1. Trang chủ
  2. » Thể loại khác

Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á

95 10 0

Đang tải... (xem toàn văn)

Tài liệu hạn chế xem trước, để xem đầy đủ mời bạn chọn Tải xuống

THÔNG TIN TÀI LIỆU

Thông tin cơ bản

Tiêu đề Ngành Giấy Việt Nam Trước Những Thách Thức Hội Nhập Kinh Tế Khu Vực Châu Á
Thể loại Luận Văn Tốt Nghiệp
Định dạng
Số trang 95
Dung lượng 481 KB

Cấu trúc

  • Chương I: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á (6)
    • I. Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường (6)
    • II. Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong khu vực châu Á (10)
      • 1. Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy (10)
      • 2. Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng giấy (18)
        • 2.1. Thị trường bột giấy (18)
        • 2.2. Thị trường giấy loại (19)
        • 2.3. Thị trường giấy thành phẩm (20)
    • III. Dự báo nhu cầu của thế giới và khu vực đối với mặt hàng giấy trong thời gian tới (22)
      • 1. Thị trường giấy (22)
      • 2. Thị trường bột giấy (24)
  • Chương II: THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC ............................ 26 I. Vài nét khái quát về lịch sử phát triển của ngành giấy Việt Nam (27)
    • 1. Nghề làm giấy cổ truyền và những tiền đề để phát triển ngành giấy ở Việt Nam (27)
    • 2. Vài nét về công nghiệp giấy nước ta (31)
    • 1. Tình hình sản xuất các mặt hàng giấy của Việt Nam (35)
    • 2. Tình hình tiêu thụ các mặt hàng giấy của Việt Nam (40)
      • 2.1. Tình hình tiêu thụ trong nước (40)
      • 2.2. Tình hình xuất khẩu ra nước ngoài (42)
    • 3. Tình hình nhập khẩu các mặt hàng giấy từ nước ngoài (42)
      • 3.1. Thị trường nhập khẩu (43)
      • 3.2. Kim ngạch nhập khẩu (43)
    • III. Những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành giấy Việt Nam (46)
      • 1. Khó khăn (46)
        • 1.1. Còn quá nhiều bất cập trong việc cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy (46)
        • 1.2. Công nghệ lạc hậu (50)
        • 1.3. Trình độ quản lý yếu kém (51)
        • 1.4. Khả năng cạnh tranh của sản phẩm thấp (53)
        • 1.5. Thủ tục phê duyệt dự án đầu tư phức tạp và kéo dài (55)
        • 1.6. Quá trình cổ phần hoá diễn ra chậm chạp (0)
      • 2. Thuận lợi (58)
        • 2.1. Nhu cầu của thị trường nội địa đối với mặt hàng giấy tương đối lớn 55 2.2. Vùng nguyên liệu trong nước rất rộng lớn (58)
        • 2.3. Đây là ngành được Nhà nước quan tâm đầu tư (62)
      • 1. Quá trình hội nhập kinh tế khu vực của Việt Nam (64)
      • 2. Các cơ hội (68)
      • 3. Các thách thức (69)
    • II. Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam (70)
      • 1. Về phía Nhà nước (70)
        • 1.1. Xây dựng phương án chủ động về nguyên liệu cho ngành giấy (70)
        • 1.2. Xúc tiến việc triển khai các dự án đầu tư cho ngành giấy (77)
        • 1.3. Định hướng lại chiến lược sản phẩm và chiến lược thị trường (78)
        • 1.4. Thúc đẩy quá trình cổ phần hoá ngành giấy (81)
      • 2. Về phía doanh nghiệp (81)
        • 2.1. Nâng cao trình độ công nghệ (81)
        • 2.2. Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm (87)
        • 2.3. Nâng cao trình độ quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh (89)
        • 2.4. Tăng cường các biện pháp xúc tiến thương mại (90)
  • KẾT LUẬN (92)
  • TÀI LIỆU THAM KHẢO (94)

Nội dung

Ch­ng I Thùc tr¹ng sn xuÊt kinh doanh cña ngµnh giÊy khu vùc ASEAN LuËn v¨n tèt nghiÖp MỤC LỤC LỜI NÓI ĐẦU 4 Chương I THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á 6 I Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường 6 II Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong khu vực châu Á 10 1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy 10 2 Tình hình xuất nhập khẩu mặt hàng giấy 17 2 1 Thị trường bột giấy 17 2 2 Thị trường giấy loại 19 2 3 Thị trường giấy thành phẩm 2.

THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY KHU VỰC CHÂU Á

Vai trò của ngành giấy trong nền kinh tế thị trường

Ngành sản xuất bột giấy và giấy được phân loại là một ngành công nghiệp nặng trong cơ cấu công nghiệp của các quốc gia, bởi vì nó sở hữu đầy đủ các đặc điểm của một ngành công nghiệp nặng.

Ngành giấy đòi hỏi một vốn đầu tư lớn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, bao gồm không chỉ việc xây dựng cơ sở và dây chuyền sản xuất mà còn cả việc phát triển vùng nguyên liệu cung cấp bột giấy Chi phí xây dựng cơ sở và dây chuyền sản xuất là rất cao; cụ thể, đầu tư cho một máy giấy mới có thể tốn từ 1.000 đến 1.500 USD cho mỗi tấn sản phẩm hàng năm Do đó, để đầu tư cho một dây chuyền sản xuất giấy in và giấy viết với công suất 50.000 tấn/năm, tổng chi phí đầu tư thiết bị sẽ rất lớn.

Chi phí đầu tư cho dây chuyền sản xuất cáctông hòm hộp có thể dao động từ 50 đến 75 triệu USD, và với những dây chuyền có công suất lớn hơn, chi phí này có thể tăng lên đáng kể Chẳng hạn, dây chuyền sản xuất cáctông hòm hộp từ giấy loại của Cheng Loong, nhà sản xuất giấy bao gói lớn nhất Đài Loan, cùng với hai nhà sản xuất Nhật Bản là Tokai Pulp & Paper và Mitsubishi Corporation, đã đầu tư lên tới 130 triệu USD cho công suất 300.000 tấn/năm Một ví dụ khác là dây chuyền sản xuất cáctông hòm hộp 4 lớp mặt trắng (WLC) do Metso Paper và Valmet-Tây An cung cấp cho công ty Dongguan Jian Hui tại tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc.

_ dự kiến sẽ được khởi chạy vào tháng 4-2004 Tổng giá trị hợp đồng ước tính khoảng

Dự án nhà máy bột giấy KonTum, được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 873/QĐ-TTg vào ngày 13/09/1999, có tổng mức đầu tư dự kiến lên tới 239,5 triệu USD, với công suất 130.000 tấn/năm Số tiền đầu tư thực tế có thể còn cao hơn con số này.

Chi phí đầu tư lớn trong ngành sản xuất giấy đã kéo dài thời gian thu hồi vốn và làm chậm quá trình quay vòng vốn Với mức đầu tư cho mỗi dây chuyền sản xuất lên tới hàng chục, thậm chí hàng trăm triệu USD, doanh thu của Tổng công ty giấy Việt Nam trở nên khiêm tốn Cụ thể, tổng doanh thu của công ty chỉ đạt 1.306 tỷ VND vào năm 1995, tăng lên 2.274 tỷ VND vào năm 1998, nhưng lại giảm xuống còn 2.100 tỷ VND vào năm 1999 Với doanh thu như vậy, câu hỏi đặt ra là liệu máy móc có thể được khấu hao hết trong thời gian tới hay không?

Ngành giấy có khả năng sinh lời thấp, với lợi nhuận chỉ chiếm một phần nhỏ so với tổng doanh thu Tỷ suất lợi nhuận của các doanh nghiệp trong ngành này chỉ đạt khoảng 1%-2%, thấp hơn nhiều so với các ngành công nghiệp khác.

Mặc dù ngành công nghiệp sản xuất bột giấy và giấy đối mặt với vốn đầu tư lớn, thời gian thu hồi vốn lâu và khả năng sinh lời không cao, nhiều quốc gia vẫn tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này Nguyên nhân chính là do ngành này có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế, văn hóa và xã hội của từng địa phương cũng như toàn quốc.

Tác động tới nền kinh tế đất nước và phát triển kinh tế địa phương

Ngành giấy hàng năm đóng góp trực tiếp vào ngân sách Nhà nước thông qua việc nộp thuế Tại Việt Nam, các doanh nghiệp trong ngành này phải thực hiện nghĩa vụ nộp thuế lợi tức, thuế doanh thu và thuế giá trị gia tăng cho cả chính quyền địa phương và trung ương.

Các doanh nghiệp sản xuất giấy tiêu thụ nhiều nguyên liệu sản xuất trong nước như gỗ, tre, nứa, than, bột đá và muối Điều này không chỉ giúp tăng sản lượng mà còn tạo ra nhiều công ăn việc làm và thu nhập cho người lao động.

Ngành cung cấp nguyên liệu nội địa, bao gồm khai khoáng, lâm nghiệp, hóa chất và dầu khí, đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy sự phát triển của các ngành dịch vụ liên quan Sự phát triển của các ngành này không chỉ tạo ra giá trị gia tăng mà còn kích thích hoạt động kinh tế tổng thể.

Ngành giấy và bột giấy không chỉ liên quan đến việc trồng rừng mà còn đóng vai trò quan trọng trong bảo vệ môi trường Việc nâng cao khả năng giữ nước ở các khu vực đất cao đã góp phần tăng sản lượng nông nghiệp, đồng thời hỗ trợ các chương trình xoá đói giảm nghèo tại những vùng sâu, vùng xa.

Ngành công nghiệp giấy không chỉ tạo ra đầu ra cho sản phẩm lâm nghiệp như gỗ thông, bạch đàn, keo và tre mà còn thúc đẩy việc trồng rừng với chất lượng cao hơn Việc khuyến khích trồng rừng không chỉ tăng diện tích mà còn đầu tư vào nghiên cứu giống cây mới và điều kiện địa lý khí hậu, từ đó cải thiện đời sống và tạo công ăn việc làm cho người dân địa phương Sự mở rộng diện tích rừng góp phần giảm ô nhiễm môi trường, đồng thời ngành giấy còn tận dụng nguyên liệu từ giấy vụn, giấy loại và bã mía để giảm thiểu tác động xấu đến môi trường Nhật Bản và Hàn Quốc là những quốc gia tiên phong trong việc tái chế giấy, với tỷ lệ tái chế giấy loại tại Hàn Quốc lên đến 72% Do đó, các quốc gia có diện tích đất lớn như Indonesia, Thái Lan và Australia đang chú trọng phát triển ngành công nghiệp bột giấy và giấy.

Ngành công nghiệp bột giấy và giấy đóng vai trò quan trọng, sử dụng sản phẩm từ nhiều ngành khác nhau, đặc biệt là động lực và cơ khí Để phát triển ngành này, việc trang bị máy móc thiết bị như máy xeo giấy, máy tráng, hệ thống ép và sấy là cần thiết, mặc dù chi phí đầu tư khá cao.

Để nâng cao hiệu quả và năng suất lao động trong ngành công nghiệp giấy, việc sử dụng các sản phẩm từ ngành điều khiển và tin học là rất cần thiết Ngành hóa chất cũng đóng vai trò quan trọng với nhiều sản phẩm như xút, sunfat, perôxit hyđrô, silicat natri được sử dụng từ giai đoạn sản xuất bột giấy cho đến các công đoạn tiếp theo Công nghệ sinh học đã được áp dụng triệt để, đặc biệt trong việc tạo giống cây trồng phù hợp với điều kiện tự nhiên của từng vùng, mang lại năng suất cao và vòng đời ngắn Các giống cây như bạch đàn vô tính (PN2, PN14, PND3, GU8, U6) và keo lai (BV10, BV16, BV32) đang được phát triển và đưa vào sản xuất Bên cạnh đó, công nghệ sinh học cũng cung cấp nhiều chế phẩm như enzym dùng trong quy trình tẩy trắng bột giấy.

Ngành giấy không chỉ đóng vai trò quan trọng trong sản xuất mà còn thúc đẩy sự phát triển của các ngành công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp khác Cụ thể, ngành này liên quan đến việc gia công và chế biến các sản phẩm từ giấy tại các nhà máy, bao gồm các hoạt động như xén, kẻ giấy, đóng tập vở và sản xuất bìa cáctông.

Thực trạng sản xuất kinh doanh của ngành giấy các nước trong khu vực châu Á

CÁC NƯỚC TRONG KHU VỰC CHÂU Á

1 Tình hình sản xuất và tiêu thụ mặt hàng giấy

Trong những năm gần đây, nhiều quốc gia trong khu vực đã chịu ảnh hưởng nặng nề từ cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1997, dẫn đến sự suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Hệ quả là nhu cầu về giấy và năng lực sản xuất giấy cũng giảm đáng kể, ngoại trừ một số nước như Trung Quốc và Việt Nam.

Sự bùng nổ dịch viêm phổi cấp tính (SARS) gần đây đã tác động tiêu cực đến ngành công nghiệp bột giấy và giấy tại châu Á Trung Quốc, Hồng Kông và Singapore là những quốc gia có tỷ lệ nhiễm dịch cao nhất trong khu vực, và nền kinh tế của các quốc gia này đang phải đối mặt với những hậu quả nghiêm trọng từ dịch bệnh.

Cáctông hòm hộp là sản phẩm bị ảnh hưởng mạnh mẽ nhất Trong tháng 6-

Năm 2003, dịch SARS bùng phát đã gây ra sự đình trệ nghiêm trọng trong hoạt động mua bán Từ cuối tháng 4, một số nhà cung cấp Trung Quốc đã giảm giá OCC xuống 10 USD/tấn để kích thích nhu cầu, nhưng không đạt hiệu quả như mong đợi Nhiều hội chợ thương mại tại Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông và Singapore bị hủy bỏ, dẫn đến việc các nhà sản xuất hàng tiêu dùng như đồ điện tử, đồ điện và đồ gia dụng buộc phải cắt giảm sản xuất, làm giảm nhu cầu đối với cáctông hòm hộp.

Giấy bao gói đã chịu ảnh hưởng do nhiều hội chợ bị hủy bỏ, dẫn đến việc không ký kết được nhiều hợp đồng, mặc dù tác động không mạnh mẽ như cáctông hòm hộp Tuy nhiên, mức tiêu thụ sản phẩm dược đã tăng mạnh trong thời gian qua, giúp bù đắp phần nào tổn thất Hiện tại, giấy bao gói vẫn là vật liệu bao gói chủ yếu cho sản phẩm dược tại châu Á.

Tình hình tiêu thụ giấy in báo đang giảm sút đáng kể, với tỷ lệ thu gom và tái chế giấy báo cũ vẫn ở mức thấp Các nhà sản xuất và thương nhân trong ngành cho rằng dịch SARS không chỉ không thúc đẩy tiêu thụ mà còn làm giảm nhu cầu Hệ quả là hoạt động kinh tế bị ngưng trệ, quảng cáo giảm sút, dẫn đến việc các báo phải cắt giảm số trang in.

Trong thời gian dịch SARS bùng phát, một số Chính phủ trong khu vực đã triển khai các chiến dịch quảng cáo nhằm nâng cao nhận thức cộng đồng về dịch bệnh Những chiến dịch này đã tiêu thụ hàng triệu bản tin và tờ rơi, tạo ra một sự gia tăng tạm thời trong nhu cầu giấy in từ bột hoá Tuy nhiên, động thái này chỉ diễn ra ở những khu vực có ổ dịch, không đủ để bù đắp cho sự trì trệ và giảm sút của thị trường giấy in ở các quốc gia khác.

Tại Hội nghị bột giấy và giấy Đông Nam Á (FAPPI) lần thứ 11 diễn ra ở Hà Nội vào ngày 26/9/2002, ASEAN đã được công nhận là khu vực có mức tiêu thụ sản phẩm giấy cao, gấp ba lần mức bình quân toàn cầu.

Trong khu vực châu Á, Trung Quốc và Nhật Bản hiện đang dẫn đầu về sản lượng giấy, đứng thứ hai trên thế giới Sự phát triển của hai quốc gia này có ảnh hưởng đáng kể đến ngành giấy toàn cầu Bài viết này sẽ phân tích năng lực sản xuất và tiêu thụ của ngành giấy tại một số nước trong khu vực.

Vào tháng 6 năm 2002, Nhật Bản ghi nhận sự phục hồi kinh tế chậm chạp, với tỷ lệ tăng trưởng GDP âm 0,9% vào tháng 9 cùng năm, dẫn đến nhu cầu tiêu thụ giấy giảm 2,4% Giá giấy trên thị trường giảm mạnh, đặc biệt ảnh hưởng đến các nhà sản xuất giấy bao bì, trong khi giấy in có tình hình khả quan hơn nhưng lợi nhuận vẫn thấp Việc cắt giảm sản lượng đã giúp tăng giá giấy từ 10-15% Để ổn định nguồn nguyên liệu, các công ty Nhật Bản đang mở rộng trồng nguyên liệu tại Australia, Chile, Trung Quốc, Nam Phi và Việt Nam Nhật Bản hiện đứng thứ hai thế giới về sản lượng giấy, đạt 30,7 triệu tấn và 10,8 triệu tấn bột giấy vào năm 2001.

Ngành giấy Nhật Bản được tổ chức bởi Hiệp hội giấy Nhật Bản với 44 thành viên chủ yếu là các công ty lớn, mỗi công ty quản lý hơn 400 công ty vừa và nhỏ Nguồn thu nhập chính của Hiệp hội đến từ lệ phí hội viên, trung bình khoảng 1 tỷ Yên mỗi năm Các doanh nghiệp tự tổ chức nghiên cứu khoa học và đầu tư phát triển để phù hợp với mục tiêu và đặc điểm riêng, nhằm tối ưu hóa hiệu quả và tránh lãng phí Về vấn đề môi trường, Nhật Bản đang triển khai "Kế hoạch hành động đầy thiện chí vì môi trường" với mục tiêu giảm tiêu thụ năng lượng 10% so với năm 1990 vào năm 2010, và đến năm 200 đã đạt mức giảm 7,2% Đồng thời, kế hoạch cũng hướng tới việc mở rộng diện tích rừng trồng trong nước và quốc tế.

_ ngoài đến năm 2010 là 550.000 ha (hiện là trên 400.000 ha) và gia tăng tỷ lệ sử dụng giấy vụn tái chế tới 60% vào năm 2005 (năm 2001 là 58%).

Sơn Đông, Hà Nam, Triết Giang, Quảng Đông, Hà Bắc và Giang Tô là sáu tỉnh hàng đầu về ngành công nghiệp giấy tại Trung Quốc Trong 9 tháng đầu năm, những tỉnh này đã đóng góp đáng kể vào sản lượng giấy của cả nước.

2001, sản lượng giấy bìa của 6 tỉnh này đã đạt 14,418 triệu tấn chiếm 70% tổng sản lượng của toàn Trung Quốc.

Tỉnh Sơn Đông đã giữ vị trí hàng đầu trong sản xuất bìa tại Trung Quốc trong nhiều năm qua, với sản phẩm chủ đạo là giấy văn hóa Ngoài ra, tỉnh này cũng có tốc độ sản xuất giấy bao gói công nghiệp mạnh mẽ Nguyên liệu chính được sử dụng bao gồm bột gỗ nhập khẩu, giấy loại và bột phi gỗ sản xuất tại địa phương Một số công ty giấy lớn tại Sơn Đông bao gồm Chenming Paper, Huatai Paper, Sun Paper, Bohui Paper và Tralin Paper.

Tỉnh Triết Giang nổi bật với ngành công nghiệp giấy, chủ yếu sản xuất giấy bao gói và cáctông hòm hộp Năm 2001, sản phẩm giấy của tỉnh chiếm 19,3% tổng sản lượng và cáctông hòm hộp chiếm 13,8% Nguyên liệu chính được sử dụng là bột gỗ thương phẩm nhập khẩu và giấy loại, trong đó tỷ lệ sử dụng giấy loại lên tới 76%, với tổng tiêu thụ đạt 2,4 triệu tấn trong năm 2001.

Tỉnh Giang Tô hiện có 80 nhà máy sản xuất giấy và bột giấy, bao gồm nhiều công ty liên doanh lớn như APP, UPM và Stora-Enso Năm 2000, tổng sản lượng giấy bìa các loại của Giang Tô đạt 2,8 triệu tấn, khẳng định vị thế của tỉnh này là trung tâm sản xuất giấy và bìa có tráng lớn nhất Trung Quốc.

Quảng Đông hiện là trung tâm sản xuất giấy in báo và giấy bao gói công nghiệp có mức tiêu thụ cao nhất tại Trung Quốc Nguồn nguyên liệu thô chủ yếu của tỉnh này bao gồm giấy nhập khẩu và giấy thu gom trong nước Quảng Đông cũng sở hữu một số nhà máy sản xuất bột giấy cơ học, với các công ty lớn như Guangzhou Paper, Dongguan Nine Dragon Paper, L&M Paper và Lianhe Hongxing Paper.

Dự báo nhu cầu của thế giới và khu vực đối với mặt hàng giấy trong thời gian tới

Theo dự báo dài hạn, nền kinh tế toàn cầu sẽ tăng trưởng với tốc độ 2,9% mỗi năm Trung Quốc, khu vực châu Á - Thái Bình Dương và Đông Âu dự kiến sẽ có mức tăng trưởng cao nhất, từ 4-7% mỗi năm Các quốc gia phát triển sẽ đạt tốc độ tăng trưởng từ 1,5-2,6% mỗi năm đến năm 2015 Sự tăng trưởng này sẽ thúc đẩy tiêu dùng hàng hóa, trong đó giấy, một mặt hàng thiết yếu trong sinh hoạt hàng ngày, sẽ có lượng tiêu thụ tăng mạnh.

Dân số thế giới dự kiến sẽ tăng 1,2% mỗi năm, từ 6 tỷ người vào năm 2000 lên 7,2 tỷ người vào năm 2015, với sự gia tăng mạnh mẽ nhất tại Trung Quốc, Ấn Độ và châu Phi Sự gia tăng dân số này dẫn đến sự gia tăng số lượng người tiêu dùng, kéo theo nhu cầu sử dụng các sản phẩm giấy cũng tăng cao.

In ấn trên giấy vẫn là phương thức quảng cáo phổ biến và hiệu quả nhất, mặc dù quảng cáo trên Internet đang gia tăng Vào năm 2000, quảng cáo trực tuyến chỉ chiếm 1% tổng chi phí quảng cáo toàn cầu, nhưng dự kiến sẽ tăng trưởng 4-5% vào năm 2005 Điều này cho thấy nhu cầu về giấy trong tương lai vẫn sẽ duy trì ở mức cao.

Khăn giấy, giấy vệ sinh

Tỷ lệ người già trong dân số toàn cầu đang tăng lên, điều này sẽ ảnh hưởng đến ngành công nghiệp giấy, đặc biệt là trong việc thiết kế bao bì phù hợp với nhu cầu của người cao tuổi Ngoài ra, nhu cầu về sản phẩm giáo dục và sự chuyển biến của thị trường khăn giấy cũng sẽ thay đổi để đáp ứng những yêu cầu mới từ nhóm đối tượng này.

Tốc độ gia tăng tiêu thụ sản phẩm giấy trong sinh hoạt gia đình sẽ vượt mức tăng dân số Cụ thể, tại Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản, mức tăng dân số chỉ đạt 0,3% mỗi năm, trong khi sản phẩm giấy sử dụng trong gia đình sẽ tăng trưởng 1,0% mỗi năm.

Sản lượng khăn giấy toàn cầu hiện nay vào khoảng 25 triệu tấn, trị giá khoảng

Ngành công nghiệp khăn giấy toàn cầu đạt giá trị 30 tỷ USD, với một nửa lượng tiêu thụ đến từ Bắc Mỹ, tiếp theo là châu Âu, châu Á và các thị trường khác Tỷ lệ tăng trưởng bình quân toàn cầu của ngành này khoảng 4% mỗi năm trong suốt thập kỷ qua Dự kiến đến cuối năm 2004, sẽ có thêm 57 máy xeo khăn giấy mới được đưa vào sản xuất, góp phần tăng thêm khoảng 2 triệu tấn cho sản lượng toàn cầu.

Bắc Mỹ có mức tiêu thụ bình quân đầu người lên tới 22 kg/người/năm, gần gấp đôi so với Nhật Bản và châu Âu, nơi mức tiêu thụ chỉ đạt 13 kg/người/năm Điều này cho thấy thị trường Bắc Mỹ vẫn còn nhiều tiềm năng khai thác.

Tiêu thụ khăn giấy bình quân đầu người trên toàn cầu hiện đạt khoảng 3,4 kg Dự báo cho thấy nhu cầu khăn giấy sẽ tăng trưởng trung bình 3,2% mỗi năm cho đến năm 2010, dẫn đến việc thị trường khăn giấy có thể tăng thêm khoảng 30 triệu tấn trong vòng 7 năm tới Sự tăng trưởng này chủ yếu sẽ diễn ra tại Trung Quốc và một số khu vực ở châu Á, nơi mức sống và thu nhập dự kiến sẽ tăng theo sự phát triển của nền kinh tế.

Nhu cầu tiêu dùng các sản phẩm giấy bìa trên toàn thế giới được dự báo sẽ đạt

453 triệu tấn vào năm 2015 Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt 2,2% với khối lượng giao dịch cụ thể đạt trên 200 triệu tấn.

Dự báo đến năm 2015, tiêu thụ sản phẩm giấy và bìa tại châu Á sẽ đạt khoảng 66 triệu tấn, chiếm hơn 50% mức tăng trưởng tiêu thụ toàn cầu trong giai đoạn 2000-2015 Châu Á dự kiến sẽ chiếm 38% tổng mức tiêu thụ giấy toàn cầu, trong khi Tây Âu và Bắc Mỹ lần lượt đạt mức tăng tiêu thụ 22 triệu tấn và 12 triệu tấn.

Thị trường giấy bao gói đang trải qua nhiều biến đổi, với sự cạnh tranh gay gắt giữa các sản phẩm hòm hộp cáctông sóng và các loại vật liệu bao gói mới Các ngành công nghiệp liên quan cần phải thích ứng để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường.

Thị trường hiện nay đang chuyển hướng mạnh mẽ sang việc sử dụng các cáctông hòm hộp chất lượng cao, thay vì những sản phẩm cáctông với nhiều mức chất lượng như trước Các công ty đa quốc gia, khi xuất khẩu hàng hóa, ngày càng yêu cầu các sản phẩm cáctông hòm hộp đạt tiêu chuẩn cao, dẫn đến xu hướng tăng trưởng đáng kể trong việc sử dụng cáctông chất lượng cao.

Nhu cầu về sản phẩm giấy bao gói công nghiệp trên toàn cầu đang gia tăng mạnh mẽ, đặc biệt là tại khu vực Đông Nam Á Cụ thể, năm 1999, khu vực này tiêu thụ 8,4 triệu tấn giấy bao gói, con số này đã tăng lên 12,9 triệu tấn vào năm 2000 Dự báo đến năm 2010, nhu cầu sẽ đạt 27 triệu tấn, cho thấy tiềm năng phát triển lớn cho ngành giấy trong khu vực này.

Mặc dù tiêu thụ giấy in báo tại Bắc Mỹ, Tây Âu và Nhật Bản dự kiến sẽ chững lại, nhưng nhu cầu giấy in và giấy viết toàn cầu vẫn sẽ tăng trưởng ổn định với tỷ lệ 2,6% mỗi năm ở các khu vực khác.

Mức tiêu thụ giấy bình quân đầu người có mối liên hệ chặt chẽ với thu nhập bình quân đầu người (GDP), cho thấy ảnh hưởng của ngành công nghiệp giấy đối với sự phát triển kinh tế và đời sống xã hội Các quốc gia có thu nhập thấp và trung bình với dân số đông, đặc biệt ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và châu Mỹ - Latinh, sẽ là những thị trường tiềm năng cho sự tăng trưởng của ngành công nghiệp giấy trong tương lai.

Thị trường bột giấy đang có dấu hiệu phục hồi, nhưng sự sôi động thực sự chỉ xảy ra khi các dự án đầu tư lớn được phê duyệt Dự báo cho thấy, ngành công nghiệp bột giấy sẽ gặp khó khăn trong việc phục hồi trước năm tới.

2004 Chi phí dành cho quảng cáo không hề gia tăng sẽ hạn chế rất nhiều khả năng phục hồi của công nghiệp giấy và bột giấy.

THỰC TRẠNG SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆT NAM TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP KINH TẾ KHU VỰC 26 I Vài nét khái quát về lịch sử phát triển của ngành giấy Việt Nam

Nghề làm giấy cổ truyền và những tiền đề để phát triển ngành giấy ở Việt Nam

Giấy được phát minh đầu tiên bởi người Trung Quốc, nhưng người Việt Nam đã biết làm giấy từ những năm đầu thế kỷ III sau Công nguyên, theo các tài liệu cổ Trung Quốc Nguyên liệu chính để sản xuất giấy thời kỳ đó bao gồm các loại cây như trầm, mật hương và rong biển Giấy từ cây trầm có màu trắng, vân như vẩy cá, mùi thơm và độ bền cao, không bị nát khi ngâm trong nước Giấy làm từ rong biển được gọi là giấy trắc lý, trong khi giấy từ cây mật hương thường được dùng để tiến cúng vua chúa và rất được ưa chuộng bởi người nước ngoài.

Nghề làm giấy ở Việt Nam đã tồn tại từ lâu và đang ngày càng phát triển mạnh mẽ Các làng nghề và phường nghề truyền thống, đặc biệt là ở kinh thành Thăng Long, đã lần lượt ra đời, mỗi nơi đều sở hữu bí quyết riêng trong quy trình sản xuất giấy Chính vì vậy, sản phẩm giấy từ các làng nghề này rất đa dạng và mang những đặc trưng độc đáo riêng biệt.

Vào thế kỷ 18, vỏ cây dó và vỏ cây thượng lục (cây niết) được sử dụng để sản xuất giấy Các vùng như Sơn Tây, Hưng Hoá, Tuyên Quang, Thái Nguyên và Lạng Sơn thuộc thượng du và trung du Bắc Bộ đã trồng nhiều cây dó để phục vụ cho ngành sản xuất giấy.

Giấy dó là loại giấy nổi bật với đặc tính dai, xốp, nhẹ và bền, có khả năng giữ màu tốt mà không bị nhoè khi viết, vẽ hay in Loại giấy này cũng ít bị mối mọt và không dễ bị gãy hay ẩm nát như nhiều loại giấy khác Qua quá trình lựa chọn, phân loại và tinh chế nguyên liệu, người ta có thể tạo ra nhiều sản phẩm giấy dó khác nhau như giấy dó lụa, giấy lệnh, giấy sắc (hay còn gọi là giấy nghè), và giấy bản.

Giấy dó là loại giấy truyền thống có nhiều công dụng, từ in sách và ghi chép văn kiện nhà nước đến sử dụng trong học tập và thi cử Hầu hết sách cổ và sách Hán Nôm tại Việt Nam đều được in trên giấy dó Ngoài ra, giấy dó còn là nguyên liệu chính để sản xuất tranh dân gian, với các trung tâm nổi tiếng như Đông Hồ, Hàng Trống, Kim Hoàng Bên cạnh đó, giấy dó còn được ứng dụng trong nhiều lĩnh vực khác như đúc đồng, nặn tượng Phật, làm vàng quỳ, ngòi pháo, và bồi dán đồ chơi trung thu cho trẻ em.

Kỹ thuật làm giấy dó truyền thống, về cơ bản được tiến hành qua các công đoạn sau:

Giấy dó được sản xuất từ vỏ cây dó qua quy trình tỉ mỉ Đầu tiên, vỏ cây dó tươi được ngâm trong nước lã một ngày, sau đó chuyển sang ngâm trong nước vôi loãng trong hai ngày để loại bỏ tạp chất Sau khi ủ, vỏ dó được giặt sạch, để lại những sợi xơ trắng muốt, nguyên liệu chính để làm giấy Tiếp theo, xơ vỏ dó được nấu cách thủy trong bốn ngày, trong quá trình này, cần đảo đều để đảm bảo chất lượng Sau khi nấu xong, xơ được giã bằng chày hoặc cối đá, tạo thành bột quánh Bột này sau đó được thả vào tầu xeo, nơi có nước pha keo từ nhựa cây mò, tạo ra hỗn hợp sền sệt Hỗn hợp này được tráng nhiều lần trên liềm xeo, một công cụ làm từ cật nứa, để tạo thành các trang giấy Để liềm xeo hiệu quả, các nan cần được hun bằng mùn cưa trộn với phân bò khô, đảm bảo bột giấy bám tốt khi xeo.

Khi cháy, nếu có khói nhưng không xuất hiện ngọn lửa, cần hun trong 2 ngày cho đến khi thấy nan vàng Sau đó, tiến hành công đoạn đan, sử dụng khung đan làm từ gỗ vàng tâm hoặc gỗ chịu nước, với các thanh ngang bào nhẵn chia thành những rãnh nhỏ cách nhau 2 phân Để đan mành xeo, thường sử dụng tơ tằm se săn đã được nhuộm bằng nhọ nồi.

Khâu xeo giấy là một công việc đòi hỏi sự khéo léo và nhẹ nhàng, thường do phụ nữ thực hiện Họ sử dụng liềm xeo để múc nước bột giấy và để cho nước nhỏ xuống, chỉ để lại bột giấy trên liềm Sau khi nước khô dần, bột giấy se lại và tạo thành trang giấy Sau khi xeo xong, giấy cần được ép và uốn để loại bỏ nước, rồi từng tờ giấy được bóc ra và miết lên tường trong lò sấy, đảm bảo rằng sau khi sấy, giấy sẽ khô đều và phẳng.

Quy trình làm giấy dó cơ bản chủ yếu là thủ công và đòi hỏi nhiều công sức, với các công cụ sản xuất đơn giản Những người làm giấy ở Việt Nam tôn vinh những bậc tiền bối đã truyền nghề, tạo nên các Tổ nghề cho từng làng Một số làng nghề giấy nổi tiếng ở nước ta cũng đã góp phần quan trọng vào việc gìn giữ và phát triển nghề truyền thống này.

 Làng An Hoà, còn gọi là làng Giấy nằm bên bờ sông Tô Lịch, ở phía tây thành

Thăng Long, từ thời Lý Làng đã có nhiều gia đình làm nghề giấy và nghề này còn tồn tại đến những năm đầu thập kỷ 90 của thế kỷ 20.

 Làng Yên Thái (thuộc phường Bưởi, quận Ba Đình, Hà Nội) tên cũ là làng Tích

Làng Yên Thái, nằm cạnh chợ Bưởi và còn được gọi là làng Cả, đã có nghề làm giấy dó từ thế kỷ 15 Sản phẩm của làng bao gồm giấy thị dùng để viết lệnh chỉ và cáo thị, giấy lệnh để ghi chép các chỉ thị, giấy bản phục vụ in sách Hán Nôm, cùng với giấy in tranh dân gian Ngoài ra, thợ Yên Thái còn khéo léo tận dụng vỏ dó thứ phẩm để sản xuất giấy moi và giấy phèn dùng trong việc gói hàng.

 Làng giấy Nghĩa Đô (huyện Từ Liêm, Hà Nội) Sản phẩm giấy của người thợ

Nghĩa Đô là loại giấy sắc

Làng Hồ Khẩu, thuộc phường Bưởi xưa, nổi tiếng với nghề làm giấy và thờ cúng ông tổ nghề giấy Thái Luân từ Trung Quốc Ngoài ra, làng còn tôn thờ hai vị thành hoàng là Cống Lễ và Cá Lễ, được phong là Thượng đẳng phúc thần.

 Làng Đông Xã (xưa là thôn An Dông thuộc phường Yên Thái) là một làng nghề giấy truyền thống Làng có tộc họ Nguyễn Thế chuyên làm giấy quỳ.

 Làng An Thọ (xưa là thôn An Thọ thuộc phường Yên Thái, nay là cụm dân cư số

5 phường Bưởi) làm nghề giấy cổ truyền, gắn bó với Yên Thái từ thuở khai cơ lập nghiệp ở xóm Tích Ma.

Làng giấy Phong Khê, thuộc huyện Yên Phong, Hà Bắc cũ, có truyền thống làm giấy lâu đời với sản phẩm chủ yếu là giấy dó, được sử dụng để in tranh dân gian Đông Hồ, viết chữ Nho, xeo ngòi pháo và làm vàng mã Vào thời kỳ hoàng kim, làng có từ 300 đến 500 hộ gia đình tham gia nghề này Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, Phong Khê chủ yếu sản xuất giấy dó và giấy bản, với nguyên liệu chính là cây hướng dương và cây dó trồng ven sông Hồng.

Làng giấy An Cốc, thuộc xã Hồng Minh, huyện Phú Xuyên, tỉnh Hà Tây, nổi tiếng với nhiều loại giấy truyền thống như giấy phương dùng để làm vàng mã, giấy trúc cho quạt và pháo, giấy khang để gói hàng, và giấy sắc quý giá dùng cho sắc phong triều đình Đặc biệt, giấy vua phê có bề mặt mịn màng, được sử dụng cho vua ghi chép, trong khi giấy hành ri trang trí hoa văn và các tích truyện cổ Sau cách mạng tháng Tám năm 1945, giấy An Cốc được Ngân hàng Nhà nước chọn để in tiền và cũng được dùng để in báo Cứu quốc, góp phần vào công tác xoá nạn mù chữ Người dân nơi đây tôn thờ Thái Luân là tổ nghề giấy của làng.

 Làng Kiêu Kỵ huyện Gia Lâm, Hà Nội nổi tiếng với nghề làm giấy quỳ Làng thờ ông Nguyễn Quý Trị làm tổ nghề giấy quỳ.

Ngoài các làng nghề giấy nổi tiếng, Việt Nam còn có những làng làm giấy truyền thống khác như làng Xuân Ổ ở Tiên Sơn, Bắc Ninh và làng Mai Chử Những làng nghề này không chỉ góp phần bảo tồn văn hóa truyền thống mà còn tạo ra sản phẩm giấy độc đáo, phục vụ nhu cầu của người tiêu dùng.

Vào đầu thế kỷ 18, nghề làm giấy ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ, đáp ứng đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước Năm 1734, dưới triều vua Lê Thuận Tông, chúa Trịnh Giang đã chỉ đạo in các bộ sách quý như Tứ Thư, Ngũ Kinh bằng giấy sản xuất trong nước, thay vì phải mua giấy từ Trung Quốc Để bảo vệ ngành sản xuất giấy trong nước, chúa Trịnh Giang đã ban hành lệnh cấm người dân và sĩ tử mua sách in từ nước ngoài, khuyến khích sử dụng sách do trong nước sản xuất.

Vài nét về công nghiệp giấy nước ta

Trong thời kỳ thực dân Pháp chiếm đóng Việt Nam, họ đã xây dựng một số nhà máy sản xuất giấy nhằm phục vụ cho công cuộc cai trị, với nguyên liệu lấy từ chính Việt Nam, điển hình như Nhà máy giấy Đáp Cầu và Nhà máy giấy Mục Sơn ở Thanh Hóa.

Sau cách mạng Tháng Tám năm 1945, các cơ sở sản xuất tiếp tục hoạt động để phục vụ nhu cầu của nhân dân Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một số nhà máy, như Nhà máy giấy Lửa Việt và Nhà máy giấy Phùng Chí Kiên (tiền thân là nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ và Nhà máy giấy Đáp Cầu), đã được tháo dỡ và di chuyển lên chiến khu để duy trì sản xuất, với nhiệm vụ quan trọng là sản xuất giấy để in tiền giấy bạc.

Cụ Hồ cho Bộ Tài chính của chính quyền cách mạng.

Sau khi hòa bình được lập lại, Nhà nước đã chú trọng phát triển ngành công nghiệp giấy Nhiều học sinh đã được cử đi học tập chuyên ngành giấy tại Trung Quốc và Liên Xô.

Xô (cũ), Cộng hòa dân chủ Đức (cũ),

Các làng nghề sản xuất giấy truyền thống đã được tổ chức lại thành các hợp tác xã thủ công nghiệp, giúp duy trì và phát triển hoạt động sản xuất giấy theo phương pháp thủ công.

Vào cuối thập kỷ 50 và đầu thập kỷ 60 của thế kỷ 20, nhờ sự hỗ trợ của Trung Quốc, Việt Nam đã xây dựng một số nhà máy giấy nhỏ sử dụng nguyên liệu tre nứa trong nước Nổi bật trong số đó là nhà máy giấy Việt Trì, khánh thành năm 1958 với công suất thiết kế 20.000 tấn/năm, là nhà máy hiện đại nhất Đông Nam Á thời bấy giờ, hoạt động khép kín từ sản xuất bột giấy đến xeo giấy, sản phẩm chính là giấy viết có độ trắng 75% Tuy nhiên, chiến tranh ném bom của đế quốc Mỹ đã gây thiệt hại nặng nề cho các cơ sở công nghiệp, bao gồm cả nhà máy giấy, dẫn đến sản xuất bị đình trệ Để khắc phục tình hình, Bộ Công nghiệp đã quyết định tăng cường phát triển công nghiệp địa phương, xây dựng thêm một số nhà máy giấy cỡ nhỏ với trang thiết bị do Trung Quốc hỗ trợ.

- Nhà máy giấy Lam Sơn (Thanh Hoá).

- Nhà máy giấy Thuận Thành (Hà Bắc).

- Nhà máy giấy Yên Bái có công suất 900 tấn/năm.

- Nhà máy giấy Lào Cai có công suất 300 tấn/năm.

- Nhà máy giấy Tuyên Quang có công suất 600 tấn/năm.

- Nhà máy giấy Hoà Bình 1.000 tấn/năm.

- Nhà máy giấy Thái Bình có công suất 300 tấn/năm.

Nhà máy giấy Hải Phòng, Nghệ An và Hà Tĩnh đã áp dụng công nghệ chế tạo giấy từ nguyên liệu bã mía, tận dụng phế liệu từ các nhà máy đường, nhờ vào đội ngũ kỹ sư ngành giấy Việt Nam Công nghệ này đã được triển khai thành công tại một số nhà máy giấy, nổi bật là máy giấy Vạn Điểm Để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng về giấy ảnh trong nước, Nhà nước cũng đã đầu tư xây dựng nhà máy sản xuất giấy ảnh Bình Minh.

Mặc dù miền Bắc đã có nền công nghiệp giấy, nhưng do công suất nhỏ và công nghệ lạc hậu, sản lượng giấy chỉ đạt khoảng 25.000 tấn/năm vào cuối những năm 60, tương đương 1kg/người, với chất lượng thấp và độ trắng kém Nhu cầu về giấy, đặc biệt là cho học tập và in ấn, ngày càng tăng, khiến việc xây dựng một nhà máy giấy có công nghệ cao và công suất lớn trở nên cấp thiết trong giai đoạn cuối thập kỷ 60 và đầu thập kỷ 70.

Trong gần 30 năm qua, ngành Giấy - Gỗ - Diêm đã trải qua 6 lần thay đổi mô hình tổ chức Những thay đổi này nhằm tìm kiếm một cấu trúc tổ chức phù hợp với trình độ quản lý, sự phát triển của lực lượng sản xuất và thích ứng với cơ chế thị trường hiện nay.

Năm 1976-1978: Bộ Công nghiệp nhẹ quyết định thành lập hai công ty Giấy

Gỗ Diêm hoạt động tại khu vực Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh, là công ty cấp kế hoạch và có vai trò quản lý trực tiếp các doanh nghiệp thành viên, tuân theo Điều lệ đã được quy định.

Bộ Công nghiệp nhẹ ban hành.

Năm 1978-1984: Hợp nhất hai Công ty Giấy Gỗ Diêm theo khu vực thành lập

Liên hiệp các Xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm trên toàn quốc hoạt động theo Điều lệ do Bộ Công nghiệp nhẹ ban hành, dựa trên nghị định 302/CP ngày 1/12/1978 của Hội đồng Chính phủ.

Từ năm 1984 đến 1990, do điều kiện địa lý khó khăn và hạ tầng giao thông, liên lạc còn hạn chế, Liên hiệp các Xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm trên toàn quốc đã được tách thành hai liên hiệp khu vực để thuận tiện cho việc quản lý và điều hành.

Giai đoạn 1990-1992 chứng kiến sự chuyển đổi trong cơ chế quản lý của Nhà nước, nhằm tăng cường quyền tự do dân chủ cho các đơn vị cơ sở Điều này đã giúp gắn kết sản xuất của ngành với các thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước Do đó, Nhà nước đã phê duyệt việc hợp nhất hai Liên hiệp các Xí nghiệp Giấy Gỗ Diêm theo khu vực thành Liên hiệp sản xuất - xuất nhập khẩu, theo Nghị định 27/HĐBT ngày 22/3/1989 của Hội đồng Bộ trưởng.

Từ năm 1992 đến 1995, nhằm thúc đẩy hoạt động của Liên hiệp phù hợp với cơ chế thị trường và mở rộng quyền tự chủ cho các đơn vị thành viên, Bộ Công nghiệp đã ban hành Quyết định vào ngày 22/3/1993 để chuyển đổi tổ chức và hoạt động của Liên hiệp SX-XNK Giấy Gỗ Diêm thành Tổng công ty Giấy Gỗ Diêm Việt Nam, phù hợp với Nghị định 388/HĐBT ngày 2/11/1991.

Từ tháng 4 năm 1995, Tổng công ty Giấy Việt Nam đã được thành lập theo quyết định 91/TTg ngày 7 tháng 3 năm 1994 của Thủ tướng Chính phủ, đánh dấu bước đầu tiên trong việc thí điểm thành lập tập đoàn kinh tế kinh doanh tại Việt Nam.

II TÌNH HÌNH SẢN XUẤT KINH DOANH CỦA NGÀNH GIẤY VIỆTNAM TRONG NHỮNG NĂM GẦN ĐÂY

Tình hình sản xuất các mặt hàng giấy của Việt Nam

Tổng công ty giấy Việt Nam được thành lập vào năm 1995, trong bối cảnh cơ sở vật chất nghèo nàn và quy mô sản xuất còn nhỏ bé, phân tán Công nghệ và trang thiết bị lúc bấy giờ lạc hậu, không đồng bộ, chủ yếu được trang bị từ những năm trước đó.

Vào năm 1960, ngành giấy Việt Nam bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh, dẫn đến sự thiếu hụt về đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ khoa học công nghệ và công nhân, cả về trình độ lẫn kinh nghiệm Hơn nữa, Tổng công ty giấy Việt Nam còn phải đối mặt với cuộc khủng hoảng và suy thoái của ngành giấy toàn cầu Kết quả là, ngành giấy Việt Nam đã tụt hậu so với các nước trong khu vực từ 20 đến 30 năm.

Trong giai đoạn hiện tại, Tổng công ty đã tận dụng nguồn lực tự có và vốn vay ngân hàng để nâng cao công nghệ và thiết bị tại các nhà máy, nhằm tăng hiệu suất và cải thiện chất lượng sản phẩm Đồng thời, Tổng công ty tiếp tục nghiên cứu mở rộng quy mô và trang bị thêm thiết bị cho các nhà máy, phù hợp với thực tế sản xuất Các nhà máy lớn như Bãi Bằng, Tân Mai, Việt Trì đã áp dụng công nghệ tiên tiến, sản xuất sản phẩm chất lượng cao, cạnh tranh với giấy nhập khẩu Trong khi đó, các nhà máy có trình độ lạc hậu như Vạn Điểm, Hoàng Văn Thụ, Bình An chỉ đầu tư vừa phải, sử dụng thiết bị cũ để từ từ nâng cao sản lượng và chất lượng sản phẩm, phù hợp với khả năng quản lý và vận hành của cán bộ công nhân.

Ngành giấy đang tích cực nghiên cứu và đầu tư xây dựng các nhà máy bột giấy tập trung nhằm đáp ứng nhu cầu bột giấy Trong giai đoạn này, nhiều công trình đã hoàn thành và chính thức đi vào hoạt động.

- Dự án mở rộng công ty giấy Việt Trì 25.000 tấn/năm,

- Công ty giấy Bãi Bằng 61.000 tấn bột/năm và 100.000 tấn giấy/năm,

- Dự án cải tạo máy xeo 3 của công ty giấy Tân Mai từ 30.000 tấn lên 45.000 tấn giấy in báo/năm,

- Đầu tư dây chuyền DIP, OCC, dây chuyền khăn giấy 10.000 tấn/năm,

- Nâng cấp nhà máy giấy Hoàng Văn Thụ lên 15.000 tấn /năm,

- Nâng cấp nhà máy giấy Vạn Điểm lên 15.000 tấn /năm,

- Nâng cấp công ty giấy Bình An lên 45.000 tấn/năm.

Kết quả sản xuất kinh doanh của toàn Tổng công ty giấy Việt Nam giai đoạn 1995-2000 ĐVT 1995 1996 1997 1998 1999 2000

(Nguồn: 55 năm Công nghiệp Việt Nam)

Nhờ vào những định hướng chiến lược đúng đắn, sản lượng giấy toàn ngành đã tăng 3,15 lần, từ 113.600 tấn/năm lên 380.000 tấn/năm, với mức tăng trưởng bình quân 26,6% mỗi năm Đặc biệt, sản lượng của khu vực I thuộc Tổng công ty Giấy Việt Nam đã gần gấp đôi, từ 90.571 tấn/năm lên 190.000 tấn/năm.

_ tấn/năm), tốc độ tăng bình quân 16,6%/năm Khu vực II (địa phương, tư nhân và nước ngoài) tăng 56,9%.

Giá trị sản xuất sản phẩm giấy và các sản phẩm bằng giấy

Ngành giấy Việt Nam hiện có sự tham gia của nhiều loại hình doanh nghiệp, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước, bên cạnh đó còn có doanh nghiệp ngoài quốc doanh và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài Trên toàn quốc, có 473 doanh nghiệp sản xuất giấy, trong đó 93 doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước Tổng sản lượng giấy đạt 470.000 tấn/năm, tương đương với hơn 70% công suất thiết kế.

 Giai đoạn từ 2000 đến nay

Mặc dù đầu tư nâng cấp hạn chế, sản lượng giấy toàn ngành đã đạt 300.000 tấn vào năm 2000 Chất lượng giấy sản xuất, bao gồm giấy in, giấy viết, giấy photocopy và giấy vệ sinh, đã cải thiện nhanh chóng để đáp ứng nhu cầu thị trường Kinh tế quốc doanh vẫn chiếm ưu thế, đặc biệt trong các sản phẩm có ý nghĩa kinh tế - chính trị - xã hội như giấy in báo Trong khi đó, khu vực tư nhân phát triển nhanh chóng, trong khi các đơn vị trung ương, đặc biệt là doanh nghiệp vừa và nhỏ, có sự phát triển chậm hơn.

Ngoài quốc doanh Đầu tư nước ngoài

_ người lao động được cải thiện rõ rệt, tăng gấp khoảng 2 lần kể cả lao động lâm nghiệp.

Sản lượng toàn ngành giấy Việt Nam giai đoạn 1999-2002

Tổng Công ty Giấy Việt Nam

Theo Hiệp hội Giấy Việt Nam, đến năm 2000, sản lượng giấy của Tổng Công ty Giấy chiếm 58% tổng sản lượng toàn ngành, trong khi các doanh nghiệp khác chỉ chiếm 42% Tuy nhiên, từ năm 2000 trở đi, khả năng sản xuất của Tổng Công ty và các doanh nghiệp còn lại đã trở nên cân bằng Kể từ đó, sản lượng của các doanh nghiệp ngoài Tổng Công ty đã tăng lên đáng kể, dẫn đến sự thay đổi trong tương quan giữa hai khu vực này.

Giấy làm bao bì cáctông 137.727 233.318 169

Giấy vệ sinh, khăn giấy 17.843 24.000 135

Giấy vàng mã xuất khẩu 74.278 80.000 108

Giấy vàng mã dùng trong nước 15.000 18.000 120

Năm 2002, sản lượng một số loại giấy như giấy in, viết và giấy vàng mã có sự tăng nhẹ so với năm 2001 Đặc biệt, giấy làm bao bì cáctông, giấy vệ sinh và khăn giấy ghi nhận mức tăng trưởng mạnh mẽ Ngược lại, sản xuất giấy in báo lại có xu hướng giảm Bảng 5 cung cấp số liệu cụ thể về biến động sản lượng giấy trong năm 2002 so với năm 2001.

Năm 2003, ngành giấy Việt Nam ghi nhận sự tăng trưởng mạnh mẽ với nhiều dự án đầu tư nhằm nâng cao năng lực sản xuất Tuy nhiên, sự đầu tư chưa cân đối với nhu cầu thị trường, đặc biệt là trong lĩnh vực giấy bao bì chất lượng cao và giấy in tráng Công ty giấy Bãi Bằng đang lắp đặt thiết bị để tăng công suất thêm 40.000 tấn/năm, trong khi nhà máy giấy Vạn Điểm mới đi vào hoạt động với công suất 15.000 tấn/năm Các công ty tại Bắc Ninh, Hà Nội và TP Hồ Chí Minh cũng đang gấp rút lắp đặt dây chuyền sản xuất với tổng công suất lên tới 70.000 tấn/năm Dự báo vào đầu năm 2004, tổng năng lực sản xuất giấy in và giấy viết sẽ đạt khoảng 200.000 tấn/năm, trong khi nhu cầu chỉ khoảng 140.000 tấn/năm, dẫn đến cạnh tranh khốc liệt trong tiêu thụ, đặc biệt là đối với sản phẩm chất lượng thấp từ các dây chuyền sản xuất có công suất và trình độ kỹ thuật hạn chế.

Tình hình tiêu thụ các mặt hàng giấy của Việt Nam

2.1.Tình hình tiêu thụ trong nước

Ngành giấy Việt Nam hiện chỉ đáp ứng 50 - 70% nhu cầu nội địa, với nhu cầu tiêu thụ giấy vào cuối năm 2002 đạt khoảng 660.000 tấn, tương đương 8,3 kg/người/năm Dự báo đến năm 2010, mức tiêu thụ giấy sẽ tăng lên 13,5 kg/người.

Năm 2003, ngành giấy Việt Nam đối mặt với nhiều thách thức, khi các dự án mở rộng nhà máy chưa kịp chiếm lĩnh thị trường, dẫn đến chi phí sản xuất tăng cao do phải trả nợ ngân hàng Sự cạnh tranh từ giấy ngoại nhập cũng gia tăng, khiến nhiều doanh nghiệp lớn không thể trụ vững và buộc phải ngừng sản xuất Công ty giấy Tân Mai đã phải để máy móc ngừng hoạt động một tháng trong quý I để chờ tiêu thụ giấy tồn kho Tương tự, dây chuyền giấy bao bì công nghiệp của công ty giấy Việt Trì cũng phải dừng sản xuất do thiếu vốn lưu động và thị trường tiêu thụ Tình hình tiêu thụ của các doanh nghiệp thuộc Tổng công ty giấy rất khó khăn, với mức tồn kho toàn Tổng công ty vào cuối quý I/2003 đạt 38.000 tấn, tăng 10.000 tấn so với cùng kỳ năm trước, trong đó Công ty giấy Bãi Bằng và Công ty giấy Tân Mai là hai đơn vị có lượng tồn kho cao nhất với 17.000 tấn và 12.000 tấn.

Các doanh nghiệp sản xuất giấy thừa nhận rằng, mặc dù đã nỗ lực đổi mới và nâng cấp chất lượng sản phẩm, nhưng vẫn không thể cạnh tranh với hàng nhập khẩu về giá Nhiều công ty như Tân Mai, Bãi Bằng, Đồng Nai đã giảm giá bán nhưng tiêu thụ vẫn chậm Một số đơn vị phải áp dụng các biện pháp kích thích tiêu thụ, song lượng giấy tồn đọng vẫn ở mức cao.

Thị trường nội địa vẫn bị chi phối bởi các sản phẩm giấy in báo, giấy viết và giấy chuyên dụng nhập khẩu Dù Công ty giấy Tân Mai đã hai lần giảm giá và chịu lỗ từ đầu năm đến nay, nhưng tình hình tiêu thụ sản phẩm vẫn không khả quan.

Hiện nay, lượng tiêu thụ giấy trên thị trường đang có xu hướng chững lại đối với cả giấy nội địa và giấy nhập khẩu, đặc biệt là vào những thời điểm như tháng 9/2003.

_ chỉ trong vòng hai tuần số lượng tiêu thụ các mặt hàng giấy viết do các nhà máy trong nước sản xuất đã giảm hẳn 50%.

Theo các công ty, sản phẩm bao bì cáctông vẫn còn nhiều tiềm năng trên thị trường, khi sản xuất trong nước chỉ đáp ứng khoảng 30% nhu cầu Tuy nhiên, việc chuyển đổi sang sản xuất mặt hàng này gặp khó khăn do yêu cầu vốn đầu tư lớn, gây áp lực cho các nhà quản lý.

Giấy vệ sinh hiện đang là một trong những mặt hàng cạnh tranh nhất trên thị trường, không phải vì chất lượng sản phẩm trong nước vượt trội, mà do người tiêu dùng thường chọn những sản phẩm có giá cả phải chăng Dù chất lượng giấy vệ sinh nội địa còn thua kém so với hàng ngoại, nhưng nếu doanh nghiệp giữ chi phí sản xuất thấp, họ vẫn có khả năng cạnh tranh cao Hiện tại, có khoảng 50 thương hiệu giấy vệ sinh đang cạnh tranh gay gắt trên thị trường nội địa, với mức giá dao động từ 1.000 đến 1.500 đồng/cuộn cho sản phẩm nội địa và 1.800 đồng/cuộn cho giấy Thái Lan Hơn nữa, với đặc điểm hàng hóa cồng kềnh và chi phí vận chuyển cao, doanh nghiệp trong nước có nhiều lợi thế trong việc cung cấp sản phẩm này.

Khăn giấy lụa đang trở thành một sản phẩm cạnh tranh trên thị trường, mặc dù giá khăn giấy nhập khẩu thường cao hơn khoảng 15% so với sản phẩm nội địa do chất lượng vượt trội Tuy nhiên, người tiêu dùng Việt Nam thường ưu tiên lựa chọn sản phẩm có chất lượng vừa phải và giá cả hợp lý Chẳng hạn, khăn giấy của Công ty giấy Bãi Bằng với chất lượng tốt và giá từ 5.500 đến 7.000 đồng cho hộp 150 tờ x 2 lớp đang được ưa chuộng, trong khi sản phẩm tương tự của hãng Puppy có giá lên tới 12.000-15.000 đồng Ngoài ra, các sản phẩm khăn giấy sản xuất thủ công với giá thành rẻ cũng được các cửa hàng ăn uống, đặc biệt là các cửa hàng bình dân, ưa chuộng do nhu cầu khách hàng không cao.

Để duy trì khả năng cạnh tranh, chúng ta cần chú ý đến việc giảm giá thành các sản phẩm giấy vệ sinh và khăn giấy, đồng thời không quá khó tính khi sử dụng những mặt hàng này.

Giấy vàng mã là một mặt hàng giấy có nhu cầu tiêu thụ cao do thói quen lâu đời của người dân Việt Nam trong việc đốt vàng mã Sự gia tăng mức sống và áp lực trong công việc đã khiến người dân trở nên "mê tín" hơn, từ đó thúc đẩy nhu cầu sử dụng giấy vàng mã ngày càng tăng.

2.2 Tình hình xuất khẩu ra nước ngoài

Tình hình tiêu thụ sản phẩm giấy trong nước đang gặp khó khăn, dẫn đến việc xuất khẩu sản phẩm giấy của Việt Nam ra thị trường quốc tế gặp nhiều thách thức và hạn chế.

Sản phẩm giấy viết và giấy in tại Việt Nam gặp khó khăn trong việc xuất khẩu do sức cạnh tranh yếu Trong khi đó, các loại giấy như giấy bao bì công nghiệp cao cấp, giấy couché, giấy duplex tráng phấn và giấy ảnh vẫn chưa đủ để đáp ứng nhu cầu nội địa, dẫn đến việc phải nhập khẩu một lượng lớn hàng năm, vì vậy việc xuất khẩu trở nên khó khăn hơn.

Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam là bột giấy và giấy vàng mã, với Trung Quốc là thị trường lớn nhất, có khả năng nhập tới 1 triệu tấn bột giấy mỗi năm Trong năm 2001, Việt Nam đã xuất khẩu 74.278 tấn giấy vàng mã, và con số này tăng lên 80.000 tấn vào năm 2002 Tuy nhiên, hiện nay, sản phẩm giấy vàng mã chủ yếu vẫn được sản xuất thủ công và chưa thu hút được sự chú ý từ các công ty lớn.

Ngành giấy Việt Nam kỳ vọng sẽ nâng cao hoạt động xuất khẩu, đặc biệt là hướng tới các thị trường trong khu vực, nhờ vào những thay đổi hợp lý trong chiến lược phát triển.

Tình hình nhập khẩu các mặt hàng giấy từ nước ngoài

Trong những năm gần đây, Việt Nam chủ yếu nhập khẩu giấy từ các nước như Inđônêxia, Hàn Quốc, Thái Lan và Đài Loan, trong đó Inđônêxia là đối thủ cạnh tranh lớn nhất, chiếm hơn 80% kim ngạch nhập khẩu giấy của Việt Nam trong 5 năm qua Từ ngày 1/7/2003, khi thuế nhập khẩu giảm xuống 20%, cuộc cạnh tranh giữa giấy nội và ngoại trở nên khốc liệt hơn, đặc biệt là giữa các nhà máy giấy trong nước và ngành giấy của Inđônêxia và Thái Lan Ông Lin Po Chung, đại diện công ty giấy APP tại TP.HCM, cho biết kế hoạch tăng trưởng của công ty đã bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi thời điểm giảm thuế, và họ sẽ theo dõi thị trường trong thời gian tới Nhiều công ty giấy lớn khác cũng đang lên kế hoạch chiếm lĩnh thị trường giấy Việt Nam, đặc biệt là ở khu vực phía Bắc.

Trong những năm qua, sản phẩm giấy từ các nước trong khu vực đã chiếm lĩnh thị trường Việt Nam với tỷ lệ thị phần lớn, và dự đoán rằng tỷ lệ này sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới Đặc biệt, giấy chất lượng cao từ Inđônêxia và Thái Lan sẽ tiếp tục dẫn đầu thị trường trong thời gian tới.

Lượng giấy nhập khẩu hiện nay chiếm khoảng 50% thị phần trong nước không những ở các mặt hàng giấy trong nước chưa sản xuất được mà cả ở những

_ mặt hàng vốn là thế mạnh của các doanh nghiệp trong và ngoài quốc doanh như giấy bao bì công nghiệp, giấy in, giấy viết,

Năm 2002, Việt Nam nhập khẩu khoảng 340.000 tấn giấy, chiếm 80% sản lượng giấy sản xuất trong nước Sự đầu tư vào các loại giấy mới đã làm thay đổi cấu trúc giấy nhập khẩu, trong đó giấy tráng 1 và 2 mặt chiếm tỷ lệ cao nhất với 39% (145.251 tấn) Các loại giấy chuyên dụng cũng được nhập khẩu với số lượng lớn, đạt 25% (94.470 tấn) Ngược lại, lượng giấy làm lớp mặt hộp cáctông nhiều lớp đã giảm mạnh, trong khi giấy vệ sinh và khăn giấy không còn được nhập khẩu chính ngạch.

Kim ngạch nhập khẩu các sản phẩm giấy năm 2002

Sản xuất Nhập khẩu Tổng cộng So sánh

Giấy làm bao bì cáctông 233.318 72.636 305.954 24

Giấy vệ sinh, khăn giấy 24.000 24.000

Giấy vàng mã xuất khẩu 80.000 80.000

Giấy vàng mã dùng trong nước

(Nguồn: Tạp chí Công nghiệp giấy số 125 tháng6/2003)

Trong thời gian gần đây, ngành giấy đã phải đối mặt với sự gia tăng của giấy ngoại nhập qua các dự án viện trợ không hoàn lại, đổi hàng và gian lận thương mại Những nguồn giấy này không chịu thuế, dẫn đến việc làm suy yếu hàng rào bảo hộ cho ngành giấy trong nước.

_ nước ít nhiều mất đi tác dụng trước khi được dỡ bỏ một cách chính thức vào tháng 7/2003.

Trong 7 tháng đầu năm 2003, lượng giấy nhập khẩu vào Việt Nam là 256.000 tấn, tăng 32% so với cùng kỳ năm ngoái, trong đó chỉ riêng tháng 7 đã nhập 40.000 tấn Hàng rào thuế quan trong khu vực đang dần được tháo bỏ Trước ngày1/7/2003, thuế suất nhập khẩu mặt hàng giấy in là 50%, giấy in báo là 40% Kể từ khi lộ trình gia nhập AFTA được thực hiện, mức thuế suất và phụ thu giấy nhập khẩu giảm xuống chỉ còn 20% khiến cho lượng hàng nhập về tăng mạnh.

Theo các nhà quản lý, giá giấy ngoại nhập từ Inđônêxia và Thái Lan hiện rẻ hơn giấy nội địa từ 0,5-1 triệu đồng/tấn sau khi tính thuế và chi phí Các cơ sở in nhận định rằng giấy ngoại không chỉ có giá thấp hơn mà còn có số trang nhiều hơn từ 5-7% so với giấy nội cùng trọng lượng Chất lượng giấy ngoại vượt trội với độ sáng trắng cao hơn và khả năng hút ẩm thấp hơn Nhờ những lợi thế này, giấy in báo và giấy viết ngoại nhập đang chiếm ưu thế trên thị trường trong nước.

Giấy nhập khẩu chủ yếu là các loại giấy bao bì công nghiệp cao cấp như giấy couché, giấy duplex tráng phấn, giấy ảnh và hơn 8.000 tấn giấy in báo Theo Tổng Công ty Giấy Việt Nam, lượng giấy in và giấy viết nhập khẩu chưa nhiều do giá giấy trong khu vực tăng khoảng 70 USD/tấn, trong khi doanh nghiệp trong nước phải giảm giá bán tối đa, thậm chí bằng giá thành và bán trả chậm So với Indonesia, nước có công suất 10 triệu tấn giấy/năm và công nghệ hiện đại nhất ASEAN, giá giấy hiện tại khoảng 650-680 USD/tấn, trong khi giá thành giấy Bãi Bằng rẻ nhất Việt Nam cũng cao hơn bình quân 100 USD/tấn.

Chỉ có một số sản phẩm như giấy vệ sinh, khăn giấy, giấy làm bao bì cáctông và giấy vàng mã không phải đối mặt với sự cạnh tranh từ hàng nhập khẩu Mặc dù giấy vệ sinh và khăn giấy đã được nhập khẩu vào thị trường Việt Nam, nhưng đặc thù của sản phẩm và nhu cầu tiêu dùng của người dân vẫn tạo ra sự khác biệt cho các sản phẩm nội địa.

_ ngoại nhập không lớn nên lượng nhập khẩu rất nhỏ Đặc biệt, sản phẩm giấy vàng mã hoàn toàn không phải nhập khẩu.

Các nhà nhập khẩu giấy từ Thái Lan và Inđônêxia dự đoán giá giấy trên thị trường sẽ giảm, nhưng không đáng kể Theo lộ trình AFTA, thuế đối với giấy in báo, giấy viết và giấy photocopy sẽ giảm từ 76% xuống 20% Tuy nhiên, Bộ Tài chính đã điều chỉnh mức giá tối thiểu để tính thuế, dẫn đến giá một số loại giấy vẫn còn cao Các công ty giấy lớn từ Thái Lan và Inđônêxia không giấu giếm kế hoạch chiếm lĩnh thị trường giấy Việt Nam, đặc biệt là ở phía Bắc, khi nhà máy giấy lớn nhất Việt Nam, Bãi Bằng, sẽ ngưng sản xuất từ 1-7 tháng để nâng cấp thiết bị.

Trong 6 tháng đầu năm 2003, giá bột giấy nhập khẩu tăng 16-19% so với cùng kỳ năm ngoái và có chiều hướng sẽ còn tăng trong những tháng cuối năm Giá bột giấy chế biến từ gỗ mềm đã tẩy trắng có xuất xứ từ Bắc Mỹ được chào bán ở mức440-450 USD/tấn vào thời điểm giữa tháng 7/2003 Giá bột giấy chế biến từ gỗ bạch đàn Braxin được chào bán ở mức 430-450 USD/tấn (giá C&F giao dịch tại các cảng châu Á) Trong năm 2003, dự kiến lượng giấy thải loại nhập khẩu sẽ tăng 20%,lượng bột giấy nhập khẩu vào khoảng 50-60.000 tấn, lượng gỗ sợi dài phục vụ cho sản xuất giấy phải nhập khoảng 50.000 m 3

Những khó khăn và thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của ngành giấy Việt Nam

1.1 Còn quá nhiều bất cập trong việc cung cấp nguyên liệu cho ngành giấy

Ngành giấy Việt Nam sản xuất hơn 800.000 tấn giấy mỗi năm, nhưng năng lực sản xuất bột giấy chỉ đạt trên 100.000 tấn, dẫn đến sự mất cân đối nghiêm trọng Nguyên liệu sản xuất giấy luôn trong tình trạng căng thẳng, đe dọa kế hoạch sản xuất của các doanh nghiệp nội địa Trung bình, ngành giấy chỉ tự đáp ứng khoảng 25-30% nhu cầu bột giấy, trong khi 70-75% còn lại phải nhập khẩu, cho thấy sự phụ thuộc lớn vào nguồn bột giấy từ nước ngoài.

Nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng chất lượng giấy thấp tại Việt Nam là do vấn đề công nghệ Chất lượng nguyên liệu trong nước và thiết bị sản xuất còn hạn chế, khiến cho bột giấy không ổn định Để cải thiện độ bền và độ dai của giấy thành phẩm, cần phải pha trộn một tỷ lệ bột ngoại phù hợp vào bột giấy nội địa Việc này đã giúp tăng tốc độ máy xeo và nâng cao sản lượng giấy Ví dụ, vào năm 1995, Công ty giấy Bãi Bằng đã nâng tốc độ máy xeo từ 360-380 m/phút lên 520 m/phút nhờ tỷ lệ pha trộn hợp lý, đạt sản lượng trên 50.000 tấn, tương đương 90% công suất thiết kế Mặc dù giá bột nhập khẩu cao hơn 30-40% so với bột sản xuất trong nước, nhưng chất lượng giấy thành phẩm tốt hơn và sản lượng tăng 30-40% Hơn nữa, trong khi nhiều nước có tỷ lệ chất độn trong giấy lên đến 40%, Việt Nam lại chủ yếu sản xuất giấy từ bột giấy loại tốt do công nghệ kém, dẫn đến nhu cầu bột giấy tăng cao.

Công suất thiết bị giữa hai khâu nấu bột và xeo giấy tại Công ty giấy Bãi Bằng hiện đang không đồng bộ Cụ thể, thiết bị nấu bột giấy có công suất thiết kế 48.000 tấn/năm nhưng do xuống cấp chỉ đạt 40.000 tấn/năm, trong khi đó, máy xeo lại có khả năng sản xuất lên đến 60.000 tấn/năm.

_ giấy/năm Vì vậy, việc nhập bột ngoại để bổ sung sự thiếu hụt công suất là một giải pháp tình thế đúng đắn

Vấn đề quỹ đất cho rừng nguyên liệu là một trong những nguyên nhân quan trọng ảnh hưởng đến ngành giấy Việt Nam Mặc dù trên giấy tờ quỹ đất đủ cho quy hoạch, thực tế lại cho thấy quỹ đất trồng rừng không tập trung và địa hình phức tạp gây khó khăn cho việc khai thác, quản lý và nâng cao năng suất Với chu kỳ khai thác hiện tại, ngành giấy có thể sẽ thiếu nguyên liệu trầm trọng trong 7 năm tới Năm 2002, phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn đã phê duyệt xây dựng nhà máy bột giấy 130.000 tấn/năm tại Tuyên Quang, và Yên Bái cũng dự kiến xây dựng nhà máy từ 50.000 đến 100.000 tấn/năm Tuy nhiên, với diện tích và năng suất trồng nguyên liệu hiện tại, đến năm 2006, ba tỉnh Phú Thọ, Tuyên Quang và Yên Bái có thể không đủ nguyên liệu cung cấp cho Công ty giấy Bãi Bằng.

Các tỉnh như Cao Bằng, Bắc Kạn, Lào Cai, và Sơn La không thể cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy bột giấy, trong khi tình hình ở Kon Tum còn tồi tệ hơn Mặc dù Chính phủ đã phê duyệt dự án nhà máy bột giấy Kon Tum với công suất giai đoạn I là 130.000 tấn/năm và giai đoạn II là 260.000 tấn/năm, nhưng do quy hoạch không chính xác, diện tích đất trồng cây nguyên liệu không đủ Năm qua, vùng nguyên liệu giấy Kon Tum chỉ trồng được 15.000 ha, bao gồm 5.000 ha keo và 10.000 ha thông, dẫn đến việc nhà máy, với vốn đầu tư 3,412 tỷ đồng, có nguy cơ phải đóng cửa sau 3 năm hoạt động do thiếu nguyên liệu.

Tình hình nhiều nhà máy chưa hoạt động đã thiếu nguyên liệu cũng đang đặt ra gay gắt ở Bắc Giang, Thanh Hoá, Nghệ An.

Ngành giấy đang đối mặt với nghịch lý "thiếu thì vẫn thiếu nhưng thừa thì vẫn cứ thừa" Trong tương lai, nếu các dự án xây dựng nhà máy bột giấy hoàn tất, sẽ dẫn đến tình trạng thiếu nguyên liệu nghiêm trọng Tuy nhiên, hiện tại, do quy hoạch rừng trồng và đầu ra chưa hợp lý, nguyên liệu giấy lại thừa thãi Các nhà máy vẫn khuyến khích người dân vay vốn Nhà nước để trồng rừng, khiến người trồng rừng cảm thấy hoang mang.

Tại tỉnh Phú Thọ, hàng nghìn hộ dân đã tham gia chương trình trồng rừng nguyên liệu cho ngành công nghiệp giấy thông qua Công ty Nguyên liệu giấy Vĩnh Phú, vay hàng chục triệu đồng mỗi hộ để phát triển kinh tế gia đình Sau 7 - 8 năm chăm sóc rừng, họ mong chờ khai thác tre, gỗ để bán cho nhà máy giấy nhằm trả nợ Tuy nhiên, họ gặp khó khăn khi các nhà máy từ chối mua nguyên liệu, với lý do đã đủ nguồn cung để sản xuất.

Khi tình trạng thừa nguyên liệu xảy ra ở các tỉnh, Bộ Công nghiệp và Tổng Công ty Giấy đã quyết định phân chỉ tiêu bán gỗ hàng năm cho các tỉnh và doanh nghiệp Từ đó, các ban ngành chức năng sẽ phân bổ chỉ tiêu bán cho từng hộ dân Tuy nhiên, giải pháp này đã dẫn đến nhiều vấn đề tiêu cực, làm giảm lòng tin của người dân đối với Nhà nước.

Một vấn đề nổi bật trong việc giải quyết nguồn nguyên liệu cho ngành giấy là cơ chế tiêu thụ hiện tại Tại tỉnh Phú Thọ, trước đây, việc thu mua nguyên liệu được thực hiện bởi tư thương và Công ty nguyên liệu giấy, nhưng sau đó chuyển sang Công ty giấy Bãi Bằng Hiện tại, công tác thu mua đã được giao cho Công ty nguyên liệu giấy Vĩnh Phú Chi cục phát triển lâm nghiệp Phú Thọ nhận định rằng sự thay đổi liên tục trong đối tượng thu mua đang gây khó khăn cho ngành.

Mục đích của chính sách này là bảo vệ quyền lợi cho người dân, ngăn chặn tình trạng ép cấp và ép giá Tuy nhiên, thực tế cho thấy quyền lợi của những người trồng rừng vẫn chưa được đảm bảo.

Chồng chéo trong quy hoạch

Năm 2002, Tổng Công ty Lâm nghiệp Việt Nam đã khánh thành nhà máy ván sợi ép cường tại Gia Lai, với tổng vốn đầu tư 515 tỷ đồng và sử dụng 17.000 ha rừng nguyên liệu tập trung Đây là nhà máy tiên phong cho chuỗi nhà máy sản xuất ván ép, ván dăm và ván ghép thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn.

Các nhà máy sản xuất ván nhân tạo sử dụng nguyên liệu tương tự như ngành công nghiệp giấy Việc quy hoạch 400.000 ha rừng sản xuất tại các tỉnh đã tạo ra nguồn nguyên liệu cho ngành giấy, dẫn đến sự cạnh tranh gay gắt giữa hai ngành này trong việc giành giật nguyên liệu.

Trong chương trình chế biến gỗ và lâm sản đến năm 2010, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn đã trình Chính phủ kế hoạch xây dựng nhà máy giấy và nhà máy ván nhân tạo tại nhiều tỉnh Cụ thể, tại Bắc Giang, mặc dù chỉ có 37.000 ha nguyên liệu, Bộ Công nghiệp vẫn dự kiến xây dựng nhà máy sản xuất 200.000 tấn bột giấy mỗi năm, trong khi Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn sẽ bố trí nhà máy sản xuất ván sợi với công suất 30.000 m³.

Tiến độ trồng rừng sản xuất hàng năm chưa đạt kế hoạch đề ra, gây khó khăn cho các nhà máy trong việc tìm nguồn nguyên liệu đáp ứng nhu cầu sản xuất Với quy hoạch chồng chéo hiện tại, việc đảm bảo nguồn cung cấp nguyên liệu trở nên ngày càng khó khăn.

Mặc dù công ty giấy Cầu Đuống và công ty giấy Việt Trì đã lắp đặt hai dây chuyền sản xuất mới vào năm 2002, hầu hết các nhà máy giấy tại Việt Nam vẫn sử dụng công nghệ lạc hậu từ thập kỷ 1980, thậm chí là 1970 Chỉ có ba nhà máy Bãi Bằng, Tân Mai và Đồng Nai được xem là hiện đại, nhưng công nghệ của chúng cũng đã có tuổi thọ từ 20 đến 30 năm Điều này dẫn đến năng suất cán giấy của Việt Nam ở mức thấp, với nhà máy Đồng Nai chỉ cán khổ rộng tối đa 2,6 m và tốc độ cán hạn chế.

Các giải pháp nâng cao khả năng cạnh tranh của ngành giấy Việt Nam

1.1 Xây dựng phương án chủ động về nguyên liệu cho ngành giấy Định hướng phát triển vùng cây nguyên liệu giấy

Ngành giấy yêu cầu nguồn cung cấp nguyên liệu ổn định và bền vững để đáp ứng quy mô sản xuất lớn và thiết bị công nghệ hiện đại Do đó, việc lựa chọn phương thức kinh doanh rừng phù hợp và áp dụng các giải pháp kỹ thuật hiệu quả trong đầu tư trồng rừng sản xuất công nghiệp là điều cần thiết.

Để đạt được mục tiêu phát triển rừng, cần phân tích và lựa chọn phương án quy hoạch phù hợp cho từng vùng, tập trung vào diện tích ổn định và điều kiện thâm canh cơ giới Cần xác định tập đoàn cây trồng thích hợp với từng vùng sinh thái và áp dụng các giải pháp kỹ thuật để hiện đại hóa sản xuất, với mục tiêu nâng cao năng suất rừng trồng lên 20-25 m³/ha/năm, và tiến tới 35-40 m³/ha/năm sau năm 2010 Đồng thời, cần đầu tư mạnh mẽ cho nghiên cứu khoa học và các hoạt động kinh doanh rừng, cũng như tổ chức sản xuất phù hợp với tình hình mới.

Chúng ta cần ưu tiên cải thiện giống cây bằng cách nghiên cứu và tuyển chọn loài phù hợp với từng vùng, từ đó tiến hành lai tạo để tìm ra giống tốt nhất Đầu tư vào công nghệ sinh học để phát triển giống cây đầu dòng là cần thiết, đồng thời kết hợp nghiên cứu các giải pháp lâm sinh như làm đất và phân bón để tối ưu hóa đặc tính di truyền của cây giống Cần nhập khẩu những giống cây có hàm lượng bột giấy cao, chất lượng tốt, phù hợp với điều kiện tự nhiên của Việt Nam Các loài cây nguyên liệu chính cần nghiên cứu bao gồm thông bản địa, thông caribê, bạch đàn, keo, luồng và các loại tre Chúng ta cũng cần thực hiện nghiên cứu cơ bản về công nghệ di truyền, phân lập vi sinh vật, và phát hiện các loài có khả năng chống chịu tốt với điều kiện sống khắc nghiệt và khả năng cố định Nitơ, thích ứng với nhiều loại đất và vùng sinh thái khác nhau.

Để đạt mục tiêu sản xuất 660.000 tấn giấy mỗi năm vào năm 2010, Việt Nam cần đầu tư và phát triển các vùng nguyên liệu giấy chiến lược.

 Vùng nguyên liệu giấy Bắc Bộ

Theo quyết định số 197/QĐ của Thủ tướng chính phủ, vùng nguyên liệu giấy được xác định trên địa bàn các tỉnh Hà Giang, Tuyên Quang, Vĩnh Phúc, Phú Thọ, Lào Cai, Yên Bái và Bắc Thái, với tổng diện tích lên tới 346.000 ha, bao gồm nhiều huyện trong khu vực này.

Tập đoàn cây trồng nguyên liệu giấy chính đã được lựa chọn để phát triển là bồ đề, bạch đàn, keo các loại và các loại tre, luồng khác.

Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong vùng nguyên liệu giấy Bắc Bộ nhằm tìm kiếm giống cây mới có năng suất cao và khả năng kháng bệnh tốt, đặc biệt là đối với keo và bạch đàn Qua công nghệ lai tạo và chọn lọc di truyền, các cá thể trội sẽ được phát triển Đồng thời, nghiên cứu cũng tập trung vào việc tạo ra các chế phẩm cộng sinh để tối ưu hóa tính di truyền của cây giống, góp phần vào quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa sản xuất giống.

Sản lượng gỗ trung bình tại vùng nguyên liệu giấy Bắc Bộ ước tính đạt 90-100 m³/ha/chu kỳ, với diện tích rừng trồng theo quy hoạch trung bình 13.000 ha mỗi năm Điều này giúp đảm bảo cung cấp ổn định trên 1,2 triệu tấn nguyên liệu thô cho Công ty giấy Bãi Bằng, đáp ứng công suất 250.000 tấn/năm vào năm 2010, cùng với Công ty giấy Việt Trì với công suất 50.000 tấn/năm Đây là vùng nguyên liệu giấy có triển vọng và ổn định nhất cả nước.

 Vùng nguyên liệu giấy phía Nam

Theo chỉ thị số 86/CT của Thủ tướng chính phủ, vùng nguyên liệu giấy phía Nam được quy hoạch với tổng diện tích 270.000 ha, nhằm cung cấp nguyên liệu cho các nhà máy giấy Tân Mai, Đồng Nai và các nhà máy khác trong khu vực Các tỉnh và thành phố nằm trong vùng quy hoạch bao gồm Tỉnh Sông Bé, Tỉnh Đồng Nai, Tỉnh Long An và Thành phố Hồ Chí Minh.

Tập đoàn cây trồng chính được xác định là cây bạch đàn, keo các loại và các loại cây phi gỗ

Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học trong vùng nguyên liệu giấy phía Nam tập trung vào hai loài cây chủ yếu là bạch đàn và keo Các đề tài nghiên cứu nhằm tuyển chọn cây trội có tốc độ sinh trưởng nhanh, khả năng chống chịu sâu bệnh và gió bão Đồng thời, thiết lập mô hình sử dụng chế phẩm như chất giữ nước, nấm cộng sinh và vi sinh vật để phát huy ưu thế di truyền của cây mẹ Việc cơ giới hóa trong trồng rừng và hiện đại hóa sản xuất cây trồng sẽ nâng cao năng suất rừng trồng lên 25 m³/ha/năm trên toàn khu vực.

Đến năm 2010, Công ty giấy Tân Mai đặt mục tiêu sản xuất 100.000 tấn giấy mỗi năm, trong khi Công ty giấy Đồng Nai phấn đấu đạt 75.000 tấn/năm Khu vực nguyên liệu được quy hoạch sẽ đảm bảo cung cấp ổn định cho hai nhà máy lớn và đáp ứng nhu cầu khác trong khu vực.

 Vùng nguyên liệu giấy Kon Tum

Theo Quyết định số 1070/QĐ-TTg ngày 20/8/2001, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Dự án khả thi vùng rừng nguyên liệu giấy Kon Tum Dự án này nhằm cung cấp đủ nguyên liệu cho nhà máy với công suất 130.000 tấn/năm trong giai đoạn I và 260.000 tấn sau năm 2010 trong giai đoạn II.

Tổng diện tích quy hoạch cho dự án bao gồm hai giai đoạn, với tổng diện tích là 125.000 ha Trong giai đoạn I, diện tích quy hoạch là 64.000 ha, trong đó 58.000 ha sẽ được sử dụng cho việc trồng rừng nhằm tạo ra vùng nguyên liệu tập trung và nâng cao hiệu quả thâm canh.

Tập đoàn cây trồng được xác định là thông nội địa và thông nhập ngoại, bạch đàn, keo các loại.

Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học tại vùng nguyên liệu giấy Kon Tum tập trung vào việc chọn giống thông qua các thử nghiệm chọn loài và xuất xứ của cây thông, bạch đàn, và keo Các dòng keo và bạch đàn được tuyển chọn từ các vùng sinh thái khác nhau sẽ được trồng khảo nghiệm nhằm xác định dòng giống tốt nhất cho khu vực này.

Tập trung vào cơ giới hóa trong việc trồng rừng và nghiên cứu các giải pháp kỹ thuật thâm canh đồng bộ sẽ giúp nâng cao năng suất rừng trồng Cụ thể, sản lượng đạt 135 m³/ha sau 8 năm đối với cây keo và bạch đàn, trong khi thông đạt sản lượng 165 m³/ha sau 15 năm.

Vùng nguyên liệu được quy hoạch với tổng diện tích 58.000 ha sẽ đảm bảo cung cấp ổn định nguyên liệu cho nhà máy bột giấy có công suất 130.000 tấn/năm.

 Vùng nguyên liệu giấy Lâm Đồng

Ngày đăng: 02/06/2022, 14:27

Nguồn tham khảo

Tài liệu tham khảo Loại Chi tiết
1. 55 năm Công nghiệp Việt Nam Bộ công nghiệpNXB Thống kê Hà Nội 2000 Khác
2. Giấy Bãi Bằng - Những chặng đườngPhạm Tới, Nguyễn Duy Nghiêm, Ngô Thái, Nguyễn Văn Hoà NXB Lao Động 1997 Khác
6. Biotechnology in the pulp and paper industry K.E.L.ErikssonNXB Springer 1997 Khác
7. Tạp chí Công nghiệp Giấy các số phát hành năm 2002, 2003 Tổng Công ty Giấy Việt Nam, Hiệp hội Giấy Việt Nam 8. Tạp chí Công nghiệp & Thương mại Khác
9. Tạp chí Nhịp sống Công nghiệp 10.Tạp chí Công nghiệp Việt Nam 11.Thời báo Kinh tế Sài Gòn 12.Báo Đầu tư chứng khoánCác trang web Khác

HÌNH ẢNH LIÊN QUAN

Bảng 1: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 1 (Trang 14)
Bảng 3: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 3 (Trang 36)
Bảng 4: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 4 (Trang 38)
Bảng 6: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 6 (Trang 44)
Bảng 7: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 7 (Trang 59)
Bảng 9: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 9 (Trang 60)
Bảng 10: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 10 (Trang 61)
Bảng 11: - Ngành giấy việt nam trước những thách thức hội nhập kinh tế khu vực châu á
Bảng 11 (Trang 61)

TỪ KHÓA LIÊN QUAN

TRÍCH ĐOẠN

TÀI LIỆU CÙNG NGƯỜI DÙNG

TÀI LIỆU LIÊN QUAN

w