Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Xã Cẩm Thanh, thuộc thành phố Hội An, nổi bật với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên thiên nhiên phong phú và di sản văn hóa đa dạng, đã chứng kiến sự phát triển nhanh chóng về kinh tế và du lịch Sự phát triển này không chỉ thúc đẩy du lịch mà còn làm hồi sinh và phát triển các làng nghề truyền thống tại Hội An, đặc biệt là nghề tranh tre dừa Định hướng phát triển của tỉnh trong những năm gần đây nhấn mạnh việc khai thác tiềm năng du lịch kết hợp với văn hóa và các làng nghề truyền thống trong khu vực một cách mạnh mẽ.
Thành phố Hội An, với cảnh quan thiên nhiên phong phú và giá trị văn hóa lịch sử độc đáo, có tiềm năng lớn để phát triển kinh tế mạnh mẽ Đặc biệt, việc phát triển các làng nghề truyền thống đang được chú trọng, tạo ra hướng đi bền vững cho tỉnh Điều này không chỉ giúp bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa địa phương mà còn cải thiện sinh kế cho người dân.
Nghiên cứu về làng nghề truyền thống ở Việt Nam, đặc biệt là ở Hội An, đang thu hút sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu và chuyên gia trong và ngoài nước Một trong những công trình tiêu biểu là cuốn “Phát triển làng nghề truyền thống trong quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa” của tác giả Mai Thế Hờn, xuất bản bởi NXB Chính trị quốc gia Hà Nội năm 2003, tập trung vào việc nghiên cứu các làng nghề truyền thống đối mặt với thách thức từ quá trình công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước.
Trên Tạp chí Di sản văn hóa số 4 (2003) tác giả Lê Thị Minh Lý có bài viết
Làng nghề truyền thống Việt Nam đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn các giá trị văn hóa phi vật thể, góp phần gìn giữ di sản dân tộc Việc lưu truyền bí quyết nghề nghiệp trong cộng đồng làng xã cùng với những giá trị tinh thần sâu sắc, được thể hiện qua tập tục và tín ngưỡng, giúp duy trì bản sắc văn hóa độc đáo của dân tộc.
Các tác phẩm như "Nam" của Phạm Côn Sơn, "Phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình CNH - HĐH" của Trần Minh Yến, và "Phát triển cụm công nghiệp nông thôn từ làng nghề truyền thống" của Đào Thế Anh đều tập trung vào việc phát triển và bảo tồn các làng nghề truyền thống trong bối cảnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn Việt Nam.
Ngày càng có nhiều nghiên cứu tập trung vào việc phát triển và bảo vệ các sản phẩm truyền thống nhằm phục vụ cho sự phát triển du lịch Một trong những nghiên cứu tiêu biểu là “Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ” của tác giả Bạch Thị.
Lan Anh, “Những giải pháp nhằm phát triển làng nghề ở một số tỉnh đồng bằng Sông
Bài viết của tác giả Nguyễn Trí Dĩnh, với tiêu đề "Hồng", đề cập đến việc bảo tồn và phát triển làng nghề truyền thống, nhấn mạnh các giải pháp cho vấn đề này Các tác phẩm như “Một số vấn đề bảo tồn và phát triển làng nghề” của Liên Minh và “Thực trạng và những giải pháp nhằm phát triển làng nghề tỉnh Bắc Ninh” cung cấp cái nhìn sâu sắc về thực trạng hiện tại Kỷ yếu hội thảo khoa học của Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam, với chủ đề “Cho vay vốn để hỗ trợ các làng nghề truyền thống”, do Nguyễn Thế Thư biên soạn, cũng góp phần đưa ra các hướng đi đúng đắn nhằm thúc đẩy công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn Bắc Ninh.
Quá trình hoàn thiện các chính sách nhằm thúc đẩy phát triển làng nghề tại tỉnh Bắc Ninh trong giai đoạn 1997-2003 đã được nghiên cứu sâu sắc Bài viết phân tích thực trạng phát triển làng nghề, rút ra những kinh nghiệm quý báu và đề xuất các giải pháp hiệu quả Những chính sách này không chỉ góp phần nâng cao giá trị kinh tế mà còn bảo tồn văn hóa truyền thống của địa phương.
Nghiên cứu của nhóm khoa học đã xây dựng một hệ thống lý luận vững chắc về làng nghề truyền thống Việt Nam, đồng thời tổng hợp nhiều bài học kinh nghiệm thiết thực trong việc khôi phục và phát triển các làng nghề Những kết quả này góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông thôn, phù hợp với xu hướng phát triển của thời đại.
Nghiên cứu về du lịch làng nghề truyền thống đang thu hút sự chú ý của nhiều học giả và nhà nghiên cứu, điển hình là tác phẩm “Làng nghề du lịch Việt Nam” của GS-TS Hoàng Văn Châu Bài viết “Tìm hướng phát triển cho du lịch làng nghề Việt Nam” trên trang tin của Ban quản lý di tích khu tưởng niệm các vua nhà Mạc cũng góp phần vào lĩnh vực này Ngoài ra, tác giả còn nhấn mạnh rằng “Mỗi làng một sản phẩm” là giải pháp hiệu quả để phát triển du lịch bền vững, dựa trên kinh nghiệm từ các nước và Việt Nam.
Du lịch làng nghề ở Đồng bằng sông Cửu Long được xem là một lợi thế văn hóa quan trọng để phát triển du lịch, như phân tích của tác giả Nguyễn Phước Quý Quang Bài viết của An Vân Khanh nhấn mạnh tầm quan trọng của việc phát triển làng nghề và ngành nghề gắn với du lịch, trong khi nghiên cứu của Nguyễn Xuân Hoản và Đào Thế Anh chỉ ra tiềm năng phát triển du lịch nông thôn và sự tham gia của các công ty du lịch lữ hành tại Việt Nam Cuối cùng, tác giả Nguyễn Thị Ngọc Cẩm khám phá tiềm năng phát triển làng nghề du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế, góp phần vào sự phát triển bền vững của ngành du lịch.
Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với sự phát triển ngành du lịch gắn liền với làng nghề truyền thống ở Việt Nam, mở ra nhiều hướng phát triển cho ngành du lịch và bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc trong bối cảnh hội nhập quốc tế Việt Nam hiện có khoảng 2000 làng nghề, trong đó hơn 1000 làng nghề truyền thống với gần 1,4 triệu người làm nghề thủ công Nhiều làng nghề đã tồn tại hàng trăm năm và trở thành biểu tượng văn hóa, được biết đến cả trong nước và quốc tế Có không ít công trình nghiên cứu về các làng nghề thủ công nhằm tìm ra thực trạng và giải pháp phát triển làng nghề truyền thống Bài viết này sẽ nêu rõ một số công trình nghiên cứu về làng nghề truyền thống tại các địa phương, từ đó làm nổi bật những quan tâm của các nhà nghiên cứu.
Phát triển du lịch làng nghề truyền thống tại làng hoa giấy Thanh Tiên, xã Phú Mậu, huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế, là một dự án quan trọng nhằm bảo tồn văn hóa và nâng cao đời sống người dân Dưới sự hướng dẫn của TS Bùi Đức Tính và Hồ Thị, dự án này không chỉ thu hút du khách mà còn khôi phục các nghề thủ công truyền thống, tạo ra những sản phẩm độc đáo và mang đậm bản sắc văn hóa địa phương Việc phát triển du lịch tại đây hứa hẹn sẽ góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương và bảo vệ môi trường.
Bài viết của Kim Hoàng (2013) mang tiêu đề “Tìm hiểu một số làng nghề truyền thống tiêu biểu ở tỉnh Thừa Thiên – Huế phục vụ phát triển du lịch” do ThS Phạm Thị Hoàng Điệp và Trần Thị thực hiện, khám phá các làng nghề truyền thống đặc sắc tại Thừa Thiên – Huế, nhấn mạnh vai trò của những nghề này trong việc thúc đẩy du lịch địa phương Các làng nghề không chỉ bảo tồn văn hóa và nghệ thuật truyền thống mà còn tạo ra cơ hội việc làm và thu hút du khách, góp phần vào sự phát triển kinh tế bền vững của khu vực.
Ngọc Bích (2019), “Nghiên cứu phát triển cộng đồng tại xã Cẩm Thanh, Thành phố
Hội An, tỉnh Quảng Nam, là nơi nghiên cứu sản phẩm tranh tre dừa và mây tre đan, với những công trình tiêu biểu như “Nghề đan lát của người Khơ Mú ở Tây Bắc” của Trần Bình, không chỉ giới thiệu làng nghề mà còn khám phá ý nghĩa văn hóa trong sản phẩm của người Khơ Mú Bên cạnh đó, “Đặc sản làng nghề mây tre đan ở Hà Nội” cũng góp phần làm nổi bật giá trị văn hóa và nghệ thuật của nghề truyền thống này.
Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
Nguồn tư liệu
Để thực hiện đề tài này, chúng tôi đã thu thập thông tin từ nhiều nguồn tư liệu khác nhau, bao gồm sách báo, bài viết về làng nghề thủ công tranh tre dừa, cũng như các trang web và phương tiện truyền thông trên internet.
Tư liệu thành văn bao gồm sách chuyên ngành, công trình nghiên cứu, bài viết trong sách, báo, tạp chí và các văn bản pháp lý liên quan đến phát triển và bảo tồn làng nghề truyền thống Những tài liệu này đóng vai trò quan trọng trong việc lưu giữ và phát triển giá trị văn hóa của các làng nghề truyền thống.
Tư liệu điền dã là nguồn thông tin quan trọng, đóng góp lớn vào sự thành công của đề tài nghiên cứu Qua việc gặp gỡ các sở ban ngành, lãnh đạo địa phương và thực hiện khảo sát thực tế, tôi đã thu thập được những dữ liệu quý giá Những trải nghiệm này giúp tôi có cái nhìn sâu sắc và chính xác hơn về các vấn đề liên quan đến đề tài.
Khai thác tài liệu từ mạng, báo chí và khảo sát ý kiến người dân địa phương cùng các công ty du lịch là nguồn tư liệu gián tiếp quan trọng cho nghiên cứu của tôi Đề tài này kế thừa những thành quả từ các công trình nghiên cứu của các bậc tiền bối và học giả đi trước.
Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp khảo sát điền dã thực tế đã được áp dụng để kiểm tra độ chính xác của kết quả nghiên cứu Tác giả đã thực hiện nhiều chuyến đi thực địa và tiếp xúc với người dân địa phương cũng như khách du lịch để thu thập thêm thông tin về hoạt động du lịch tại khu vực Mục tiêu là xác minh các tài liệu và thông tin đã thu thập, đồng thời ghi lại hình ảnh minh họa nhằm tăng cường độ tin cậy cho đề tài nghiên cứu.
Phương pháp thu thập và xử lý thông tin trong nghiên cứu bao gồm việc sưu tầm dữ liệu từ sách báo, tạp chí và Internet có liên quan đến đề tài Ngoài ra, thông tin cũng được thu thập từ các nguồn tài liệu sẵn có của các Sở, ban ngành như Sở Văn hóa Thể thao và Du lịch tỉnh Quảng Nam và Sở Công thương tỉnh Quảng Nam Sau khi thu thập, người viết sẽ chọn lọc, hệ thống hóa và xử lý thông tin để rút ra những nội dung cần thiết, đáp ứng yêu cầu nghiên cứu của đề tài.
Phương pháp thống kê mô tả là công cụ quan trọng trong việc phân tích số liệu du lịch, bao gồm lượt khách, doanh thu và các chỉ tiêu kinh tế định lượng Bằng cách khai thác từ nhiều nguồn khác nhau, các số liệu này được xử lý và mô tả nhằm đưa ra những đánh giá và kết luận có giá trị thực tiễn cao.
Phương pháp phân tích và so sánh sẽ được áp dụng để xem xét các nguồn tin thu thập trong quá trình viết khóa luận Tác giả sẽ phân tích chi tiết từng vấn đề và so sánh thực trạng cũng như hiệu quả đạt được giữa các làng nghề truyền thống Qua đó, người đọc sẽ nhận diện được sự khác biệt trong quá trình phát triển của các làng nghề phục vụ du lịch tại xã Cẩm Thanh, Hội An.
Mục đích nghiên cứu
Để khám phá nét văn hóa truyền thống của cha ông qua kĩ thuật thủ công, bài viết sẽ tập trung vào làng nghề tranh tre dừa tại xã Cẩm Thanh, Hội An, một làng nghề có lịch sử lâu dài và tiềm năng phát triển trong tương lai Mục tiêu của nghiên cứu là làm rõ vị trí, vai trò và thực trạng phát triển của làng nghề này, từ đó đề xuất các phương pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững cho làng nghề tranh tre dừa trong thời gian tới.
Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nghề tranh tre dừa truyền thống tại Hội An Bài viết tập trung vào việc khám phá đặc điểm của làng nghề này, bao gồm các ưu điểm và nhược điểm, từ đó đề xuất những giải pháp nhằm nâng cao và phát triển nghề tranh tre dừa truyền thống một cách bền vững.
Phạm vi nghiên cứu
- Thời gian nghiên cứu: Nghiên cứu về Làng nghề tranh tre dừa truyền thống trong khoảng thời gian 5 năm trở lại đây (2015-2020)
- Không gian nghiên cứu: Làng nghề tranh tre dừa truyền thống Hội An - Quảng Nam
Đóng góp của đề tài
Việc phát triển làng nghề tranh tre dừa truyền thống không chỉ khai thác tiềm năng kinh tế chưa được tận dụng mà còn tạo ra cơ hội kết hợp với du lịch, thu hút du khách trong và ngoài nước Những đóng góp từ đề tài này sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế toàn tỉnh, mang lại hiệu quả cao và nâng cao giá trị văn hóa địa phương.
Nghiên cứu này cung cấp cái nhìn hệ thống và toàn diện về phát triển làng nghề tre đan, đặc biệt là tại xã Cẩm Thanh - Hội An Bằng cách hệ thống hóa và tìm hiểu sâu về kiến thức cơ bản, nghiên cứu làm rõ sự đa dạng và tiềm năng phong phú của nghề tre đan tại đây, đồng thời nêu rõ thực trạng và đề xuất giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển của làng nghề trong khu vực xã Cẩm Thanh.
Đề tài này sẽ cung cấp tài liệu tham khảo quý giá cho những ai quan tâm đến phát triển làng nghề tại Cẩm Thanh, đặc biệt là nghề đan tre Nó sẽ đóng vai trò quan trọng trong việc quy hoạch phát triển làng nghề truyền thống và đề xuất giải pháp thúc đẩy nghề tre đan tại địa phương.
Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo, nội dung nghiên cứu chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về làng nghề, làng nghề truyền thống
Chương 2: Thực trạng phát triển làng nghề truyền thống tranh tre dừa xã Cẩm Thanh - Hội An
Chương 3: Giải pháp phát triển làng nghề truyền thống tranh tre dừa truyền thống Cẩm Thanh - Hội An.
TỔNG QUAN VỀ LÀNG NGHỀ, LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Một số khái niệm cơ bản
Quá trình phát triển của làng nghề nông thôn bắt đầu từ một vài gia đình, sau đó mở rộng ra cả họ và toàn bộ làng Hiện tại, khái niệm về làng nghề vẫn chưa được định nghĩa chính thức, dẫn đến nhiều quan điểm khác nhau về các tiêu chuẩn công nhận làng nghề.
Theo tác giả Huỳnh Đức (2014), làng nghề được định nghĩa là một tập hợp các cơ sở sản xuất nằm trong cùng một khu vực địa lý, có nguồn gốc từ nông thôn, và cùng tham gia sản xuất các ngành nghề phi nông nghiệp qua nhiều năm Làng nghề thường có một số lượng đáng kể cơ sở sản xuất và lao động, đồng thời mang lại thu nhập quan trọng từ hoạt động sản xuất phi nông nghiệp.
Ông Phạm Côn Sơn (2003) định nghĩa làng nghề là một đơn vị hành chính cổ xưa, nơi cư trú đông người với sinh hoạt tổ chức và kỷ cương riêng Làng nghề không chỉ là nơi sinh sống của những người cùng nghề mà còn là cộng đồng hợp tác để phát triển công ăn việc làm Cơ sở vững chắc của các làng nghề là sự làm ăn tập thể, giúp phát triển kinh tế và giữ gìn bản sắc dân tộc cũng như đặc trưng địa phương.
Làng nghề tại đây không chỉ bao gồm những người dân sản xuất thủ công, mà còn có những nông dân làm thêm nghề phụ trong thời gian nông nhàn Tuy nhiên, với yêu cầu chuyên môn hóa cao, đã xuất hiện những thợ thủ công chuyên nghiệp, chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống ngay tại quê hương của họ.
Làng nghề, theo định nghĩa từ Wikipedia, là một đơn vị hành chính cổ xưa, đồng thời là nơi cư trú đông đúc với tổ chức và kỷ cương riêng Đây không chỉ là nơi sinh sống mà còn là cộng đồng các nghệ nhân cùng nghề, hợp tác để phát triển kinh tế và tạo công ăn việc làm Sự phát triển bền vững của làng nghề dựa vào việc kết hợp giữa hoạt động kinh doanh tập thể và việc bảo tồn bản sắc văn hóa dân tộc cùng các đặc trưng địa phương.
1.1.2 Khái niệm về làng nghề truyền thống Đến tại thời điểm hiện tại, vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về làng nghề truyền thống, nhưng ta có thể hiểu làng nghề truyền thống là làng cổ truyền làm nghề thủ công truyền thống Theo Giáo sư Trần Quốc Vượng thì làng nghề là:
Làng nghề là nơi có truyền thống trồng trọt và chăn nuôi, nhưng nổi bật với một nghề thủ công tinh xảo Tại đây, có những thợ thủ công chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, cùng với quy trình công nghệ rõ ràng Họ sống chủ yếu bằng nghề này, sản xuất các mặt hàng thủ công mỹ nghệ, đáp ứng nhu cầu thị trường từ địa phương đến đô thị và xa hơn là xuất khẩu ra nước ngoài.
Làng nghề truyền thống không chỉ bao gồm những người chuyên sản xuất thủ công, mà còn có những nông dân làm thêm trong thời gian rảnh Tuy nhiên, sự chuyên môn hóa cao đã dẫn đến sự hình thành của những thợ thủ công chuyên nghiệp, sản xuất hàng thủ công ngay tại quê hương Để nghiên cứu một làng nghề thủ công truyền thống, cần xem xét nhiều khía cạnh như hệ thống, tính toàn diện, trong đó yếu tố quyết định bao gồm nghệ nhân, sản phẩm thủ công, kỹ thuật sản xuất và nghệ thuật.
Làng nghề thủ công truyền thống là nơi tập trung các nghệ nhân và hộ gia đình có nghề nghiệp lâu đời, được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác Tại đây, các thành viên trong cộng đồng hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm theo mô hình phường hội, với sự hình thành các doanh nghiệp vừa và nhỏ Họ cùng chia sẻ tổ nghề và tuân thủ các hương ước, chế độ của gia tộc, góp phần vào sự phát triển bền vững của nghề truyền thống ngay tại nơi cư trú của họ.
Làng nghề thủ công truyền thống thường có một lượng lớn dân cư tham gia vào các nghề cổ truyền, thậm chí 100% dân số làm nghề thủ công, với nhiều dòng họ chuyên nghiệp lâu đời Sản phẩm của họ không chỉ có tính ứng dụng cao mà còn độc đáo, ấn tượng và tinh xảo Trong bối cảnh phát triển kinh tế xã hội hiện nay, làng nghề đã trở thành đơn vị kinh tế tiểu thủ công nghiệp, đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế và xã hội.
Làng nghề truyền thống là những cộng đồng chuyên sản xuất các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, tách biệt khỏi nông nghiệp, và tạo ra nguồn thu nhập chính cho người dân Các nghề này được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác, hình thành nên những nghệ nhân chuyên nghiệp và bán chuyên nghiệp, với quy trình sản xuất công nghệ nhất định Qua thời gian, các làng nghề này đã phát triển thành những nghề nổi bật, mang tính cổ truyền và tinh xảo, cung cấp sản phẩm chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu thị trường.
Tiêu chí công nhận nghề truyền thống, làng nghề, làng nghề truyền thống 13 1 Tiêu chí công nhận nghề truyền thống
Tiêu chí công nhận nghề truyền thống và làng nghề truyền thống áp dụng cho các đối tượng quy định tại khoản 2 Điều 2, những người hoạt động trong lĩnh vực nông thôn theo Điều 4 của Nghị định này, cùng với các tổ chức và cá nhân liên quan.
1.2.1 Tiêu chí công nhận nghề truyền thống
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt cả 03 tiêu chí sau:
- Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ trên 50 năm và hiện đang tiếp tục phát triển tính đến thời điểm đề nghị công nhận
- Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hóa dân tộc
- Nghề gắn với tên tuổi của một hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi của làng nghề
1.2.2 Tiêu chí công nhận làng nghề
Làng nghề được công nhận phải đạt cả 03 tiêu chí sau:
Để đảm bảo tính khả thi và hiệu quả, ít nhất 20% tổng số hộ dân trong khu vực cần tham gia vào một trong các hoạt động hoặc ngành nghề nông thôn được quy định tại Điều 4 của Nghị định này.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 02 năm liên tục tính đến thời điểm đề nghị công nhận
- Đáp ứng các điều kiện bảo vệ môi trường làng nghề theo quy định của pháp luật hiện hành
1.2.3 Tiêu chí công nhận làng nghề truyền thống
Làng nghề truyền thống cần tuân thủ các tiêu chí quy định tại khoản 3 Điều này và phải có ít nhất một nghề truyền thống theo quy định tại khoản 2 Điều này.
Đặc điểm và vai trò của làng nghề truyền thống
1.3.1 Đặc điểm của làng nghề truyền thống Đặc điểm nổi bật nhất của các làng nghề truyền thống Việt Nam là tồn tại ở nông thôn, gắn bó chặt chẽ với nông nghiệp Các làng nghề xuất hiện trong từng làng xã ở nông thôn sau đó các ngành nghề thủ công nghiệp được tách dần nhưng không rời khỏi nông thôn, sản xuất nông nghiệp và sản xuất - kinh doanh thủ công nghiệp trong các làng nghề đan xen lẫn nhau người thợ thủ công trước hết và đồng thời là người nông dân Phần đông lao động trong các làng nghề nhờ vào kỹ thuật khéo léo, tinh xảo của đôi bàn tay, vào đầu óc thẩm mỹ và sáng tạo của người thợ, của các nghệ nhân
Trước đây, quy trình sản xuất chủ yếu dựa vào lao động thủ công do khoa học và công nghệ chưa phát triển Ngày nay, sự phát triển của khoa học - công nghệ đã giúp giảm bớt lao động thủ công trong nhiều công đoạn sản xuất, mặc dù một số sản phẩm vẫn cần duy trì kỹ thuật thủ công tinh xảo Phương thức dạy nghề trước đây chủ yếu là truyền nghề trong gia đình và chỉ giới hạn trong từng làng Sau khi hòa bình lập lại, nhiều cơ sở quốc doanh và hợp tác xã thủ công truyền thống đã ra đời, làm cho phương thức dạy và truyền nghề trở nên đa dạng và phong phú hơn.
Hình thức tổ chức sản xuất trong các làng nghề chủ yếu là quy mô hộ gia đình, với một số phát triển thành tổ chức hợp tác và doanh nghiệp tư nhân Trong quá khứ và hiện tại, hộ gia đình là mô hình sản xuất phổ biến, nơi tất cả các thành viên tham gia vào quá trình sản xuất sản phẩm thủ công truyền thống Người chủ gia đình thường là thợ cả, nhiều người trong số họ là nghệ nhân lâu năm, và hộ gia đình có thể thuê thêm lao động thường xuyên hoặc thời vụ Mô hình này giúp gắn bó quyền lợi và trách nhiệm, huy động lực lượng lao động, tận dụng thời gian và đầu tư thấp, nhưng cũng hạn chế khả năng phát triển kinh doanh Sản xuất quy mô nhỏ gặp khó khăn trong việc nhận hợp đồng lớn, cải tiến mẫu mã sản phẩm, và thiếu tầm nhìn chiến lược cho sự phát triển.
Công nghệ sản xuất trong các làng nghề truyền thống thường thô sơ và lạc hậu, chủ yếu sử dụng kỹ thuật thủ công Công cụ lao động chủ yếu là công cụ thủ công, với quy trình sản xuất mang tính đơn chiếc Nhiều sản phẩm phụ thuộc vào sự khéo léo của người thợ, mặc dù đã có một số tiến bộ trong cơ khí hóa và điện khí hóa, nhưng chỉ một số nghề có thể áp dụng được Nguyên vật liệu chủ yếu được lấy từ địa phương, với một số ít phải nhập từ nơi khác, như chỉ thêu hay thuốc nhuộm Sản phẩm của các làng nghề, đặc biệt là làng nghề truyền thống, thường mang tính đơn chiếc, có tính mỹ thuật cao và thể hiện bản sắc văn hóa dân tộc.
Sản phẩm làng nghề truyền thống không chỉ có giá trị sử dụng mà còn mang giá trị thẩm mỹ cao, phục vụ nhu cầu tiêu dùng và trang trí cho không gian sống như nhà ở, đền chùa và công sở Những sản phẩm này là sự kết hợp hoàn hảo giữa thủ công tinh xảo và sáng tạo nghệ thuật, với các loại gốm sứ nổi tiếng như Bát Tràng, Thổ Hà và Đông Triều dễ dàng phân biệt Các chi tiết như con rồng chạm trổ, hoa văn trên trống đồng và họa tiết trên đồ gốm sứ đều thể hiện bản sắc dân tộc, đồng thời phản ánh văn hóa tinh thần, quan niệm nhân văn và tín ngưỡng của người dân.
Thị trường tiêu thụ sản phẩm của các làng nghề Việt Nam chủ yếu mang tính địa phương, phục vụ nhu cầu tiêu dùng tại chỗ Mỗi làng nghề đều có chợ để trao đổi và buôn bán sản phẩm, với thị trường chủ yếu là các tỉnh và liên tỉnh, cùng một phần cho xuất khẩu Sản phẩm thủ công truyền thống không chỉ phản ánh văn hóa chung của dân tộc mà còn có nét độc đáo riêng của từng làng nghề Hiện nay, các làng nghề truyền thống không chỉ là đơn vị kinh tế sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu, mà còn là biểu trưng cho nền văn hóa cộng đồng của người Việt.
1.3.2 Vai trò của làng nghề truyền thống
Các làng nghề truyền thống đang được khôi phục và phát triển, đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế và đời sống văn hóa của người Việt Bài viết này sẽ đề cập đến những vai trò chính của các làng nghề truyền thống tại Việt Nam.
Làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, tăng tỷ trọng các ngành phi nông nghiệp Qua quá trình phát triển, các làng nghề này đã góp phần nâng cao tỷ trọng công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ, đồng thời thu hẹp tỷ trọng nông nghiệp Điều này giúp chuyển đổi nguồn lao động nông thôn từ sản xuất nông nghiệp có thu nhập thấp sang sản xuất phi nông nghiệp với thu nhập cao hơn.
Sự tác động này tạo ra một nền kinh tế đa dạng ở nông thôn, với sự thay đổi về cơ cấu và phong phú về sản phẩm
Hàng năm, các làng nghề truyền thống sản xuất một khối lượng lớn hàng hóa với tốc độ tăng trưởng lên tới 20%, thúc đẩy phát triển kinh tế nông thôn Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, giá trị sản phẩm bình quân của một làng nghề đạt khoảng 25 – 30 tỷ đồng/năm Các địa phương có nhiều làng nghề thường có kinh tế hàng hóa phát triển, gia tăng giá trị sản phẩm Hiện nay, 60 – 70% sản phẩm làng nghề tiêu thụ trong nước, trong khi 30 – 40% xuất khẩu Thu nhập bình quân của lao động trong ngành nghề nông thôn cao gấp 2 – 4 lần so với lao động nông nghiệp thuần, dẫn đến tình trạng không còn hộ đói và tỷ lệ hộ nghèo giảm Nghề truyền thống không chỉ tạo việc làm và tăng thu nhập mà còn là động lực quan trọng để nâng cao phúc lợi cho người dân.
Làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn văn hóa và phát triển du lịch, là môi trường văn hóa tiêu biểu lưu giữ tinh hoa nghệ thuật và bí quyết sản xuất truyền thống của dân tộc Việt Nam Những nghề truyền thống không chỉ ảnh hưởng đến tâm tư và tình cảm của người dân mà còn tác động đến phong tục tập quán trong cộng đồng Sản phẩm của làng nghề là kết tinh của giá trị văn minh lâu đời, mang đậm bản sắc dân tộc và khác biệt với các nền văn hóa khác trên thế giới, tạo nên di sản văn hóa quý giá cho thế hệ sau Với tính nghệ thuật cao, những sản phẩm này không chỉ đơn thuần là hàng hóa mà còn là biểu tượng văn hóa, góp phần gìn giữ bản sắc dân tộc thông qua các sản phẩm thủ công truyền thống.
Trong lĩnh vực du lịch, làng nghề truyền thống đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các điểm đến độc đáo, đồng thời thúc đẩy sự liên kết và hợp tác trong phát triển du lịch địa phương Những điểm đến này không chỉ có tài nguyên du lịch phong phú mà còn phục vụ nhu cầu tham quan của du khách Tour du lịch làng nghề mang đến cơ hội khám phá quy trình kỹ thuật của các nghề truyền thống, giúp du khách thâm nhập vào đời sống cộng đồng với những phong tục, tập quán và nghi thức đặc trưng của từng làng nghề Với những đặc điểm văn hóa và không gian riêng biệt, làng nghề truyền thống đã góp phần hình thành nên những điểm đến mới, hấp dẫn hơn cho du khách.
Làng nghề truyền thống đã trở thành điểm đến du lịch hấp dẫn, mở rộng liên kết và hợp tác trong phát triển du lịch địa phương Các làng nghề này kết nối với nhau để hình thành hệ thống du lịch độc đáo, thu hút khách du lịch, đồng thời hợp tác với các công ty lữ hành trong và ngoài nước để tổ chức tour du lịch làng nghề Điều này không chỉ thúc đẩy sự phát triển du lịch địa phương mà còn bảo tồn và giữ gìn các giá trị văn hóa Ngoài ra, làng nghề truyền thống còn khai thác nguồn nhân lực nông thôn, tạo thêm việc làm và góp phần tăng trưởng kinh tế cho các hộ sản xuất và cộng đồng địa phương.
Tiểu kết chương 1 đã trình bày tổng quan về vấn đề nghiên cứu liên quan đến làng nghề truyền thống và tiềm năng của chúng trong phát triển du lịch Các vấn đề lý luận cơ bản đã được nêu rõ, cho thấy rằng phát triển sản phẩm du lịch tại làng nghề ngày nay là một trong những loại hình du lịch văn hóa được ưa chuộng nhất.
Làng nghề truyền thống không chỉ sản xuất các sản phẩm thủ công độc đáo mà còn chứa đựng những dấu ấn lịch sử quan trọng của dân tộc Khi đến thăm, du khách sẽ chiêm ngưỡng những sản phẩm do bàn tay tài hoa của người thợ tạo ra, đồng thời cảm nhận được nền văn hóa và kinh tế đã tồn tại hàng nghìn năm trước Lịch sử phát triển văn hóa và kinh tế của dân tộc luôn gắn liền với sự phát triển của làng nghề Việt Nam Ngoài ra, các làng nghề truyền thống cũng góp phần tích cực vào hoạt động du lịch, với các giá trị văn hóa trở thành hạt nhân cho việc phát triển sản phẩm du lịch độc đáo.
Trong tương lai, làng nghề truyền thống sẽ phát triển mạnh mẽ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng trong và ngoài nước Tuy nhiên, sự phát triển này cần phải có quy hoạch tổng thể, hướng tới phát triển bền vững, kết hợp giữa khai thác và bảo tồn môi trường văn hóa xã hội cũng như môi trường tự nhiên Điều này nhằm bảo vệ các giá trị văn hóa, duy trì môi trường tự nhiên trong sạch và tạo ra một xã hội ổn định, văn minh Làng nghề truyền thống không chỉ là sản phẩm của nghệ thuật dân tộc mà còn chứa đựng những suy nghĩ, tình cảm và lối sống quý báu của ông cha từ ngàn đời.
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRUYỀN THỐNG
Tổng quan làng tranh tre dừa xã Cẩm Thanh, Hội An
2.1.1 Đặc điểm về điều kiện tự nhiên của làng nghề
Cẩm Thanh là một làng quê xinh đẹp nằm ở Đông Nam Thành phố Hội An, với diện tích gần 9km², trong đó diện tích mặt nước chiếm gần nửa Khu vực này được bao quanh bởi các con sông, phía Bắc giáp phường Cửa Đại qua sông Ba Chươm, phía Tây giáp phường Cẩm Châu qua sông Đò, phía Nam giáp huyện Duy Xuyên nhờ hạ lưu sông Thu Bồn, và phía Đông giáp Cửa Đại Hệ thống sông rạch chằng chịt, bao gồm sông Đình và sông Đò, tạo nên những cồn gò thơ mộng như Thuận Tình, cồn Ông Hơi, cồn Tiến, cồn Ba Xã, và gò Hí, mang đến vẻ đẹp tự nhiên đặc trưng cho Cẩm Thanh.
Hệ thống sông rạch nơi đây đa dạng với những đoạn rộng hẹp, cạn sâu, uốn lượn qua cánh đồng và xóm làng Dừa nước mọc thành rừng xanh tốt hai bên bờ, không chỉ tạo nên phong cảnh thơ mộng mà còn che chở, bảo vệ người dân trong những năm tháng giữ gìn quê hương và chống xâm lăng.
Khu vực Cửa Đại, nằm gần biển và là nơi giao thoa của ba con sông lớn ở Xứ Quảng (Thu Bồn, Vu/Ô Gia, Chiên Đàn/Trường Giang) cùng sông Cổ Cò/Đế Võng/Lộ Cảnh Giang, sở hữu một hệ sinh thái độc đáo Đây là vùng ngập mặn ven biển với các hệ sinh thái nhiệt đới tiêu biểu như rừng ngập mặn và cỏ biển Đặc biệt, các rặng dừa nước dọc theo bờ sông là một sinh cảnh độc nhất ở Hội An, miền Trung Việt Nam, chỉ có thể tìm thấy ở miền Tây Nam bộ Ngoài ra, trên các cồn gò và vùng nước xung quanh dừa nước, còn có hệ sinh thái cỏ biển, một đặc trưng của vùng đất ngập nước nhiệt đới và ôn đới, nơi có những loài thực vật cao sống quanh năm trong môi trường nước có dòng chảy và sóng gió.
Hệ sinh thái nhiệt đới đóng vai trò quan trọng trong việc điều hòa khí hậu, chống xói lở và nâng cao chất lượng môi trường Lá và mùn bã hữu cơ từ hệ sinh thái này cung cấp nguồn thức ăn thiết yếu cho nhiều loài hải sản, đồng thời tạo ra một môi trường đa dạng sinh học với nhiều loài động vật biển quý giá như tôm, cua và ghẹ Các thảm cỏ biển không chỉ là nơi cư trú mà còn là khu vực bắt mồi của nhiều loài cá có giá trị kinh tế Sự kết hợp giữa sông rạch và dãy dừa nước xanh tạo nên vẻ đẹp quyến rũ, thu hút du khách đến tham quan khu vực này.
Khí hậu Cẩm Thanh thuộc tỉnh Quảng Nam, có đặc điểm chung với khí hậu cả nước, nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới ẩm gió mùa Được che chắn bởi dải Hoành Sơn ở phía Bắc và khối núi Bắc tỉnh Kon Tum ở phía Tây, Cẩm Thanh có khí hậu ven biển Miền Trung với đặc trưng nóng ẩm, mưa nhiều theo mùa Nhiệt độ tại đây cao, nắng nhiều và ít chịu ảnh hưởng của gió mùa đông, tạo nên một môi trường khí hậu đặc biệt cho vùng.
Theo số liệu của Đài khí tượng thuỷ văn Quảng Nam, đặc điểm các yếu tố thời tiết xã Cẩm Thanh như sau:
Cẩm Thanh không trải qua mùa đông lạnh, với mùa khô từ tháng 2 đến tháng 8 và mùa mưa từ tháng 9 đến tháng Giêng năm sau Nhiệt độ ở đây chịu ảnh hưởng từ khí hậu nhiệt đới gió mùa, bao gồm gió mùa đông bắc, gió mùa tây nam và gió mùa đông – đông nam Nhiệt độ trung bình hàng năm đạt 25,6°C, trong khi nhiệt độ cao nhất có thể lên tới 39,8°C và thấp nhất là 22,8°C.
Cẩm Thanh có độ ẩm tương đối trung bình năm đạt 83%, với mùa khô là 75% và mùa mưa là 85% Khí hậu nơi đây đặc trưng bởi sự nóng ẩm, phân chia thành hai mùa rõ rệt: mùa mưa bão và mùa nắng nóng, đồng thời mang đặc điểm khí hậu của vùng duyên hải Miền Trung.
Tổng lượng mưa trung bình hàng năm ở Cẩm Thanh đạt 2.504,57 mm, với lượng mưa cao nhất rơi vào các tháng 10 và 11 (550-1.000 mm/tháng) và thấp nhất vào các tháng 1, 2, 3, 4 (23-40 mm/tháng) Bão thường xuất hiện trong các tháng 9, 10 và 11, gây ra những trận mưa lớn và dẫn đến lũ lụt trên diện rộng trong khu vực.
Bình quân số giờ nắng trong năm đạt 2.156,2 giờ, với thời gian chiếu nắng nhiều nhất vào tháng 5 và 6, dao động từ 234-277 giờ mỗi tháng Ngược lại, tháng 11 và tháng 1 có số giờ chiếu nắng thấp nhất, trung bình từ 69-165 giờ mỗi tháng.
Cẩm Thanh, được thiên nhiên ưu đãi với dòng sông Cổ Cò bao bọc, đã mang lại nguồn lợi lớn cho người dân từ bao đời nay Khu vực này nổi bật với nguồn thủy sản phong phú và cây cối có giá trị kinh tế cao, góp phần nâng cao đời sống sinh hoạt của cộng đồng Tuy nhiên, điều kiện thời tiết khắc nghiệt cũng ảnh hưởng một phần đến kinh tế và đời sống của người dân địa phương.
2.1.2 Đặc điểm về kinh tế, xã hội
Cơ cấu kinh tế của xã hiện nay được xác định là nông - ngư nghiệp, dịch vụ - du lịch - thương mại, tiểu thủ công nghiệp
Xã Cẩm Thanh gồm 8 thôn, trước đây được gọi lần lượt từ thôn 1 đến thôn 8 Năm 2012, UBND thành phố Hội An đã quyết định đổi tên 8 thôn này, trong đó thôn 1 trở thành Thanh Tam Tây, thôn 2 là Thanh Tam Đông, thôn 3 là Thanh Nhứt, thôn 4 là Thanh Nhì, thôn 5 là Thanh Đông, thôn 6 là Võng Nhi, thôn 7 là Vạn Lăng, và thôn 8 là Cồn Nhàn Những tên gọi này phản ánh lịch sử và đặc điểm địa lý của các thôn, đã được UBND xã Cẩm Thanh tham khảo ý kiến cử tri và các cơ quan chuyên môn trước khi quyết định.
Cuối năm 2015, xã Cẩm Thanh có 2.074 hộ dân với 8.559 người, trong đó 5.744 người trong độ tuổi lao động, chiếm 67,1% Kinh tế địa phương chủ yếu dựa vào nông nghiệp, ngư nghiệp, thương mại, dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp, tập trung vào nuôi trồng thủy sản, sản xuất nông nghiệp và khai thác hải sản Ngành tiểu thủ công nghiệp chủ yếu gồm mộc, tre dừa, xay xát lương thực, bún và may mặc với quy mô nhỏ Gần đây, du lịch đã trở thành yếu tố quan trọng trong phát triển kinh tế xã, với doanh thu dịch vụ du lịch đạt 64.008 triệu đồng.
Năm 2015, thu nhập bình quân đầu người đạt 25,81 triệu đồng, tăng 55.088 triệu đồng so với năm trước, cải thiện rõ rệt đời sống người dân Tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống còn 1,54%, so với 2,57% năm 2014, cho thấy sự phát triển tích cực của xã hội.
- Về cơ cấu kinh tế:
Cơ cấu kinh tế của địa phương hiện nay chủ yếu tập trung vào du lịch - dịch vụ, nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp Các ngành nghề chính bao gồm khai thác du lịch, dịch vụ, nuôi trồng thủy sản, nông nghiệp và khai thác hải sản Sản xuất tiểu thủ công nghiệp chủ yếu liên quan đến các lĩnh vực như mộc, tre dừa, xay xát lương thực, bún và may mặc, tuy nhiên quy mô hoạt động vẫn còn nhỏ lẻ Một số ngành nghề khác có sự phát triển nhưng không đáng kể.
Hệ thống hạ tầng kỹ thuật tại xã đã được đầu tư mạnh mẽ, đặc biệt là trong lĩnh vực điện năng Toàn xã hiện có 7 trạm biến áp với tổng công suất 840 KVA, cùng với đường dây trung thế dài 6.883 m và đường dây hạ thế dài 13.710 m Hiện nay, ngành điện đang tiến hành cải tạo và nâng cấp hệ thống lưới điện để đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội của địa phương.
Sự hình thành và đặc điểm của làng nghề
2.2.1 Sự hình thành và những bước thăng trầm của làng nghề
Cẩm Thanh, với hệ thống kênh rạch chằng chịt từ xa xưa, đã phát triển nghề buôn bán bằng ghe bầu Cây dừa nước, được cho là có nguồn gốc từ Đồng Nai, đã được đưa về đây và trở thành một phần quan trọng trong văn hóa và kinh tế địa phương.
Dừa, được mang về từ Bến Tre và Long Xuyên bởi các thương lái ghe bầu, ban đầu được trồng để chắn sóng và gió Qua thời gian, với sự phát triển của cuộc sống, người dân đã khai thác cây dừa để làm vật che nắng và che mưa hiệu quả.
Cẩm Thanh, một làng quê thuần Việt với nguồn vật liệu sẵn có từ dừa nước và tre, đã phát triển nghề làm nhà bằng những nguyên liệu này Ban đầu, những người thợ khéo tay trong làng đã tự xây dựng nhà cho gia đình mình, sau đó mở rộng sang việc xây nhà cho các hộ khác trong làng trong thời gian nông nhàn Qua thời gian, phương thức xây dựng nhà bằng tre và dừa nước đã hình thành và lan rộng đến các vùng lân cận như Cẩm Châu, Cẩm An, Cẩm Kim.
Nghề làm nhà bằng tre và dừa ở Hội An có lịch sử lâu đời, theo các cụ cao niên trong nghề Ông Trần Bừa, 75 tuổi, cho biết nghề này đã xuất hiện từ thời ông cố ông, khi dừa nước được trồng và sử dụng để xây dựng nhà Ông Bừa, sống tại thôn Thanh Tam Đông - xã Cẩm Thanh, đã tiếp nối truyền thống này từ ông nội Trần Văn Huynh, người đã học nghề từ cha mình, ông Trần Ruộng, khi mới 12 tuổi Điều này cho thấy nghề làm nhà bằng dừa nước tại Cẩm Thanh đã tồn tại từ đầu thế kỷ XIX.
Khoảng 60 năm trước, Hội An có nhiều hộ gia đình chuyên sản xuất nhà tre dừa, và nhiều người tự làm nhà cho gia đình mình Tuy nhiên, theo thời gian, nghề tre dừa nước Cẩm Thanh đã gặp khó khăn do sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự xuất hiện của các vật liệu xây dựng mới, giá rẻ và bền hơn Điều này dẫn đến nhu cầu xây dựng nhà bằng tre dừa nước giảm dần, khiến nhiều người trong nghề phải chuyển sang lĩnh vực khác để kiếm sống, chỉ còn lại một số ít người duy trì nghề truyền thống này.
Trong những năm gần đây, sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế du lịch đã thu hút lượng khách tham quan đông đảo đến Thành phố, tạo điều kiện cho nhiều dịch vụ mới ra đời Nhu cầu khôi phục và xây dựng các ngôi nhà truyền thống, hàng quán, và sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ chất liệu tre dừa ngày càng tăng, giúp nghề tre dừa nước ở Cẩm Thanh có cơ hội phục hồi và phát triển.
Cộng đồng cư dân Hội An - xứ Quảng, trải qua nhiều thăng trầm và biến cố lịch sử, đã trở thành một mẫu hình tiêu biểu trong hành trình phát triển về phương Nam của dân tộc Việt Sự khẳng định này thể hiện rõ nét qua các yếu tố kinh tế, văn hóa và xã hội, đặc biệt là trong quá trình khai hoang lập làng, gắn liền với hoạt động kinh tế để tồn tại và phát triển bền vững.
Hội An là một thành phố nổi bật với sự năng động và sáng tạo của cư dân, những người đã khéo léo khai thác từng tấc đất phù sa và bãi cát ven sông, biển, đảo Sự kết hợp giữa địa thế thuận lợi và bối cảnh lịch sử đã tạo nên bức tranh kinh tế phong phú và đa dạng, với nhiều ngành nghề sản xuất phát triển mạnh mẽ.
Sau sự kiện Huyền Trân Công chúa năm 1306, Hội An trở thành một phần của Đại Việt, nhưng người Chăm đã phản đối hôn nhân này Một năm sau khi vua Chàm Chế Mân qua đời, vua Trần Anh Tông đã cử Trần Khắc Chung giải cứu Huyền Trân khỏi việc tự thiêu theo phong tục Chăm Hành động này đã dẫn đến sự nổi dậy của người Chăm, biến khu vực thành nơi tranh chấp ác liệt, đặc biệt dưới triều đại vua Chàm Chế Bồng Nga, kéo dài đến cả Thanh Hóa và Nghệ An.
An và vị vua Chàm này đã từng đánh ra Thăng Long - Hà Nội vào các năm 1371,
Vào cuối thế kỷ XIV, người Chàm đã khiến vua tôi nhà Trần phải tạm lùi về Hải Dương, đặc biệt trong các năm 1378 và 1383 Tình hình này xuất phát từ việc vùng đất mới mẻ và xa xôi không nằm trong tầm kiểm soát của nhà Trần, dẫn đến việc dân Chàm vẫn tiếp tục sinh sống và quản lý khu vực này.
Trong thời kỳ này, cùng với phủ Thăng Hoa, Hội An trở thành vùng đất tranh chấp giữa các quyền quản lý của Minh, Đại Việt và Chàm Người Việt sống chung với người Chàm cần có sự khéo léo và dũng cảm để duy trì cuộc sống ổn định Mặc dù chưa có các làng xã người Việt chính thức, nhưng đã có những bước đầu tạo nền tảng cho sự hình thành trong tương lai Đây cũng là thời kỳ thịnh vượng của chế độ phong kiến Việt Nam dưới triều đại Lê Thánh Tông, khi Đại Việt đủ sức bảo vệ vùng đất này và xây dựng chính quyền phong kiến Việc tổ chức hành chính xuống cấp làng xã là cần thiết để củng cố chính quyền trung ương và địa phương, mở ra cơ hội cho sự ra đời của các làng xã ở Hội An và Quảng Nam.
Cư dân Đại Việt di cư chủ yếu từ Bắc Trung Bộ, đặc biệt là Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, với một số ít từ đồng bằng Bắc Bộ Một phần trong số họ đã di chuyển vào Thuận Hóa và các khu vực khác ở Quảng Nam, trước khi tiếp tục đến Hội An.
Những sự kiện lịch sử đã tạo ra một bước ngoặt quan trọng cho xứ Quảng và Hội An, thúc đẩy sự phát triển về dân số, tổ chức hành chính và kinh tế - văn hóa Các chúa Nguyễn đã khuyến khích người dân từ các vùng khác, đặc biệt là những ai rời bỏ lãnh thổ của “Họ Trịnh”, đến định cư tại đây, dẫn đến sự gia tăng đáng kể lực lượng ủng hộ họ Cuối thế kỷ XVI, làn sóng di cư mạnh mẽ vào xứ Quảng đã được ghi nhận qua tư liệu tại Hội An Với tài nguyên phong phú về nông, lâm, thủy, hải sản, cộng đồng cư dân Hội An không chỉ duy trì những nghề truyền thống mà còn phát triển các nghề thủ công mới để đáp ứng nhu cầu cuộc sống.
Ngành nghề thủ công và các nghề khai thác, chế biến ở Việt Nam ra đời chủ yếu từ nông nghiệp, với người thợ thường là nông dân Những ngành nghề này nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tự cung, tự cấp của cộng đồng Hoạt động của các ngành nghề này hỗ trợ nông nghiệp, đáp ứng nhu cầu hàng ngày của người nông dân Cấu trúc và tính chất của các ngành nghề chủ yếu là mô hình sản xuất gia đình, sử dụng công cụ đơn giản và dựa vào sức lao động con người Hầu hết các hoạt động diễn ra trong thời gian nông nhàn, với sự tham gia của tất cả thành viên gia đình tùy theo khả năng của họ.
Vào đầu thế kỷ XVII, Hội An trở thành trung tâm mậu dịch quan trọng với sự gia tăng nhập cư của thương nhân Trung Hoa, Nhật Bản và sự giao lưu với các nước Đông Nam Á cùng phương Tây Kế thừa từ thương cảng thời vương quốc Champa, Hội An phát triển mạnh mẽ thành đô thị thương cảng quốc tế nổi tiếng trong gần ba thế kỷ XVII, XVIII, XIX Sự phát triển này đã tạo cơ hội cho các ngành nghề thủ công và chế biến nông lâm - thủy hải sản, đa dạng và phong phú, không chỉ đáp ứng nhu cầu địa phương mà còn phục vụ cho cảng thị quốc tế Những sản phẩm này đã vượt ra ngoài ranh giới làng nông, trở thành hàng hóa xuất khẩu phục vụ nhu cầu sinh hoạt trong khu vực rộng lớn hơn Đặc biệt, những nghề thủ công nổi bật như nghề mộc ở Kim Bồng, nghề gốm ở Thanh Hà và nghề tranh tre dừa ở Cẩm Thanh đã thu hút nhiều lao động và sản phẩm có giá trị cao, góp phần làm nổi bật thương hiệu Hội An.
Nguyên, vật liệu của nghề làm tre dừa
Dừa nước, hay còn gọi là Nypa fruticans Wurmb, thuộc họ Cọ Palmae, thường mọc ven sông lạch nước lợ với phần gốc thân ngầm và hệ thống rễ chằng chịt Cây có lá dài từ 5-8m, với cuống lá tròn và bẹ lá phình to, được sử dụng để làm nhà, lợp vách, và trang trí nội thất Mỗi năm, vào tháng Giêng và tháng 6 âm lịch, thợ làm nhà dừa thường khai thác dừa nước tại vùng Cẩm Thanh.
Tre là loài cây gắn bó mật thiết với đời sống làng quê Việt Nam, trở thành biểu tượng văn hóa truyền thống Tre mọc xung quanh nhà, vườn, và đường làng, là nguyên liệu thiết yếu cho nhiều vật dụng đơn giản nhưng cần thiết Tại những vùng có tre và mây, người dân thường trồng để phục vụ sản xuất Tre thuộc nhóm thực vật thân gỗ, với thân rỗng và rễ chùm, nằm trong Bộ Hòa thảo, Tông Tre – Bambuseae, với số lượng loài phong phú Tre được coi là nguyên liệu của tương lai, được ví như "thép xanh" trong ngành xây dựng.
Người dân xã Cẩm Thanh sử dụng loại tre đặc biệt có tên là lồ ô để đan các vật dụng Việc chọn nguyên liệu là công đoạn quan trọng trong quá trình sản xuất Cây lồ ô cần có độ tuổi từ một đến một năm rưỡi, sau đó được cưa, chẻ thành nan, vót nẹp, và thực hiện các công đoạn như đan, đát, kẹp, nứt, và xông khói để tạo ra sản phẩm hoàn chỉnh.
Người dân xã Cẩm Thanh sử dụng hai loại mây chính trong sản xuất thủ công: mây rã, loại mây to và dài, được dùng để đan các sản phẩm phục vụ sinh hoạt; và mây tắc, loại mây nhỏ hơn, chuyên dùng để tạo ra các chi tiết nhỏ và sản phẩm thủ công mỹ nghệ.
Mùn cưa tre: được tận dụng trong công đoạn cưa tre và sử dụng để làm cho từng bộ phận sản phẩm dính chặt với keo
Dấy nhám: Sau khi hoàn thành sản phẩm, người ta sử dụng dấy nhám để mài cho sản phẩm trơn tru hơn
Người dân xã Cẩm Thanh sử dụng keo 502 kết hợp với mùn cưa để gia cố chắc chắn cho các bộ phận của sản phẩm, đặc biệt là trong sản xuất thủ công mỹ nghệ.
Hiện nay, nhiều người dân không coi mây và tre là nguồn nguyên liệu có giá trị kinh tế, dẫn đến việc chặt bỏ và phá hủy chúng để xây dựng bờ rào và tường thành Hầu hết mây, tre mà người dân sử dụng đều phải mua từ các huyện khác trong tỉnh.
Kĩ thuật chế tác và sản phẩm
Nguyên liệu chính để tạo ra các sản phẩm phục vụ nhu cầu cuộc sống là tre và dừa, trong đó nổi bật là ngôi nhà và hàng quán bằng tre, dừa Để xây dựng một ngôi nhà dừa hoàn chỉnh, người thợ phải thực hiện nhiều công đoạn phức tạp, từ việc khai thác nguyên liệu cần thiết cho đến chế biến và chế tác thành những sản phẩm hoàn thiện.
Nguyên liệu chính trong nghề làm nhà tranh tre dừa là dừa nước, được thu hoạch bởi hai người: một người đốn và một người kéo Để đốn dừa ở những vùng nước sâu, thợ thường sử dụng ghe gỗ để vận chuyển Dụng cụ chính để đốn dừa là dao phay, và thợ sẽ chặt bỏ các tàu dừa già, để lại nhánh non cho sự phát triển của dừa con cho mùa sau Quá trình thu hoạch dừa bắt đầu từ ngoài vào trong, sau khi đốn xong, người thợ sẽ tiến hành sơ chế dừa thành các vật liệu thô để phục vụ cho sản xuất sau này.
Người thợ bắt đầu bằng cách xếp các tàu dừa cùng cỡ thành từng đống và đặt chúng song song Sau đó, họ tiến hành xé dừa, đứng ở phần đuôi tàu và dùng hai tay nắm lấy hai mép đuôi của tàu lá để xé dừa thành hai mảnh Hai phần dừa sau khi xé được gọi là kiến dừa, bao gồm kiến trái và kiến phải.
Người thợ tiến hành công đoạn róc lá trên những tàu dừa lớn, sử dụng dao phay để tách phần lá con từ gốc đến ngọn, thu được cả cộng và lá dừa Sau khi thu hoạch, phần lá được sắp xếp theo chiều và bó lại để mang về chằm lá tấm, trong khi phần cộng được phơi riêng để sử dụng làm phên vách sau này.
Để phơi dừa hiệu quả, cần xếp dừa theo cùng chiều trên những khoảnh đất bằng phẳng, giúp tránh gãy dừa Sau khoảng 15 ngày phơi nắng, dừa sẽ khô và được thợ bó lại thành từng bó khoảng 25 trái để dễ dàng vận chuyển và đếm Dừa đã phơi khô có thể được sử dụng để sản xuất các sản phẩm cần thiết, nhưng theo kinh nghiệm của các thợ, việc ngâm dừa trước khi sử dụng sẽ tăng độ bền và giúp tránh mối, mọt.
Sau khi hoàn tất giai đoạn sơ chế, dừa sẽ được ngâm trong các mương nước có thủy triều lên xuống thường xuyên để loại bỏ rác bẩn Trong quá trình ngâm, thợ sẽ liên kết các bó dừa lại với nhau và cắm sào để giữ cho dừa không bị trôi.
Sau khi ngâm, dừa cần được phơi lại trong 7 ngày Tiếp theo, hãy xốc các tàu dừa theo một chiều, bó cột và xỏ dây ở hai đầu để giữ chặt Cuối cùng, chất dừa thành nhiều lớp chồng lên nhau tại nơi râm mát để tránh bị mục nát hoặc quắn đuôi.
Một nguyên liệu quan trọng trong xây dựng nhà dừa tre là cây tre, được chọn lọc kỹ lưỡng để đảm bảo khả năng chịu lực Thợ dừa thường mua tre từ Hội An và các khu vực thượng lưu sông Thu Bồn như Tiên Phước, Quế Sơn, Hiệp Đức, Khánh Bình, hoặc từ các tỉnh xa như Thanh Hóa, Hòa Bình, Lai Châu Tre khai thác từ thượng lưu sông Thu Bồn thường được kết thành bè và thả trôi về Hội An hoặc vận chuyển bằng xe tải Để chống mối mọt, tre được ngâm từ 6 đến 12 tháng trong các hói nước, sau đó được rửa sạch bùn và làm giàn chất tre.
Trước đây, mây được sử dụng làm vật liệu cột, bên cạnh hai nguyên liệu chính là dừa và tre Những người đi núi ở phía Tây Quảng Nam và Cù Lao Chàm - Hội thường sử dụng mây trong các hoạt động của họ.
Chợ Hội An từng là nơi cung cấp nguyên liệu làm nhà dừa, nhưng ngày nay, các vật liệu truyền thống như lá dừa đã bị thay thế bởi cước và dây ni lông Để xây dựng nhà dừa, cần có các tấm lợp bằng tranh, phên, bức phong, bức quả, cùng các loại cửa, cột, đòn tay, đòn đông và vì kèo tre Tấm lợp được làm từ các loại tranh như tranh hai, tranh ba, tranh tư, tranh năm, tranh sáu và được gia công qua nhiều bước kỹ thuật như sắp dừa, dụi cỡ, lụi dừa, nứt tranh, tề đầu, tề đuôi, nẹp tranh và lụi tranh Quy trình này đòi hỏi sự khéo léo, tỉ mỉ của người thợ và hoàn toàn được thực hiện thủ công, không có sự can thiệp của máy móc.
Bước tiếp theo trong quá trình xây dựng là làm phên, một bộ phận che vách nhà có chức năng tương tự như tường bao của những ngôi nhà xây bằng vôi, gạch và bê tông Hiện nay, thợ dừa đã phát triển nhiều kiểu phên khác nhau, bao gồm phên lá, phên lá xen cộng, phên âm dương, phên cộng một lớp và phên nhiều lớp lá.
Phên có thể được thiết kế với nhiều kiểu dáng khác nhau như phên liền, phên trổ cửa đi, cửa vòm, vòm giật cấp, trổ cửa sổ và ô gió, tùy thuộc vào vị trí sử dụng Kích thước của phên sẽ được xác định dựa trên chiều cao và khoảng cách giữa các cột Kỹ thuật xóc phên tương tự như kỹ thuật xóc tranh, đảm bảo tính thẩm mỹ và chức năng cho công trình.
Bức phong là một yếu tố quan trọng trong xây dựng, được làm từ tấm mành lá dừa gấp thành hình máng chữ V vuông góc, nhằm che mưa nắng cho các đầu đòn tay Kỹ thuật làm bức phong rất đơn giản: thợ sử dụng các nẹp tre kẹp hai mặt tấm lá, sau đó buộc lại bằng lạt tre và gấp theo hình máng.
Bức quả (gia thu) là một phần quan trọng của ngôi nhà, tương tự như tường hồi, với hình dạng tam giác cân giống bộ kèo bìa Quy trình làm bức quả tương tự như việc chế tạo cửa chống hay cửa sổ, trong đó thợ sử dụng tre để tạo phần sườn Các kỹ thuật khoan và nứt được áp dụng, sau đó lá được lợp lên sườn để hoàn thiện.
Cửa chống trước và cửa sổ là hai thành phần quan trọng trong kiến trúc ngôi nhà tre dừa truyền thống Cửa chống trước có chức năng linh hoạt, có thể chống lên để tạo thành hiên nhà hoặc sập xuống để che chắn gió, mưa, nắng Vào mùa mưa, cửa thường được chống thấp để nước dễ thoát, giúp bảo vệ và kéo dài tuổi thọ của cửa Kỹ thuật làm cửa chống trước đòi hỏi sự khéo léo, bắt đầu từ việc làm sườn bằng tre, liên kết các thanh tre theo kiểu ô vuông bằng chốt và dây Sau khi hoàn thiện sườn, lá tấm được sử dụng để lợp cửa Cửa sổ được làm tương tự nhưng có kích thước nhỏ hơn.
Mặt hàng chủ lực hiện nay
Trong nhiều năm qua, làng nghề đã nổi bật với các sản phẩm như nhà xây dựng từ vật liệu tre và dừa nước, cùng với bàn, giường, ghế tre Ngoài ra, các sản phẩm tiêu biểu khác bao gồm la phông trần từ cọng dừa và dù che bằng dừa, thể hiện sự sáng tạo và tinh tế trong ngành nghề truyền thống.
- Nhà ở, quán xá bằng tre, dừa
Khi đến xã Cẩm Thanh, du khách dễ dàng bắt gặp những ngôi nhà và quán xá được xây dựng từ chất liệu tranh tre dừa Dọc theo con đường dẫn xuống thôn Thanh, hình ảnh đặc trưng này tạo nên nét đẹp riêng cho vùng quê nơi đây.
Tam Đông nổi bật với những ngôi nhà nhỏ bằng tre và dừa, nằm dưới bóng cây xanh mát Nhiều hộ gia đình như ông Phan Mót, Đỗ Hoạn, Phạm Sỹ và Phạm Dũng vẫn sinh sống trong những ngôi nhà truyền thống này, với độ bền cao nhờ vào sự chăm sóc của chủ nhà Du khách có thể tham quan ngôi nhà của ông Phan Mót, được xây dựng hoàn toàn bằng tre và dừa từ năm 2005, cùng với các vật dụng trong gia đình cũng được làm từ nguyên liệu tự nhiên như đèn treo, đũa, ấm trà và bộ ly tách Ngoài ra, khu du lịch sinh thái Tuấn Liên, Cẩm Thanh và các chòi đón khách bằng tre, dừa do thợ lao động ở Thôn Thanh Tam Đông thực hiện cũng là những điểm đến hấp dẫn.
Các công trình từ tre và dừa không chỉ mang lại sự thân thiện với môi trường mà còn tạo cảm giác mát mẻ, vì vậy chúng đang trở thành lựa chọn phổ biến cho các khu du lịch sinh thái, quán cà phê, nhà hàng và khách sạn hiện nay.
- Đồ thủ công mỹ nghệ
Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ hiện đang rất được ưa chuộng, đặc biệt là từ thôn Thanh Tam Đông với ba hộ sản xuất đồ từ tre và dừa Những nghệ nhân tại đây không chỉ có tay nghề cao mà còn yêu nghề, tạo ra sản phẩm có doanh thu cao, chủ yếu phục vụ cho các homestay, villa và khách sạn Đặc biệt, xe đạp tre của ông Võ Tấn Tân đã được xuất khẩu sang châu Âu, góp phần nâng cao danh tiếng địa phương Các hộ sản xuất còn mở cửa đón khách tham quan và hướng dẫn họ học làm nghề, tạo nên một sản phẩm du lịch độc đáo và giới thiệu nghề truyền thống ra thế giới Sản phẩm xe đạp tre và ô tô chạy bằng điện với khung xe tre của ông Tân ngày càng được biết đến rộng rãi, xuất khẩu sang nhiều quốc gia.
Sản phẩm làm từ tre dừa, như dần, sàn, rổ, rá, trẹt, nong, nia, thúng, và xề, là những sản phẩm truyền thống của làng nghề, phục vụ nhu cầu sinh hoạt hàng ngày trong gia đình.
Sản phẩm thủ công mỹ nghệ từ tre dừa truyền thống phục vụ cho nhà hàng, khách sạn, quán cafe và du khách bao gồm nhiều loại đèn trang trí với hình dáng và kích cỡ đa dạng như đèn lục bình, đèn lục giác, đèn ống tre, đèn bát và đèn trái lựu Ngoài ra, còn có các sản phẩm ngư nghệ như ghe đua và ghe buồm, mang lại giá trị văn hóa và thẩm mỹ cao.
Trong suốt nhiều năm qua, làng nghề tranh tre dừa Cẩm Thanh đã xuất khẩu sản phẩm của mình đến nhiều địa điểm trong nước và quốc tế, với các thị trường tiêu thụ chủ yếu nằm ở khu vực Miền Trung.
Quảng Nam, Đà Nẵng, Quảng Ngãi, Sài Gòn và một số tỉnh miền Bắc nổi bật với ngành xuất khẩu thủ công mỹ nghệ, sản phẩm của họ được xuất khẩu sang nhiều thị trường quốc tế như Hà Lan, Úc, Đức, Pháp và Anh.
Thực trạng nghề tranh tre dừa ở Cẩm Thanh hiện nay
Nghề truyền thống tranh tre dừa tại Cẩm Thanh đã trải qua những thăng trầm, có lúc tưởng chừng như mai một do sự cạnh tranh từ các vật liệu xây dựng mới Tuy nhiên, trong những năm gần đây, nhu cầu khôi phục và xây dựng các công trình truyền thống bằng tranh dừa đang gia tăng, mở ra cơ hội mới cho việc phát triển nghề truyền thống này.
Sản xuất kinh doanh và phát triển làng nghề hiện đang gặp nhiều khó khăn, như việc dựa chủ yếu vào kinh nghiệm truyền thống và phương pháp thủ công, dẫn đến sản lượng thấp Hạ tầng nông thôn và làng nghề còn nhiều bất cập, chưa kết nối phát triển với du lịch và khai thác giá trị văn hóa lịch sử Việc thiếu khu vực trưng bày giới thiệu lịch sử truyền thống cũng là một hạn chế lớn Hơn nữa, sự liên kết giữa các cơ sở còn yếu, chủ yếu hoạt động theo hình thức hộ gia đình, thiếu mô hình doanh nghiệp và hợp tác xã Các làng nghề truyền thống cũng đối mặt với giá nguyên liệu không ổn định, ảnh hưởng đến giá thành phẩm và khả năng ký hợp đồng dài hạn Tại Hội An, nghề làm nhà tre dừa ở xã Cẩm Thanh đang phát triển mạnh với nhiều sản phẩm mới và đa dạng, như nhà Rông, Gươi và nhà sàn lục giác, nhằm đáp ứng nhu cầu của các cơ sở dịch vụ và du lịch.
Nguồn nguyên liệu từ nhánh cây dừa nước đang ngày càng khan hiếm, chủ yếu do sự thu hẹp diện tích rừng dừa nước Nguyên nhân chính là do khai thác quá mức và tác động tiêu cực từ thiên nhiên cũng như sự phát triển du lịch.
Nguồn lực tay nghề trẻ trong lĩnh vực tranh tre dừa Hội An đang khan hiếm và thiếu tính kế thừa, điều này ảnh hưởng đến sự phát triển của nghề Bên cạnh đó, dịch Covid-19 cũng đã tác động tiêu cực đến số lượng sản phẩm tranh tre được tiêu thụ, chủ yếu vì các sản phẩm này phục vụ cho việc xây dựng nhà hàng và cửa hàng truyền thống phục vụ du khách.
Số lượng gia đình sản xuất
Lực lượng lao động làm nghề tre - dừa nước (nguồn do UBND xã Cẩm Thanh cung cấp):
Tổng cộng có 35 hộ gia đình tham gia sản xuất thường xuyên, với 84 lao động chính thức Ngoài ra, vào thời gian nông nhàn, khoảng 25 lao động bán thời gian cũng tham gia vào hoạt động sản xuất.
Thu nhập bình quân đầu người tại xã đạt 4.000.000 đ/người/tháng Tuy nhiên, một số hộ gia đình như nhà anh Võ Tấn Tân chuyên sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ có mức thu nhập ổn định cao hơn, lên tới 20.000.000 đ/tháng.
Trong làng nghề, có hai nghệ nhân xuất sắc với nhiều năm kinh nghiệm, trong khi có khoảng 40 người có trình độ tay nghề từ bậc 3 trở lên Số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông Công cụ và thiết bị sản xuất chủ yếu được sử dụng theo phương pháp thủ công, với sự cơ khí hóa trong sản xuất còn hạn chế.
Bảng thống kê số lƣợng gia đình sản xuất
Tổng số hộ sản xuất 35 Cơ sở
Số lao động thường xuyên 84 Người
Số lao động bán thời gian 25 Người
Thu nhập bình quân đầu người 4.000.000 VNĐ Người/tháng
(Nguồn do UBND xã Cẩm Thanh)
Tại xã, đã có các lớp đào tạo nghề được tổ chức, như vào năm 2007 và 2013, với lớp đào tạo nghề tre dừa cho 20 lao động Điều này đã giúp giải quyết tình trạng thất nghiệp cho nhiều người và tạo ra nguồn thu nhập đáng kể.
Khả năng phát triển du lịch làng nghề
2.7.1 Thực trạng du lịch tại Cẩm Thanh
Trong những năm gần đây, du lịch Cẩm Thanh đã phát triển mạnh mẽ, với gần 98.900 lượt khách trong 9 tháng đầu năm 2019, tăng 31% so với năm trước Khu di tích lịch sử văn hóa rừng dừa Bảy Mẫu thu hút gần 65.500 lượt khách, tăng 24% Doanh thu từ du lịch cộng đồng đạt khoảng 9,3 tỷ đồng, tăng 52,5% Khách tham quan chủ yếu là người nước ngoài và trong nước, trong đó khách Hàn Quốc chiếm 70% Bình quân mỗi ngày, khu di tích rừng dừa đón khoảng 1.000 khách.
1500 khách, đặc biệt những ngày nghỉ lễ dài ngày đón từ 2000 đến 3000 khách
Mạng lưới cơ sở thương mại – dịch vụ du lịch tại xã Cẩm Thanh đang phát triển mạnh mẽ với 43 cơ sở lưu trú và 594 phòng, cùng với 51 nhà cho người nước ngoài thuê Hơn 600 phương tiện thuyền và thúng đang hoạt động, phục vụ hàng chục ngàn lượt khách du lịch trong và ngoài nước Bà Nguyễn Thị Vân, Bí thư Đảng ủy xã Cẩm Thanh, cho biết xã đã xây dựng thương hiệu riêng, tạo nên một miền Tây thu nhỏ giữa phố cổ Tuy nhiên, việc khai thác tài nguyên thiên nhiên không kiểm soát đã dẫn đến những bất cập trong quản lý bảo tồn, như việc xé lá dừa làm quà lưu niệm, mở nhạc lớn trong rừng dừa, và tình trạng chèo kéo khách, gây ảnh hưởng tiêu cực đến hình ảnh du lịch và cộng đồng địa phương.
Du lịch đang phát triển nhanh chóng và đột phá tại vùng quê Cẩm Thanh, nơi vốn nghèo khó và quen với nghề chài lưới, ruộng đồng, điều này đặt ra nhiều thách thức cho lãnh đạo địa phương Tuy nhiên, lãnh đạo xã đã xác định rõ quyết tâm và tăng cường quản lý để phát triển du lịch Nghị quyết của Đảng bộ và chính quyền địa phương khẳng định du lịch dịch vụ là ngành kinh tế chủ lực cần được đầu tư phát triển trong những năm tới, với mục tiêu đưa kinh tế du lịch dịch vụ trở thành mũi nhọn theo định hướng Nghị quyết Đảng bộ xã Cẩm Thanh giai đoạn 2015 – 2020.
Từ năm 2015 đến 2020 và những năm tiếp theo, xã Cẩm Thanh đã chú trọng phát triển du lịch sinh thái bền vững dựa trên nền tảng văn hóa, lịch sử và nông nghiệp, nhằm nâng cao đời sống nhân dân Ông Lê Thanh, Chủ tịch UBND xã, cho biết mặc dù vẫn còn nhiều khó khăn, nhưng hoạt động du lịch tại Cẩm Thanh đã dần ổn định, nhận được sự đồng thuận từ du khách và mang lại nguồn thu đáng kể cho việc tái đầu tư phát triển.
2.7.2 Các giá trị tài nguyên du lịch kết hợp
Xã Cẩm Thanh, được bao bọc bởi các nhánh sông Đế Võng, sông Đình và hạ vực sông Thu Bồn, sở hữu một hệ thống sông ngòi chằng chịt cùng với những cồn nổi nhấp nhô, tạo nên phong cảnh nên thơ và hữu tình Hệ sinh thái vùng ngập mặn ven biển, nơi cây dừa nước phát triển mạnh mẽ, kết hợp với khí hậu thuận hòa và gió mát từ biển Đông, đã tạo ra điều kiện lý tưởng cho sự phát triển của cây cối Những yếu tố này đã biến Cẩm Thanh thành một điểm du lịch hấp dẫn, được ví như “Nam”.
Bộ giữa lòng phố cổ không chỉ thu hút du khách bởi những làng nghề truyền thống được phát triển phục vụ du lịch, mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo tồn hệ sinh thái ngập mặn ven biển, nhờ vào vị trí là vùng đệm của khu dự trữ sinh quyển Cù Lao Chàm.
Cẩm Thanh, một vùng quê điển hình của nông thôn Việt Nam, nổi bật với nghề trồng lúa nước và nuôi trồng thủy sản Cuộc sống của người dân nơi đây gắn liền với mảnh ruộng, khu vườn và những dấu ấn làng chài truyền thống tại thôn Vạn Lăng, tạo nên bức tranh làng quê đa sắc Cảnh quan tự nhiên yên bình và gần gũi vẫn được gìn giữ, mang đến cho Cẩm Thanh một sắc thái riêng đầy hấp dẫn.
Cẩm Thanh, với sông nước và ruộng đồng kết hợp cùng những khu vườn, con đường cong lượn và rừng dừa nước, tạo nên nét đặc trưng của làng quê nông thôn Hội An Nhờ vào điều kiện tự nhiên thuận lợi, Làng nghề tranh tre dừa Cẩm Thanh đã thu hút sự chú ý của du khách và trở thành một điểm không thể bỏ qua trong hành trình khám phá Hội An.
- Tài nguyên du lịch văn hóa
Xã Cẩm Thanh không chỉ nổi bật với tài nguyên du lịch tự nhiên phong phú mà còn sở hữu nguồn tài nguyên du lịch văn hóa quý giá Nơi đây lưu giữ nhiều di chỉ, di tích và lễ hội truyền thống, phản ánh bề dày văn hóa phong phú của vùng đất Bên cạnh đó, tài nguyên văn hóa đương đại cũng đóng vai trò quan trọng trong việc thu hút du khách đến với Cẩm Thanh.
- Tài nguyên văn hóa cổ:
Các giá trị văn hóa, lịch sử và nghệ thuật tại khu vực này bao gồm Căn cứ địa cách mạng Rừng dừa Bảy Mẫu, mộ tổ tộc Lê, mộ bà Thứ Phi vua Quang Trung cùng với các tướng lĩnh thời Tây Sơn, di chỉ Bào Đà, phế tích kiến trúc Chăm tại Lùm Bà, khu lăng Trà Quân và các đình làng ở các thôn.
Xã Cẩm Thanh sở hữu nhiều giá trị văn hóa cổ, trong đó các di tích lịch sử nổi bật thể hiện tính độc đáo và đời sống tinh thần phong phú của người dân Những di tích này không chỉ là nguồn tài nguyên văn hóa quý giá mà còn tạo bản sắc riêng cho du lịch tại địa phương Một số giá trị văn hóa làng tiêu biểu có thể kể đến.
- Căn cứ địa cách mạng Rừng dừa Bảy Mẫu
Căn cứ địa cách mạng Rừng dừa Bảy Mẫu, nằm ở hạ lưu sông Thu Bồn và sông Cổ Cò, là một trong những di tích văn hóa nổi bật của Quảng Nam Với địa hình rừng dừa nước ngập mặn và hệ thống sông nước bao quanh, nơi đây đã trở thành điểm thuận lợi cho chiến tranh du kích trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ Thị ủy Hội An đã chọn Rừng dừa Bảy Mẫu làm căn cứ địa cách mạng, ghi dấu nhiều chiến công vang dội Tuy nhiên, theo thời gian, hầu hết các công trình lịch sử tại đây đã không còn tồn tại.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng du kích địa phương đã khéo léo lợi dụng địa hình Rừng dừa Bảy Mẫu để tổ chức các trận đánh bất ngờ, đánh bại những cuộc tấn công quy mô lớn của địch, bao gồm cả pháo binh và không quân Năm 1948, khi thực dân Pháp sử dụng bộ binh và xe tăng để tấn công Rừng dừa nhằm tiêu diệt lực lượng vũ trang của ta, lực lượng du kích đã bí mật theo dõi và tấn công, sử dụng lựu đạn ném vào xe của địch, khiến chúng hoảng sợ và phải rút lui về Hội An.
Thực dân Pháp đã nhiều lần càn quét nhưng không thành công trong việc tiêu diệt Rừng dừa Bảy Mẫu, nơi trú ẩn của lực lượng vũ trang ta Dù bị bắt buộc phải phát quang khu vực này, rừng dừa nhanh chóng phục hồi và phát triển xanh tươi Trong bối cảnh lực lượng không tương xứng, du kích địa phương đã lợi dụng địa hình rừng dừa để đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch, gây thiệt hại đáng kể cho chúng.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp năm 1954 và sự ký kết hiệp định Giơnevơ, chính quyền độc tài Ngô Đình Diệm đã tiếp quản Quảng Nam, gây ra nhiều cuộc thảm sát đẫm máu tại Vĩnh Trinh và Chợ Được Tại Hội An, chúng thực hiện các chiến dịch truy quét "Tố cộng" và "Diệt cộng", liên tục lùng bắt các cán bộ Cộng sản Trong giai đoạn khó khăn nhất của cách mạng, Rừng Dừa Bảy Mẫu một lần nữa trở thành nơi trú ẩn an toàn cho nhiều cán bộ cách mạng của Thị ủy Hội An và Tỉnh ủy Quảng Nam.
Thực trạng khai thác phục vụ phát triển du lịch tại làng nghề truyền thống 44 2.9 Tác động của du lịch tới làng nghề truyền thống
Khách du lịch đến xã Cẩm Thanh còn hạn chế, chủ yếu tập trung tại khu du lịch Thuận Tình và một số điểm tham quan như khu mộ Thứ phi vua Quang Trung, Miếu tổ nghề yến, và các hoạt động nuôi trồng thủy sản Thành phố đang đầu tư vào cơ sở hạ tầng tại Cẩm Thanh để thu hút các tổ chức và cá nhân kinh doanh Địa phương chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng và cảnh quan theo hướng sinh thái Nghề sản xuất tranh tre - dừa nước, mặc dù mới được khôi phục, đang thu hút nhiều lao động tại các thôn Thanh Tam, Thanh Nhứt, và Thanh Nhì nhờ vào sự phát triển của du lịch, mang lại thu nhập tương đối cao.
Năng lực tổ chức sản xuất kinh doanh của các hộ và cơ sở sản xuất ngày càng được nâng cao nhờ vào việc cải tiến công nghệ, từ đó tạo ra sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường Sự phát triển của nghề sản xuất đang dần gắn kết thuận lợi với sự phát triển của dịch vụ du lịch trong thành phố.
Trong những năm qua, xã Cẩm Thanh - Hội An đã triển khai nhiều giải pháp nhằm phát triển du lịch làng nghề và nâng cao chất lượng sản phẩm Theo bà Đinh Thị Thu Thủy, Trưởng phòng Thương mại và du lịch Hội An, để đạt được sự phát triển bền vững, thành phố cần tập trung vào 5 vấn đề cụ thể trong thời gian tới.
Trước mắt là từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng sản phẩm
Chúng tôi sẽ tiếp tục đầu tư vào các sản phẩm mới, đặc biệt là những sản phẩm mang tính cộng đồng và trải nghiệm văn hóa sinh thái tại các điểm đến du lịch ngoại vi như làng nghề, rừng dừa Cẩm Thanh, Cù Lao Chàm và làng rau An Mỹ (Cẩm Châu) Đồng thời, chúng tôi sẽ xúc tiến kêu gọi đầu tư cho các dịch vụ du lịch sông nước như thuyền ăn uống và nhà hàng nổi, cũng như phát triển loại hình du lịch lưu trú trên thuyền Bên cạnh đó, việc phát triển các điểm vui chơi giải trí và khu giải trí đêm sẽ tạo thêm nhiều lựa chọn cho khách lưu trú.
Thành phố cần nâng cao tiện ích lưu trú bằng cách đa dạng hóa dịch vụ, nhằm đáp ứng nhu cầu của tất cả đối tượng khách hàng, từ thu nhập thấp đến cao Hiện tại, thành phố đang thiếu hụt các nhà hàng phục vụ cho khách hàng cao cấp.
Và cuối cùng là phát triển sản phẩm thủ công mỹ nghệ làm hàng lưu niệm
Phố cổ Hội An sẽ trở thành trung tâm thu hút khách du lịch, trong khi các vùng ven sẽ phục vụ nhu cầu nghỉ dưỡng Đồng thời, thành phố sẽ phát triển các mô hình du lịch cộng đồng, đảm bảo người dân được hưởng lợi bền vững từ hoạt động du lịch, theo chia sẻ của bà Thủy.
Ông Nguyễn Văn Sơn, Phó Chủ tịch UBND TP.Hội An, cho biết để phát triển du lịch bền vững, từ nay đến năm 2020, thành phố sẽ triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, tập trung mở rộng không gian du lịch ra các vùng lân cận nhằm giảm áp lực cho phố cổ và tạo sinh kế cho người dân ven đô Phân vùng phát triển du lịch theo hướng mở sẽ giúp tạo ra các sản phẩm du lịch đa dạng, kéo dài thời gian lưu trú và tăng chi tiêu của khách Để đạt được mục tiêu này, Hội An sẽ hoàn thiện hệ thống sản phẩm du lịch, nâng cao chất lượng dịch vụ và bảo vệ giá trị văn hóa, tự nhiên Thành phố cũng sẽ phát triển sản phẩm du lịch cạnh tranh, hướng đến thị trường có khả năng chi trả cao và lưu trú dài ngày, từ đó biến Hội An thành điểm đến hấp dẫn nhất miền Trung và khu vực Đông Nam Á vào năm 2020.
2.9 Tác động của du lịch tới làng nghề truyền thống
Du lịch có ảnh hưởng sâu rộng đến sự phát triển kinh tế xã hội, đặc biệt là trong việc thúc đẩy các làng nghề truyền thống Sự phát triển của ngành du lịch không chỉ tạo ra cơ hội kinh tế mà còn góp phần bảo tồn và phát triển văn hóa địa phương.
Du lịch không chỉ tăng doanh thu mà còn thúc đẩy doanh số bán sản phẩm thủ công truyền thống tại các làng nghề thông qua việc cung cấp hàng lưu niệm cho du khách Đây được xem là một hình thức xuất khẩu tại chỗ, giúp giảm thiểu rủi ro và không phải chịu thuế.
Du lịch phát triển không chỉ tạo ra cơ hội đầu tư cho các làng nghề truyền thống mà còn giúp quảng bá hình ảnh của làng nghề tranh tre dừa một cách hiệu quả Điều này góp phần xây dựng thương hiệu cho làng nghề, nâng cao giá trị và sự nhận diện trên toàn quốc.
Khi thu hút được đầu tư nước ngoài vào làng nghề, các sản phẩm thủ công truyền thống sẽ có cơ hội xuất khẩu ra thị trường quốc tế.
Việc phát triển du lịch làng nghề cũng góp phần tăng cường thu nhập ngoại tệ và giúp phân phối lại nguồn thu nhập
Tạo cơ hội giao lưu văn hóa giữa cộng đồng địa phương và khách du lịch quốc tế giúp chúng ta tiếp thu những kỹ thuật mới, từ đó nâng cao chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm địa phương.
Việc phát triển du lịch làng nghề không chỉ thúc đẩy nền kinh tế nông thôn mà còn giúp chuyển dịch lao động từ lĩnh vực nông nghiệp sang các dịch vụ, tạo ra nhiều cơ hội việc làm mới và nâng cao đời sống người dân.
Hoạt động du lịch không chỉ thúc đẩy sự phát triển của các cơ sở hạ tầng mà còn góp phần bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống quý báu của làng nghề.
Khôi phục và phát triển các ngành nghề thủ công truyền thống là cần thiết trong bối cảnh kinh tế thị trường và quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Du lịch và làng nghề có mối quan hệ tương hỗ, trong đó du lịch thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bền vững cho các làng nghề, nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân địa phương Ngược lại, các làng nghề truyền thống cũng góp phần tích cực vào hoạt động du lịch, trở thành tài nguyên du lịch nhân văn hấp dẫn, làm phong phú thêm nguồn tài nguyên du lịch và hỗ trợ mục tiêu phát triển chung.