đề cập đến quyền tự do hợp pháp và quy định việc sử dụng vũ khí trong thực thi pháp luật Sau Đại thắng mùa Xuân năm 1975, đất nước thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng, và tại Đại hội VI, tên nước chính thức được đổi thành Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cùng với nghị quyết ngày 2-7-1976 hướng dẫn thực hiện pháp luật thống nhất.
Trước khi ban hành Bộ luật hình sự đầu tiên vào năm 1985, Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị định số 07 ngày 22-12-1983 để xét xử các hành vi xâm phạm tính mạng và sức khỏe của người khác, vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc trong khi thi hành công vụ Theo tinh thần của Lệnh số 07/CT và Nghị quyết số 02/NQ-HĐTP, hành vi xâm phạm tính mạng hoặc sức khỏe của người khác được coi là phòng vệ chính đáng khi đáp ứng đầy đủ các dấu hiệu quy định.
Hành vi xâm hại đến những lợi ích cần được bảo vệ phải được coi là hành vi phạm tội hoặc ít nhất có tính chất nguy hiểm đáng kể cho xã hội.
Hành vi nguy hiểm cho xã hội đang gây ra thiệt hại hoặc đe dọa đến những lợi ích cần được bảo vệ một cách thực sự và ngay lập tức.
Phòng vệ chính đáng không chỉ đơn thuần là biện pháp để loại bỏ mối đe dọa hay ngăn chặn sự tấn công, mà còn có khả năng tích cực chống lại các hành vi xâm hại, gây thiệt hại cho chính những kẻ xâm phạm.
Hành vi phòng vệ cần phải tương xứng với hành vi xâm hại, nghĩa là không được có sự chênh lệch quá đáng giữa mức độ và tính chất của hành vi phòng vệ so với mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại.
Tinh thần của Tòa án nhân dân tối cao số 07/CT chỉ là hướng dẫn áp dụng pháp luật, nhưng thực tế các văn bản này lại trở thành cơ quan giải thích chính thống trên toàn quốc Tuy nhiên, do lý luận và thực tiễn xét xử còn nhiều hạn chế, các văn bản này chưa quy định một cách toàn diện về dấu hiệu của cơ quan phòng vệ chính đáng, dẫn đến sự khác biệt lớn trong cách hiểu về vấn đề này.
Bộ luật Hình sự, được Quốc hội thông qua vào ngày 27-6-1985, đánh dấu sự ra đời của bộ luật hình sự đầu tiên tại Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật, đặc biệt liên quan đến sức khỏe con người Điều 13 của bộ luật này có những quy định quan trọng nhằm bảo vệ quyền lợi và sức khỏe của công dân.
Luật Hình sự năm 1985 lần đầu tiên thiết lập hệ thống phòng vệ chính đáng, với hai điều khoản được quy định rõ ràng bởi các nhà lập pháp.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Phòng vệ chính đáng là hành vi của cá nhân nhằm bảo vệ lợi ích của nhà nước, tập thể, cũng như lợi ích hợp pháp của bản thân hoặc người khác Hành động này được thực hiện một cách tương xứng để chống lại những hành vi xâm phạm các lợi ích nêu trên, và không được coi là tội phạm.
Nếu hành vi chống trả là quá đáng và vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, người thực hiện hành vi đó sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự theo các quy định chung.
Hội nghị Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã ban hành Nghị quyết 02/NQ-HĐTP vào ngày 05-01-1986, nhằm hướng dẫn các quy định của Bộ luật Hình sự và nhắc lại nội dung của Chỉ thị 07/CT ngày 22-12-1983.
Vì vậy, trong quá trình thi hành Bộ luật hình sự năm 1985, mặc dù Bộ luật đã trải qua
Quy đinh về phong vệ chính đáng trong bộ luật hình sự một số nước trên thế giới
Hiện nay, nhiều quốc gia trên thế giới đã xây dựng các bộ luật nghiêm ngặt về phòng vệ chính đáng nhằm ngăn chặn việc lợi dụng quyền này để thực hiện hành vi phạm tội Tuy nhiên, quy định về phòng vệ chính đáng ở Việt Nam và các nước khác nhìn chung có nhiều điểm tương đồng Do đó, việc nghiên cứu và tiếp thu các quy định pháp luật của các quốc gia khác là cần thiết để hoàn thiện hệ thống pháp luật trong nước.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
10 yếu tố hợp lý vào việc sửa đổi, bổ sung nghị để góp phần hoàn thiện quy định Bộ luật hình sự Việt Nam về các vấn đề này
1.3.1 Bộ luật hình sự Liên bang Nga
Bộ luật hình sự Liên bang Nga, được Đuma Quốc gia thông qua vào ngày 24/5/1996 và có hiệu lực từ ngày 01/01/1997, đã trải qua hai lần sửa đổi vào năm 2003 và 2009 Liên quan đến phòng vệ chính đáng, trường hợp này được quy định trong Chương 8 với tên gọi “Những tình tiết loại trừ tính chất phạm tội của hành vi” và Điều 37 Bộ luật hình sự về “Phòng vệ chính đáng”.
Không bị coi là tội phạm khi gây thiệt hại trong trạng thái phòng vệ chính đáng trước hành vi nguy hiểm xâm hại đến cá nhân, quyền và lợi ích hợp pháp của người phòng vệ hoặc người khác, cũng như của xã hội hoặc nhà nước, nếu sự xâm hại đó sử dụng vũ lực hoặc đe dọa trực tiếp bằng vũ lực, gây nguy hiểm đến tính mạng của người phòng vệ hoặc người khác.
2 Bảo vệ trước sự xâm hại, khi sự xâm hại này không sử dụng vũ lực hoặc không trực tiếp đe dọa dùng vũ lực gây nguy hiểm cho tính mạng người phòng vệ hoặc người khác, là hợp pháp nếu không vượt quá giới hạn phòng vệchính đáng, nghĩa là không có những hành động cố ý không phù hợp với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại
3 Những hành động của người phòng vệđược coi là không vượt quá giới hạn phòng vệchính đáng nếu người này đã không thểđánh giá đúng mức tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi tấn công xâm do sự xâm hại xảy ra quá bất ngờ
4 Các quy định của điều luật này được áp dụng ngang nhau đối với tất cả mọi người, không phụ thuộc vào trình độ học vấn, chuyên môn và vị trí nghề nghiệp, không phụ thuộc vào khảnăng có tránh khỏi sự xâm hại nguy hiểm hay không hoặc khảnăng cầu cứu sự giúp đỡ của người khác hoặc của các cơ quan quyền lực” Ở đây phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm được thể hiện bằng cách gây thiệt hại trong trạng thái phòng vệ chính đáng trước người có hành vi nguy hiểm, xâm hại đến cá nhân, đến quyền và lợi ích hợp pháp của người phòng vệ hoặc những người
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Sự xâm hại từ xã hội hoặc nhà nước, đặc biệt khi có sử dụng vũ lực hoặc đe dọa trực tiếp bằng vũ lực, có thể gây nguy hiểm cho tính mạng của người phòng vệ hoặc những người khác.
1.3.2 Bộ luật hình sự nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa
Bộ luật hình sự của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa được Quốc hội Trung Quốc thông qua vào ngày 01/7/1979 và có hiệu lực từ 01/01/1980 Luật này đã trải qua nhiều lần sửa đổi, bổ sung, với lần sửa đổi đầu tiên vào năm 1997 và có hiệu lực từ 01/10/1997 Tiếp theo, Bộ luật hình sự đã được điều chỉnh vào các năm 1999, 2001, 2002 và gần đây nhất là năm 2005 tại Hội nghị lần thứ 14 của Ủy ban Thường vụ Đại hội đại biểu nhân dân toàn quốc khóa X Điều 20 của Bộ luật hình sự quy định các quy tắc và điều khoản liên quan đến tội phạm.
Người thực hiện hành vi phòng vệ chính đáng để ngăn chặn các hành vi bất hợp pháp xâm hại lợi ích của Nhà nước, xã hội, quyền nhân thân, tài sản và các quyền khác của bản thân hoặc người khác sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự nếu gây thiệt hại cho người có hành vi xâm hại bất hợp pháp.
2 Người có hành vi phòng vệ chính đáng rõ ràng vượt quá giới hạn cần thiết và gây thiệt hại lớn thì phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng cần được giảm nhẹ, áp dụng khung hình phạt nhẹhơn hoặc được miễn hình phạt
3 Người có hành vi phòng vệ đối với tội phạm đang hành hung, giết người, cướp của, hiếp dâm, bắt cóc hoặc các tội bạo lực khác, gây thương tích hoặc làm chết người phạm tội, không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ, không phải chịu trách nhiệm hình sự” Điều đặc biệt trong quy định trên về phòng vệ chính đáng đã làm rõ tính chất của hành vi tấn công là không nhất thiết là hành vi phạm tội Nó cũng có thể là hành vi bất hợp pháp xâm hại các lợi ích của Nhà nước, xã hội, các quyền nhân thân, tài sản và các quyền khác của mình hoặc của người khác Điều này càng khẳng định hơn về hành vi phòng vệ chính đáng là hợp pháp, cần thiết và có ích cho xã hội và hơn hết khi quy định về những lợi ích cần bảo vệ trước sự tấn công trái pháp luật thì lợi ích Nhà nước và xã hội được đặt lên đầu tiên
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, cá nhân sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng có thể được giảm nhẹ hình phạt hoặc miễn hình phạt Để tăng cường hiệu quả trong việc đấu tranh với các tội phạm nghiêm trọng, luật pháp Trung Quốc quy định rằng đối với các tội phạm như hành hung, giết người, cướp của, hiếp dâm, bắt cóc và các tội bạo lực khác, nếu gây thương tích hoặc làm chết người mà không thuộc trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ, thì sẽ không phải chịu trách nhiệm hình sự.
1.3.3 Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức
Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức năm 1994, được sửa đổi vào năm 2001 và 2009, quy định về chế định phòng vệ chính đáng thông qua hai điều luật, với thuật ngữ "phòng vệ khẩn cấp" Điều 32 của bộ luật này nêu rõ quy định về phòng vệ khẩn cấp, đồng thời tách thành một điều luật riêng biệt nhằm quy định về việc vượt quá giới hạn phòng vệ.
(1) Người nào thực hiện hành vi do yêu cầu của phòng vệ khẩn cấp thì thực hiện đó không trái pháp luật
Phòng vệ khẩn cấp là hành động tự vệ cần thiết nhằm ngăn chặn một cuộc tấn công trái pháp luật đang diễn ra, bảo vệ bản thân hoặc người khác Điều 33 quy định về việc vượt quá giới hạn của phòng vệ khẩn cấp.
Nếu người thực hiện tội phạm đã vượt qua giới hạn của phòng vệ do hốt hoảng, sợ hãi hoặc hoảng loạn thì họ không bị xử phạt
Như vậy, tên gọi về trường hợp này trong Bộ luật hình sự Cộng hòa Liên bang Đức là
Trong trường hợp "phòng vệ khẩn cấp", mặc dù không có quy định cụ thể về các điều kiện, nhưng nếu người thực hiện hành vi phạm tội vượt qua giới hạn phòng vệ do cảm xúc như hoảng loạn, sợ hãi, thì họ sẽ không bị xử phạt.
1.3.4 Bộ Luật hình sự nước Nhật Bản
Bộ luật hình sự Nhật Bản được ban hành năm 1907 và được sửa đổi bổ sung 11 lần và lần cuối vào năm 1991
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
QUY ĐỊ NH C Ủ A B Ộ LU Ậ T HÌNH S Ự V Ề PHÒNG V Ệ CHÍNH ĐÁNG
Các điều kiện của phòng vệ chính đáng
2.1.1 Cơ sở phát sinh quyền phòng vệ chính đáng
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, quyền phòng vệ được phát sinh khi có hành vi xâm phạm đến quyền lợi hợp pháp của cá nhân hoặc lợi ích của Nhà nước, cơ quan, tổ chức Hành vi xâm phạm được hiểu là sự tấn công của con người, do đó, quyền phòng vệ chỉ có hiệu lực khi sự tấn công này đang xảy ra.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Phòng vệ chính đáng chỉ được áp dụng khi có hành vi của con người gây thiệt hại hoặc đe dọa thiệt hại cho xã hội, cá nhân, Nhà nước, cơ quan hoặc tổ chức Thiệt hại có thể ảnh hưởng đến quyền nhân thân như tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, hoặc quyền sở hữu Hành vi xâm phạm có thể là hành động cụ thể như cướp hoặc hiếp dâm, nhưng cũng có thể là hành vi không thực hiện như bác sĩ không cấp cứu người bị tai nạn mà không có lý do chính đáng.
Hành vi xâm phạm có thể đáp ứng các dấu hiệu của một tội phạm nhưng không nhất thiết phải như vậy Một số hành vi, mặc dù không cấu thành tội phạm, vẫn cần được ngăn chặn kịp thời để tránh thiệt hại, chẳng hạn như hành vi tấn công của người không có năng lực trách nhiệm hình sự do mắc bệnh tâm thần Hơn nữa, khi đối diện với hành vi xâm phạm, không phải lúc nào cũng có thể khẳng định rõ ràng rằng hành vi đó vi phạm pháp luật.
Hành vi xâm phạm là cơ sở của quyền phòng vệ chính đáng, diễn ra trong hai tình huống: khi hành vi xâm phạm đang xảy ra hoặc khi có đe dọa sẽ xảy ra ngay tức khắc Hai khả năng này đều được Bộ luật hình sự quy định, nhấn mạnh tầm quan trọng của việc bảo vệ quyền lợi cá nhân trong những trường hợp khẩn cấp.
Điều luật yêu cầu hành vi xâm phạm phải đang diễn ra; khi hành vi này đã chấm dứt, không cần thiết phải có hành động ngăn chặn Do đó, sự phòng vệ trong tình huống này không còn phù hợp với mục đích của phòng vệ chính đáng.
Phòng vệ “quá muộn” trong luật hình sự xảy ra khi hành vi xâm phạm đã chấm dứt, và trách nhiệm hình sự sẽ được xử lý như trường hợp bình thường nếu có ý định phòng vệ muộn Nếu phòng vệ “quá muộn” do nhầm lẫn, trách nhiệm hình sự sẽ được giải quyết như các trường hợp sai lầm khác Tuy nhiên, hành vi phòng vệ diễn ra sau khi sự tấn công đã kết thúc vẫn có thể được coi là hợp pháp nếu nó được thực hiện ngay sau sự tấn công nhằm khắc phục thiệt hại do hành vi xâm phạm gây ra.
Khả năng thứ hai cho phép phòng vệ ngay cả khi hành vi xâm phạm chưa xảy ra nhưng có dấu hiệu cho thấy hành vi này sẽ xảy ra ngay lập tức Sự cho phép này là cần thiết để người phòng vệ có thể chủ động ngăn chặn kịp thời và hiệu quả các hành vi xâm phạm, bảo vệ quyền lợi của mình.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
16 phòng vệ thì bị coi là phòng vệ “quá sớm” và trách nhiệm hình sự trong trường hợp này được giải quyết như trường hợp phòng vệ“quá muộn”.
2.1.2 Nội dung và phạm vi của quyền phòng vệ chính đáng
Khi có cơ sở hợp pháp cho việc phòng vệ, người bị xâm phạm có quyền phản kháng một cách cần thiết đối với hành vi xâm phạm, ngay cả khi có thể áp dụng các biện pháp khác để tránh tình huống này Đây là nội dung và phạm vi của quyền phòng vệ theo quy định của pháp luật.
22 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã xác định
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017, hành vi phòng vệ chính đáng phải nhắm vào người có hành vi xâm phạm để ngăn chặn và hạn chế thiệt hại Sự chống trả có thể trực tiếp nhằm vào người tấn công, bảo vệ tính mạng, sức khỏe, tự do, hoặc nhằm vào công cụ, phương tiện phạm tội mà đối tượng đang sử dụng.
Dù bằng cách nào thì sự chống trả đều có thể gây thiệt hại nhất định cho người có hành vi xâm phạm
Khi xác định phòng vệ chính đáng, không nên chỉ so sánh thiệt hại giữa người xâm phạm và thiệt hại mà họ đe dọa Phòng vệ chính đáng không phải là hành động trả thù, mà là biện pháp ngăn chặn hành vi gây hại cho xã hội Để đạt được mục đích này, đôi khi cần gây thiệt hại lớn hơn cho người xâm phạm Việc so sánh hai loại thiệt hại thường không thực tế, vì tính chất của chúng có thể hoàn toàn khác nhau, như trong trường hợp phòng vệ chống hiếp dâm Tuy nhiên, thiệt hại gây ra cho người xâm phạm vẫn là yếu tố quan trọng thể hiện tính chất và mức độ của hành vi chống trả, nên cần được giới hạn ở mức độ nhất định để đảm bảo tính cần thiết của sự phòng vệ.
Phòng vệ chính đáng yêu cầu các biện pháp chống trả phải cần thiết và phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi xâm phạm trong từng hoàn cảnh cụ thể Để đánh giá tính cần thiết và sự phù hợp của các biện pháp này, cần dựa vào những căn cứ nhất định.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
- Tính chất của quan hệ xã hội bị đe dọa xâm phạm
- Mức độ thiệt hại bị đe dọa gây ra
- Sức mãnh liệt và sức mạnh của hành vi xâm phạm
- Tính chất và mức độ nguy hiểm của phương pháp và phương tiện hay công cụ mà người có hành vi xâm phạm sử dụng
- Khả năng phòng vệ của người phòng vệ đặt trong hoàn cảnh cụ thể V.V
Việc đánh giá tình huống phòng vệ là một quá trình phức tạp, đặc biệt đối với người bị tấn công Trong nhiều trường hợp, người phòng vệ không có đủ thời gian để bình tĩnh lựa chọn phương pháp và phương tiện chống trả phù hợp, nhất là khi họ phải đối mặt với những cuộc tấn công bất ngờ.
Sự cần thiết trong phòng vệ chính đáng chỉ yêu cầu tính tương đối, nghĩa là ngay cả khi không có sự cần thiết rõ ràng, tình huống đó vẫn có thể được xem là hợp lý.
Quy định của Bộ luật hình sự về phòng vệ chính đáng
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự 2015 quy định về phòng vệ chính đáng:
Phòng vệ chính đáng là hành vi bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bản thân, người khác hoặc của Nhà nước, cơ quan, tổ chức trước những hành vi xâm phạm Hành động này được thực hiện một cách cần thiết và hợp lý, và không được coi là tội phạm.
Như vậy để xem xét một hành vi được coi là phòng vệ chính đáng phải:
Căn cứ vào sự tấn công:
Hành vi tấn công trái pháp luật là hành vi xâm hại đến các đối tượng được bảo vệ bởi luật hình sự và phải có tính chất nghiêm trọng Ngay cả khi người thực hiện hành vi đó chưa đủ tuổi chịu trách nhiệm hình sự hoặc không có năng lực hành vi, họ vẫn có quyền thực hiện phòng vệ chính đáng.
Sự tấn công có thể đang diễn ra hoặc có nguy cơ xảy ra ngay lập tức Hành vi phòng vệ vẫn được coi là chính đáng nếu diễn ra ngay sau khi tấn công kết thúc.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Tính chất của phòng vệ phải thỏa mãn được 3 điều kiện sau:
+ Sự phòng vệchính đáng là bảo vệ lợi ích hợp pháp được Luật hình sự bảo vệ
Thiệt hại phải được gây ra cho chính kẻ tấn công, bao gồm cả thiệt hại vật chất và có thể dẫn đến việc tước đoạt sinh mạng của họ.
Sự phòng vệ phải luôn giữ trong giới hạn cần thiết, đảm bảo tính tương xứng với mức độ nguy hiểm của cuộc tấn công Điều này có nghĩa là mức độ phòng vệ cần được xác định dựa trên tầm quan trọng của đối tượng được bảo vệ.
Sự hợp lý trong việc xác định mức độ chính đáng của hành động phòng vệ phụ thuộc vào sức mạnh của cuộc tấn công và khả năng chống trả của người phòng vệ, đặc biệt khi hành động phòng vệ xảy ra ngay sau cuộc tấn công.
Quá trình thực hành quyền công tố và kiểm sát hoạt động điều tra vụ án hình sự đòi hỏi kiểm sát viên phải nắm vững và hiểu rõ bản chất các dấu hiệu cơ bản của chế định Phòng vệ chính đáng Điều này đảm bảo việc khởi tố vụ án được thực hiện đúng người, đúng tội, đồng thời bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Phân biệt phòng vệ chính đáng với một số trường hợp khác
2.3.1 Phân biệt phòng vệ chính đáng với trạng thái tinh thần bị kích động mạnh
Việc phân biệt giữa tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội phạm do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là rất quan trọng Hai trường hợp này có tính chất và dấu hiệu khác nhau, mặc dù nạn nhân trong cả hai tình huống đều có hành vi trái pháp luật nghiêm trọng Trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, hành vi phạm tội của nạn nhân vẫn đang diễn ra, trong khi đó, trong trường hợp thực hiện tội phạm do bị kích động mạnh, hành vi trái pháp luật của nạn nhân đã kết thúc.
Người phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng có thể bị kích động về tinh thần hoặc không, vì phòng vệ là quyền hợp pháp được công nhận Trong nhiều trường hợp, phòng vệ còn là nghĩa vụ của công dân nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng của bản thân hoặc của người khác, cho phép họ chủ động ngăn chặn hành vi xâm hại.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân trong trường hợp thực hiện tội phạm khi bị kích động mạnh có thể xuất phát từ lời nói hoặc hành động Những hành vi này, nếu vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, chỉ có thể xâm phạm đến lợi ích của Nhà nước, tổ chức, người phạm tội hoặc người khác.
Hành vi trái pháp luật nghiêm trọng của nạn nhân có thể xảy ra trong tình trạng bị kích động mạnh, liên quan đến người phạm tội hoặc người thân của họ Tuy nhiên, hành vi này cũng có thể vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đối với Nhà nước, tổ chức hoặc cá nhân khác.
2.3.2 Phân biệt phòng vệ chính đáng với tình thế cấp thiết
Tinh thể cấp thiết là một trong những trường hợp loại trừ tính chất tội phạm theo Bộ luật hình sự Việt Nam, được quy định tại Điều 16 Mặc dù hành vi này có đầy đủ dấu hiệu của tội phạm thông thường, nhưng nó vẫn được xem xét để loại trừ trách nhiệm hình sự.
Tình thế cấp thiết xảy ra khi một cá nhân phải gây thiệt hại nhỏ hơn để ngăn chặn một nguy cơ đang đe dọa lợi ích của Nhà nước hoặc tổ chức của họ Hành vi gây thiệt hại trong tình huống này không được coi là tội phạm, trừ khi thiệt hại vượt quá mức cần thiết để ngăn ngừa nguy cơ Khác với phòng vệ chính đáng, nơi người phòng vệ có nhiều lựa chọn, trong tình thế cấp thiết, người gây thiệt hại phải tìm phương án tối ưu nhất để giảm thiểu thiệt hại Việc xác định tính hợp lý của hành vi gây thiệt hại cần dựa trên bối cảnh cụ thể tại thời điểm xảy ra sự việc.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Để đưa ra kết luận về hành vi nào đó, cần xem xét một cách khách quan và toàn diện mọi chi tiết liên quan, nhằm xác định xem đó có phải là phương án duy nhất hay không Nếu có thể lựa chọn phương án khác để khắc phục sự nguy hiểm mà không gây thiệt hại, thì tình huống đó không thuộc diện cấp thiết.
Thiệt hại phải nhỏ hơn thiệt hại cần ngăn ngừa; trong phòng vệ chính đáng, thiệt hại chỉ ảnh hưởng đến tính mạng và sức khỏe của người xâm hại Ngược lại, trong tình thế cấp thiết, thiệt hại chủ yếu là tài sản và người bị thiệt hại không phải là người gây ra nguy hiểm cho xã hội mà là một người thứ ba.
2.3.3 Phân biệt phòng vệ chính đáng với phòng vệ quá sớm
Phòng vệ quá sớm, hay còn gọi là phòng vệ trước, là hành vi phòng vệ diễn ra khi chưa có hành vi xâm hại thực sự hoặc chưa có mối đe dọa cụ thể gây thiệt hại ngay lập tức cho đối tượng cần bảo vệ Trong trường hợp này, không có cơ sở pháp lý để phát sinh quyền phòng vệ, do đó, hành vi gây thiệt hại sẽ không được coi là hợp pháp Hành vi phòng vệ quá sớm được xem là tội phạm thông thường, và người thực hiện sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đủ các điều kiện cần thiết.
Pháp luật hình sự Việt Nam không công nhận hành vi phòng vệ quá sớm, tức là hành động nhằm ngăn chặn sự tấn công trước khi có sự tấn công thực sự, như việc đấu điện vào cánh cửa để phòng trộm hay sử dụng bẫy để đề phòng kẻ gian Nếu hành vi phòng vệ quá sớm dẫn đến hậu quả nghiêm trọng như chết người hoặc gây thương tích cho người khác, người thực hiện hành vi đó có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người hoặc cố ý gây thương tích.
Trong thực tiễn xét xử, hành vi phòng vệ quá sớm có thể gây thiệt hại cho chính người bị tấn công Tuy nhiên, những người thực hiện hành vi phòng vệ sớm thường được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự và hình phạt.
2.3.4 Phân biệt phòng chính đáng với phòng vệ quá muộn
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Phòng vệ quá muộn xảy ra khi hành vi tự vệ được thực hiện sau khi sự tấn công đã kết thúc, dẫn đến việc quyền phòng vệ không còn hiệu lực Trong trường hợp này, việc gây thiệt hại cho kẻ tấn công sẽ không được coi là hợp pháp Người thực hiện hành vi phòng vệ quá muộn có thể phải chịu trách nhiệm hình sự nếu đáp ứng đủ các điều kiện khác.
Dưới góc độ khoa học luật hình sự, phòng vệ quá muộn được coi là hành vi trả thù cá nhân và tự ý xử lý hành vi phạm pháp, không còn ý nghĩa trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm Hành vi này mang tính nguy hiểm cho xã hội và không được pháp luật cho phép, do đó, nó bị trừng trị như các tội phạm thông thường.
Việc phân biệt giữa hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và hành vi phòng vệ quá muộn là một thách thức trong thực tiễn xét xử, nhưng lại rất quan trọng Hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng thường có tình tiết giảm nhẹ, dẫn đến trách nhiệm hình sự và hình phạt nhẹ hơn cho người thực hiện Ngược lại, hành vi phòng vệ quá muộn chỉ được coi là tội phạm thông thường, không được hưởng các tình tiết giảm nhẹ Do đó, việc xác định đúng bản chất của hành vi là cần thiết trong quá trình xét xử các vụ án hình sự.
Hành vi phạm tội xảy ra trong bối cảnh bị kích động tinh thần do hành vi trái pháp luật của người bị hại có thể được xem là tình tiết giảm nhẹ, ảnh hưởng đến khung hình phạt Tuy nhiên, tình tiết này không thể được coi là nhẹ hơn so với trường hợp phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng.
THỰ C TI Ễ N VÀ GI Ả I PHÁP NH ẮM ĐẢ M B Ả O ÁP D Ụ NG ĐÚNG QUY ĐỊNH VỀ PHÒNG VỆ CHÍNH ĐÁNG
Những bất cập về chế định phòng vệ chính đáng theo luật hình sự VN
Đến nay, thực trạng xã hội đã chỉ ra tầm quan trọng của các quy định về phòng vệ chính đáng, khi mà nhiều vụ án xảy ra do việc vượt quá giới hạn này Việc khẳng định rõ ràng về tính quan trọng trong lý luận và thực tiễn của việc phân biệt giữa hành vi phòng vệ chính đáng, hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng và hành vi phạm tội thông thường là cần thiết Các hành vi này có nhiều dấu hiệu và tình tiết tương đồng, vì vậy việc chuyển đổi giữa chúng có thể dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Hành vi phòng vệ có thể dẫn đến nhiều tình huống khác nhau, mặc dù chúng xuất phát từ cùng một sự việc Trong khi pháp luật hình sự chấp nhận và khuyến khích những hành vi phòng vệ hợp lý, thì những hành vi vượt quá giới hạn cần thiết sẽ bị coi là phạm tội Người thực hiện hành vi vượt quá này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự.
3.1.1 Bất cập trong quy định
Theo Điều 22 Bộ luật hình sự 2015, phòng vệ chính đáng là hành vi bảo vệ quyền lợi của bản thân, người khác hoặc lợi ích của Nhà nước trước các hành vi xâm phạm Hành vi này không được coi là tội phạm, miễn là người bị xâm hại đang trong tình huống nguy hiểm và phản ứng một cách cần thiết để bảo vệ lợi ích của mình Phòng vệ chính đáng được xem là tình tiết loại trừ tính chất nguy hiểm cho xã hội, cho phép công dân ngăn chặn các hành vi gây tổn hại đến bản thân một cách hợp pháp Do đó, phòng vệ chính đáng không phải là tội phạm.
Khoản 2 Điều 22 Bộ luật Hình sự 2015 quy định rằng hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là hành vi chống trả quá mức cần thiết, không tương xứng với tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi xâm hại Mặc dù người phòng vệ có quyền bảo vệ bản thân, nhưng nếu hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn pháp luật quy định, thì hành vi đó sẽ không được chấp nhận và người vi phạm phải chịu trách nhiệm hình sự theo quy định của Bộ luật này.
Bộ luật hình sự 2015 chưa đưa ra định nghĩa rõ ràng về khái niệm “quá mức cần thiết”, dẫn đến khó khăn trong việc xác định ranh giới giữa hành vi phòng vệ chính đáng không bị coi là tội phạm và hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, có thể bị xử lý hình sự.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
23 phạm trong khi vào thời đểm hiện tại ta vẫn chưa có bất kì văn bản pháp luật nào có hiệu lực giải thích, hướng dẫn thuật ngữ này
Khi tìm hiểu về quy định và điều kiện liên quan đến giới hạn phòng vệ chính đáng, các bên có liên quan cần tham khảo Nghị quyết số 02/HĐTP ngày 05/01/1986 của Hội đồng thẩm phán Tòa Án Nhân Dân Tối Cao Nghị quyết này hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự 1985 và là tài liệu quan trọng cho những người có thẩm quyền trong quá trình tố tụng, giúp họ xem xét và áp dụng đúng tinh thần của quy định khi ra quyết định.
Tinh thần của chỉ thị số 07 và Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao vẫn có thể được áp dụng để xác định các trường hợp phòng vệ chính đáng và những hành vi vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo Điều 15 Bộ luật hình sự năm 1999 Tuy nhiên, do hạn chế trong lý luận và thực tiễn xét xử, các văn bản này chưa giải thích đầy đủ các dấu hiệu nhận biết của chế định phòng vệ chính đáng, dẫn đến sự khác biệt trong nhận thức về vấn đề này Ví dụ, khái niệm "hành vi chống trả cần thiết" chưa được làm rõ về tiêu chí xác định tính cần thiết Lợi ích bị xâm phạm theo Điều 15 bao gồm lợi ích của Nhà nước, tổ chức, cá nhân phòng vệ và người khác, nhưng chưa rõ trường hợp nào hành vi chống trả được coi là phòng vệ chính đáng Các nghiên cứu về chế định phòng vệ chính đáng chủ yếu đề cập đến khái niệm và quy định hiện hành, nhưng thiếu tính khái quát Kể từ khi Bộ luật hình sự 1999 có hiệu lực, chưa có văn bản hướng dẫn chính thức về cụm từ “cần thiết” trong chế định phòng vệ chính đáng.
3.1.2 Bất cập trong việc áp dụng
Phòng vệ chính đáng không được coi là hành vi vi phạm pháp luật Tuy nhiên, nếu hành động phòng vệ vượt quá mức cần thiết và không tương xứng với mức độ nguy hiểm, thì có thể bị xem là không hợp pháp.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Hành vi xâm hại có thể dẫn đến việc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng, và những người thực hiện hành vi này sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự tương ứng Ranh giới giữa phòng vệ chính đáng và việc vượt qua giới hạn này rất mong manh, dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn áp dụng.
Khi một người đối mặt với tình huống nguy hiểm đến sức khỏe, tính mạng và tài sản, họ thường không giữ được bình tĩnh để quyết định cách chống trả một cách hợp lý Để xác định hành vi phòng vệ có tương xứng với hành vi xâm hại hay không, cần xem xét toàn diện các tình tiết liên quan như khách thể cần bảo vệ, mức độ thiệt hại và cường độ tấn công Vì vậy, việc phân biệt giữa phòng vệ chính đáng và việc vượt quá giới hạn của phòng vệ chính đáng gặp nhiều khó khăn.
Trong thời gian gần đây, tình trạng chống người thi hành công vụ ngày càng gia tăng, đặc biệt trong lĩnh vực phòng chống tội phạm Nhiều cán bộ và chiến sĩ đã phải đối mặt với sự phản kháng từ những người phạm tội, mặc dù trang bị đầy đủ vũ khí và phương tiện hỗ trợ, nhưng lại không dám chống trả do lo ngại về hậu quả pháp lý, dẫn đến nguy cơ hy sinh hoặc bị thương nặng Hơn nữa, khi xảy ra vụ việc gây chết người, nhiều phương tiện truyền thông thường có xu hướng bênh vực những kẻ vi phạm pháp luật, khiến công chúng hiểu sai về vai trò của người thi hành công vụ Trong nhiều trường hợp, việc xác định phòng vệ chính đáng hay vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng trong quá trình điều tra và xét xử gặp nhiều khó khăn do áp lực từ dư luận và gia đình nạn nhân Thực tế cho thấy, có nhiều vụ án mà cơ quan điều tra đã khởi tố, nhưng khi xét xử, tòa án lại tuyên bố bị cáo không phạm tội vì đã xác định tình huống đó là phòng vệ chính đáng.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Trường hợp phòng vệ chính đáng theo quy định của pháp luật đã dẫn đến những quyết định không thống nhất từ các cấp Tòa án, khi mà Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm kết án bị cáo, nhưng các cấp giám đốc thẩm lại tuyên bố bị cáo không phạm tội do xác định hành vi đó là phòng vệ chính đáng Nhiều trường hợp, mặc dù bị cáo có thể bị kết án vì tội giết người hoặc cố ý gây thương tích, nhưng lại không có tình tiết "vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng" trong bản án Điều này không chỉ gây khó khăn trong việc áp dụng pháp luật mà còn ảnh hưởng đến tâm lý của người dân khi họ cần thực hiện quyền phòng vệ trước những hành vi xâm phạm lợi ích của Nhà nước, xã hội và bản thân.
Chế định phòng vệ chính đáng hiện nay cần được hướng dẫn cụ thể và rõ ràng để mọi người hiểu và thực hiện đúng, nhằm đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm xã hội Nếu không, sẽ dẫn đến những tác động tiêu cực, như việc các cơ quan tố tụng có thể dung túng cho cái xấu hoặc mỗi tòa án xử lý theo cách riêng của mình Nhiều người đặt câu hỏi liệu có phải chịu đựng khi bị tấn công bởi kẻ xấu, hay phản ứng lại thì lại bị xem là phạm tội Do đó, cần có các văn bản pháp lý cụ thể để giải quyết những vấn đề này.
Giải pháp hoàn thiện
3.2.1 Giải pháp trong quy định
Cần tiếp tục hoàn thiện các văn bản hướng dẫn về phòng vệ chính đáng, đặc biệt là những văn bản giải thích căn cứ xác định sự “cần thiết” giữa hành vi phòng vệ và hành vi tấn công xâm hại lợi ích bất hợp pháp Nhiều cán bộ cho rằng không nên thay thế cụm từ “tương xứng” trong Bộ luật hình sự năm 1985 bằng “cần thiết” trong Bộ luật hình sự năm 1999, vì điều này ảnh hưởng đến việc đánh giá sự tương quan giữa các hành vi Việc so sánh hành vi phòng vệ và hành vi tấn công không chỉ đơn thuần là sự tương xứng về vũ khí hay phương tiện, mà cần hiểu tổng thể về sự tương quan về lực.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Việc sử dụng cụm từ “tương xứng” và “cần thiết” trong quy phạm pháp luật về phòng vệ chính đáng cần được xem xét một cách đồng bộ để đảm bảo tính hợp lý và toàn diện trong việc đánh giá hành vi Cần xác định rõ các tiêu chí như tầm quan trọng của khách thể bị xâm hại, lực lượng hai bên, vũ khí và sự quyết tâm thực hiện tội phạm Những hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn cần thiết gây thiệt hại cho người bị xâm hại sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự, nhưng có thể được xem xét giảm nhẹ hình phạt Hiện tại, Bộ luật hình sự chỉ quy định trách nhiệm hình sự chung mà chưa đề cập cụ thể đến các yếu tố giảm nhẹ, điều này gây khó khăn cho các cơ quan áp dụng pháp luật.
Người thực hiện hành vi phòng vệ đối với các tội phạm như hành hung, giết người, cướp của, hiếp dâm, bắt cóc hoặc các tội bạo lực khác, gây thương tích hoặc làm chết người phạm tội, không nên bị coi là vượt quá giới hạn phòng vệ và không phải chịu trách nhiệm hình sự, mặc dù Bộ luật hình sự hiện hành chưa quy định rõ ràng về vấn đề này Vì vậy, để khuyến khích và bảo vệ quyền lợi của công dân, cần tiếp thu và điều chỉnh nội dung này trong luật pháp.
3.2.2 Giải pháp trong việc áp dụng
Bộ luật hình sự năm 1999 đã có những cải tiến đáng kể so với Bộ luật hình sự năm 1985, đặc biệt trong các quy định về phòng vệ chính đáng, giúp các cơ quan thực thi pháp luật áp dụng hiệu quả hơn Khi mà tình hình tội phạm ngày càng gia tăng, việc không có một quy tắc hay khung mẫu cố định để đánh giá và áp dụng trong mọi trường hợp trở thành thách thức lớn.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Hợp phòng vệ diễn ra trong nhiều tình huống phong phú, tuy các nhà làm luật đã nỗ lực tạo điều kiện pháp lý thuận lợi, nhưng sự đánh giá tổng hợp và chính xác từ cơ quan áp dụng pháp luật vẫn là yếu tố quyết định để xác định sự thật khách quan Hiện nay, tình trạng tội phạm vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng đang gia tăng, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền áp dụng pháp luật nhanh chóng và chính xác hơn Do đó, cần tiếp tục nâng cao và đổi mới công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật trong cộng đồng, chủ động phòng ngừa vi phạm pháp luật và tội phạm, đồng thời xây dựng quy chế cho các đội nhóm phòng chống tội phạm và đội dân phòng.
Hệ thống hóa và chính xác hóa công tác thống kê tư pháp và hình sự là cần thiết; đồng thời, xây dựng các chuyên đề tập huấn về phòng vệ chính đáng và các tội phạm liên quan đến việc vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng Cần tiếp tục ban hành các văn bản hướng dẫn để áp dụng thống nhất các quy định của Bộ luật hình sự, đặc biệt là những vấn đề chưa thống nhất và còn vướng mắc.
Cần triển khai các chương trình và giải pháp nhằm nâng cao năng lực và bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, kiến thức pháp lý cho những người tiến hành tố tụng cùng các cán bộ, chiến sĩ thi hành công vụ Đồng thời, cần tăng cường cơ sở vật chất và hiện đại hóa trang thiết bị phục vụ công tác giải quyết các vụ án hình sự, đặc biệt là những vụ án điều tra trực tiếp.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
1 Phòng vệ chính đáng là một chế định cần phải có để bảo vệ mỗi công dân trước những hành vi vi phạm pháp luật xâm hại đến quyền và lợi ích của công dân qua đó góp phần tôn trọng quyền con người, quyền công dân nhất là trong giai đoạn mà tình hình tội phạm ở nước ta ngày càng phức tạp và đa dạng hơn
2 Khuyến khích, tạo điều kiện để mỗi công dân thấy được rõ về việc tự bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình và người khác, nhận thức được phòng vệ chính đáng là quyền của mỗi công dân qua đó tạo tiền đề cho công cuộc đấu tranh phòng chống tội phạm ở nước ta hiện nay
3 Ngoài những điểm nêu trên thì còn một số hạn chế về về mặt pháp lý của luật phòng vệ chính đáng , quy định của Bộ luật hình sự về phòng vệ chính đáng chưa được chặt chẽ, rõ ràng, đầy đủ, chưa có tính thống nhất, dẫn đến việc bỏ sót tội phạm hoặc các vụ án oan từ đó ảnh hưởng không tốt đến phong trào đấu tranh chống tội phạm và các quyền con người
4 Ngày nay, khi Việt Nam chúng ta đang dần hội nhập và quốc tế, đất nước đang đẩy mạnh quá trình công nghiệp hóa hiện đai hóa xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do dân và vì dân nên quyền và lợi ích hợp pháp của mỗi cá nhân dần được coi trọng, thì việc hoàn thiện hệ thống pháp luật là cần thiết cấp bách và nên sớm được thực hiện để phù hợp đất nước hiện nay cũng như với hệ thống pháp luật của thế giới
Pháp luật hình sự Việt Nam, đặc biệt là quy định về phòng vệ chính đáng, cần tiếp thu và học hỏi từ kinh nghiệm lập pháp của các quốc gia khác để hoàn thiện hệ thống pháp luật Việc này không chỉ góp phần vào công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước mà còn giúp Việt Nam từng bước phát triển, sánh vai cùng các cường quốc trên thế giới.
Downloaded by nhung nhung (nhungnguyen949595@gmail.com)
Tìm hiểu về chế định phòng vệ chính đáng trong Bộ luật hình sự năm 2015 là một chủ đề quan trọng Chế định này quy định quyền tự vệ của cá nhân khi gặp phải các hành vi xâm hại Điều này nhằm bảo vệ quyền lợi và an toàn của người dân trong xã hội Việc hiểu rõ các quy định này không chỉ giúp người dân nắm bắt được quyền lợi của mình mà còn góp phần vào việc thực thi pháp luật một cách hiệu quả.
Xem: Một số vấn đề phòng vệchính đáng và vượt quá giới hạn phòng vệchính đáng
< https://tks.edu.vn/thong-tin-khoa-hoc/chi-tiet/79/204 >
Xem: Phân biệt phạm tội trong trạng thái tinh thần bịkích động mạnh và phạm tội do vượt quá giới hạn phòng vệchính đáng
Trong lĩnh vực luật hình sự, việc phân biệt giữa tội phạm do trạng thái tinh thần bị kích động mạnh và tội phạm vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng là rất quan trọng Tội phạm trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh thường xảy ra khi người phạm tội không kiểm soát được hành vi của mình do bị tác động mạnh mẽ về tâm lý Ngược lại, tội phạm vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng xảy ra khi người phòng vệ đã vượt quá mức cần thiết để bảo vệ bản thân hoặc tài sản Sự khác biệt này không chỉ ảnh hưởng đến cách xử lý vụ án mà còn tác động đến hình phạt mà người phạm tội phải chịu.
Xem: So sánh “Phòng vệchính đáng” và “Tình thế cấp thiết”
< https://danluat.thuvienphapluat.vn/so-sanh-phong-ve-chinh-dang-va-tinh-the- capthiet-169648.aspx >
Xem: Điều kiện của phòng vệchính đáng
< https://www.google.com/amp/s/luatminhkhue.vn/amp/dieu-kien-cua-phong-ve-chi nh-dang-la-gi -cho-vi-du .aspx >
Nguyễn Sơn (2014) trong luận văn Thạc sĩ luật học tại Đại học Quốc gia Hà Nội đã nghiên cứu về phòng vệ chính đáng và các tội phạm phát sinh do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng theo luật Hình sự Việt Nam Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn sâu sắc về quy định pháp lý liên quan đến phòng vệ chính đáng, đồng thời phân tích những hệ lụy pháp lý khi hành vi phòng vệ vượt quá giới hạn cho phép.
-Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), Nxb Chính trị quốc gia sự thật,
-Nguyễn Ngọc Hòa (1991), Mô tả luật hình sự Việt Nam – phần chung, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội )
-Phạm Văn Beo (2010), Luật hình sự Việt Nam (Quyển 1 - Phần chung), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội