Lời mở đầu 1 Sự cần thiết của đề tài nghiên cứu Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hoá, hệ thống ngân hàng thương mại (NHTM) cũng ngày càng phát triển và trở thành các trung gian tài chính đưa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, đáp ứng được nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp Từ khi nước ta chuyển sang nền kinh tế thị trường, sản xuất hàng hoá phát triển nhu cầu về vốn của các doanh nghiệp phục vụ sản xuất kinh doanh là rất lớn, tích luỹ không kịp để mở rộng sản xuất, chính vì vậy các doanh n.
Lý luận chung về ngân hàng thương mại 3
lý luận chung về Ngân hàng thương mại và hoạt động tín dụng ngân hàng
1 1 Khái niệm Ngân hàng thương mại:
Ngân hàng Thương mại (NHTM) đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế như một tổ chức tài chính trung gian Theo pháp lệnh ngân hàng ngày 23-5-1990, NHTM được định nghĩa là tổ chức kinh doanh tiền tệ, chủ yếu nhận tiền gửi từ khách hàng với trách nhiệm hoàn trả Đồng thời, NHTM sử dụng số tiền này để cho vay, thực hiện nghiệp vụ chiết khấu và làm phương tiện thanh toán.
Ngân hàng thương mại (NHTM) hoạt động như một trung gian tài chính, vay tiền để cho vay lại, từ đó thu lợi từ chênh lệch lãi suất giữa khoản vay và tiền gửi Mặc dù khó phân biệt NHTM với các tổ chức tài chính trung gian khác, nhưng NHTM được tách ra thành một nhóm riêng do tổng tài sản lớn nhất trong hệ thống ngân hàng và khả năng tạo ra khối lượng séc cùng tài khoản gửi không kỳ hạn, đóng vai trò quan trọng trong tổng cung tiền tệ.
M 1 của cả nền kinh tế Cho thấy NHTM có vị trí rất quan trọng trong hệ thống ngân hàng cũng như trong nền kinh tế quốc dân
1 2 Các nghiệp vụ của ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại (NHTM) thực hiện ba loại nghiệp vụ chính: nghiệp vụ nợ, liên quan đến huy động và tạo nguồn vốn; nghiệp vụ có, tập trung vào việc sử dụng vốn; và nghiệp vụ trung gian, phục vụ thanh toán hộ khách hàng.
Nghiệp vụ nợ là hoạt động huy động vốn cho ngân hàng, bao gồm nguồn vốn tự có và vốn dự trữ.
Vốn điều lệ là số vốn ban đầu được hình thành khi ngân hàng thương mại (NHTM) được thành lập, có thể do Nhà nước cấp cho NHTM quốc doanh, hoặc là vốn góp của các cổ đông đối với NHTM cổ phần, vốn góp của các bên liên doanh đối với NHTM liên doanh, hoặc vốn tư nhân của NHTM tư nhân Mức vốn điều lệ được quy định cụ thể theo quy mô của từng NHTM.
Vốn coi như tự có bao gồm các nguồn tài chính như lợi nhuận chưa chia, tiền lương chưa đến kỳ thanh toán, các khoản phải nộp nhưng chưa đến hạn nộp, và các khoản phải trả nhưng chưa đến hạn trả Những yếu tố này tạo thành một phần quan trọng trong cấu trúc vốn của doanh nghiệp, giúp duy trì hoạt động và đảm bảo khả năng thanh toán.
Vốn dự trữ của ngân hàng được hình thành từ lợi nhuận ròng và được phân bổ vào nhiều quỹ, trong đó quỹ dự trữ và quỹ đề phòng rủi ro là hai quỹ quan trọng nhất Việc trích lập vốn này tuân theo quy định của ngân hàng trung ương nhằm đảm bảo an toàn tài chính và khả năng quản lý nguồn vốn hiệu quả.
Nguồn vốn này ngày càng chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn của ngân hàng, là tài sản thuộc về các chủ sở hữu Ngân hàng có quyền sử dụng cả vốn lẫn lãi trong một khoảng thời gian nhất định Nguồn vốn này bao gồm nhiều loại khác nhau.
Tiền gửi không kỳ hạn của cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức kinh tế chủ yếu nhằm bảo vệ an toàn tài sản, hỗ trợ giao dịch thanh toán không dùng tiền mặt và tiết kiệm chi phí lưu thông.
Tiền gửi có kỳ hạn là khoản tiền gửi của cá nhân, doanh nghiệp và tổ chức với thời gian xác định, cho phép người gửi rút tiền khi đến hạn Tuy nhiên, do sự cạnh tranh giữa các ngân hàng, người gửi có thể rút tiền trước hạn nhưng cần thông báo trước và có thể bị áp dụng lãi suất thấp hơn Mục đích chính của hình thức gửi tiền này là để kiếm lãi suất.
Tiền gửi tiết kiệm là khoản tiền cá nhân gửi vào ngân hàng để nhận lãi theo định kỳ Có hai hình thức gửi tiền: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, cho phép người gửi thực hiện nhiều lần gửi và rút tiền theo nhu cầu mà không cần thông báo trước; và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn, nơi tiền chỉ có thể rút ra sau thời gian đã định.
Tiền phát hành trái phiếu và kỳ phiếu được thực hiện theo mức cho phép của Ngân hàng Nhà nước, với thời hạn cụ thể chỉ được thanh toán khi đến hạn Kỳ phiếu có hai phương thức phát hành: thứ nhất là phát hành theo mệnh giá, trong đó người mua trả tiền mua theo mệnh giá và nhận lại cả gốc lẫn lãi khi đến hạn; thứ hai là phát hành dưới hình thức chiết khấu, người mua sẽ trả số tiền mua bằng mệnh giá trừ đi số tiền chiết khấu và nhận lại mệnh giá khi đến hạn.
Ngân hàng thương mại (NHTM) có thể huy động vốn từ nhiều nguồn khác nhau, bao gồm vốn vay từ ngân hàng trung ương qua tái chiết khấu hoặc cho vay ứng trước, vay từ ngân hàng nước ngoài, và các tổ chức tín dụng khác Ngoài ra, NHTM cũng có thể phát hành chứng chỉ tiền gửi, hợp đồng mua lại, giấy nợ phụ, và các khoản vay USD từ nước ngoài Với các nguồn vốn này, NHTM cần sử dụng hiệu quả và đảm bảo hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi.
Bao gồm các nguồn vốn tài trợ và vốn đầu tư phát triển, vốn uỷ thác đầu tư được sử dụng để cho vay cho các chương trình, dự án xây dựng cơ bản của Nhà nước hoặc hỗ trợ đầu tư cho các chương trình, dự án có mục tiêu cụ thể.
1 2 2 Nghiệp vụ có Đây là nghiệp vụ sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện kinh doanh tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng a Nghiệp vụ ngân quỹ
Tiền két là số tiền mặt hiện có tại quỹ nghiệp vụ của ngân hàng Mức độ dự trữ tiền két cao hay thấp phụ thuộc vào môi trường hoạt động của ngân hàng cũng như yếu tố thời vụ.
THựC TRạNG hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại việt nam hiện nay 22
hàng thương mại ở việt nam hiện nay
1 Cơ sở pháp lý của hoạt động tín dụng ở Việt Nam hiện nay
Môi trường pháp lý cho hoạt động tín dụng đã được cải thiện rõ rệt với sự chỉnh sửa, bổ sung và ban hành mới của NHNN, nhằm tạo ra một hệ thống rõ ràng, chặt chẽ và phù hợp với thông lệ quốc tế Những vướng mắc và sơ hở của cơ chế cũ đã được khắc phục, giúp hoạt động tín dụng trở nên thuận lợi hơn, đồng thời tăng cường tính tự chủ và trách nhiệm cho các tổ chức tín dụng Các văn bản pháp lý quan trọng đã được tập trung ban hành trong thời gian qua.
Các văn bản quy phạm pháp luật về biện pháp bảo đảm tiền vay của các tổ chức tín dụng như:
Nghị định 178/1999/NĐ-CP ngày 29/12/1999 của Chính phủ quy định về việc đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng, cùng với Quyết định số 266/2000 của NHNN ngày 18/8/2000 cho phép cho vay không có bảo đảm bằng tài sản đối với ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính cổ phần và ngân hàng liên doanh Ngoài ra, Quyết định số 283/2000 ngày 25/8/2000 của NHNN đã ban hành quy chế bảo lãnh ngân hàng, trong khi Thông tư số 06/2000 ngày 4/4/2000 và Thông tư số 10/2000 ngày 31/8/2000 hướng dẫn thực hiện các quy định về đảm bảo tiền vay của tổ chức tín dụng.
Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT-NHNN-BTP-BCA-BTC-TCĐC, ban hành ngày 23/04/2001, hướng dẫn quy trình xử lý tài sản bảo đảm nhằm thu hồi nợ cho các tổ chức tín dụng (TCTD).
Một số hoạt động tín dụng quan trọng bao gồm Quyết định số 67/1999/QĐ-TTg của Chính phủ ban hành ngày 30/3/1999, nhằm phát triển nông nghiệp và nông thôn Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước cũng đã ban hành Quyết định số 428/2000 vào ngày 22/9/2000 về chính sách tín dụng đối với kinh tế trang trại Ngày 29/6/1999, Chính phủ đã ra Nghị định 43/1999/NĐ-CP về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, góp phần thúc đẩy các hoạt động kinh tế quan trọng.
Vào ngày 8/2/1999, Thống đốc NHNN đã ban hành NHNN5 liên quan đến việc phân loại tài sản có, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng Tiếp theo, Quyết định số 418/2000 được ban hành vào ngày 21/9/2000 quy định về đối tượng cho vay bằng ngoại tệ.
Một số văn bản quan trọng liên quan đến hệ thống ngân hàng tại Việt Nam bao gồm Luật Ngân hàng Nhà nước do Quốc hội ban hành, quy định về chức năng và nhiệm vụ của Ngân hàng Nhà nước Bên cạnh đó, Luật các tổ chức tín dụng, được công bố bởi Chủ tịch nước vào ngày 26/12/1997, quy định về tổ chức và hoạt động của các tổ chức tín dụng cũng như hoạt động ngân hàng của các tổ chức khác Ngoài ra, Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước cũng quy định về Quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng.
Các ngân hàng thường tự xây dựng các văn bản quy định riêng để quản lý hoạt động của mình dựa trên các văn bản pháp luật chung Chẳng hạn, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam (NHN O &PTNT VN) đã ban hành Quyết định số 180/QĐ/HĐQT quy định về cho vay đối với khách hàng, kèm theo hướng dẫn thẩm định và tái thẩm định các điều kiện vay vốn cho doanh nghiệp, cũng như hướng dẫn thẩm định cho vay đối với hộ gia đình, cá nhân và tổ hợp tác.
Các văn bản về cơ chế và chính sách, cùng với nhiều luật pháp bổ sung và sửa đổi, đã giúp hoạt động tín dụng phát triển một cách lành mạnh và an toàn hơn Điều này tạo điều kiện cho các ngân hàng thương mại tự tin hơn trong hoạt động cho vay, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế.
2 Thực trạng hoạt động tín dụng của các NHTM hiện nay
Quá trình đổi mới hoạt động ngân hàng tại Việt Nam đã diễn ra hơn 10 năm, với sự chú trọng đặc biệt vào hoạt động tín dụng Mặc dù cơ chế tín dụng liên tục được cải tiến để phù hợp với sự chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hoá sang nền kinh tế thị trường, nhưng chất lượng tín dụng vẫn là một điểm yếu Nguyên nhân chủ yếu đến từ việc cơ chế chính sách chưa theo kịp thực tế Do đó, việc thay thế các cơ chế tín dụng hiện hành là điều tất yếu, đặc biệt khi Quốc hội vừa thông qua một số luật mới về ngân hàng, điều này càng làm nổi bật nhu cầu đổi mới cơ chế tín dụng nhằm nâng cao hiệu quả kinh tế.
Nếu nhìn lại hoạt động của Ngân hàng trong những năm qua ta có thể chia thành hai giai đoạn chính sau
2 1 Giai đoạn đầu từ năm 1987 đến tháng 10/1990 trước khi hai pháp lệnh Ngân hàng có hiệu lực
Giai đoạn tín dụng mở rộng mạnh mẽ với cơ chế cho vay dễ dãi, không yêu cầu tài sản thế chấp, chỉ cần đơn xin vay và nội dung kinh tế hợp lý Tuy nhiên, đến năm 1988 và đầu năm 1990, nhiều hợp tác xã tín dụng và ngân hàng đã bị đổ vỡ, dẫn đến việc cần thiết phải chấn chỉnh hoạt động tín dụng thông qua các đợt tổng thanh tra, kiểm tra và xử lý những tồn tại để tiếp tục phát triển.
2 2 Giai đoạn hai từ tháng 10/1990 đến nay
Trong giai đoạn này, hai pháp lệnh Ngân hàng đã được thực hiện, tạo ra các cơ chế chính sách đồng bộ cho hoạt động Ngân hàng nói chung và riêng Cơ chế tín dụng cũng thường xuyên được cập nhật, bổ sung và chỉnh sửa nhằm đáp ứng tốt hơn cho sự phát triển của thị trường tiền tệ, đồng thời đáp ứng nhu cầu vốn cao cho tăng trưởng kinh tế.
Các cơ chế tín dụng đã được ban hành và bổ sung dưới hai giác độ chính Thứ nhất, về huy động vốn, khung pháp lý đã xác định các cơ chế như huy động vốn bằng kì phiếu, trái phiếu, và quy định về giới hạn an toàn trong huy động vốn của các tổ chức tín dụng, giúp làm phong phú và đa dạng hóa nguồn vốn cho ngân hàng Tuy nhiên, tốc độ huy động vốn trung bình đạt khoảng 30%/năm trong 7 năm qua vẫn chưa tạo ra cơ cấu hợp lý giữa vốn ngắn hạn và trung hạn, dẫn đến những mâu thuẫn trong việc sử dụng vốn, có lúc thừa thiếu và gây nguy cơ rủi ro về nợ quá hạn Thứ hai, cần xem xét các cơ chế cho vay để đảm bảo tính ổn định và an toàn trong hoạt động tín dụng.
Pháp lệnh quy định các thể lệ tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn thông qua quyết định 04/NH – QD ngày 8/01/1991 và quyết định 23/NH - QD ngày 03/03/1991 Đồng thời, thể lệ tín dụng đầu tư xây dựng cơ bản trong kế hoạch Nhà nước được nêu rõ trong quyết định 77/NH- QD ngày 13/06/1991 Ngoài ra, thông tư 01/TT-NH ngày 23/03/1993 cũng hướng dẫn thực hiện các nghị định liên quan.
Vào đầu năm 1994, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 14/CP về cho vay đối với cán bộ sản xuất và cá thể Trong những năm gần đây, trước nhu cầu vốn ngày càng tăng và sự xuất hiện của các bộ luật mới, nhiều quy định tín dụng đã được điều chỉnh để phù hợp hơn Các văn bản sửa đổi đã bổ sung một số điều khoản quan trọng trong hai thể lệ tín dụng, đồng thời thiết lập cơ chế tổ chức phòng ngừa rủi ro và trích lập quỹ bù đắp rủi ro.
Vào ngày 25/8/2000, Thống đốc NHNN đã ký quyết định số 284/2000/QD – NHNN, ban hành quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, có hiệu lực từ ngày 15/9/2000 và thay thế Quyết định số 324/1998/QD – NHNN1 Quy chế này điều chỉnh việc cho vay bằng VNĐ và ngoại tệ, nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất, kinh doanh dịch vụ của các pháp nhân, cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp doanh Nguyên tắc vay vốn vẫn giữ nguyên ba điểm chính: sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận, hoàn trả nợ gốc và lãi đúng hạn, và đảm bảo tiền vay theo quy định pháp luật Để được vay vốn, khách hàng cần có năng lực dân sự và khả năng tài chính để trả nợ đúng hạn, đồng thời mục đích sử dụng vốn vay phải hợp pháp và có phương án sản xuất, kinh doanh khả thi Thời hạn cho vay bao gồm cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn.