Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Việc nghiên cứu đặc trưng của các vùng phương ngữ tiếng Việt, đặc biệt là tiếng Quảng Nam, đã thu hút sự quan tâm của các nhà Việt ngữ học Sự phân chia phương ngữ tiếng Việt vẫn còn nhiều tranh cãi, với một số ý kiến cho rằng có 5 vùng phương ngữ, trong khi ý kiến khác chia thành 4 vùng Hoàng Thị Châu trong cuốn "Phương ngữ học tiếng Việt" đã phân chia tiếng Việt thành 3 vùng chính: Bắc, Trung và Nam, trong đó tiếng Quảng Nam thuộc cực Bắc của phương ngữ Nam Bà cũng nhấn mạnh sự biến đổi phụ âm cuối của tiếng Quảng Nam, cho rằng nguyên nhân chủ yếu là do ảnh hưởng từ các phương ngữ Quảng Đông, Trung Quốc.
Cao Xuân Hạo (1986) được công nhận là người đầu tiên nghiên cứu thổ ngữ Quảng Nam từ góc độ ngữ âm học Trong bài viết “Nhận xét về các nguyên âm của một phương ngữ ở tỉnh Quảng Nam”, ông đã phân tích các biến thể của nguyên âm dựa trên âm cuối đi kèm, đồng thời chỉ ra sự mất đối lập giữa hai nguyên âm /a/ và /a:/.
Trong tiếng Quảng Nam, nguyên âm “ơ ngắn” là một đặc trưng nổi bật, được Vương Hữu Lễ và Hoàng Dũng phân tích trong Ngữ âm tiếng Việt Nguyên âm này không chỉ thể hiện sự khác biệt trong ngữ âm mà còn phản ánh nét văn hóa đặc trưng của vùng miền.
Hà Nội có cách phát âm "a ngắn" giống như "en" trong giọng Quảng Nam, trong khi "a ngắn" của Hà Nội lại được phát âm như "e dài" trong giọng Quảng Nam, ví dụ như "ăn năn" thành "eng neng".
Đến nay, nhiều nhà ngôn ngữ học hàng đầu Việt Nam đã nghiên cứu tiếng Quảng Nam từ ngữ âm đến từ vựng và các khía cạnh khác Những đóng góp này đã làm phong phú thêm kho tri thức về tiếng Quảng Nam, giúp chúng ta hiểu rõ hơn về sự đa dạng và phong phú của tiếng Việt Tuy nhiên, do mục đích khác nhau, các công trình này vẫn chưa bao quát hết mọi khía cạnh của tiếng Quảng.
Nghiên cứu về từ địa phương trong văn học nghệ thuật đã được thực hiện qua nhiều công trình, bao gồm Khóa luận tốt nghiệp về từ địa phương trong văn Nguyễn Ngọc Tư của Đặng Thị Minh Hoa (2007), Khóa luận tốt nghiệp về từ địa phương Nam Bộ trong tác phẩm của Lê Vĩnh Hòa và Tống Trung Trung (2009), cùng với Luận văn thạc sĩ về từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Bình Nguyên Lộc của Trần Thị Thúy Hằng (2019).
Nghiên cứu về phương ngữ và từ địa phương đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu ngôn ngữ Tuy nhiên, vấn đề từ địa phương, đặc biệt là các từ địa phương Quảng Nam trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, vẫn chưa được đề cập một cách hệ thống trong bất kỳ công trình hay bài viết nào.
Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Là các từ địa phương Quảng Nam – Đà Nẵng trong văn Nguyễn Nhật Ánh
- Phạm vi khảo sát: Đề tài tập trung nghiên cứu từ địa phương trong hai truyện:
Quán Gò đi lên, Ngồi khóc trên cây
Chúng tôi thống kê các từ địa phương Quảng Nam dựa chủ yếu vào Từ điển phương ngữ Quảng Nam do Phạm Văn Hảo chủ biên Bên cạnh đó, một số từ không có trong công trình này và Từ điển tiếng Việt cũng được chúng tôi khảo sát và liệt kê ở một mục riêng.
Bài viết thống kê và khảo sát cấu tạo cũng như đặc điểm ngữ nghĩa của các từ địa phương xuất hiện trong hai tác phẩm nổi bật là "Quán Gò đi lên" và "Ngồi khóc trên cây" của Nguyễn Nhật Ánh Nghiên cứu này nhằm làm rõ sự phong phú và đa dạng của ngôn ngữ địa phương, đồng thời nhấn mạnh vai trò của nó trong việc tạo nên sắc thái và bản sắc văn hóa trong văn học.
- Phân tích năng lực diễn đạt của các từ ngữ địa phương đó trong văn Nguyễn Nhật Ánh
Phân tích năng lực chi phối của từ ngữ địa phương trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh cho thấy chúng không chỉ làm phong phú nội dung biểu hiện mà còn tạo nên hình tượng nghệ thuật độc đáo Những từ ngữ này góp phần quan trọng vào việc hình thành phong cách nghệ thuật riêng biệt của tác giả, giúp khắc họa chân thực cuộc sống và con người nơi miền quê Sự kết hợp hài hòa giữa ngôn ngữ địa phương và yếu tố nghệ thuật đã tạo nên sức hấp dẫn cho các tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, thu hút độc giả qua những trải nghiệm văn hóa phong phú.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp chính sau đây:
- Phương pháp phân tích, miêu tả ngôn ngữ
- Phương pháp phân tích liên hội so sánh trong tác phẩm.
Ý kiến đóng góp của đề tài
Việc nghiên cứu của đề tài có những ý nghĩa lí luận và thực tiễn nhƣ sau:
- Hệ thống, phân loại và tập hợp từ địa phương trong văn Nguyễn Nhật Ánh qua hai tác phẩm tiêu biểu
Nghiên cứu phương ngữ Quảng Nam thông qua việc khảo sát cấu trúc và đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ địa phương trong hai tác phẩm "Quán Gò đi lên" và "Ngồi khóc trên cây" của Nguyễn Nhật Ánh góp phần làm rõ đặc trưng văn hóa và ngôn ngữ của vùng đất này.
Nghiên cứu và phân tích các từ ngữ địa phương trong tác phẩm của nhà văn Nguyễn Nhật Ánh giúp làm rõ sức ảnh hưởng của chúng đối với nội dung và hình tượng nghệ thuật Những từ ngữ địa phương không chỉ làm phong phú thêm nội dung mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phong cách nghệ thuật độc đáo của tác giả.
Bố cục đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài gồm có bốn chương:
Chương 1: Một số vấn đề lí luận liên quan đến đề tài và tổng quan về hai tác phẩm
Quán gò đi lên, Ngồi khóc trên cây của Nguyễn Nhật Ánh
Chương 2: Đặc điểm ngữ nghĩa của từ ngữ địa phương Quảng Nam trong văn Nguyễn Nhật Ánh
Chương 3: Đặc điểm cấu tạo từ của các từ ngữ địa phương trong văn Nguyễn Nhật Ánh
Chương 4: Tầm tác động của từ ngữ địa phương Quảng Nam trong văn Nguyễn Nhật Ánh.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÍ LUẬN LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI VÀ TỔNG QUAN VỀ HAI TÁC PHẨM QUÁN GÒ ĐI LÊN, NGỒI KHÓC TRÊN CÂY CỦA NGUYỄN NHẬT ÁNH
Từ địa phương và từ địa phương Quảng Nam
1.1.1 Từ địa phương a Khái niệm Đối lập với ngôn ngữ toàn dân là phương ngữ, nói cách khác phương ngữ là một bộ phận của ngôn ngữ toàn dân Phương ngữ có hai loại là phương ngữ địa lý và phương ngữ xã hội Phương ngữ địa lí có thể là một vùng, ví dụ: phương ngữ Trung (Thanh Hóa, Nghệ Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế); có thể là phương ngữ của một khu vực hẹp hơn như: phương ngữ Quảng Nam Bộ phận thứ hai của phương ngữ là phương ngữ xã hội như: tiếng lóng, biệt ngữ (biệt ngữ triều đình, biệt ngữ tôn giáo, biệt ngữ tín ngƣỡng)
Trong nghiên cứu phương ngữ địa lí, việc phân tích ngữ âm và hệ thống từ vựng là rất quan trọng Mỗi vùng miền đều có những từ ngữ đặc trưng, được gọi là từ địa phương Từ địa phương chính là một phần cấu thành của phương ngữ, phản ánh đặc điểm ngôn ngữ riêng biệt của từng khu vực.
Từ địa phương là một khái niệm quan trọng trong nghiên cứu ngôn ngữ, thu hút sự chú ý của nhiều nhà ngôn ngữ học Mỗi nhà nghiên cứu có cách hiểu và quan niệm riêng về từ địa phương, phản ánh sự đa dạng và phong phú của ngôn ngữ trong các vùng miền khác nhau.
- Các nhà từ vựng học đã đưa ra các cách định nghĩa về từ địa phương như sau:
Theo Nguyễn Thiện Giáp, từ địa phương là những từ ngữ chỉ được sử dụng hạn chế trong một hoặc một vài khu vực, và chúng tạo thành một bộ phận của từ vựng ngôn ngữ văn học Khi xuất hiện trong sách báo nghệ thuật, từ địa phương thường mang sắc thái tu từ, phản ánh đặc điểm của vùng miền và nhân vật Đỗ Hữu Châu cũng chỉ ra rằng các đơn vị từ vựng địa phương có thể có ý nghĩa khác nhau và sự khác biệt về ngữ âm, nhưng không phải là những sai dị ngữ âm đều đặn hay không đều đặn.
Nguyễn Văn Tu nhấn mạnh rằng ngôn ngữ địa phương không chỉ là một phần của văn học mà còn phản ánh đặc trưng của từng vùng đất cụ thể Những từ ngữ này mang sắc thái riêng và thường gây khó khăn cho người từ vùng khác trong việc hiểu nghĩa.
Các nhà từ vựng học đồng ý rằng từ địa phương là tập hợp từ vựng riêng biệt của một khu vực cụ thể, không đại diện cho toàn bộ ngôn ngữ của cộng đồng Những từ này thường mang những sắc thái đặc trưng của vùng miền.
- Các từ điển lại định nghĩa từ địa phương như sau:
Phương ngữ được định nghĩa trong từ điển tiếng Việt do Hoàng Phê chủ biên là “biến thể theo địa phương hoặc theo tầng lớp xã hội của một ngôn ngữ.” Điều này cho thấy rằng phương ngữ không chỉ phản ánh sự đa dạng ngôn ngữ mà còn thể hiện đặc trưng văn hóa và xã hội của từng vùng miền.
Từ điển ngôn ngữ học do Nguyễn Như Ý biên soạn định nghĩa "từ địa phương" là từ thuộc một phương ngữ của một ngôn ngữ dân tộc, chỉ được sử dụng phổ biến trong khu vực lãnh thổ của địa phương đó.
Phương ngữ là một khái niệm phong phú, đòi hỏi nghiên cứu toàn diện về ngôn ngữ, bao gồm ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp Trong bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào khía cạnh từ vựng của phương ngữ mà không phân tích sâu về ngữ âm và ngữ pháp.
Mặc dù mỗi nhà nghiên cứu có cách định nghĩa riêng, nhưng quan điểm chung giữa các nhà từ vựng học, nhà phương ngữ học và các từ điển đều không có sự khác biệt đáng kể.
Trong luận văn này, chúng tôi định nghĩa từ địa phương là những từ ngữ thuộc về ngôn ngữ dân tộc, với phạm vi tồn tại và sử dụng chủ yếu ở một địa phương cụ thể Địa phương này có thể là một vùng, tỉnh, huyện hoặc thậm chí là một làng Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ đề cập đến các dạng từ địa phương khác nhau.
Theo Bùi Trọng Ngoãn trong bài giảng về từ vựng tiếng Việt, từ địa phương có thể được phân loại thành ba dạng khác nhau.
- Không có từ tương đương ở các địa phương khác
Chẳng hạn Nam Bộ có những từ nhƣ:
“sạ”: gieo thẳng hạt giống lúa xuống ruộng nước
“rộng”: thả cá trong chum vại để dành
“ém”: ném vào hay nén xuống, không để lộ ra
Hoặc tên gọi những loại hoa trái nhƣ “sầu riêng”, “xoài tƣợng”,…
- Có ý nghĩa giống với từ vựng toàn dân nhƣng khác về hình thức ngữ âm
Từ địa phương Từ toàn dân
- Bông điệp (Năm bộ) - Hoa phƣợng
- Chộ (khu IV cũ) - Thấy
- Ngái (khu IV cũ) - Xa
- Mô (khu IV cũ) - Đâu
- Có hình thức ngữ âm giống với từ vựng toàn dân nhƣng ý nghĩa lại hoàn toàn khác
Trong từ vựng chung, "nón" được định nghĩa là một loại đồ dùng hình chóp làm từ lá, dùng để che đầu Tuy nhiên, ở khu vực Nam Bộ, "nón" không chỉ đơn thuần là nón lá mà còn bao gồm cả mũ và các vật dụng đội đầu khác.
1.1.2 Từ địa phương Quảng Nam
Chúng tôi quay lại với khái niệm về phương ngữ Quảng Nam Theo Hoàng Thị Châu, tiếng Việt được phân chia thành ba vùng phương ngữ khác nhau.
- Phương ngữ Bắc: Các tỉnh Bắc bộ
- Phương ngữ Trung: Gồm các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên – Huế
- Phương ngữ Nam: Từ Đà Nẵng trở vào
Trong khi đó Phạm Văn Hảo [4, tr.13] lại chia theo cách nhƣ sau:
- Phương ngữ Bắc: gồm Bắc Bộ và Thanh Hóa
Phương ngữ Trung bao gồm hai vùng chính: Trung Bắc, trải dài từ Nghệ An đến hết Thừa Thiên, và Trung Nam, từ Đà Nẵng đến hết Bình Thuận.
- Phương ngữ Nam: khu vực Nam Bộ còn lại
Trong phạm vi luận văn chúng tôi không bàn về sự phân chia này
Nguyễn Nhật Ánh và hai tác phẩm Quán gò đi lên, Ngồi khóc trên cây
1.2.1 Khái lược về Nguyễn Nhật Ánh
Nguyễn Nhật Ánh vừa là tên thật cũng vừa là bút danh Ông sinh ngày 07/05/1955 tại huyện Thăng Bình, tỉnh Quảng Nam
Thuở nhỏ, ông theo học tại các trường Tiểu La, Trần Cao Vân và Phan Chu Trinh
Nguyễn Nhật Ánh, từ năm 1973, đã chuyển đến Sài Gòn để theo học ngành Sư phạm Trong quá trình học tập, ông đã tham gia vào các hoạt động thanh niên xung phong, giảng dạy và làm công tác trong Đoàn Thanh niên Cộng sản.
Nguyễn Nhật Ánh, với bút danh Chu Đình Ngạn, đã làm phóng viên và bình luận viên thể thao cho báo Sài Gòn Giải Phóng từ năm 1986 đến nay Ông còn sử dụng nhiều bút danh khác như Anh Bồ Câu, Lê Duy Cật, Đông Phương Sóc và Sóc Phương Đông.
Năm 13 tuổi, ông đăng báo bài thơ đầu tiên Tác phẩm đầu tiên in thành sách là một tập thơ “Thành phố tháng tư” (NXB Tác phẩm mới, 1984, in chung với Lê Thị Kim) Năm 1985, ông cho ra mắt cuốn Trước vòng chung kết (NXB Măng Non, 1985) Đây là tác phẩm truyện dài đầu tiên của ông
Năm 1990, tác phẩm "Chú bé rắc rối" của tác giả đã nhận giải thưởng Văn học Trẻ hạng A từ Trung ương Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh Đến năm 1995, ông được vinh danh là nhà văn được yêu thích nhất trong hai mươi năm (1975 – 1995) qua cuộc trưng cầu ý kiến độc giả của Thành Đoàn Thành phố Hồ Chí Minh và báo Tuổi Trẻ Đồng thời, ông cũng được Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh lựa chọn là một trong những gương mặt tiêu biểu.
20 nhà văn trẻ tiêu biểu nhất trong 20 năm (1975 – 1995)
Năm 1998, ông nhận giải thưởng từ NXB Kim Đồng cho tác giả có sách bán chạy nhất Đến năm 2003, bộ truyện nhiều tập "Kính vạn hoa" của ông được Trung ương Đoàn Thanh niên công nhận.
Cộng sản Hồ Chí Minh trao huy chương Vì thế hệ trẻ và được Hội nhà văn Việt Nam trao tặng giải thưởng
Năm 2008, Nguyễn Nhật Ánh cho ra mắt tác phẩm "Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ," nhanh chóng gặt hái thành công lớn với việc được báo Người Lao động bình chọn là tác phẩm hay nhất năm 2008, giành giải Vàng sách hay của xuất bản Việt Nam năm 2009, và nhận giải thưởng văn học Việt Nam năm 2010.
Ngày 24/10/2010, cuốn Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh ra mắt độc giả
Và cuốn sách mới nhất xuất bản ngày 06/03/2014 có tên Chúc một ngày tốt lành
Nhà văn của tuổi thơ
Nguyễn Nhật Ánh là một trong những nhà văn nổi bật, thành công trong việc viết truyện cho thiếu nhi và tuổi mới lớn Ông khéo léo tái hiện lại những kỷ niệm tuổi thơ của mình qua những câu chuyện gần gũi, phản ánh cuộc sống hiện tại của giới trẻ, từ những buổi học tập đến những trò chơi và những mối tình đầu ngây thơ Các tác phẩm của ông không mang yếu tố viễn tưởng hay ly kỳ, nhưng vẫn thu hút độc giả trẻ, khiến họ say mê như một thói quen Với ngòi bút đầy nhiệt huyết và chân thành, Nguyễn Nhật Ánh sử dụng ngôn ngữ và giọng văn của giới trẻ, thể hiện những suy nghĩ và cảm xúc mà họ trải qua, tạo nên một thế giới sống động và gần gũi trong lòng độc giả.
Tuổi học trò là giai đoạn mà những cảm xúc và ý tưởng chưa được hình thành rõ ràng, thường xuất hiện rồi lại biến mất Đây là thời điểm của những mơ mộng viển vông, những tưởng tượng không giới hạn và những rung động nhẹ nhàng trong trái tim khi khám phá tình yêu ở tuổi 17-18 Nhà văn khéo léo nắm bắt tâm lý và thể hiện chiều sâu của tâm trạng, phác họa thế giới nội tâm phong phú của lứa tuổi này Ông ghi lại và xây dựng câu chuyện của những cô cậu đang bước vào thời kỳ biết buồn Độc giả trẻ em say mê với những tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh vì sự thấu hiểu sâu sắc, trong khi độc giả trưởng thành lại mỉm cười nhớ về kỷ niệm thơ dại của mình.
“cho tôi xin một vé về tuổi thơ”
Nguyễn Nhật Ánh là một trong những nhà văn nổi bật nhất viết cho thiếu nhi ở Việt Nam, vượt qua nhiều tên tuổi khác như Võ Quảng hay Tô Hoài Ông được bình chọn là nhà văn được yêu thích nhất trong giai đoạn 1975 – 1995, nhờ vào khả năng am hiểu và kể chuyện về thế giới trẻ em Sự khác biệt giữa việc kể chuyện cho thiếu nhi và kể chuyện về thiếu nhi là điều mà Nguyễn Nhật Ánh đã thể hiện xuất sắc Tác phẩm của ông không chỉ thu hút sự quan tâm của độc giả trẻ mà còn là nguồn cảm hứng cho nhiều bộ phim nổi tiếng như Kính vạn hoa, Cô gái đến từ hôm qua, Mắt biếc, và Tôi thấy hoa vàng trên cỏ xanh, trở thành một phần không thể thiếu trong tuổi thơ của nhiều thế hệ.
Nhà văn của đất và người xứ Quảng
Nguyễn Nhật Ánh, một trong những tác giả nổi tiếng, đã lấy bối cảnh và nhân vật trong các tác phẩm của mình từ vùng đất Quảng Nam, nơi ông lớn lên Nguồn cảm hứng này không chỉ là mạch sống cho những câu chuyện mà còn tạo nên thần thái độc đáo, góp phần vào sự thành công của những tác phẩm mang đậm dấu ấn cá nhân Ông đã sử dụng chất liệu từ ký ức tuổi thơ tại Thăng Bình để xây dựng nên những câu chuyện gần gũi, giúp độc giả trong nước và quốc tế cảm nhận được vẻ đẹp của những địa danh tưởng chừng xa lạ.
Trong những câu chuyện về địa danh Quán Gò và chợ Đo Đo, thị trấn Hà Lam hiện lên đầy sống động và gần gũi Một lần, một người bạn từ Sài Gòn đã ghé thăm và đặt câu hỏi về nơi đây.
Quán Gò trong truyện của Nguyễn Nhật Ánh gần đây đã thu hút sự quan tâm của nhiều độc giả, đặc biệt là những người chưa từng đặt chân đến Quảng Nam Vùng đất Quảng Nam, với những kỷ niệm đẹp và tình cảm sâu sắc, đã để lại ấn tượng mạnh mẽ trong lòng bạn đọc Qua những dòng chữ trong sáng, nhiều người ước ao được sống lại những khoảnh khắc tuổi thơ như trong truyện.
Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh chia sẻ rằng trong quá trình sáng tác, ông không cố tình đưa địa danh Quảng Nam vào tác phẩm, mà điều đó xảy ra một cách tự nhiên Quảng Nam là nguồn chất liệu vô tận cho ông, càng suy tư về nó, ông càng có thêm nhiều ý tưởng để viết Tình cảm này thể hiện rõ qua các tác phẩm của ông, trong đó từ ngữ là yếu tố nổi bật nhất Ngôn từ trong văn của Nguyễn Nhật Ánh mang tính dân dã, bình dị, phản ánh cuộc sống thường nhật và chứa đựng những từ địa phương đặc trưng của vùng đất Quảng Nam.
1.2.3 Tổng quan về hai tác phẩm Quán Gò đi lên, Ngồi khóc trên cây
Quán Gò Đi Lên là một tác phẩm lấy cảm hứng từ ngôi làng Đo Đo, quê hương của tác giả, và nổi tiếng với ẩm thực ở Quảng Nam Với lối kể chuyện hóm hỉnh, tác giả khắc họa cuộc sống mưu sinh và những rung động của tuổi trẻ tại quán Đo Đo Câu chuyện xoay quanh một quán ăn nhỏ ở Sài Gòn, nơi những nhân vật tình cờ gặp gỡ, từ đó hình thành tình bạn và tình yêu đáng yêu Nhà văn Nguyễn Nhật Ánh miêu tả chân thực tâm tư của tuổi trẻ, mang đến cho độc giả những phút giây thư giãn ý nghĩa và những câu chuyện giản dị, thân quen.
Tác giả khéo léo xây dựng hình tượng nhân vật và đặt họ vào những tình huống éo le, từ đó tìm ra cách giải quyết ngớ ngẩn, khiến người đọc bật cười trước sự ngô nghê Tác phẩm mang đến cho chúng ta cơ hội trở về Sài Gòn cách đây vài chục năm, giúp ta cảm nhận lại cuộc sống và con người nơi đây.
Và cho ta cảm nhận đƣợc xứ Quảng Nam đầy mến yêu và thắm đƣợm tình cảm của tác giả dành cho miền quê bé nhỏ ấy
ĐẶC ĐIỂM NGỮ NGHĨA CỦA TỪ NGỮ ĐỊA PHƯƠNG QUẢNG NAM
Từ địa phương trong văn Nguyễn Nhật Ánh thuộc dạng “có ý nghĩa từ vựng giống với nghĩa toàn dân nhƣng khác về hình thức ngữ âm”
Đối với đề tài này, chúng tôi sẽ phân tích các từ địa phương Quảng Nam theo hai hướng: nghĩa từ điển và nghĩa văn cảnh.
Từ điển là một tài liệu quan trọng, cung cấp thống kê và giải thích nghĩa của từ vựng trong một ngôn ngữ Các từ trong từ điển thường là những từ điển hình, có tần suất sử dụng cao, mang tính khái quát và ổn định về nghĩa Khi nói đến từ trong từ điển, chúng ta đang đề cập đến ngữ nghĩa của từ trong bối cảnh ngôn ngữ.
Văn bản là cách thể hiện ngôn ngữ trong giao tiếp, trong đó từ ngữ được sử dụng để thực hiện chức năng của chúng Khi nói đến từ trong văn bản, chúng ta đang đề cập đến vai trò của từ trong hoạt động lời nói Theo Bùi Trọng Ngoãn, trong bài giảng về từ vựng tiếng Việt, từ trong văn bản có những đặc điểm riêng biệt, phản ánh sự vận dụng ngôn ngữ trong hệ thống và trong thực tiễn sử dụng.
- Từ trong văn bản là từ đã đƣợc cụ thể hóa, hiện thực hóa
Trong từ điển, "cơm" được định nghĩa là món ăn phổ biến của người phương Đông, được chế biến từ gạo và nước Khi nói "Hôm nay cơm bị nhão", từ "cơm" ám chỉ đến một món ăn cụ thể trong một bữa ăn nhất định.
- Từ trong văn bản thường được bổ sung sắc thái nghĩa mới
Ví dụ: Trong bài ca dao:
Trong bài thơ, hình ảnh "mận" và "đào" không chỉ đơn thuần là những loại cây ăn quả mà còn biểu trưng cho một chàng trai và một cô gái Câu hỏi của mận về việc có ai vào vườn hồng hay chưa thể hiểu là sự quan tâm, tò mò của chàng trai đối với tình cảm và mối quan hệ với cô gái Đào trả lời rằng vườn hồng có lối nhưng chưa ai vào, ngụ ý rằng dù có cơ hội, nhưng tình cảm vẫn chưa được phát triển hay thể hiện rõ ràng.
- Từ trong văn bản luôn luôn gắn liền với thái độ người nói
Từ "đẹp" trong từ điển có nghĩa trung hòa, nhưng khi được sử dụng trong câu như "Còn bà thì đẹp!" lại mang ý nghĩa phủ nhận và mỉa mai Tương tự, việc lựa chọn từ ngữ có thể thay đổi sắc thái cảm xúc của câu nói.
“Ăn cho lắm vào rồi kêu!” có thể nói “Hốc cho lắm vào rồi kêu!” Lúc này, “hốc” thể hiện rõ thái độ chê trách của người nói
- Từ trong văn bản luôn luôn gắn liền với chức năng ngữ pháp của nó trong văn bản
Ví dụ: Trong đoạn thơ của Nguyễn Duy
Trong bài thơ, "yêu mến" được sử dụng như một danh từ để thể hiện sự gắn bó và tình cảm dành cho "em." Câu thơ diễn tả hình ảnh giọt mưa và dòng nước, tạo nên một không gian đầy cảm xúc và hoài niệm Những hình ảnh này không chỉ thể hiện sự chia ly mà còn mang lại sự an ủi, khuyến khích "em" không nên buồn Tình cảm chân thành và sâu sắc được thể hiện qua từng câu chữ, tạo nên một bức tranh sống động về tình yêu và nỗi nhớ.
Trong văn bản, từ ngữ có thể được sử dụng không theo quy chuẩn về phạm vi biểu vật, đồng thời cũng có thể lệch chuẩn về ngữ âm, dẫn đến những thay đổi tinh tế trong ý nghĩa.
Ví dụ về sự lệch chuẩn trong phạm vi biểu vật:
“Trăng hư ảo lập lờ trong sương trắng Ngọn gió nhà ai thấp thoáng bên đồi”
Từ "lập lờ" mô tả trạng thái của vật thể hình khối nửa nổi nửa chìm trong nước Khi nhà thơ nhắc đến hình ảnh trăng lập lờ trong sương, ông muốn thể hiện rằng sương như một biển nước, trong đó ánh trăng lúc rõ lúc mờ ẩn hiện.
Ví dụ về sự lệch chuẩn ngữ âm:
Hãy so sánh “Hắn vồn vã đón người đàn ông vào nhà”
“Hắn vờ vỡ đón người đàn ông vào nhà”
Ta thấy “vờn vỡ” là sự vồn vã mà không thật tình, vồn vã thái quá, có mục đích vụ lợi rõ rệt
Theo khảo sát, chúng tôi đã thống kê được 205 từ địa phương trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, những từ này có ý nghĩa từ vựng tương tự như nghĩa toàn dân nhưng lại khác nhau về hình thức ngữ âm.
Trong chương này, chúng tôi tiến hành phân tích nghĩa từ điển và nghĩa văn cảnh của các từ địa phương trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh Để dễ dàng trình bày, chúng tôi phân loại kết quả khảo sát thành các nhóm dựa trên tiêu chí phạm vi biểu vật.
2.1.1.1 Các từ biểu thị về con người a Các danh từ thân tộc, từ xưng hô và bộ phận cơ thể người: a1 Các danh từ thân tộc
Hệ thống danh từ trong thân tộc của người Quảng Nam tương tự như ở các vùng miền khác Qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy trong văn của Nguyễn Nhật Ánh có nhiều từ địa phương trong cách xưng hô, chẳng hạn như "ba," "chị hai," và "ông già vợ."
Trong đó, từ ba (cha) có số lần xuất hiện nhiều nhất, chúng tôi thống kê đƣợc 110 lần a2 Từ xưng hô
Trong tiếng Việt, từ xưng hô thể hiện sự phong phú và đa dạng, phản ánh bản sắc văn hóa của từng vùng miền Mỗi địa phương có cách xưng hô riêng, tạo nên sự khác biệt trong vốn từ ngữ Sự đa dạng này không chỉ tồn tại trong ngôn ngữ mà còn thể hiện mối quan hệ xã hội và văn hóa của người Việt.
Nguyễn Nhật Ánh đã khéo léo đưa vào tác phẩm của mình những từ xưng hô đặc trưng của phương ngữ Quảng Nam, phản ánh thói quen sử dụng từ xưng hô của người xứ Quảng Các từ như ảnh, cổ, ổng, mi, tui, tụi mi, tụi tui, tụi bay và tụi này không chỉ mang đậm bản sắc văn hóa địa phương mà còn làm phong phú thêm ngôn ngữ trong văn học của ông.
[15, tr.233], thằng chả [15, tr.136], con mẻ [14, tr.131] con nhỏ [15, tr.225]
Trong số các từ được thống kê, "mi" xuất hiện khoảng 70 lần, "tui" khoảng 30 lần, "ổng" khoảng 25 lần và "ảnh" khoảng 35 lần, cho thấy đây là những từ xưng hô phổ biến trong đời sống của người Quảng Nam Về từ chỉ các bộ phận cơ thể, chúng tôi ghi nhận 3 từ: "be sườn", "cẳng" và "giò" Ngoài ra, cũng có các từ chỉ tâm lý và tình cảm được sử dụng trong ngôn ngữ hàng ngày.
Từ địa phương trong văn Nguyễn Nhật Ánh thuộc dạng “không có từ tương đương ở địa phương khác”
Qua hai tập truyện Quán Gò đi lên và Ngồi khóc trên cây, chúng tôi khảo sát đƣợc
65 từ địa phương Quảng Nam thuộc dạng “không có từ tương đương ở địa phương khác” Chúng tôi chia chúng vào các nhóm sau:
2.2.1.1 Các từ biểu thị về con người
Trong văn Nguyễn Nhật Ánh, những từ địa phương Quảng Nam thuộc dạng
Trong tiếng địa phương, không tồn tại các từ tương đương để gọi tên người và bộ phận cơ thể Thay vào đó, từ ngữ chủ yếu diễn tả tâm lý, tình cảm, tính chất, trạng thái và hoạt động của con người cũng như sự vật Các từ này thường mang ý nghĩa sâu sắc về cảm xúc và trạng thái tâm lý.
Trong tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh, số lượng từ địa phương thể hiện tâm lý và tình cảm của con người mà không có từ tương đương ở địa phương khác là khá hạn chế Một số từ tiêu biểu được thống kê bao gồm: bắt thèm, sưỡng ngắt, sưỡng trân, và dị òm Những từ này không chỉ phản ánh trạng thái mà còn mang tính chất độc đáo trong ngôn ngữ địa phương.
Trong tiếng Việt, từ biểu thị trạng thái và tính chất của con người chiếm một số lượng lớn, đặc biệt là ở địa phương Quảng Nam, nơi có nhiều từ ngữ độc đáo mà các vùng khác không có Qua khảo sát hai tập truyện "Quán Gò đi lên" và "Ngồi khóc trên cây", chúng tôi đã thống kê được một số từ như bá láp, bảnh, dễ sợ, dở ẹc, kẹt, khét nghẹt, lãng xẹt, nhẹ hều và lâu lắc.
Từ địa phương biểu thị hoạt động con người chiếm số lượng tương đối lớn ở dạng
Chúng tôi đã thống kê được 24 từ không có từ tương đương ở địa phương khác, bao gồm: cà thọt, chàng ràng, chèo queo, thò lõ, tréo mảy, xớ rớ, băng, bể mánh, và bông lơn Những từ này thể hiện sự phong phú và đa dạng trong ngôn ngữ địa phương.
[15, tr.98], bụm [15, tr.27], cơi [15, tr.41], dợm [14, tr.100], dông [15, tr.24], khựng
[15, tr.90], lận [15, tr.198], móc ngoéo [15, tr.230], ngắt [14, tr.120], ngó lơ [14, tr.56], ngó sững [15, tr.13], ngó trân [14, tr.91], rớ [15, tr.157], thối [15, tr.39], xáp [15, tr.108], xóc hông [15, tr.141]
2.2.1.2 Các từ chỉ động vật, thực vật, sự vật a Các từ gọi tên thực vật, động vật, sự vật
Qua khảo sát hai tập truyện "Quán gò đi lên" và "Ngồi khóc trên cây", chúng tôi nhận thấy rằng từ ngữ địa phương dùng để chỉ động, thực vật thường không có từ đồng nghĩa ở các địa phương khác Đối với từ chỉ sự vật, bên cạnh những từ chỉ đồ dùng hàng ngày, còn xuất hiện các từ dùng để gọi tên các món ăn đặc trưng của Quảng Nam.
- Từ gọi tên đồ dùng hàng ngày: ảng [14, tr.246], ghế bố [15, tr.49], siêu [15, tr.87], thẩu [14, tr.157], tô [15, tr.264]
- Từ gọi tên các món ăn: bánh bèo [15, tr.173], bánh đập [15, tr.168], bánh in
[14, tr.14], bánh nổ [15, tr.90], bánh thuẫn [14, tr.14], bánh tai [14, tr.14], mì Quảng
[15, tr.172], nhƣn [15, tr.166], mắm cái [15, tr.168], mắm nêm [15, tr.168], mắm ruốc
Nước mắm Nam Ô là một trong những từ địa phương quan trọng, mang ý nghĩa đặc trưng mà không có từ tương đương ở các địa phương khác Những từ này đóng góp vào sự phong phú của hệ thống từ vựng địa phương.
Các từ ngữ gọi tên sự vật và món ăn đặc trưng của xứ Quảng Nam đóng vai trò quan trọng trong việc phản ánh diện mạo văn hóa địa phương Những từ ngữ này không chỉ thể hiện bản sắc văn hóa mà còn dễ dàng trở thành vốn từ toàn dân, góp phần làm phong phú thêm ngôn ngữ chung Ngoài ra, các từ biểu thị trạng thái, tính chất và đặc trưng của động vật, thực vật cũng là những yếu tố quan trọng trong việc làm giàu vốn từ vựng.
Trong văn Nguyễn Nhật Ánh, số lượng từ địa phương chỉ hoạt động, tính chất và trạng thái của động, thực vật, sự vật mà không có từ tương đương ở địa phương khác là khá hạn chế Chúng tôi đã thống kê được 9 từ đặc trưng, bao gồm: khét nghẹt, gần xịt, mắc mớ, dơ hầy, thấp chũn, gọn tưng, tùm lum, trớt quớt và thứ thiệt.
2.2.2 Nghĩa từ điển Đối với nghĩa từ điển của những từ địa phương Quảng Nam thuộc dạng “không” có từ tương đương ở địa phương khác, trong cuốn Từ điển phương ngữ Quảng Nam của Phạm Văn Hảo chủ biên đã giải thích, miêu tả rất chi tiết Dưới đây là nghĩa từ điển của một số từ
- Tréo mảy là “ngồi vắt chân chữ ngũ” [4, tr.272]
Nhét một đống thẻ có buộc dây thun trong túi quần, nó bắt cái ghế ngồi tréo mảy ngó ra, oai khủng khiếp [15, tr.5]
- Chèo queo là “lối nằm nghiêng, co người lại” [4, tr.89]
…ba mó bị liệt gần mười năm nay, quanh năm suốt tháng năm chèo queo một chỗ
- Ba láp là “(nói năng) không nghiêm chỉnh, không thành thật” [4, tr.46]
Ví dụ: Ông Thịt Luộc Muối Tiêu hiền như bụt, dĩ nhiên chẳng làm gì ba láp để thiên hạ phải sợ [15, tr.109]
- Bể mánh là “lộ bí mật, mưu mô bị lộ” hoặc “thất bại trong chuyện làm ăn” [4, tr.60]
Thấy bể mánh, thằng Cải cười hề hề [15, tr.132]
Ảng là một loại đồ đựng được làm từ đất nung hoặc xi măng, có thiết kế miệng rộng và thành thấp, thường có ba chân vững chãi Với dung tích khoảng 1m³, ảng được trang bị một lỗ nhỏ ở giữa đáy để thoát nước khi thực hiện việc thay rửa.
Em định ra ảng nước rửa chân rồi đi ngủ thì thấy anh [14, tr.246]
- Siêu là “que dao bằng tre vót mảng (để cắt bánh bèo)” [4, tr.246]
Những ngày đầu, thằng Lâm và mấy đứa trong quán tập sử dụng cái siêu toát mồ hôi hột [15, tr.87]
- Thẩu là “lọ thủy tinh miệng rộng, cổ ngắn” [4, tr.257]
Vòng đeo tay, kẹp tóc, hộp chì màu, bi ve, chai nước mắm, lọ xì dầu, thẩu bánh tai heo và kẹo đậu phộng là những món đồ quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.
- Tô là “bát to để đƣng thức ăn” [4, tr.264]
Thằng Lâm không đáp, đặt ba tô bún trở lại vô khay, lầm lũi bưng đi [15, tr.159]
Bánh bèo là “bánh làm bằng bột tẻ, hấp trong bát nhỏ cạn lòng, ăn kèm với nước dùng, tôm cháy, hành phi” [4, tr.51]
Mỗi người kêu một tô mì Quảng, ăn thêm mấy chén bánh bèo rồi lật đật đi ra [15, tr.173]
Bánh đập là món ăn độc đáo, bao gồm một chiếc bánh cuốn được phủ lên trên bánh đa nướng có kích thước tương đương Khi thưởng thức, người ta thường dùng tay gập bánh lại thành hình bán nguyệt và nhẹ nhàng đập lên mặt bánh đa để tạo ra sự kết dính với bánh cuốn, sau đó chấm với mắm nêm để tăng thêm hương vị.
Cho thêm hai phần bánh đập chấm mắm nêm nữa [15, tr.168]
Bánh in là loại bánh được chế biến từ bột nếp hoặc bột đậu xanh, trải qua quá trình rang thơm và trộn với đường, sau đó được đổ vào khuôn và ép thành hình Cuối cùng, bánh sẽ được sấy khô thêm một lần nữa để hoàn thiện.
Bánh thuẫn là “bánh làm từ bột, đường, trứng đổ vào khuôn hình cái khiên” [4, tr.52]
Những ngày Tết, bọn trẻ con trong làng được ăn mứt, hạt dưa, bánh thuẫn, bánh in… [14, tr.14]
Mắm cái là “tên gọi chung của các loại mắm cá khi chín vẫn còn nguyên con cá, có mùi vị đặc trƣng” [4, tr.184]
Lan sắp lại các lọ nước mắm, mắm ruốc, mắm cái, tương ớt, chuối chần và các loại bánh bày lê kệ đồ khô [15, tr.45]
Nước mắm Nam Ô là “nước mắm là đặc sản của vùng Nam Ô” [4, tr.220]
Dạ, biết cô! – Khi nghe giọng nói của mình được so sánh với loại mắm nổi tiếng nhất Quảng Nam, con Cúc cảm thấy rất vui mừng, bởi nước mắm Nam Ô được biết đến là ngon nhất, không ai sánh bằng.
Nhưn là “một thứ nước lèo làm thịt, cá, tôm, của kết hợp với lạc và các gia vị để chan ăn trong món mì Quảng” [4, tr.213]
Dạ không ạ Nhưn ở đây nấu bằng tôm, thịt heo, thịt gà thôi cô [15, tr.166]
- Đùm đề là “nhiều và không gọn gàng” [4, tr.135]
Nó học hết phổ thông, đùm đề khăn gói xuống Sài Gòn ôn thi đại học [15, tr.35]
- Thấp chũn là “rất thấp, thấp tè” [4, tr.257]
- Dơ hầy là “rất bẩn, dơ dáy” [4, tr.118]
Ông Tây ngạc nhiên khi thấy chiếc ghế thấp, bẩn thỉu mà con Hường vừa đặt xuống Với ánh mắt trợn trắng, ông không thể hiểu vì sao tiếp viên lại yêu cầu ông ngồi vào chiếc ghế đáng sợ này.
- Gần xịt là “ngay sát, rất gần, gần xịt” [4, tr.141]
Nhưng quê nó ở Tây Ninh gần xịt, muốn về nhà chỉ càn tót lên xe đò ngồi vài tiếng là tới [15, tr.179]
- Thứ thiệt là “thật, không phải giả” [4, tr.262]
Nghe cái giọng của nó, cứ tưởng nó là người làng Đo Đo thứ thiệt,…[15, tr.22]
Các từ ngữ đặc biệt